Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Luận văn 2022: Vấn đề con người trong triết học nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với xã hội Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.03 KB, 81 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
========

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Đề tài

VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC NHO GIÁO
VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI XÃ HỘI VIỆT NAM
HIỆN NAY

Giáo viên hướng dẫn

: TS. Trần Ngọc Ánh

Sinh viên thực hiện

: Trần Thị Thu Hằng

Lớp

: 09SGC

Đà Nẵng, tháng 05 năm 2013
1


LỜI CẢM ƠN
***



Sau bốn năm học tập, việc thực hiện khoá luận tốt nghiệp là
khâu quan trọng đặc biệt. Có được kết quả như ngày hôm nay,
ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ
nhiệt tình từ nhiều phía.
Trước hết tôi xin ghi lại đây lòng tri ân sâu sắc, chân thành
đối với thầy giáo Trần Ngọc Ánh - người đã khuyến khích, động
viên và tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi hoàn thành khoá luận này.
Đồng thời, tôi cũng xin chân thành cảm ơn quý thầy cô giáo
trong khoa Giáo Dục Chính Trị, trường Đại học Sư phạm - Đại học
Đà Nẵng, cảm ơn những người bạn đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình nghiên cứu.
Đà Nẵng, ngày 15 tháng 5 năm 2013
Người thực hiện
Trần Thị
Thu Hằng- Lớp 09SGC
MỤC
LỤC
A.
C. KẾT LUẬN……………………………………………………………....77
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………… 79

2


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vấn đề con người là một trong những vấn đề luôn luôn được quan tâm dù trong bất
cứ một thời kỳ nào của lịch sử, hay tại bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới. Trung Hoa
là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm nhất trên thế giới với hơn 4000 năm phát

triển liên tục, với nhiều phát minh vĩ đại trong lịch sử trên nhiều lĩnh vực khoa học. Có
thể nói, văn minh Trung Hoa là một trong những cái nôi của văn minh nhân loại. Tại đây,
vấn đề con người là trung tâm của mọi nghiên cứu là đề tài sản sinh ra nhiều học thuyết
triết học lớn có ảnh hưởng đến nền văn minh Châu Á cũng như toàn thế giới. Trong số
các học thuyết triết học lớn đó phải kể đến trường phái triết học Nho giáo.
Nho gia, Nho giáo là những thuật ngữ bắt nguồn từ chữ “nhân” (người), đứng
cạnh chữ “nhu” (cần, chờ, đợi). Nho gia còn được gọi là nhà nho, người đã đọc thấu sách
thánh hiền được thiên hạ trọng dụng dạy bảo cho mọi người sống hợp với luân thường
đạo lý. Nho giáo xuất hiện rất sớm, lúc đầu nó chỉ là những tư tưởng hoặc trí thức chuyên
học văn chương và lục nghệ góp phần trị nước. Đến thời Khổng tử đã hệ thống hoá
những tư tưởng và tri thức trước đây thành học thuyết, gọi là nho học hay “Khổng học” gắn với tên người sáng lập ra nó.
Kể từ lúc xuất hiện từ vài thế kỷ trước công nguyên cho đến thời nhà Hán, Nho
giáo đã chính thức trở thành hệ tư tưởng độc tôn của chế độ phong kiến, nó chuyên đi sâu
giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội với nội dung bao trùm là
vấn đề con người. Nho giáo là một học thuyết triết học và chính trị - xã hội lớn nhất trong
lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại. Mặc dù ra đời rất sớm nhưng học thuyết Nho giáo đã
sớm phát hiện ra vấn đề con người, bàn về vấn đề con người, đặc biệt là đề cập khá sâu
đến quan niệm con người và đào tạo con người. Đây là một trong những nội dung chủ
yếu của học thuyết Nho giáo.
Nho giáo đã trở thành tư tưởng, văn hoá, in đậm dấu ấn của mình lên lịch sử của
một nửa châu Á trong suốt hai nghìn năm trăm năm qua, và cho đến tận hôm nay, dù tự
giác hay không tự giác, dù đậm hay nhạt, có khoảng một tỷ rưỡi con người đang chịu ảnh

3


hưởng học thuyết Nho gia, học thuyết này đã trở thành cốt lõi của cái mà ta gọi là văn
hóa phương Đông.
Nho giáo cũng đã du nhập và tồn tại ở Việt Nam gần 2000 năm, đã có tác dụng to
lớn đối với xã hội và con người nước ta trong lịch sử, đồng thời cũng để lại những ảnh

hưởng khác sâu đậm đến xã hội và con người Việt Nam hiện nay. Vì vậy, nghiên cứu về
vấn đề con người của Nho giáo có ý nghĩa cấp thiết trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo
con người trong xã hội Việt Nam hiện nay.
Chính vì vậy, để góp một phần nhỏ bé của mình vào việc nghiên cứu ảnh hưởng
của vấn đề con người trong triết học Nho giáo đối với xã hội Việt Nam, tôi đã chọn đề tài:
“ Vấn đề con người trong triết học Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với xã hội Việt
Nam hiện nay” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Trong lịch sử của sự phát triển văn minh, văn hóa nhân loại, vấn đề con người và
tương lai con người luôn giữ vị trí trung tâm và trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều
ngành khoa học - xã hội khác mà đặc biệt là khoa học xã hội và nhân văn nhưng chỉ có
triết học mới nhận thức con người một cách toàn diện trong chỉnh thể của nó. Có thể nói
việc nghiên cứu con người không phải là một đề tài mới song nó vẫn là vấn đề luôn luôn
mới.
Vấn đề con người trong triết học Nho gia và ảnh hưởng của nó đến xã hội Việt Nam
là một vấn đề rộng, phong phú đã thu hút sự quan tâm và chú ý của nhiều nhà nghiên
cứu. Thực tế đã có nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề này, trong đó phải kể đến những
nhà nghiên cứu quan trọng ở những phương diện, góc độ khác nhau như:
Trước hết phải kể đến các công trình nghiên cứu về Nho giáo thông qua các tác
phẩm kinh điển, tiêu biểu như: Khổng học đăng của Phan Bội Châu, Nho giáo của Trần
Trọng Kim… Trong hai cuốn sách này, thông qua việc trình bày, phân tích một số phạm
trù, nguyên lý cơ bản của Nho giáo trong quá trình phát triển của nó, các tác giả đã giới
thiệu cho người đọc những quan niệm của các nhà nho về thế giới, đặc biệt những quan
niệm về con người và xã hội.

4


Cuốn Nho giáo xưa và nay của Quang Đạm đã phân tích khá kĩ những yếu tố
trong vấn đề con người của Nho giáo cũng như những mặt hạn chế, tích cực của nó,

những ảnh hưởng của nó đối với xã hội Việt Nam.
Nhìn chung, những cuốn sách trên đều là kết quả của quá trình nghiên cứu
nghiêm túc của những học giả vừa có cả trí tuệ lẫn niềm say mê. Giá trị học thuật của
chúng đã được công nhận và có thể nói, chúng khá bổ ích đối với những người quan tâm,
nghiên cứu về vấn đề con người trong triết học của Nho giáo.
Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu về sự thể hiện của Nho giáo trong đời
sống tinh thần của xã hội và con người Việt Nam cũng vô cùng phong phú gắn liền với
tên tuổi của nhiều nhà nghiên cứu nổi tiếng như: Nguyễn Tài Thư, Trần Đình Hượu, Trần
Văn Giàu, Vũ Khiêu… Trong một số công trình nghiên cứu của mình, các tác giả đã bắt
đầu từ những phạm trù cơ bản của Nho giáo để nghiên cứu, xem xét ảnh hưởng của nó
trong các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội, mà trong đó vấn đề con người trong triết
học Nho giáo cũng được quan tâm với nhiều ý kiến đánh giá khác nhau.
Công trình Nho học và Nho học ở Việt Nam của GS. Nguyễn Tài Thư đã có nhiều
kiến giải mới về ảnh hưởng và vai trò của Nho giáo đối với xã hội và con người Việt
Nam trong lịch sử. Đề cập tới phạm vi, ảnh hưởng của Nho giáo trong lịch sử tư tưởng
Việt Nam, tác giả cho rằng, ảnh hưởng quan trọng hơn của Nho giáo là trong lĩnh vực thế
giới quan và nhân sinh quan.
Cuốn sách Quan niệm của Nho giáo về con người, về giáo dục và đào tạo con
người của TS Nguyễn Thị Tuyết Mai do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, xuất bản năm
2009 đã viết về vấn đề con người, giáo dục và đào tạo con người trong kho tàng lịch sử
văn minh nhân loại. Trong quan niệm của Nho giáo về con người, tác giả không chỉ dừng
lại ở việc trình bày trên cơ sở Triết học và Giá trị học những mặt tích cực về con người,
về mục đích giáo dục của Nho giáo; nhiệm vụ của người thầy; nguyên tắc, nội dung và
phương pháp giáo dục của Nho giáo, ... mà tác giả cũng chỉ ra những mặt tiêu cực của
Nho giáo về con người, về giáo dục và đào tạo con người. Trên cơ sở đánh giá một cách
khoa học về các quan niệm của Nho giáo, tác giả chỉ ra vai trò và ý nghĩa trong quan
niệm của Nho giáo về con người, về giáo dục và đào tạo con người, cơ sở để đề xuất

5



quan điểm về nhân sinh, giá trị nhân sinh và xây dựng nhân cách sống lý tưởng. Bên cạnh
đó, tác giả cũng trình bày quan điểm của cá nhân về sự ảnh hưởng của Nho giáo tới con
người, tới vấn đề giáo dục và đào tạo con người ở Việt Nam trong lịch sử và hiện tại về
sự nhìn nhận và đánh giá con người.
Ngoài ra, còn có rất nhiều các bài báo nghiên cứu về đề tài trên được đăng trên các
tạp chí: Nghiên cứu Trung Quốc, tạp chí Triết học…
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, bài viết trên rất phong phú và đa dạng có ý
nghĩa to lớn trong việc cung cấp tài liệu cũng như giới thiệu với bạn đọc khi nghiên cứu
về vấn đề con người trong triết học Nho giáo. Tuy nhiên các tài liệu, bài viết đó chưa
nghiên cứu cụ thể, toàn diện mà chỉ đưa ra một cách khái quát, chung chung. Trên cơ sở
tiếp thu ý kiến của những nhà nghiên cứu đi trước và theo yêu cầu của đề tài, ở bài viết
này chúng tôi hy vọng nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề con người trong triết học
Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với xã hội Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

 Mục đích của luận văn : Làm rõ những nội dung chủ yếu trong quan niệm của Nho
giáo về vấn đề con người để chỉ ra những giá trị, hạn chế chủ yếu của nó và từ đó rút ra
ảnh hưởng của nó đối với xã hội Việt Nam.

 Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, Luận văn tập trung làm rõ những nhiệm vụ
chủ yếu sau:
- Những điều kiện, tiền đề chủ yếu cho sự hình thành và phát triển quan điểm của
Nho giáo về vấn đề con người.
- Trình bày một cách có hệ thống những nội dung cơ bản trong quan niệm của Nho
giáo về vấn đề con người.
- Làm rõ một số giá trị và hạn chế chủ yếu trong quan niệm trên của Nho giáo và ảnh
hưởng của vấn đề con người trong triết học Nho giáo đối với xã hội Việt Nam trong lịch
sử.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài


 Đối tượng nghiên cứu: Tìm hiểu vấn đề con người trong triết học Nho giáo và ảnh
hưởng của nó đối với xã hội Việt Nam.

6


 Phạm vi nghiên cứu: Do phạm vi của khóa luận nên chỉ tập trung xem xét vấn đề
con người trong triết học Nho giáo nhằm mô tả rõ hơn ảnh hưởng của vấn đề đối với xã
hội Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài

 Cơ sở lý luận : Luận văn được dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng,chủ nghĩa duy vật lịch sử, triết học Mác - Lênin trong nghiên cứu về xã hội và con
người. Kế thừa một số một số kết quả nghiên cứu ở một số công trình nghiên cứu liên
quan đến đề tài.

 Phương pháp nghiên cứu: Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp biện chứng duy
vật của Triết học Mác - Lênin kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu khoa học
khác như phương pháp lôgic và lịch sử; phương pháp phân tích - tổng hợp; phương pháp
hệ thống hóa, so sánh…
6. Đóng góp của Luận văn.
Đề tài trình bày có hệ thống những nội dung cơ bản nhất vấn đề con người của
Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với xã hội Việt Nam.
7. Ý nghĩa của Luận văn
Từ góc độ triết học, Luận văn bước đầu làm sáng tỏ và trình bày có hệ thống
những nội dung cơ bản trong quan niệm của Nho giáo về vấn đề con người và ảnh hưởng
của nó đối với xã hội Việt Nam.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong việc giảng dạy, nghiên cứu và học
tập về Nho giáo nói chung và quan điểm của Nho giáo về vấn đề con người nói riêng và

cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của bài luận văn
gồm có 2 chương 4 tiết.

7


B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: NHO GIÁO - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ NỘI
DUNG CƠ BẢN
1.1. Khái quát về Nho giáo và nội dung cơ bản của Nho giáo
1.1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội hình thành và phát triển của Nho giáo
1.1.1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội hình thành Nho giáo
Nho giáo xuất hiện ở Trung Quốc vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên
dưới thời Xuân Thu do Khổng Tử (551 - 479 TCN) sáng lập. Trải qua những thăng
trầm của lịch sử, Nho giáo ngày càng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện hơn ở
những khía cạnh, mức độ khác nhau.
Ra đời trong bối cảnh xã hội Trung Quốc bước vào thời kỳ chuyển giao từ
hình thái chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến kiểu Phương Đông nên Nho giáo
thời kỳ này chịu ảnh hưởng của sự biến đổi sâu sắc, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Giống như các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, là một học
thuyết chính trị xã hội nên Nho giáo nảy sinh và tồn tại trên một cơ sở hạ tầng, một
tồn tại xã hội nhất định.
Trên lĩnh vực kinh tế: Thời Xuân Thu, nền kinh tế Trung Quốc có sự chuyển
biến từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Việc sử dụng đồ sắt trong sản xuất đã
đem lại những bước tiến mới cho sự phát triển của nền kinh tế nông nghiệp. Trong
sản xuất thủ công nghiệp cũng đạt được nhiều thành tựu thúc đẩy một loạt các ngành
nghề thủ công nghiệp ra đời và phát triển như luyện sắt, rèn, đúc…
Trên cơ sở phát triển sản xuất thủ công nghiệp, thương nghiệp cũng đạt được

nhiều thành tựu. Sự ra đời của tiền tệ đã thúc đẩy các ngành thương nghiệp cùng nhiều
trung tâm buôn bán trao đổi hàng hoá được mở rộng hơn. Thành thị xuất hiện và trở
thành một cơ sở kinh tế độc lập. Lúc này, trong xã hội hình thành tầng lớp quý tộc mới
có thế lực, tranh giành quyền lực với tầng lớp quý tộc cũ. Vì vậy mà nhu cầu cho con
em quý tộc học hành và thi đỗ ra làm quan đã trở nên phổ biến. Đây chính là tiền đề cho
việc dạy học và đề cao giáo dục đạo đức nhằm duy trì và ổn định trật tự xã hội.

8


Trên lĩnh vực xã hội: Cuối Xuân Thu đầu Chiến Quốc, xã hội Trung Quốc đang
bước dần sang chế độ phong kiến sơ kỳ nên Tông pháp của nhà Chu không còn được
coi trọng như trước. Các nước Chư hầu nổi lên, thôn tính lẫn nhau lấn át nhà Chu.
Mâu thuẫn trong giai cấp thống trị ngày càng trở nên gay gắt dẫn tới tình trạng trật tự
lễ, nghĩa, cương thường bị đảo lộn, các quan hệ đạo đức suy đồi "Chư hầu lấn quyền
thiên tử, đại phu lấn quyền chư hầu, tôi giết vua, con giết cha, trật tự xã hội rối
loạn"[31, tr.35]. Trong bối cảnh loạn lạc đó một vấn đề lớn đặt ra: cách tổ chức và
quản lý xã hội theo mô hình nhà Chu không còn phù hợp nữa. Và vấn đề là làm thế
nào để thiết lập lại trật tự, kỷ cương đưa xã hội vào thế ổn định để phát triển.
Chính trong thời đại lịch sử với những biến động, rối ren như trên đã làm nảy
sinh một loạt các nhà tư tưởng, các trường phái triết học khác nhau. Tất cả đều đứng
trên lập trường của giai cấp mình để tranh luận, phê phán lẫn nhau về một biện pháp
khắc phục tình trạng "vô đạo" của xã hội đương thời. Lịch sử gọi đây là thời kỳ
"Bách gia tranh minh", "Bách gia chư tử" (trăm nhà trăm thầy). Trong đó, xuất hiện
nhiều nhà tư tưởng, nhiều hệ thống, trường phái triết học như Nho giáo, Đạo giáo,
Mặc gia, Pháp gia…Các học thuyết ra đời đều nhằm một mục đích chung là cải biến một
xã hội từ “loạn” thành “trị” mong thiết lập lại xã hội, đem lại sự yên bình cho muôn dân
và sự phồn vinh cho đất nước. Nho giáo ra đời cũng vì mục đích đó.
Khổng Tử đã hệ thống hóa những tư tưởng và tri thức trước đây thành học thuyết
Nho giáo. Về sau hai môn đệ của Khổng Tử là Mạnh Tử và Tuân Tử kế thừa và phát triển

những tư tưởng và tri thức của Khổng Tử. Từ đó về sau Nho giáo trở thành một học
thuyết bề thế, chặt chẽ hơn.
1.1.1.2. Khái lược quá trình phát triển của Nho giáo

 Nho giáo nguyên thủy
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm
có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh
Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau khi Khổng
Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc
nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách

9


Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn
Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của
ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo
nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay “tư tưởng
Khổng - Mạnh”. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học;
còn Nho giáo mang tính tôn giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu trở thành thánh đường và
Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực
hành.Từ đây mới hình thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia.

 Hán Nho
Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế đưa Nho
giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư tưởng. Và từ
đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa
trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán Nho. Điểm khác biệt so
với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của giai cấp thống trị, Thiên Tử
là con trời, dùng “lễ trị” để che đậy “pháp trị”.

Vào giữa thời kì Tây Hán, hình thái tư tưởng thống trị Trung Quốc đã có sự biến
đổi. Năm 136 TCN, Hán Vũ Đế đã ra lệnh: “bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật”. Từ
đây, Nho giáo bắt đầu trở thành hệ tư tưởng chính thống của xã hội phong kiến Trung
Quốc, đại diện tiêu biểu nhất của Hán Nho là Đổng Trọng Thư.

 Tống Nho
Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với Luận
ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách gối đầu
giường của các nhà Nho. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với các tên tuổi
như Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di. Phương Tây gọi Tống nho là
“Tân Khổng giáo”. Điểm khác biệt của Tống nho với Nho giáo trước đó là việc bổ sung
các yếu tố “tâm linh” và các yếu tố “siêu hình” (lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc đào
tạo quan lại và cai trị.
Từ đời Hán về sau, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống của phong kiến
Trung Quốc. Nhưng cũng vào thời gian này, Phật giáo và Đạo giáo cũng bắt đầu có ảnh

10


hưởng ở Trung Quốc. Trước sự xâm nhập và ra đời của những học thuyết mới này, các
nhà Nho thấy rằng Nho giáo quá đơn giản, do đó họ đã tiếp thu quan điểm triết học Phật
giáo và vũ trụ quan của Đạo giáo để bổ sung cho triết lí Nho giáo thêm phần sâu sắc. Đặc
điểm chung của các nhà Nho đời Tống là muốn giải thích nguồn gốc vũ trụ và giải thích
mối quan hệ giữa tinh thần và vật chất mà họ gọi là lí và khí. Nói chung họ đều cho rằng
lí có trước khí, vì vậy họ được gọi là phái lý học. Nhân vật tiêu biểu của phái lý học là
Chu Đôn Di, Thiện Ung, Trình Hạo, Trình Di, Chu Hy…
1.1.2. Nội dung cơ bản của Nho giáo
1.1.2.1. Quan niệm về vũ trụ
Quan niệm về thế giới của Khổng Tử chịu ảnh hưởng quan niệm vũ trụ của người
Trung Hoa thượng cổ được lưu truyền trong dân gian và được ghi trong Kinh Dịch.

Khổng Tử rất ít bàn về những vấn đề trừu tượng thuộc về bản chất, ít bàn đến chuyện quỷ
thần.
Khổng Tử tin có trời. Nhưng đối với ông, trời có ý chí, ý trời là thiên mệnh không
thể thay đổi được, không ai chối cải được mệnh trời. Ông gộp trời đất vào một thể. Quan
điểm này được được thể hiện đầy đủ và rõ ràng và bao quát từ dịch.
Trong học thuyết của Nho gia, “trời” có ý nghĩa quan trọng nhất. Khổng Tử rất tin
ở Trời, như một quan toà công minh và chính trực. Theo ông, Trời quyết định mọi sự
thành bại trong hoạt động của con người. Ông khuyên con người phải phục tùng ý chí của
Trời, xem sự hiểu biết về ý chí của Trời như là điều kiện tất yếu để trở thành con người
hoàn thiện. Quan niệm về Trời của Khổng Tử tất yếu sẽ dẫn đến thuyết “sống chết có
mạng, giàu sang tại Trời”. Đó là yếu tố duy tâm, hữu thần luận.
Quan điểm về “Thiên mệnh” của Khổng Tử: Trời có ý chí làm chủ tể cả vũ trụ do
đó hiểu biết mệnh trời là một điều kiện để trở thành người hoàn thiện.Ý chí của Trời là
“Thiên mệnh”. Ông cho rằng, mỗi cá nhân sống - chết, phú quý hay nghèo hèn đều do
“Thiên mệnh” quy định. Phú quý không thể cầu mà có được, do vậy bất tất phải cầu. Mặt
khác , Khổng Tử lại cho rằng con người bằng nổ lực của bản thân cũng có thể thay đổi
được cái “ Thiên tính” ban đầu. Ông nói, con người lúc sinh ra, cái “tính” trời phú cho là
giống nhau nhưng trong qua quá trình tiếp xúc, học tập…nó làm cho họ khác nhau, có kẻ

11


trí có người ngu (Tính ương cận, tập tương viễn). Đây là mặt tích cực, chỗ “thêm vào”
của Khổng Tử so với quan niệm “Mệnh trời” trước đó. (13, tr.51).
Đối với quỷ thần: Ông tin có sự tồn tại của quỷ thần, nhưng quan niệm của ông có
tính chất lễ giáo hơn tôn giáo. Ông cho rằng, quỷ thần là do khí thiêng trong trời đất tạo
thành. Bên cạnh đó, ông lại cho rằng quỷ thần không có tác dụng chi phối cuộc sống con
người và ông phê phán sự mê tín quỷ thần. Ông lại cho rằng: Việc của quỷ thần là việc
cao xa. Con người cần phải kính trọng quỷ thần nhưng chẳng nên gần gũi quỷ thần !
Khổng Tử đặc biệt cũng rất đề cao hoạt động của con người.

Những quan điểm về “Thiên mệnh”, về quỷ thần có phần mâu thuẫn nhau chứng tỏ
các nhà Nho gia đã muốn gạt bỏ quan niệm thần học thời Ân - Chu nhưng lại không gạt
được. Quan niệm “thiên mệnh” của Khổng Tử sau này được Mạnh Tử hệ thống hóa, xây
dựng thành nội dung triết học duy tâm trong hệ thống tư tưởng triết học của Nho gia.
1.1.2.2. Quan niệm về xã hội và chính trị - đạo đức
Về chính trị xã hội: Một xã hội không loạn lạc cũng là một xã hội có trật tự, không
lộn xộn, chính vì thế nên ông tổ Nho giáo đã mong ước lập một tổ chức xã hội mà ở đó
có trên có dưới phân minh phổ biến thì đó là trật tự danh vị của thuyết chính danh. Chính
danh là danh và thực phải phù hợp với nhau. Danh và phận của mỗi người, trước hết do
các mối quan hệ quy định. Theo ông mỗi cái danh đó phải có trách nhiệm và bổn phận
mà mỗi cá nhân mang cái danh đó phải có trách nhiệm và bổn phận phù hợp với cái danh
đó. Ngoài ra Khổng Tử còn chủ trương dùng thuyết lễ trị để đưa ra cách trị nước an dân.
Về đạo đức: Đạo theo Nho gia là quy luật biến chuyển, tiến hóa của trời đất, muôn
vât, đạo của người chính là nhân nghĩa. Nhân là lòng thương người, nghĩa là dạ thủy
chung. Nho giáo đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức của con người. Đức gắn chặt với
đạo, từ đức trong quan điểm Nho giáo thường được dùng để chỉ một cái gì thể hiện phẩm
chất tốt đẹp của con người trong tâm hồn ý thức. Nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo
chính là luân thường. Có năm luân cơ bản: cha - con, vua - tôi, anh - em, vợ - chồng, bè bạn, trong đó ba điều chính là vua tôi, cha con, vợ chồng gọi là tam cương. Đặc biệt quan
trọng là quan hệ vua tôi biểu hiện bằng chữ trung, quan hệ cha con được biểu hiện bằng
chữ hiếu. Thường có năm điều chính gọi là ngũ thường đều là những đức tính trời phú

12


cho con người: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Đứng đầu ngũ thường là nhân nghĩa. Đạo của
Khổng Tử trước hết là đạo nhân nghĩa.
Khổng Tử khá sâu sắc khi cụ thể hóa những nguyên tắc đạo đức thành chuẩn mực
đạo đức cho mẫu người lý tưởng. Ông cũng thể hiện đúng đắn quan điểm nhìn nhận con
người không chỉ thuần túy dựa vào lời nói mà phải kết hợp giữ động cơ và hiệu quả, giữa
lí trí và tình cảm trong việc đánh giá con người, quan điểm làm gương của Khổng Tử khi

đề cập đến phẩm chất người quân tử vẫn có giá trị nhất định trong việc giáo dục đạo đức
nói riêng và giáo dục nói chung.
Rõ ràng sự phân chia này không được đặt đúng trong mối quan hệ chính trị-kinh tế
mà mang màu sắc chính trị - đạo đức nhiều hơn. Do đó, thuyết chính danh thể hiện yếu tố
duy tâm rõ rệt hơn.
Cùng với tư tưởng về chính danh, Nho gia cũng đưa ra tư tưởng về “Nhân”, đó là
mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội. Nhân ở đây là lòng yêu thương
của con người đối với con người trong xã hội, người nhân là người không quan tâm đến
lợi ích mà chỉ làm việc nghĩa. Tư tưởng này mang tính nhân văn sâu sắc, nó hướng suy
nghĩ và hành động của con người vào những điều mà xã hội luôn mong muốn.
Tư tưởng về “Lễ”: Lễ hiểu theo nghĩa rộng đó là cơ sở của xã hội có tổ chức, bảo
đảm cho phân định trên dưới rõ ràng, không bị xáo trộn đồng thời nhằm ngăn ngừa
những hành vi và tình cảm thoái quá. Theo nghĩa này, “Lễ” bao gồm những quy phạm
đạo đức (trách nhiệm của mỗi cá nhân trong gia đình và ngoài xã hội), những quy định xã
hội (quan hệ xã hội và quyền được đề xuất những tư tưởng lớn trong xã hội).
Tư tưởng “Lễ” góp phần điều chỉnh những hành vi hoạt động của con người trong
xã hội và điều chỉnh những bản tính tự nhiên của con người. Nếu mỗi cá nhân trong xã
hội thực hiện đúng những điều mà thuyết “Lễ” đưa ra thì sẽ tạo cơ sở để ổn định xã hội.
Hơn nữa, “Lễ” ở đây cũng là văn hóa bởi nó là sản phẩm do bàn tay của con người tạo ra
và nó xuất phát từ nhu cầu đòi hỏi của xã hội phải ổn định trật tự xã hội. Song hạn chế
của “Lễ” là nó mang tư tưởng hoài cổ mà không biết kế thừa những tư tưởng tiến bộ để
phát triển.

13


Ngoài ra, phái Nho gia cũng đưa ra một số tư tưởng khác như tư tưởng “thượng
hiền”: coi trọng người hiền tài, đó là người học được đức nhân và làm điều nhân. Muốn
đạt được điều đó thì con người phải học sách thánh hiền và học tư tưởng của các nhà Nho
để làm chính trị. Hay tư tưởng “thân thân”: trước hết phải yêu thương người thân sau đó

mới yêu thương người khác trong xã hội.
1.1.2.3. Quan niệm về giáo dục
Khổng Tử cho rằng: “Tính tương cận, tập tương viễn”. Nghĩa là bản tính tự nhiên
của mọi người gần giống nhau, nhưng do việc học tập, rèn luyện của mỗi người khác
nhau nên khác nhau [29, tr.52].. Theo ông, mục đích của giáo dục là rèn luyện nhân cách.
Người nhân muốn có trí, dũng thì phải học tập, tu dưỡng. Người quân tử không chỉ học
để hiểu biết sự vât, tri thức mà còn để tu , tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Ông chủ trương
thực hiện đường lối giáo dục theo nguyên tắc : Học đi đôi với hành, đồng thời phải biết
đào sâu suy nghĩ, thông qua việc nghiên cứu cái cũ để biết cái mới.
Sau khi Khổng Tử mất, học thuyết của ông được các thế hệ học trò tiếp tục phát
triển và trở thành trường phái lớn bấy giờ.
Có thể nói, nội dung cơ bản trong học thuyết Nho giáo đã thể hiện một cách cụ thể
nội dung tư tưởng của Khổng Tử. Mặc dù tư tưởng của ông không phải lúc nào cũng
được trọng dụng nhưng với những nét tiến bộ trong tư tưởng của mình học thuyết của
ông đã có mặt trong tất cả các triều đại Trung Hoa. Nó để lại dấu ấn của mình không chỉ
trong sách vở mà cả trong cuộc sống hiện thực của nhiều thế hệ và đã vượt qua biên giới
của nước mình, cắm rễ vào phong tục, tập quán của nhiều nước láng giềng lân cận.
1.2. Vấn đề con người trong triết học Nho giáo
Nếu như triết học phương Tây thiên về hướng ngoại, với xu hướng tập trung
nghiên cứu thế giới vật chất để nhận thức thế giới và cải tạo thế giới, thì triết học phương
Đông nói chung và Nho học nói riêng thiên về hướng nội, nghiên cứu con người và thế
giới nội tâm của con người và từ đó đi đến các vấn đề xã hội. Bởi vậy, không có gì là lạ
khi ta thấy Nho học xem con người là hạt nhân, là đối tượng để nghiên cứu chủ yếu.
1.2.1. Quan niệm về con người

14


1.2.1.1. Quan niệm của Nho giáo về bản tính con người và các mối quan hệ xã
hội.


 Quan niệm về bản tính con người:
Vấn đề tính người là một trong những nội dung cơ bản của Nho giáo. Nó
không chỉ gắn bó, liên quan tới vấn đề nguồn gốc, bản chất con người mà còn đặt cơ
sở, nền tảng cho các nhà Nho giáo đề xuất tư tưởng giáo dục của mình. Đây được
xem như phương thức hữu hiệu nhất để đưa xã hội từ loạn lạc về thái bình, thịnh trị.
Người đầu tiên đề cập tới vấn đề bản tính con người trong phái Nho giáo là
Khổng Tử. Trong sách Luận ngữ, có tới 3 lần ông nhắc tới chữ "tính" luận về tính
ông nói "Bản tính người ta gần đều giống nhau, nhưng chịu ảnh hưởng khác nhau mà
xa nhau" [31; 614]. Theo Khổng Tử, tính của con người khi mới sinh ra là hoàn toàn
trong trắng, ngây thơ, tự nhiên, chưa bị thay đổi bởi hoàn cảnh bên ngoài. Vì cái bản
tính ấy có được do trời nên mọi người đều có bản tính giống nhau. Nhưng trong quá
trình học tập, tiếp xúc, do sự tác động của các yếu tố bên ngoài nên bản tính của con
người có thể bị thay đổi. Điều đó làm cho mọi người trở nên khác nhau. "Người ta
sinh ra vốn ngay thẳng, kẻ cong vạy mà vẫn còn sống chẳng qua nhờ may mắn thoát
chết" [31; 332]. Khổng Tử còn khẳng định rằng để giữ được bản tính lành trong mỗi
con người thì họ phải được giáo dục, giáo hoá.
Khổng Tử cho rằng bản tính của mỗi con người là hoàn toàn khác nhau .Sự khác
nhau của bản tính con người một phần là do thiên phú bẩm một phần lớn là do hoàn cảnh
xã hội, do phong tục tập quán quy định. Con người tốt hay xấu thiện hay ác là do sống
trong xã hội mà nên. Chính vì vậy mà bản tính con người đối với ông : Ở mọi người lúc
đầu vốn gần giống nhau về sau mới xa nhau. Ông cho rằng “tính tương cận dã, tập tương
viễn dã” tức là bản tính thì gần nhau do tập tục đi đến xa nhau.
Như vậy Khổng Tử cho rằng bản tính con người vốn gần giống nhau nhưng do
điều kiện hoàn cảnh, lối sống tập quán khác nhau mà đi đến khác nhau. Điều đó có một
điểm nào đó giống với triết học Mác-Lênin sau này là đời sống xã hội, tồn tại xã hội
quyết định ý thức tư tưởng của con người. Khổng Tử nói chữ tính ở đây không phải là
tính nết tốt, xấu mà tính ở đây là phần thiên lý trời phú cho có đủ nhân, nghĩa, lễ, trí,

15



thiện, đức trong con người. Mặc dù, chưa bàn nhiều đến vấn đề "tính người" song
những tư tưởng, những quan niệm của Khổng Tử đưa ra có ý nghĩa to lớn với các
nhà nho sau này.
Đến Mạnh Tử, ông đã nói một cách cụ thể hơn về tính người: “Nhân chi sơ, tính
bản thiện”. Theo ông, tính thiện được thể hiện ở tứ đức: nhân, nghĩa, lễ, trí. Nhờ có các
đức ấy mà người ta mới khác loài cầm thú. Ông cho rằng con người khác loài cầm thú chỉ
có vậy, nếu giữ được là người quân tử, không giữ được là tiểu nhân. Tứ đức ấy có nguồn
gốc từ “tứ đoan” (bốn đầu mối), ông nói: “Do đó mà xét, không có lòng trắc ẩn, chẳng
phải là người; không có lòng tu ố, chẳng phải là người; không có lòng từ nhượng, chẳng
phải là người; không có lòng thị phi, chẳng phải là người vậy. Lòng trắc ẩn là đầu mối
của điều nhân, lòng tu ố là đầu mối của điều nghĩa, lòng từ nhượng là đầu mối của lễ,
lòng thị phi là đầu mối của trí vậy” (Do thị quan chi: vô trắc ẩn chi tâm, phi nhân dã; vô
tu ố chi tâm, phi nhân dã; vô từ nhượng chi tâm, phi nhân dã; vô thị phi chi tâm, phi
nhân dã. Trắc ẩn chi tâm, nhân chi đoan dã; tu ố chi tâm nghĩa chi đoan dã; từ nhượng
chi tâm, lễ chi đoan dã; thị phi chi tâm, trí tri đoan dã) [3, tr.861]. Mạnh Tử cho rằng,
người ta có bốn đầu mối nêu trên ví như người có hai tay, hai chân vậy. Vì con người có
nhân, nghĩa, lễ, trí nên con người khác loài cầm thú. Theo ông, những quy phạm đạo đức
ấy mới chỉ manh nha ở trong lòng con người, vì vậy, con người mới khác loài vật là có
“thiện đoan” (tính thiện). Do đó, nếu con người biết nuôi dưỡng thiện đoan thì có thể trở
thành bậc thánh nhân. Ngược lại, nếu để thiện đoan bị mai một đi thì con người trở nên
ích kỷ, nhỏ nhen không khác gì loài cầm thú. Từ những nội dung trên, ta có thể thấy,
Mạnh Tử nói về tính thiện của con người là để chỉ cái bản chất của con người, để phân
biệt với các tồn tại khác.
Ở đây, Mạnh Tử giải thích về tính người thiên về khía cạnh những giá trị xã
hội. Con người ta sinh ra vốn đã thiện đó là điểm phân biệt giữa con người với loài
cầm thú. Con người sở dĩ trở thành bất thiện là do vật dục sai khiến, do hoàn cảnh
tác động. Tư tưởng này là sự kế thừa và phát triển tư tưởng "tính người" của Khổng
Tử. Mạnh Tử cũng đề cao vai trò của giáo dục, giáo hoá trong việc tu dưỡng bản tính

thiện của con người.

16


Đối lập với thuyết “tính thiện” của Mạnh Tử, Tuân Tử lại đưa ra thuyết “tính ác”.
Ông viết: “Tính của con người là ác, còn thiện là do con người làm ra. Tính của con
người, sinh ra là có sự hiếu lợi, thuận theo tính đó thì thành ra tranh đoạt lẫn nhau mà sự
từ nhượng không có; sinh ra là đố kỵ, thuận theo tính đó thì thành ra tàn tặc, mà lòng
trung tín không có; sinh ra có lòng ham muốn của tai mắt, có lòng thích về thanh sắc,
thuận theo tính đó thì thành ra dâm loạn mà lễ nghĩa văn lý không có. Như thế thì theo
cái tính của người ta, thuận cái tính của người ta, tất sinh ra tranh đoạt, phạm vào cái
phận, làm loạn cái lý mà mắc lỗi tàn bạo. Cho nên phải có thầy, có phép tắc để cải hóa đi,
có lễ nghĩa để dẫn dắt nó, rồi sau mới có từ nhượng, hợp văn lý mà thành ra trị. Xét vậy
mà thấy rõ tính của con người là ác, mà cái thiện là do con người làm ra vậy”.
(Nhân chi tính ác, kỳ thiện giả ngụy dã. Kim nhân chi tính, sinh nhi hữu hiếu lợi
yên, thuận thị, cố tranh đoạt sinh, nhi từ nhượng vong yên. Sinh nhi hữu tật ác yên, thuận
thị, cố tàn tặc sinh nhi trung tín vong yên; sinh nhi hữu nhĩ mục chi dục, hữu hiếu thanh
sắc yên, thuận thị cố dâm loạn sinh, nhi lễ nghĩa văn lý vong yên. Nhiên tắc tòng nhân
chi tính, thuận nhân chi tình, tuất xuất vu tranh đoạt hợp vu phạm phận, loạn lý nhi quy
ư bạo. Cố tất tương hữu sư pháp chi hóa, lễ nghĩa chi đạo, nhiên hậu xuất từ nhượng,
hợp vu văn lý nhi quy vu trị. Dụng thử quan chi; nhiên tắc nhân chi tính ác minh hỹ, kỳ
thiện giả ngụy dã) [14, tr.354].
Theo Tuân Tử, lòng hiếu lợi, lòng đố kỵ và ham muốn dục vọng là đầu mối của tính
người (tính ác), khi mới sinh ra đã có rồi. Còn các đức nhân, nghĩa, lễ, trí là do bậc thánh
nhân đặt ra, chứ không phải do trời sinh ra. Ở đây, Tuân Tử thừa nhận “Tứ đoan”, nhưng
khác với Mạnh Tử, “Tứ đoan” ấy không có sẵn mà phải qua giáo dục mới có được. Ở
luận điểm này, Tuân Tử đã nhận thấy vai trò tác động của nhân tố xã hội, của sự học tập
đối với tính người. Từ đó, Tuân Tử chủ trương học theo lễ nghĩa để hoàn thiện con
người, đề cao việc giáo hóa con người nhằm điều tiết cái bản năng, hướng con người tới

cái thiện: “Tính ác của người ngày nay, tất phải có việc học tập trước rồi sau mới có
chính, có lễ nghĩa trước rồi sau mới có trị” (Kim nhân chi tính ác, tất tương đãi sư pháp
nhiên hậu chính, đắc lễ nghĩa nhiên hậu trị) [14, tr.355].

17


Quan niệm về bản tính con người của Tuân Tử và Mạnh Tử có sự đối lập, trái
ngược nhau song đều thống nhất ở chỗ: Có thể giáo hoá giáo dục để hướng con
người tới điều thiện. Tuy nhiên, trong học thuyết của mình cả hai ông đều chưa nhận
thấy được con người là thực thể thống nhất giữa cái tự nhiên và cái xã hội.
Như vậy, Mạnh Tử và Tuân Tử đã triển khai tư tưởng “tính tương cận” của Khổng
Tử theo hai hướng khác nhau. Xét về mặt hình thức, dường như tư tưởng của các ông đối
lập nhau. Về mặt nội dung thì tư tưởng của hai ông bổ sung cho nhau và cùng thống nhất
ở chỗ cho rằng phải giáo dục con người và mục đích là hướng thiện.
Ngoài những quan niệm trên thì con người phải kể đến thuyết tính người của
Cáo Tử "Bản tính của con người ta như nước chảy… không phân biệt thiện với bất
thiện" [31; 1193]. Trong tư tưởng của Cáo Tử, tính người của con người không thiện
cũng không ác nhưng nó có thể thay đổi tuỳ theo sự tác động của hoàn cảnh xã hội
và việc giáo dục tu dưỡng của mỗi con người.
Cáo Tử coi nhân tính như tờ giấy trắng muốn viết đen thì đen, viết đỏ thì đỏ. Ông
nói đến bản chất xã hội của con người.Con người sống trong xã hội chịu tác động của
hoàn cảnh xã hội. Chính hoàn cảnh xã hội là môi trường để con người trở thành tốt xấu
về sau.
Như vậy khi bàn đến con người các nhà nho đã đưa ra những quan niệm khác nhau
về tính người.Tuy nêu lên bản tính con người khác nhau nhưng các nhà nho đều có điểm
thống nhất chung cần phải giáo dục con người đến tính thiện.
Mặc dù có sự khác nhau trong quan niệm về bản tính vốn có của con người
nhưng các nhà Nho đều khẳng định rằng: Bản tính của con người không phải nhất
thành bất biến mà có thể thay đổi thông qua sự tác động của giáo dục, hoàn cảnh.

Phương thức tốt nhất để giữ được tính thiện, loại trừ tính ác là con người luôn suy
nghĩ và hành động theo điều thiện, tu dưỡng, rèn luyện bằng nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.
Đó là điều có thể lý giải tại sao Nho giáo lại coi trọng giáo dục, đề cao giáo hoá và
coi đây là công cụ cai trị.

 Quan niệm của Nho giáo về các mối quan hệ con người trong xã hội

18


Khác với các học thuyết triết học Phương Tây, triết học phương Đông nói chung
và đặc biệt là Nho giáo nói riêng, luôn xem xét con người trong tổng hòa các mối quan hệ
xã hội. Ở Nho giáo, chúng ta thấy, không tồn tại một con người cá nhân, một cái tôi tách
khỏi xã hội. Chính việc nhìn nhận con người trong các mối quan hệ xã hội đã giúp Nho
giáo đề ra được những giải pháp bình ổn xã hội. Theo quan niệm Nho giáo, mọi người
trong xã hội đều bị trói buộc bởi năm mối quan hệ tự nhiên. Đó là quan hệ vua - tôi, cha con, vợ - chồng, anh - em, bạn - bè. Năm mối quan hệ này phản ánh hai mặt của cuộc
sống hiện thực là quan hệ gia đình và quan hệ xã hội. Ngoài năm mối quan hệ này các
nhà nho còn bàn đến các mối quan hệ khác như quan hệ quân dân, thầy trò ,nam nữ…
Trong xã hội phong kiến, mối quan hệ gia đình được củng cố bằng chế độ tông
pháp và chế độ gia trưởng, còn các quan hệ xã hội thì được duy trì bởi chế độ chính trị
đẳng cấp. Đi cùng với các mối quan hệ đó là những yêu cầu giao tiếp bắt buộc mà mỗi
thành viên trong xã hội phải thực hiện.
Trước hết mối quan hệ vua tôi: Trong quan niệm của các nhà Nho, quan hệ vua tôi là mối quan hệ xã hội quan trọng nhất, đứng đầu trong ngũ luân, gắn liền với chính trị,
liên quan trực tiếp đến sự hưng - vong của triều đại, của chế độ, được các nhà nho chú ý
bàn nhiều nhất. Thời kỳ Khổng Mạnh quan hệ vua - tôi là quan hệ có đi có lại vì sự
nghiệp chung trị nước an dân. Khổng Tử đặt ra vấn đề “vua ra vua”, “ tôi ra tôi”.
Theo Nho giáo, vua là người đứng đầu mỗi quốc gia, được coi là Thiên tử (con
trời), có sứ mệnh to lớn là thay trời để trị dân, giáo dân. Vua là người trụ cột của đất nước
phải xứng đáng đạo làm vua. Vua phải lấy nhân nghĩa đối xử với bề tôi, bề tôi với vua
phải trung. “Vua nhân tôi trung”, “Vua lấy lễ mà sai khiến tôi, tôi đem lòng trung mà

phụng sự vua”. Vua là tấm gương sáng để bề tôi và người dân noi theo. Mạnh Tử cũng
cho rằng thánh nhân phải là người mẫu mực để người đời ăn ở theo nhân luân.
Khái niệm “tôi” (bề tôi) trong quan điểm của Nho giáo là một khái niệm bao quát
nhiều đối tượng, trong đó bao hàm hai đối tượng chính : Thứ nhất, “bề tôi” là“dân” - dân
chúng bao gồm tất cả thần dân trong thiên hạ, họ là lực lượng đối lập với tầng lớp thống
trị gồm vua, quan. Thứ hai, “bề tôi” là những người giúp nhà vua trong việc cai trị, là
tầng lớp quan lại, hợp cùng với nhà vua thành tầng lớp, giai cấp thống trị, có vai trò trị

19


nước, trị dân, giáo dân. Về phận bề tôi các nhà nho yêu cầu bề tôi đối với vua phải hết
lòng trung thành đem nhân nghĩa hết lòng thờ vua giúp nước. Bề tôi phải làm cho vua tin
dùng nếu vua không tin dùng thì lui về ở ẩn để giữ trọn khí tiết và lòng trung của mình.
Bề tôi có trách nhiệm khuyên can để nhà vua sửa tính sửa nết, bề tôi nói phải vua nghe
theo. Khổng Tử nói: “Làm quan trung với bậc quốc trưởng ,muốn đem hết lòng giúp
nước há không đem ý kiến sáng suốt của mình mà bày tỏ với bậc quốc trưởng, há không
can gián người sao”.
Mạnh Tử đặt điều kiện có đi có lại trong mối quan hệ vua tôi. Nếu vua yêu quý bề
tôi thì bề tôi cũng yêu quý vua nếu vua coi thường bề tôi thì bề tôi cũng không tôn trọng
vua .
Theo đó, đạo làm vua trong mối quan hệ với dân, đòi hỏi nhà vua phải thật sự
thương yêu, coi trọng nhân dân, nuôi dân, dưỡng dân, giáo dục dân. Và ngược lại, đạo
của bề tôi (dân) là phải kính trọng vua như cha mẹ, nghe theo sự giáo hóa và tuân thủ mọi
mệnh lệnh của người trên. Đối với quan lại, đạo làm vua là đòi hỏi nhà vua phải lấy Lễ
mà đối đãi với quan lại, trọng dụng người hiền tài. Còn đạo làm người của bề tôi (quan
lại) là phải tận trung với vua, khi được nhà vua trọng dụng, sử dụng làm quan thì phải
làm hết trách nhiệm của mình phụng sự nhà vua, triều đại, phụng sự nhân dân. Trên tất
cả, Nho giáo yêu cầu đạo làm vua là phải luôn tu dưỡng đạo đức, trở thành tấm gương
đạo đức cho kẻ dưới noi theo, đạo của bề tôi là phải tuyệt đối trung thành, nghe theo và

bảo vệ vua.
Như vậy quan hệ vua tôi thời Khổng Mạnh thật là khăng khít, có đi có lại, có
nghĩa có tình,mối quan hệ hai chiều làm nền tảng cho các mối quan hệ khác trong xã hội.
Sau mối quan hệ vua tôi là mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Đây là mối quan hệ máu
mủ ruột thịt gần gũi nhất trong gia đình.
Về mối quan hệ cha mẹ - con cái: cha(mẹ) sinh ra con cái phải hết lòng yêu
thương nuôi dạy con cái, cha mẹ săn sóc cho con cái, cho con cái đi học để khi con cái
trưởng thành có thể giúp ích cho đời. Cha mẹ có trách nhiệm dựng vợ gả chồng cho con
cái .

20


Còn Mạnh Tử cũng dẫn trong kinh lễ dạy rằng: “Đàn ông khi làm lễ đội mũ thì cha
dạy cho; con gái khi làm lễ gả chồng thì mẹ gả cho, mẹ đưa con gái ra cửa răn con gái
rằng: “Mày đi về nhà chồng mày phải kính, phải răn, chớ trái miệng chồng”. Qua lời mẹ
dặn con gái cho thấy bổn phận của cha mẹ với con cái ngay cả đến lúc trưởng thành.
Về phía con cái, các nhà nho cho rằng con cái với cha mẹ phải giữ tròn đạo hiếu.
Khi bàn về đạo hiếu Khổng Tử mới đề cập đến con cái phải lễ phép với cha mẹ đi theo
chí hướng của cha. Mạnh Tử và Tăng Tử đã phát triển tư tưởng của Khổng Tử và bàn về
đạo hiếu đầy đủ hơn sâu sắc hơn.
Mạnh Tử nói : Đạo hiếu là suốt đời thờ cha mẹ, chỉ có phung dưỡng cha mẹ là
quan trọng nhất. Tăng Tử và một số nhà nho khác quy nội dung của hiếu về 3 điều:
- Tôn kính cha mẹ, vâng lời cha mẹ ,nghe theo lờo cha mẹ, theo chí hướng của cha
mẹ.
- Phụng dưỡng cha mẹ suốt đời .
- Khi cha mẹ qua đời phải chôn cất chu đáo, thờ cúng cha mẹ cho có lễ.
Các nhà nho còn nêu lên những điều bất hiếu. Mạnh Tử nói : Bất hiếu có năm tình
huống sau: lười biếng chẳng muốn lam điều gì, không đoái hoài đến cuộc sống của cha
mẹ. Ham thích cờ bạc không đoái hoài đến cha mẹ. Ham muốn tiền hoặc quá yêu quý vợ

con, quên chăm sóc cha mẹ. Ham thích hưởng lạc nhục dục để cha mẹ tủi nhục, hổ thẹn.
Quá ham mê võ lực đánh nhau tàn bạo chém giết người thiện lương khiến cha mẹ nguy
khốn.
Mạnh Tử nêu lên tội bất hiếu: một là cha mẹ làm điều bất nghĩa mà mình không
biết can ngăn, để cha mẹ măc phải tiếng xấu. Hai là nhà nghèo mà mình chẳng chịu ra với
đời kiếm chút lộc nuôi cha mẹ. Ba là chẳng chịu lấy vợ để đến nỗi không có con làm
tuyệt mất sự tế tự với tổ tiên.
Các nhà nho rất chú trọng giáo dục về đạo hiếu mong muốn con cái trở thành
những người con hiếu thảo trong gia đình làm tất cả những gì để đền đáp công ơn sinh
thành dưỡng dục của cha mẹ làm cho cha mẹ yên vui với tuổi già hãnh diện với bà con
hàng xóm với xã hội.

21


Tuy trong nội dung giáo dục lòng hiếu thảo còn những điều thái quá rườm rà
nhưng việc giáo dục lòng hiếu thảo của con cái với cha mẹ và mối quan hệ cha con nói
chung của Nho giáo đã khá thành công vì nó dễ đi vào lòng người dễ được xã hội chấp
nhận. Nó là mối quan hệ hai chiều có đi có lại, trách nhiệm đi liền với nghĩa vụ phù hợp
với tình người đạo lý làm người. Nó có tác dụng tích cực trong việc nâng cao trách nhiệm
cũng như nghĩa vụ trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái.
Có thể nói đây là một trong những mối quan hệ cơ bản hợp thành “ngũ luân” và
“tam cương”. Từ chỗ cho rằng, nhà là gốc của nước, Nho giáo đã đưa ra những chuẩn
mực, quy phạm đạo đức trong mối quan hệ cha - con nhằm duy trì trật tự, tôn ti trong gia
đình cũng là góp phần củng cố trật tự, kỉ cương, ổn định xã hội và ràng buộc trách nhiệm
giữa con người với con người. Trong mối quan hệ này, các nhà Nho yêu cầu “cha hiền
từ - con hiếu thảo”. Hầu hết các nhà Nho đều cho rằng, đạo của cha mẹ là phải nuôi
dưỡng con cái nên người, đạo của con cái là phải phụng dưỡng, thành kính, có hiếu với
cha mẹ. Nhìn chung, quan điểm về mối quan hệ cha - con của các nhà Nho tiên Tần là
mối quan hệ hai chiều, có đi có lại, trách nhiệm đi liền với nghĩa vụ và về cơ bản là phù

hợp với tình người, đạo lý làm người, tình phụ tử, tình phụ mẫu. Nó có tác dụng tích cực
trong việc đề cao trách nhiệm cũng như nghĩa vụ trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con
cái. Nhưng các nhà Nho từ đời Hán trở đi, quan niệm về đạo “hiếu” trong mối quan hệ
cha - con là hết sức chặt chẽ, giáo điều gắn với những nghi thức rườm rà, những đòi hỏi
vô lý buộc con người phải tuân theo một cách gò bó, hình thức và an phận trong một xã
hội phong kiến đầy áp bức, bất công.
Về mối quan hệ vợ - chồng: Theo Mạnh Tử thì vợ - chồng phải tôn trọng nhau
(Phu - phụ hữu biệt). Nhưng Nho gia lại rất đề cao vai trò vị trí của người chồng, là người
giữ vai trò chủ yếu trong gia đình, còn người vợ là thứ yếu, luôn ở địa vị phụ thuộc. Cho
nên phu xướng phụ tuỳ. Càng về sau, nhất là từ Đổng Trọng Thư (thời nhà Hán) trở đi,
mối quan hệ bất bình đẳng giữa vợ và chồng càng tăng, người vợ còn phải chịu ràng buộc
bởi: Tam tòng: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử.Tứ đức: Công, dung,
ngôn, hạnh.

22


Về mối quan hệ anh em: Đối với đạo làm người trong mối quan hệ này cả Khổng
Tử, Mạnh Tử và các nhà Nho khác đều cho rằng, anh - em trong nhà phải có thứ tự trên
dưới, có trước, có sau “trưởng ấu hữu tự”. Các nhà nho đều yêu cầu anh em trong một
nhà phải cư xử với nhau có trên có dưới trước sau hoà thuận, tôn trọng quyền anh trưởng
trong gia đình. Theo đó, anh là người được xếp ở vị trí trên nên đạo làm anh là phải có
trách nhiệm thương yêu, quan tâm lo lắng, chăm sóc cho người em. Ngược lại, em ở vị trí
dưới, thấp hơn nên đạo làm em là phải lấy “mộ nhân nghĩa mà thờ anh”, anh dạy bảo em
phải nghe lời, anh nói em nghe, anh có quyền thay thế cha điều hành mọi công viêc trong
gia đình khi cha mất còn em phải vâng lời anh, nghe theo anh chỉ bảo có như vậy gia
đình anh em mới hoà thuận vui vẻ.
Trong khi xây dựng các mối quan hệ khác trong ngũ luân các nhà nho cũng chú ý
xây dựng mối quan hệ bạn bè (bằng hữu). Mối quan hệ này lấy chữ tín làm trọng: “Bằng
hữu hữu tín”. Chữ tín làm bạn bè vượt qua khó khăn thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Chữ

tín làm cho tình bạn mãi bền vững. Khi nói về kẻ sĩ Khổng Tử nói: “Phải cư xử với người
thiết tha hết tình và giữ niềm hoà duyệt”. Tình bạn với quan niệm của nhà nho được xây
dựng không dựa trên tiền tài danh vọng, giàu sang phú quý mà là nghĩa là tình. Họ kết
bạn với nhau, động viên nhau giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn hoạn nạn.
Trong mối quan hệ thầy trò: Quan hệ giữa thầy và trò trong đạo Nho có chứa
đựng những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp. Nó yêu cầu người thầy phải là người có đạo đức,
tự giác nêu gương và là tấm sáng cho học trò noi theo. Người thầy không chỉ dạy tốt mà
còn phải là một điển hình về việc rèn luyện tu dưỡng và học tập, người thầy phải trở
thành một mẫu mực về nhân cách đạo đức, một tâm hồn cao cả, có tình thương và sự
khoan dung độ lượng đối với học trò. Người thầy phải là người học không biết chán, dạy
không biết mỏi, dạy tất cả mọi người không phân biệt giàu nghèo, cao thấp. Bên cạnh đó
nó cũng đặt ra cho người học những yêu cầu nhất định, đó là, phải ham học, khiêm tốn và
biết tôn trọng người thầy… Bởi khiêm tốn là một trong những phẩm chất đạo đức Nho
giáo và là đức tính của người học, muốn thế trong học tập người học phải luôn khiêm tốn.
Trong tư tưởng Nho giáo đã khẳng định, học để biết, mà thế nào là biết: biết thì nói là
biết, không biết thì nói là không biết như thế là người biết, học phải biết ta biết người,

23


đừng lo người khác không biết gì về mình mà luôn nghĩ mình đã biết gì về người ta. Kho
tri thức nhân loại là vô tận, tri thức của người học là cái có hạn trong cái vô tận của tri
thức nhân loại. Tôn trọng thầy người học phải kính yêu thầy, coi thầy như cha mẹ mình,
tôn trọng tri thức thầy đã tiếp thu của nhân loại để dạy mình…
Ngoài quan hệ ngũ luân các nhà nho có đề cập đến quan hệ quân dân .Qua đó cho
các bậc vua chúa thấy được tầm quan trọng và vai trò to lớn của dân .Nên vua phải biết
chăm lo đến dân ăn ở cho được lòng dân.
Những quan niệm trên có tính chất tích cực trong giai đoan đầu trong lúc xã hội
rối ren , đạo đức trật tự kỉ cương xã hội bị đảo lộn thì những quan niệm của Nho giáo về
luân thường đạo lý ..có tác dụng tích cực với xã hội. Đăc biệt từ những tư tưởng và quan

niệm trên các nhà nho đã giáo dục xây dựng lớp người kẻ sĩ đông đảo .Tuy còn có những
mặt khiếm khuyết han chế song là những mẫu người lý tưởng có đủ nhân nghĩa hiếu
trung...
Trên đây là các mối quan hệ cơ bản giữa người với người mà các nhà nho dày
công xây dựng.các mối quan hệ ấy đều liên quan ràng buộc tác động ảnh hưởng qua lại
lẫn nhau.các nhà nho giáo nhằm giáo dục con người có đức nhân, mọi người đều thấm
nhuần và làm theo những điều nhân nghĩa. Các mối quan hệ này ở thời Khổng Mạnh là
mối quan hệ đầy đặn có tính chất hai chiều, có đi có lại mang tính nhân bản sâu sắc, có
tác dụng tích cực trong viêc giáo dục và đào tạo nhân cách của con người trong xã hội.
1.2.1.2. Quan niệm của Nho giáo về chuẩn mực nhân, lễ, nghĩa, trí, tín
Nho giáo nói về năm đức chủ yếu (ngũ thường) là năm tiêu chuẩn đạo đức căn bản
nhất có ở con người. Theo Khổng Tử, muốn hợp Lễ thì người quân tử phải có nhân - Trí Dũng. Mạnh Tử bỏ Dũng và nói nhiều về Lễ nghĩa thành bốn đức: Nhân - Nghĩa - Lễ Trí. Đổng Trọng Thư thêm Tín thành năm đức : Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín.
Nhân là đạo làm người, là cách cư xử của mình với người, là yêu người, bác ái.
Theo Khổng Tử “Nhân” không chỉ là riêng một đức tính nào mà chỉ chung mọi đức tính.
Người có Nhân đồng nghĩa với người hoàn thiện nhất, nên Nhân là nghĩa của đạo làm
người. Kẻ có Nhân là người tình cảm chân thật, hết lòng vì nghĩa, cho nên có Nhân thì
bao giờ cũng hiếu đễ, lễ nghĩa, trung thực. Kẻ bất nhân thì đầy những trí thuật, rất khôn

24


khéo, linh lợi tình cảm đơn bạc không thành thực, chỉ vì lợi mà không có lễ nghĩa, dối trá,
gian ác, phản loạn, lừa gạt trên dưới. Tuy nhiên học thuyết Nhân của Khổng Tử có nội
dung giai cấp rõ ràng. Chỉ có người quân tử, tức giai cấp thống trị mới có thể có được
đức nhân, còn kẻ tiểu nhân không thể có được đức nhân. Nghĩa là đức nhân chỉ là đức
của người quân tử, của giai cấp thống trị.
Lễ: Trước hết, Lễ là phạm trù chỉ tôn ti trật tự, kỉ cương của xã hội mà mọi người,
mọi giai cấp trong xã hội phải học phải tuân theo. Theo đó, trong xã hội có vua- tôi, chacon, chồng- vợ, có người trên kẻ dưới, có việc trái việc phải cho nên phải có Lễ để phân
minh rõ ràng.
Thứ hai, Lễ là những chuẩn mực, những quy tắc, những yêu cầu có tính bắt buộc,

ràng buộc với mọi hành vi, ứng xử của con người trong các mối quan hệ xã hội cũng như
trong các hoạt động khác của con người. Tuy nhiên Lễ không phải là một tiêu chuẩn đạo
đức hoàn toàn độc lập mà là một vấn đề luôn gắn liền với Nhân. Trong mối quan hệ giữa
Nhân và Lễ thì Nhân là gốc, là nội dung còn Lễ là biểu hiện của nhân. Người thi hành Lễ
là để rèn luyện, tu tâm dưỡng tính, tạo cho con người có điều kiện thực hiện đức nhân và
có những hành vi đúng mực, tốt đẹp.
Nghĩa: Nghĩa gắn liền với Nhân, Nhân thể hiện tình cảm sâu sắc thì nghĩa là nghĩa
vụ để thực hiện tình cảm đó. Do đề cao nghĩa ngang với Nhân nên Mạnh Tử khuyên
người ta chỉ nên nói điều “nhân nghĩa” “Tôi vì Nhân nghĩa mà thờ vua, con vì Nhân
nghĩa mà thờ cha, em vì Nhân nghĩa mà thờ anh. Vua tôi, cha con, anh em đều bỏ lợi, đối
với nhau chỉ bằng lòng hâm mộ nhân nghĩa. Quốc gia như thế mà không hưng thịnh thì
chưa từng có”. Vì vậy nghĩa mục tiêu sống mà con người cần vươn tới.
Nghĩa cũng gắn liền với dũng, muốn làm việc nghĩa mà không có dũng thì không
thể thực hiện được, Khổng Tử trọng dũng gắn liền dũng với nghĩa, trong đó nghĩa chỉ đạo
dũng và dũng phải phù hợp với nghĩa.
Phạm trù Nghĩa trong đạo đức Nho giáo là sự đối nhau với Nhân. Nếu nhân thể hiện
trong các mối quan hệ với người khác thì nghĩa là sự thể hiện trong tự vấn lương tâm
mình. Lòng tự trọng là đầu mối của Nghĩa. Nghĩa có nghĩa đen là điều nên nói, việc nên
làm. Ngoài ra, Nghĩa còn là cách cư xử với mọi người theo công bằng và lẽ phải. Trong

25


×