Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Phân tích bài thơ Tự tình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.97 KB, 3 trang )

Ngữ văn 11
Phân tích bài thơ Tự Tình
Trong bài Tự tình I, âm thanh chỉ làm thức dậy nỗi đau ẩn tiềm trong đáy lòng
người cô phụ. Âm thanh lần này như thúc giục thời gian trôi nhanh. Quãng đời qua, mất
hết. Cái mới lại chưa đến.
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn.
Ta có cái cảm giác thời gian như cơn gió lướt qua cuộc đời, qua số phận, qua thân xác nhà
thơ:
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Bài “ Đỗ người đàn bà chồng chết” Xuân Hương đưa hai chữ “ non sông” để an ủi,
khuyến khích, vực dậy. Ở đây , không thế. Xã hội phong kiến buổi ấy làm cho điêu tàn, xơ
xác, khô tàn phận hồng nhan.
- Buồn cho thân phận cũng có nhờ đến chén rượu, nhờ tí hương nồng, nhưng dễ gì đời chỉ
say. Say ( rượu và say tình ) một tí thôi rồi tỉnh. Cái tỉnh ấy chua xót bội phần so với trước
lúc say:
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Bởi:
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Xuân Hương đấu tranh cho sự trọn vẹn, yên lành, hạnh phúc. Nhưng chờ mãi, chờ mãi
đến bao giờ trăng mới tròn ! Nguyên nhân khách quan tàn nhẫn ấy là cội nguồn của nỗi
buồn xa vắng mà đeo đẳng, dằn vặt cõi lòng.
- Xuân Hương vốn tự tin và yêu đời. Con người ấy cố gắng gượng với đời :
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.
Mạnh mẽ, dữ dội đấy nhưng thực tại vẫn chua xót.
- Vùng dậy chiến đấu với tâm trạng không hi vọng, nên kết thúc bài thơ là một tiếng thở
dài, chua chát:
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con.
Xuân ! Đời ! Hạnh phúc cứ trêu ngươi !
Có phải đây là lần thứ hai Xuân Hương chịu cảnh làm lẽ !


Đây là một cảnh trong đêm khuya, người đàn bà ngồi 1 mình không ngủ, não ruột cái thân
lẻ chiếc, thiếu thốn yêu đương, xuân có trở về mà tình yêu thì mình chỉ được sẻ có 1 tí.
Hai câu thơ mở đầu là 1 cảnh ngộ, 1 tâm trạng tê tái:
''Canh khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non"
Câu đầu gây cảm giác lặng buồn dù có khua lên hồi trống canh văng vẳng. Âm thanh văng
vẳng của tiếng trống từ 1 canh xa đưa lại, không những như thúc giục thời gian trôi qua
nhanh mà còn báo hiệu sự vắng lặng và buồn bã. Tiếng trống dồn canh vẫn gợi buồn.
Chính trong bối cảnh ấy đã hiện ra con người của nhà thơ cô độc, trơ trọi:
"Trơ cái hồng nhan với nước non"
Hồng nhan là sắc mặt hồng, cách hoán dụ chỉ người phụ nữ đẹp: chữ cái nhằm cụ thể hóa
đối tượng diễn tả. Trơ là lì ra, trơ ra như mất cảm giác. Nước non chỉ cả thế giới tự nhiên
và xã hội. Các yếu tố ấy cùng thể hiện 1 tâm trạng cô đơn, quạnh quẽ rất mực của con
người như trơ ra trước cảnh vật, trước mọi người tưởng như hóa đá, không còn cảm giác
gì nữa. "Hồng nhan" mà đi với từ "cái" thì thật là rẻ rúng, mỉa mai. Nhịp thơ 1/3/3 góp
phần nhấn mạnh vào sự tủi hổ của nhà thơ. Người đọc tưởng như nghe được từ hai câu thơ
ấy cả những tiếng thở dài ngao ngán, tủi hổ về duyên phận hẩm hiu của người phụ nữ đa
tài, đa tình ấy.
Hai câu tiếp theo:
"Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn"
Giữa đêm khuya, nhà thơ cảm thấy trống vắng cô đơn. Để quên đi nỗi buồn trơ trọi này,
bà đã nhờ đến rượu, mượn chút hương nồng. Nhưng càng uống, bà càng tỉnh ra. Ngước
lên ngắm trăng mà trăng đã xế bóng mà chưa lúc nào tròn. Bà cảm cảnh cho thân phận
mình. Nghệ thuật đối trong hai câu thơ này thật tài tình, đăng đối, hô ứng nhau, cùng nhau
làm nổi bật lên thân phận của một hồng nhan bạc mệnh tài hoa, nhan sắc mà phải chịu
cảnh dở dang, cô đơn.
Tủi buông cho duyên phận mình, người phụ nữ đã trải qua biết bao đêm dài thao thức
mong đợi, ước mơ. Ngày tháng cứ vô tình chồng chất thêm hy vọng đợi chờ, khao khát
nhưng hạnh phúc vẫn mù tăm. Biết đến khi nào vần trăng lại tròn như biết bao tháng ngày

đã mơ ước. Càng cô đơn, càng mong đợi mà càng mong đợi thì đau buồn càng lắng đọng
thêm. Đó chính là bi kịch của người phụ nữ có duyên phận hẩm hiu.
Hai câu luận liền mạch thơ là lấy cảnh ngụ tình:
"Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn"
Hai câu thơ là hai hình ảnh mãnh liệt nêu bật một sự mạnh mẽ, phản kháng dữ dội. Rêu
từng đám tuy bé nhỏ, mềm yếu mà cũng dám xiên ngang mặt đất, đá mấy hòn thôi mà
cũng đâm toạc chân mây.
Hơn ai hết, nhà thơ vốn là người tự tin, yêu đời rất mực. Nhìn rêu đá, bà cũng cảm thấy
chúng hoạt động mạnh mẽ, mang một sức sống đặc biệt nhưng cũng nhỏ bé và xa xôi quá.
Hai câu thơ thể hiện rõ nét bản sắc, phong cách của Hồ Xuân Hương; bà luôn luôn cảm
nhận sự vật dưới một cái nhìn mạnh mẽ hàm chứa một sức sống mãnh liệt dạt dào. Do đó
mà cả rêu bé nhỏ, đá mấy hòn vô tri cũng tung hoành xiên ngang, đâm toạc. Dù đã trải qua
nhiều bi kịch nhưng bà vẫn cố gắng gượng với đời. Phản ứng của bà mạnh mẽ và dữ dội
nhưng thực tại vẫn đắng cay, chua chát. Phải sống trong một xã hội phong kiến trọng nam
khinh nữ, xem phụ nữ là hạ đẳng chẳng chút gì xem trọng yêu thương thì bà phải lâm vào
cảnh ngộ "lạnh lùng" chua xót là điều tất yếu. Thấm thía nỗi buồn riêng đó của mình, nhà
thơ muốn cất lên tiếng nói nhằm đấu tranh cho mọi nữ giới đều được sống, đều được yêu
thương, được cuộc đời hạnh phúc. Nhưng việc ấy đâu phải dễ dàng chi. Bởi ngay chính
bà, vẫn đang phải gánh chịu một duyên phận hẩm hiu. Do vậy càng nghe tiếng trống dồn,
càng ngắm trăng khuya xế bóng, càng nhìn rêu, nhìn đá đâm toạc, xiên ngang nhà thơ
càng bị dồn đến cái kết cuộc chán nản, đau xót. Bà viết:
"Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại"
Chữ xuân ở đây ngoài ý chỉ mùa xuân còn hàm ý chỉ tuổi trẻ, tuổi xuân. Theo nhịp tuần
hoàn của trời đất, mùa xuân đi qua rồi sau đó còn trở lại "xuân đi xuân lại lại" nhưng tuổi
xuân của con người thì chỉ một đi để rồi "Ngày xanh mòn mỏi má hồng phai pha"
(Truyện Kiều). Do vậy mà thấy mùa xuân tươi đẹp trở về, đáng lẽ con người phải hớn hở,
vui mừng thì lại chỉ thấy thêm ê chề, ngao ngán bởi lẽ mỗi lần xuân về là một lần tuổi đời
chồng chất thêm, tuổi xuân trôi đi hết mà bản thân mình chỉ một cái thân lẻ chiếc, thiếu
thốn yêu thương, giả sử có tình yêu thì mình cũng chỉ được sẻ có một tí:

"Mảnh tình san sẻ tí con con"
Trong câu cuối cùng của bài thơ này, từng chữ đều thoáng ý ngậm ngùi, ấm ức: tình thì
chỉ có một mảnh vì phải sẻ chia đâu dược tròn đầy, nguyên vẹn khác chi ánh trăng khuyết
xế trong câu thơ trước. San sẻ chứ không phải trọn hưởng mà lại chua xót thay chỉ được
san sẻ có chút xíu thôi: tí con con. Đã con con là rất nhỏ rồi mà còn có từ "tí" nghĩa là cực
nhỏ. Mấy từ "tí con con" cực tả nỗi niềm riêng chua xót, ngán ngẩm của nhà thơ.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×