Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Quan niệm nghệ thuật của ma văn kháng trong tập tiểu lận phút giây huyền diệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (872.08 KB, 62 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
--------------------

VŨ THỊ KIM NGÂN

QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT CỦA MA
VĂN KHÁNG TRONG TẬP TIỂU LUẬN
PHÚT GIÂY HUYỀN DIỆU

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Hà Nội - 2015


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo, ThS. Dương Thị
Thúy Hằng, người đã tận tình chỉ bảo giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu
đề tài: Quan niệm nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tập tiểu luận
“Phút giây huyền diệu”.
Tôi cũng chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong Khoa Ngữ Văn,
đặc biệt là các thầy cô trong Tổ Văn học Việt Nam đã giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập và hoàn thành khóa luận này.
Hà Nội, tháng 5 năm 2015
Sinh viên
Vũ Thị Kim Ngân


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan những nội dung tôi trình bày trong khóa luận là kết quả


quá trình nghiên cứu của bản thân tôi dưới sự hướng dẫn của ThS. Dương Thị
Thúy Hằng, kết quả nêu trong này là hoàn toàn trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kì công trình nào khác.
Trong quá trình nghiên cứu, tôi có tìm hiểu, tham khảo thành quả khoa
học của các tác giả khác với sự trân trọng và biết ơn, nhưng đề tài tôi nghiên
cứu không trùng với đề tài nghiên cứu của các tác giả khác.
Những trích dẫn tài liệu đã được sử dụng trong khóa luận là đúng sự
thật và được trích dẫn nguồn gốc từ các tài liệu, tạp chí, công trình nghiên cứu
đã được xuất bản, công bố.
Hà Nội, tháng 5 năm 2015
Sinh viên
Vũ Thị Kim Ngân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ..................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu .............................................................................. 3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................................. 3
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 3
6. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 4
7. Đóng góp của đề tài ................................................................................ 4
8. Cấu trúc khóa luận .................................................................................. 4
NỘI DUNG .................................................................................................... 5
Chương 1. GIỚI THUYẾT CHUNG............................................................... 5
1.1. Khái niệm quan niệm nghệ thuật.......................................................... 5
1.2. Nhà văn Ma Văn Kháng: Tiểu sử - Hành trình sáng tác ....................... 6
1.2.1. Tiểu sử .......................................................................................... 6
1.2.2. Hành trình sáng tác .................................................................... 10

1.3. Tập tiểu luận Phút giây huyền diệu .................................................... 15
Chương 2. NHỮNG QUAN NIỆM VỀ CÁC VẤN ĐỀ CHUNG CỦA VĂN
HỌC ............................................................................................................. 20
2.1. Bản chất của văn học ......................................................................... 20
2.2. Mối quan hệ giữa văn học và hiện thực.............................................. 24
2.3. Ngôn ngữ văn học.............................................................................. 31
2.4. Các thể loại văn học: Truyện ngắn, Tiểu thuyết ................................. 35
2.4.1. Truyện ngắn................................................................................ 35
2.4.2. Tiểu thuyết .................................................................................. 41
Chương 3. NHÀ VĂN VÀ BẠN ĐỌC TRONG QUÁ TRÌNH SÁNG TẠO 47
3.1. Nhà văn- người tạo ra tác phẩm ......................................................... 47


3.1.1. Tài năng thiên bẩm ..................................................................... 47
3.1.2. Lao động nghệ thuật ................................................................... 49
3.2. Bạn đọc.............................................................................................. 52
3.2.1. Bạn đọc phổ thông ...................................................................... 52
3.2.2. Bạn đọc - phê bình văn học ......................................................... 53
KẾT LUẬN.................................................................................................. 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1.Quan niệm nghệ thuật có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình
sáng tạo văn học. Quan niệm nghệ thuật thể hiện quan điểm, cách nhìn nhận,
lí giải hiện thực đời sống của nhà văn trong tác phẩm cũng như việc xây dựng
các yếu tố liên quan đến hình thức nghệ thuật. Một hệ thống quan niệm nghệ
thuật chắc chắn, đúng đắn và độc đáo chắc chắn sẽ có sự chi phối và định
hướng tốt đối với việc sáng tác văn học.

1.2. Ma Văn Kháng tên thật là Đinh Trọng Đoàn, sinh ngày 1 tháng 12
năm 1936 tại làng Kim Liên thuộc Kẻ Chợ, nay thuộc phường Phương Liên
quận Đống Đa Hà Nội. Bút danh Ma văn kháng bắt đầu xuất hiện trên tuần
báo Văn nghệ năm 1961, đến nay đã hơn 40 năm c ầm bút, Ma Văn Kháng đã
đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của văn học nước nhà. Đặc biệt ở thời
kì đổi mới, tài năng của ông nở rộ, ông được nhắc đến với vai trò là một
trong những nhà văn đầu tiên có công mở đường cho sự nghiệp đổi mới văn
học. Với sự lao động nghiêm túc, không ngừng tìm tòi, đổi mới trong sáng tạo
nghệ thuật, ông đã khẳng định được vị trí vững chắc của mình trên văn đàn
văn học. Sáng tác của ông được đánh giá cao ở cả thể loại tiểu thuyết, truyện
ngắn và tiểu luận bút kí. Qua từng trang viết của mình, Ma Văn Kháng không
ngừng tìm kiếm những cách thể hiện mới.
1.3.Cùng với một hệ thống tác phẩm phong phú và có giá trị nghệ thuật
tốt, Ma Văn Kháng còn là một cây bút rất chú ý tới những vấn đề lý thuyết
trong sáng tạo văn học. Những bàn luận về văn học và các vấn đề liên quan
đến văn học của Ma Văn Kháng được tập hợp trong cuốn tiểu luận “Phút giây
huyền diệu”. Cuốn sách này đã được trao giải Nhất của Hội nhà văn Việt
Nam năm 2013 cho thể loại lý luận phê bình văn học. Tìm hiểu về cuốn sách

1


này, chúng ta có thể thấy được một lòng tận tụy với nghề của Ma Văn Kháng
cũng như những “định hướng nghệ thuật” mà ông đã xác lập.
Với những lí do như vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài “Quan niệm nghệ
thuật của Ma Văn Kháng trong tập tiểu luận Phút giây huyền diệu”
2. Lịch sử vấn đề
Ma Văn Kháng là một trong số những nhà văn có đóng góp lớn trong
nền văn học hiện đại Việt Nam. Tập tiểu luận Phút giây huyền diệu ra đời cho
thấy năng lực sáng tác của nhà văn ở một thể tài mới. Tập tiểu luận Phút giây

huyền diệu ra đời đã thu hút được sự chú ý của bạn đọc và nhận xét bước đầu
của giới chuyên môn.
Cuốn sách nhận được sự quan tâm của PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện –
người viết lời bạt cho cuốn sách: “Những phút giây Huyền diệu”, nhà văn Ma
Văn Kháng đã khẳng định những nỗ lực thật sự của những người Viết văn
chân chính đã thoát ra những ràng buộc Văn chương để trở về với những lao
động mệt mỏi hơn, vất vả hơn và nghiêm túc hơn bằng những bài viết, lí luận
phê bình sắc sảo”. Hay bài viết của tác giả Hoa Quỳnh đăng trên báo Thể
thao- Văn hóa: Nhà văn Ma Văn Kháng b ật mí về “Phút giây huyền diệu”, và
một số bài tìm hiểu khác,...
Trên cơ sở những hiểu biết đã có, cùng với việc tìm hiểu những bài
nghiên cứu của các tác giả đi trước, chúng tôi nhận thấy còn một khoảng
trống nhỏ về phần quan niệm nghệ thuật của nhà văn trong cuốn sách này.
Chính vì vậy mà chúng tôi chọn đề tài Quan niệm nghệ thuật của nhà văn Ma
Văn Kháng trong tập tiểu luận Phút giây huyền diệu để phần nào làm sáng tỏ
thêm về quan niệm nghệ thuật của nhà văn Ma Văn Kháng trong quá trình
sáng tác văn học của ông.

2


3. Mục đích nghiên cứu
Nhà văn Ma Văn Kháng, người được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh,
ông đã viết Phút giây huyền diệu bằng trải nghiệm sống và kinh nghiệm sáng
tác của mình.
18 bài viết là 18 dư vị mà đời sóng văn chương đã mang lại cho Ma
Văn Kháng những ấn tượng nhất. Ông dựng lên một đời sống nội tâm sâu sắc,
đa chiều, nhân văn và nhiều ám ảnh, từ đó khám phá ra triết lý sống và sáng
tạo. Khóa luận nhằm hướng đến phần nào giúp hé lộ lối đi bí ẩn và diệu kỳ
của sự sáng tạo, để hòa quyện một cách tài tình và đầy thuyết phục về mối

quan hệ giữa đời sống và nghệ thuật, khẳng định sự kỳ diệu của sáng tạo chỉ
có thể sinh ra từ sự diệu kỳ của đời sống. Qua đó giúp gợi mở thêm những
cách tiếp cận khác nhau một văn bản nghệ thuật và sự sinh ra của nghệ thuật
từ đời sống, cũng như gợi mở cách xử lý chất liệu đời sống khi sáng tạo và
thăng hoa trong lối đi riêng biệt của mỗi nhà văn.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phút giây huyền diệu là cuốn sách tập hợp những bài báo, những tiểu
luận, phê bình và bút kí của nhà văn Ma Văn Kháng đã từng đăng trên các
diễn đàn văn nghệ. Cuốn sách là cái nhìn sâu sắc và toàn cảnh về nghề viết
văn cũng như công việc viết văn của chính nhà văn. Khóa luận hướng tới việc
nghiên cứu những quan niệm nghệ thuật của nhà văn Ma Văn Kháng về các
vấn đề chung của văn học như: Bản chất của văn học, Mối quan hệ giữa văn
học-hiện thực, Ngôn ngữ văn học, Các thể loại văn học: Truyện ngắn, tiểu thuyết
và Quan niệm của nhà văn về Nhà văn và Bạn đọc trong qúa trình sáng tạo
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Khóa luận hướng đến đối tượng chính là những quan niệm nghệ thuật
của nhà văn Ma Văn Kháng thể hiện trong cuốn tiểu luận bút kí về nghề văn

3


Phút giây huyền diệu. Nhà văn Ma Văn Kháng đã khẳng định những nỗ lực
thật sự của những người lao động Viết văn chân chính đã thoát ra khỏi những
ràng buộc Văn chương để trở về với những lao động mệt mỏi hơn, vất vả hơn
và nghiêm túc hơn bằng những bài viết, những nghiên cứu, lí luận phê bình
sắc sảo. Khóa luận tập trung vào cuốn tiểu luận bút kí Phút giây huyền diệu
và một số tài liệu có liên quan
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài trong quá trình nghiên cứu tôi đã sử dụng các
phương pháp sau:

- Phương pháp thống kê phân loại
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp so sánh đối chiếu
- Phương pháp khái quát tổng hợp
7. Đóng góp của đề tài
Khóa luận góp phần làm rõ quan niệm nghệ thuật của Ma Văn Kháng
trong tập tiểu luận Phút giây huyền diệu từ đó khẳng định vai trò của ông
trong nền văn học Việt Nam.
8. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và danh mục Tài liệu tham khảo, phần
Nội dung của khóa luận gồm có ba chương:
Chương 1: Giới thuyết chung
Chương 2: Những quan niệm về các vấn đề chung của văn học
Chương 3: Nhà văn và bạn đọc trong quá trình sáng tạo

4


NỘI DUNG
Chƣơng 1
GIỚI THUYẾT CHUNG
1.1. Khái niệm quan niệm nghệ thuật
Quan niệm nghệ thuật là nguyên tắc cắt nghĩa thế giới và con người
vốn có của hình thức nghệ thuật, đảm bảo cho nó khả năng thể hiện đời sống
với một chiều sâu nào đó. Đó là sự miêu tả hữu hạn của thế giới vô hạn là
cuộc đời, hình tượng văn học phải được mở đầu và kết thúc ở đâu đó, con
người và cảnh vật phải được nhìn từ giác độ nào đó. Để tái hiện cuộc sống và
con người, tác giả phải hiểu cách họ giao tiếp với nhau, với thế giới và với
bản thân, cách họ sống, hành động và suy nghĩ, điều họ quan tâm và cái mô
hình nghệ thuật về thế giới và con người bao quát mà tác giả xuất phát để

khắc họa hình tượng của những con người và số phận cụ thể, tổ chức quan hệ
của các nhân vật, giải quyết xung đột, xây dựng kết cấu tác phẩm. Quan niệm
nghệ thuật thể hiện cái giới hạn tối đa trong cách hiểu thế giới và con người
của một hệ thống nghệ thuật, thể hiện khả năng, phạm vi, mức độ chiếm lĩnh
đời sống của nó.
Quan niệm nghệ thuật về thế giới và con người thể hiện ở điểm nhìn
nghệ thuật, ở chủ đề cảm nhận đời sống được hiểu như những hằng số tâm lí
của chủ thể, ở kiểu nhân vật, biến cố và quan hệ nhân vật. Khác với tư tưởng,
tác phẩm văn học tập trung thể hiện một thái độ đối với cuộc sống trong bình
diện quan hệ giữa hiện thực với lí tưởng, khẳng định cuộc sống nào, phê phán
cuộc sống nào; quan niệm nghệ thuật chỉ cung cấp một mô hình nghệ thuật về
thế giới có tính chất công cụ để thể hiện những cuộc sống cần phải có mang
tính khuynh hướng khác nhau. Chẳng hạn tình yêu nam nữ cao đẹp thời nào
cũng đều đáng yêu, và được khẳng định nhưng tình yêu trong văn học dân

5


gian, trong truyện hiệp sĩ trung đại, trong tiểu thuyết lãng mạn,trong tiểu
thuyết hiện thực, trong văn học cách mạng,…được thể hiện khác nhau rất
nhiều. Với tính chất công cụ đó, quan niệm nghệ thuật về thế giới và con
người chẳng những cung cấp một điểm xuất phát để tìm hiểu nội dung của tác
phẩm văn học cụ thể, mà còn cung cấp một cơ sở để nghiên cứu sự phát triển,
tiến hóa của văn học. Bởi lẽ điều chủ yếu trong sự tiến hóa của nghệ thuật và
của xã hội nói chung là đổi mới cách tiếp cận và chiếm lĩnh thế giới và con
người. Và do đổi mới quan niệm mà thế giới cũng được chiếm lĩnh sâu hơn,
rộng hơn với những phạm vi, giới hạn, chất lượng mới.
Quan niệm nghệ thuật của văn học có liên hệ mật thiết với quan niệm
về thế giới và con người về mặt triết học, khoa học, tôn giáo, đạo đức, chính
trị, vốn có của thời đại mình. Nhưng do đặc thù của mình mà quan niệm nghệ

thuật có những thể hiện và bộc lộ riêng. Ví dụ: văn học trung đại cho thấy nó
chưa có quan niệm đầy đủ về “người khác”, và do vậy cũng chưa có quan
niệm về những biểu hiện khác của “người khác”. Mặt khác sáng tác của nhà
văn lớn cũng đổi mới quan niệm vể con người. ví dụ như sáng tác của Hồ
Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Du,…có thể nói đã có một quan niệm
về con người tự nhiên xuất hiện góp phần đổi mới văn học.
Quan niệm nghệ thuật có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình
sáng tạo văn học. Quan niệm nghệ thuật thể hiện quan điểm, cách nhìn nhận,
lí giải hiện thực đời sống của nhà văn trong tác phẩm cũng như việc xây dựng
các yếu tố liên quan đến hình thức nghệ thuật. Một hệ thống các quan niệm
nghệ thuật chắc chắn, đúng đắn và độc đáo chắc chắn sẽ có sự chi phối định
hướng tốt đối với việc sáng tác văn học
1.2. Nhà văn Ma Văn Kháng : Tiểu sử - Hành trình sáng tác
1.2.1. Tiểu sử
Nhà văn Ma Văn Kháng (sinh ngày 1 tháng 12 năm1936 tại Hà Nội),
tên thật là Đinh Trọng Đoàn, quê gốc phường Kim Liên, quận Đống Đa,

6


thành phố Hà Nội. Từ tháng 01/1955 đến tháng 3/1967 (không kể thời gian từ
giữa tháng 9/1961 đến tháng 6/1963, ông đi học đại học tập trung tại Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội). Ma Văn Kháng đã trải qua các cương vị trong
ngành giáo dục: giáo viên dạy các môn khoa học xã hội ở cấp I, II; Hiệu
trưởng trường cấp II, cấp III thị xã Lào Cai; rồi Trưởng phòng chuyên môn
Ty Giáo dục Lào Cai.
Trong tác phẩm hồi ký - tự truyện Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng
nhớ thương xuất bản quý III năm 2009, Ma Văn Kháng cho biết: Trong chặng
đường 21 năm đầu của đời công chức nhà nước tại Lào Cai (từ 1955 đến
1976) thì hơn một nửa thời gian ông hoạt động trong ngành giáo dục. Không

thể khác được, vì trước đó, từ 1952 đến 1954 ông là giáo sinh Trường Sư
phạm Trung cấp tại Khu học xá Nam Ninh, Quảng Tây (Trung Quốc), được
đào tạo bài bản để sau khi tốt nghiệp làm giáo viên tiểu học về các môn thuộc
khoa học xã hội và nhân văn [7].
Như vậy, sinh ra và lớn lên ở Hà Nội nhưng Ma Văn Kháng có một
thời gian khá dài sống ở miền núi Tây Bắc. Số phận - tình cờ cũng có, chủ
tâm cũng có - đã đưa ông đến vùng Lào Cai, miền đất vàng, như ông quan
niệm nhuốm màu tâm linh, huyền diệu - mà ở đó ông lập thân, lập nghiệp,
thành danh với bút hiệu Ma Văn Kháng. Suốt hai mươi năm gắn bó với mảnh
đất Tây Bắc, Ma Văn Kháng am hiểu lối sống, phong tục của đồng bào các
dân tộc thiểu số. Tình yêu, sự gắn bó ấy đã thôi thúc ông viết văn, viết báo.
Những trang viết đầu tay của ông toát lên cái nhanh nhạy của một cây bút trẻ,
hăm hở vào nghề, tự tin, mạnh mẽ và thiết tha. Cứ thế ông cần cù, bền bỉ, chắt
chiu từng giọt tinh túy của cuộc sống rồi bày lên tác phẩm. Ông viết, xuất
hiện đều đặn trên các mặt báo và nhanh chóng
Đối với Ma Văn Kháng, viết văn trước tiên là câu chuyện về số phận
con người, sự đấu tranh của mỗi người để hướng tới cái đẹp, cái thiện. Thấp
thoáng trong các trang sách, người đọc có thể nhìn ra nỗi buồn, nỗi đau đời

7


của riêng ông, nhưng trên tất cả đó là những ưu tư của ông trước nhân tình thế
thái. Ông thực sự muốn dùng sức mạnh ngòi bút của mình để mang tới những
giá trị nhân văn cho con người, vì con người ở nghĩa rộng lớn nhất.
Giờ đây, khi đã ở cái tuổi xưa nay hiếm Ma Văn Kháng vẫn dành sự
tận tâm, lòng say mê nghệ thuật và đau đáu với nghiệp viết, ông đã và đang
tiếp tục có những đóng góp đáng kể cho nền văn học Việt Nam [12]. Ông
được đánh giá là một nhà văn lớn có những đóng góp đáng kể vào nền văn
xuôi Việt Nam.

Truyện ngắn đầu tay Phố cụt của ông trình làng bút danh Ma Văn
Kháng được đăng trên báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, 3/3/1961.
Nhưng ta phải ngược lên những năm trước đó để đi tìm cội nguồn văn chương
nơi ông, khi ông vẫn còn mang tên Đinh Trọng Đoàn. Với ông, không chỉ đợi
đến khi làm thầy đứng lớp với bảng đen phấn trắng cùng các dụng cụ học tập
hoặc làm nhà quản lý (dù ở cấp thấp) sự nghiệp giáo dục ở một tỉnh lẻ có
nhiều bà con là người dân tộc thiểu số, ông mới khơi nguồn, phát lộ tiềm năng
văn chương. Mà khi còn ở tuổi học trò niên thiếu (mài đũng quần học các
môn kiến thức văn hóa sơ đẳng của các cấp học phổ thông), rồi trung cấp, đại
học và sau này vào tuổi tráng niên học nghề cầm bút ở Trường Bồi dưỡng
những người viết văn trẻ (Quảng Bá, Hà Nội) thì ông cũng không bao giờ
quên công lao dạy dỗ của các bậc thầy dạy văn trực tiếp mà ông hân hạnh
được truyền dạy. Họ đã mở cánh cửa giúp ông và các đồng môn được tiếp xúc
với các tác phẩm văn học ưu tú thuộc hàng kinh điển của kho tàng văn học thế
giới, văn học dân tộc Việt Nam. Họ đã vun xới và thắp lên ngọn lửa của tình
yêu và niềm khao khát cống hiến toàn bộ tâm hồn và sức lực của mình cho
văn chương trong con người ông [14].
Hồi tưởng những ngày cuối năm 1954 đầu năm 1955 khi đi tới quyết
định không gì lay chuyển nổi là tình nguyện lên Tây Bắc dạy học sau ngày tốt
nghiệp Trường Trung cấp Sư phạm, ông viết: Dạo đó “tôi đã đọc và rất

8


mê Truyện Tây Bắc của Tô Hoài (…) và “đã có một thôi thúc vừa da diết vừa
mơ hồ trong tôi, nó cho tôi cái cảm giác rằng ở nơi đó tôi sẽ sốn g thoải mái
và làm được một điều gì có ích” (Hồi ký, tr. 44-45). Ông khẳng định, không
chút đắn đo: “Đối với tôi, trong sự hình thành những cơ sở đầu tiên của một
nhà văn, tất cả đều là nhờ thầy cô”. “Và nếu hôm nay tôi có được bạn đọc
công nhận là nhà văn thì công lao tạo nên tôi, trước hết là thuộc về nhà

trường, nơi trau dồi lý tưởng sáng đẹp, nơi dạy tôi tình yêu đối với tiếng Việt,
nơi cho tôi thấy cái đẹp kỳ lạ, cái sức mạnh vô hình, lớn lao của ngôn ngữ
ông cha, trong đó, ở bậc tiểu học là sự manh nha và cảm tính; sâu sắc, ấn
tượng mạnh mẽ hơn ở bậc trung học và hoàn thiện trọn vẹn, kể cả từ một tình
yêu bền vững tới tri thức và kỹ năng sử dụng tiếng Việt cùng cách thức tạo
lập nên các giá trị văn học, ở bậc Đại học”.
Ông cũng là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1974. Ông là một
nhà văn có suy nghĩ độc lập, dũng cảm bộc lộ tư tưởng tiến bộ coi trọng học
thức muốn cải cách giáo dục nước nhà, đòi hỏi sự công bằng trong xã hội.
Ông phần nào lột tả được trong tác phẩm của mình một xã hội lạc lối và mất
công bình tồn tại gần nửa thế kỷ XX.
Từ năm 1976 đến nay ông công tác tại Hà Nội, đã từng là Tổng biên
tập, Phó Giám đốc Nhà xuất bản Lao động. Từ tháng 3 năm 1995 ông là Tổng
biên tập tạp chí Văn học nước ngoài của Hội Nhà văn Việt Nam. Ông đã được
nhận giải thưởng loại B của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1986 cho quyển tiểu
thuyết Mùa lá rụng trong vườn, tặng thưởng của Hội đồng văn xuôi Hội Nhà
văn Việt Nam 1995 cho tập truyện ngắn Trăng soi sân nhỏ.
Ma Văn Kháng, có thể nói, đã là một gạch nối, tiếp sau Nguyễn Công
Hoan, Nguyên Hồng, Nam Cao, ông là nhà giáo - nhà văn của thế hệ mới, để
lại một mảng tác phẩm gây ấn tượng sâu sắc, có sức hấp dẫn lâu bền đối với
người đọc - từ những hình tượng nhân vật giầu sức biểu hiện và khái quát cao

9


về ngành giáo dục qua những thăng trầm của lịch sử dân tộc, vẫn rạng rỡ
những nét đẹp trong nhân cách kẻ sĩ nơi Người Thầy khả kính! [22]
1.2.2. Hành trình sáng tác
Như ở trên có nói, sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, Ma Văn
Kháng xung phong lên vùng Tây Bắc, khai hoang mở trí. Có thể nói đây là

bước ngoặt rất quan trọng trong cuộc đời ông. Ông từng chia sẻ rằng: “ Tôi ra
đi theo biến cố của mốc lịch sử hào hùng năm 1954, mở đầu thời kì hòa bình
lặp lại, thế hệ thanh niên miền bắc theo tiếng gọi của những Đanco,
PavenCooxanghin mang sứ mệnh cao đẹp đi đến những vùng khó khăn nhất
của đất nước. Sống nhiệt thành, lửa dân tộc bùng lên, đi như viên đạn thắng
đầu, ấy là tam thế của cả một thế hệ…”
Năm 1960, Ma Văn Kháng - Đinh Trọng Đoàn được cử về học tại
trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội. Lúc đó ông đang là hiệu trưởng trường cấp
hai Lào Cai, vốn viết lách lúc ấy cũng đang phát triển. Về Hà Nội ông được
gặp gỡ nhiều thầy cô, bạn bè, tiếp xúc với nhiều tri thức và ông đã không
ngừng học hỏi, trau dồi kinh nghiệm. Kết thúc khóa học, ông trở về Lào Cai
tiếp tục công tác với cương vị phó tổng biên tập báo Đảng Bộ Lào Cai. Sau đó
là làm thư kí cho ban Bí thư tỉnh ủy Lào Cai. Đến năm 1974, ông trở thành
hội viên của Hội Nhà Văn Việt Nam, đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Trong một lần đi công tác ở vùng nông thôn, ông quen với Ma Văn Nho, và
hai người trở nên thân thiết, ông kể lại rằng: “Có những lần tôi bị ốm nặng,
anh Nho tiêm thuốc, trèo đèo, lội suối cõng tôi đi. Rồi chúng tôi kết nghĩa anh
em và tôi lấy họ Ma của anh ghép với tên mình thành Ma Văn Kháng”. Với
thời gian gắn bó với mảnh đất Lào Cai khá dài, Ma Văn Kháng đã cảm nhận
thêm một cách khá tinh tế cuộc sống của người dân nơi đây. Dần dần nhà văn
càng khám phá ra những vẻ đẹp riêng độc đáo của con người và thiên nhiên
vùng sơn cước này. Những vẻ đẹp hồn nhiên, thơ mộng dường như lúc nào
cũng hiện lên một cách lung linh trước mắt ông, khiến cho ông không thể

10


không cầm bút. Và những trang văn đầu tiên về mảnh đất mà ông xem như là
quê hương thứ hai của mình đã ra đời và đến tay độc giả. Sự thành công của
ông là quá trình lao động cần cù, chịu khó trong cuộc sống cũng như trong lao

động nghệ thuật. Ông luôn để bản thân mình trong tư thế vận động, vật lộn
với cuộc sống để cắt nghĩa hiện tượng và tìm ra chân lí. Những gì ông từng
trải, từng thấy, từng cảm nhận lúc đi vào trang văn cũng sôi động như chính
cuộc sống của nó vậy. Năm 1976 sau khi nước nhà thống nhất, Ma Văn
Kháng rời mảnh đất Lào Cai thân yêu để trở về Hà Nội và hoạt động như một
nhà văn chuyên nghiệp. Từ đây sáng tác của ông nở rộ, những gì ông nung
nấu, ấp ủ bấy lâu nay được dịp trải dài trên những trang văn, các tác phẩm ra
đời một cách nhanh chóng và đều đặn như một tất yếu của cuộc sống. Tuy
nhiên những năm đầu sau khi về Hà Nội, đề tài mà ông phản ánh trong tác
phẩm của mình vẫn về miền núi. Có thể nói đây là giai đoạn chiêm nghiệm, là
sự hồi tỉnh của tiềm thức, nó thôi thúc nhà văn phải viết và viết bằng tất cả sự
trải nghiệm về cuộc đời [9].
Viết nhiều và viết khỏe, được sự đón nhận của bạn đọc ở cả 2 thể loại
là tiểu thuyết và truyện ngắn, từ khi bước vào nghề văn đến nay, Ma Văn
Kháng đã có gần năm mươi năm cầm bút. Cùng với thời gian, các sáng tác
của ông đã ra đời và để lại dấu ấn sâu đậm trong tâm trí bạn đọc. Có thể
khẳng định rằng hành trình sáng tác của Ma Văn Kháng được đánh dấu từ
truyện ngắn Phố cụt in trên Báo Văn nghệ 1961. Tuy nhiên truyện ngắn có
tính chất ghi dấu ấn sâu sắc đối với Ma Văn Kháng, theo đó, đã ảnh hưởng
trực tiếp tới quyết định đi theo văn nghiệp của ông sau này lại là Xa phủ
(1969) và liền ngay sau đó ông tiếp tục cho ra đời 4 tập truyện ngắn: Mùa
mận hậu (1972); Người con trai họ Hạng (1972); Bài ca trăng sáng (1972);
Cái móng ngựa (1974).
Một năm sau khi đất nước thống nhất, năm 1976, Ma Văn Kháng về Hà
Nội. Về Hà Nội, ông đã phải đối mặt với bao nỗi nhọc nhằn mưu sinh, thế sự

11


dường như là quá sức đối với con người. Nhưng chính những giai đoạn đan

kết bao khó khăn khắc nghiệt và đáng nhớ nhất này cộng với khoảng thời gian
trên 20 năm sống tại Lao Cai đã thôi thúc mạnh mẽ ngòi bút ông ghi lại: đó là
những câu chuyện thấm đẫm chất đời, tình người và dư vang của một thời kỳ
lịch sử xã hội còn chưa thoát ra khỏi những nỗi đau, sự nhọc nhằn. Hàng loạt
tác phẩm đã ra đời trong giai đoạn này như: Ngày đẹp trời (truyện ngắn
1986), Vệ sỹ của Quan Châu (truyện ngắn 1988), Trái chín mùa thu (truyện
ngắn 1988), Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989), Chó Bi, Đời lưu lạc
(tiểu thuyết 1992), Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992), Trăng soi sân nhỏ
(truyện ngắn 1994), Ngoại thành (truyện ngắn 1996), Truyện ngắn Ma Văn
Kháng (tuyển tập 1996)… Mỗi con chữ như mặn xót mồ hôi, nước mắt, chắt
ra qua nghiền ngẫm và trải nghiệm từ chính dòng đời, mạch sống của nhà văn
và được chuyển vào tác phẩm. Sự nghiệp văn chương của ông được đánh dấu
bằng truyện ngắn đầu tay Phố cụt( 1961) và tiểu thuyết đầu tay được in năm
1976, nhưng ông bộc bạch rằng: “ Tự coi là qua được kì tập dượt là từ những
năm 80” [5].
Bởi vậy mà sau những năm 80, nhiều tác phẩm có giá trị lần lượt ra đời
và Ma Văn Kháng đã d ần khẳng định được vị trí của mình trên văn đàn và
trong lòng bạn đọc. Tiểu thuyết là một thể tài văn xuôi mà Ma Văn Kháng đ ặc
biệt lưu tâm tích lũy, được đánh dấu với đứa con tinh thần đầu lòng là Gió
Rừng. Nhìn một cách bao quát, sự nghiệp sáng tác của Ma Văn Kháng có thể
chia làm hai giai đoạn đó là trước và sau những năm đầu của thập niên 80.
Tuy nhiên mọi sự phân chia ở đây chỉ có tính tương đối. Và ở mỗi giai đoạn
ông đều có những đóng góp nhất định cho văn học nước nhà và để lại dấu ấn
khó phai.
Trong giai đoạn đầu tiểu thuyết của Ma Văn Kháng tập trung viết về đề
tài miền núi. Nhìn chung, ở giai đoạn này, tiểu thuyết của ông còn mang
khuynh hướng sử thi rất rõ, nhưng ông đã có đóng góp thực sự cho mảng văn

12



học viết về miền núi. Giai đoạn sau, có thể xem Mưa Mùa Hạ (1982) như một
dấu mốc đánh dấu bước chuyển mình trong đời văn của ông. Lúc này tiểu
thuyết của ông đã có sự thay đổi rõ rệt về đề tài, tư duy nghệ thuật, đó là
những tiểu thuyết hướng về đời sống của người dân thành thị lúc bấy giờ với
những mặt tích cực và tiêu cực của nó
Qua những chặng đường sáng tác, chúng ta có thể thấy rõ rệt sự vận
động của tiểu thuyết Ma Văn Kháng về quan niệm, cảm hứng, bút pháp. Viết
về đời sống người dân tộc vùng cao trong suối nguồn cảm hứng sử thi còn
kéo sau chiến tranh, ngòi bút tiểu thuyết Ma Văn Kháng đã đạt được nhiều
thành tựu trên nhiều phương diện. Do chịu ảnh hưởng của khuynh hướng văn
học sử thi nên phần lớn các nhân vật trong tiểu thuyết cảu ông được soi chiếu
từ góc nhìn chính trị - xã hội. Cũng có những dấu hiệu của sự thay đổi quan
niệm nghệ thuật về con người, đó là việc tác giả đem tình yêu gắn với cảm
xúc nhục thể vào trang viết, song chứng kiến sự đổi thay thực sự trong tư duy
nghệ thuật của ông thì phải đợi đến chặng thứ hai trong quá trình sáng tác c ủa
ông [17].
Những tập truyện ngắn và tiểu thuyết nổi tiếng của ông: Trăng soi sân
nhỏ(1995), Mùa lá rụng trong vườn (1985), Đám cưới không có giấy giá
thú(1989), Côi cút giữa cảnh đời (1989), Gặp gỡ La Pan Tẩn (2001)… Ma
Văn Kháng có thể nói đã là một gạch nối, tiếp sau Nguyên Hồng, Nam Cao,
Nguyễn Công Hoan… ông là một nhà giáo – nhà văn của thế hệ mới, để lại
mảng tác phẩm gây ấn tượng sâu sắc, có sức hấp dẫn đối với bạn đọc.
Ma Văn Kháng có một sự nghiệp văn chương đồ sộ cả về số lượng tác
phẩm và thành tựu: 17 tiểu thuyết, 200 tập truyện ngắn và 1 hồi ký, tính ra
ông đã viết hàng vạn trang văn trong đời mình. Ma Văn Kháng thực sự “sống
đã rồi hãy viết” – như tâm nguyện của mình. Ông vừa viết tác phẩm, vừa viết
lí luận văn học. Có lẽ vì là người “đi sau về muộn” nên nhà văn Ma Văn
Kháng là một trong số người có tốc độ viết nhiều nhất trong số những nhà văn


13


thế hệ ông. Dường như ít thấy ông ở những cuộc trà dư tửu hậu, những cuộc
xôm tụ bạn bè, mà chỉ thấy ông tranh thủ từng giây khắc của cuộc đời để cần
mẫn gieo trồng trên cánh đồng chữ nghĩa. Nói về điều này, nhà văn Ma Văn
Kháng khiêm tốn tự nhận mình là người cần cù, chịu khó và vẫn giữ được
ngọn lửa men say trong cảm xúc. Bởi vì, văn chương là thứ mà ông đã sống
với nó, chết với nó nên ngày nào còn sức khỏe, là ông còn đọc, còn viết. Rồi
ông bảo,thực sự thì văn chương cũng mang lại cho ông nhiều thứ. Từ ngày
khốn khó sống bằng nhuận bút, đến xây nhà dựng cửa cũng có phần của
nhuận bút, đến tự cứu mình bằng việc mổ tim đặt stant động mạch vành cũng
là tiền nhuận bút bao năm tích cóp.
200 truyện ngắn, 17 cuốn tiểu thuyết, trong cả một đời làm nghề. Nhà
văn Ma Văn Kháng chia sẻ: “Có hai việc cần thiết vào cuối đời thì tôi đã nỗ
lực để làm trong những năm qua, vì con cái tôi không ai quan tâm đến gia tài
văn chương của bố, nên nếu mình không làm thì không ai làm cho mình cả,
bởi thế tôi hệ thống hóa những điều đã viết, gom góp để hoàn thành nốt
những tư liệu dở dang, tổng kê lại những cuốn sách đã xuất bản, những bài
báo người ta đã viết về mình. Điều thứ hai là tôi soạn xong di chúc, tài sản
chẳng có gì nhiều nhưng không ít những người ra đi đã quên mất việc làm có
ý nghĩa này với thế hệ mai sau. Không ít bạn bè văn chương của tôi, sau khi
biết tôi làm di chúc đã… mượn để tham khảo. Nói thì vui vậy, nhưng thực sự
phải hoàn toàn thanh thản chuẩn bị cho mình mọi tâm thế an lành nhất, để có
thể yên tâm một điều rằng, sinh ra trên cõi đời này, mình đã tận tâm tận lực
đến cùng để có thể có một cuộc sống tròn vẹn…” [13]
Các tác phẩm :
- Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979)
- Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983)
- Trăng non (tiểu thuyết 1984)

- Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982)

14


- Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985)
- Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989)
- Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989)
- Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992)
- Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986)
- Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988)
- Giấy trắng (tiểu thuyết)
- Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988)
- Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992)
- Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994)
- Ngoại thành (truyện ngắn 1996)
- Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996)
1.3. Tập tiểu luận Phút giây huyền diệu
Theo như ông đã tự xác định thì Phút giây huyền diệu là tập tiểu luận
bút kí về nghề văn. Tập sách là một sự bổ sung cần thiết, một ghi chú bên lề
những trang sáng tác của ông góp phần đáp ứng sự chờ đợi của đông đảo bạn
đọc. Trong tập tiểu luận bút kí riêng về nghề văn này, cái tôi của nhà văn
chuyên nghiệp Ma Văn Kháng lại hiện ra với những lời bình giải, đúc kết
khiêm cung mà thâm trầm, bằng tất cả sự thấm thía của sự kinh lịch và từng
trải, đối với công việc nhọc nhằn khổ ải sáng tạo văn chương. Ông cũng thiết
tha bày tỏ niềm đam mê và sức mạnh siêu thường nơi văn nghệ sĩ chân chính;
lòng tin về một xã hội lành mạnh vói những bạn nghề thân thiết, chia sẻ mọi
nỗi vui buồn, với các lớp công chúng tiếp nhận và giới phê bình chuyên
nghiệp được xem như những người bạn đồng hành, tri âm, tri kỉ.
Cuốn sách là một dụng công nghệ thuật với 2 phần nội dung có liên

quan chặt chẽ với nhau: Phần đầu gồm 12 tiểu luận. trong phần này nhà văn
chú mục đề cập đến những khía cạnh căn cốt, then chốt có tính nguyên lí về
bản chất sáng tạo, thẩm mĩ và ý nghĩa xã hội, nhân sinh của văn chương nghệ

15


thuật đích thực. Bằng tư duy lí luận minh triết, sự cảm thụ tinh tế, lão thực,
với cách diễn đạt sinh động, hóm hỉnh, điểm xuyết những câu chuyện kể và ví
dụ có thực trong đội ngũ nhà văn và đời sống văn chương nước nhà, Ma Văn
Kháng cứ từng trang, từng trang nhỏ nhẹ tâm tình những thu hoạch gan ruột,
kết tinh của đời văn và số phận các tác phẩm của ông từ lúc thai nghén sinh
thành, ra đời, rồi đến được với công chúng.
Theo ông, nhà văn c ần luôn luôn nuôi dưỡng khát vọng thức nhận cái
Đẹp tồn tại trong thiên nhiên và đời sống xã hội, sự chăm lo hoàn thiện nhân
cách của người đương thòi để rồi tìm cách diễn đạt chân xác quá trình con
người nỗ lực vươn tới một cách sống tốt hơn, chứ không phải chỉ nhăm nhăm
làm sao cho sống sướng hơn một cách tự kỉ. Khát vọng đó cần luôn thường
trực, không bao giờ vơi cạn, suy giảm; nó chính là ngọn lửa từ trái tim chan
chứa tình đời, tình người của nhà văn, đủ nhiệt năng thắp sáng truyền đi và
lan tỏa tới hàn triệu trái tim và khối óc của người đọc muôn nơi. Ngoài ra nhà
văn còn cho rằng tài năng vô song của người viết văn xuôi cũng như nhà văn
nói chung trước hết là ở chỗ anh ta biết cách sống hòa mình nhập cuộc với đời
sóng ở tất cả các cung bậc cảm xúc. Nhà văn phải “sống rồi mới viết”, nhà
văn là người giàu có, triệu phú về chữ nghĩa, anh ta phải tìm cách thổi hồn
vào các con chữ. Với ông tác phẩm của nhà văn phải đặt ra hoặc gợi mở
những vấn đề có ý nghĩa xã hội, nhân sinh sâu sắc, mới mẻ, không phải lúc
nào cũng thuận chiều mà có khi chứa đựng các nghịch lí, bất ngờ.
Trong các tiểu luận của mình, Ma Văn Kháng nhiều lần nhấn mạnh về
lao động công phu, cần mẫn của nhà văn trong cả tư duy và cách viết, để tác

phẩm là một sự sáng tạo mới, hoàn chỉnh và tận thiện, tận mĩ, vừa về tư tưởng
thẩm mĩ, vừa trong nghệ thuật biểu hiện. Nếu chỉ ỷ vào năng khiếu thiên bẩm
mà không chịu bồi dưỡng, chăm sóc cho cái mầm tài năng đó phát triển, nảy
nở, thăng hoa thì cái vốn quý ban đầu kia chẳng nhanh chóng mà cạn kiệt và
lụi tàn, khô héo. Nhà văn – người sáng tạo ra cái mới, cái chưa có trước đó có

16


thể so sánh với tạo hóa, hóa công, ông trời. Nhà văn phải biết sử dụng ngôn
ngữ tài tình, kiến tạo những kết cấu nghệ thuật hài hòa, đẹp đẽ- như cách nói
ngày nay là để tác phẩm trở thành một diễn ngôn nghệ thuật mới mẻ, độc đáo.
Đồng thời nhà văn cũng đề cao vai trò của phê bình , của công chúng văn học.
Theo ông thì tác phẩm khởi thủy tồn tại trong dạng vẻ một văn bản chữ nghĩa,
một thông điệp thẩm mĩ, tiềm ẩn những nội dung biểu đạt sâu sắc, mời gọi
nhà phê bình, người đọc tiếp cận và thấu hiểu. Nhà phê bình và người đọc
như là bạn tâm giao, tri âm, tri kỉ của nhà văn, chứ không phải kẻ ăn theo sáng
tác. Phê bình không thể là cái roi tự phụ, áp đặt dạy khôn người khác, mà cần
phải là trí tuệ hiền minh với tâm thế rộng mở, sẵn sàng đối thoại bình đẳng,
dân chủ, khách quan từ nội dung văn bản tác phẩm, những tìm tòi, thể hiện nghệ
thuật khổ công của nhà văn. Nhà phê bình cần nhận ra văn chương là lĩnh vực
của sự sáng tạo thiên liêng, chứa đựng những điều hết sức bí ẩn kì diệu.
Đọc những trang tiểu luận của Ma Vă Kháng chúng ta như b ị hút vào
những lí lẽ logic và sự triển khai lập luận mềm mại, dẫn chứng đắt giá của
ông, không thể không đồng tình với ông. Nhà văn dần dà chinh phục chúng ta
tự lúc nào mà không hay và ta thì hân hoan được chia sẻ những ý tưởng được
ông biện giải rành rọt và thấu đáo
Phần thứ 2, đây cũng là phần đặc sắc nữa của cuốn sách, bao gồm 6 bút
kí, ghi lại những suy nghĩ, trăn trở của Ma Văn Kháng xung quanh 2 thể tài
văn xuôi chủ yếu: truyện ngắn và tiểu thuyết

Đây là những thu hoạch lí thuyết từ một cá thể nhà văn nồng nhiệt,
nhằm đối thoại với các lí thuyết phương tây bằng những trải nghiệm thực tế ở
Việt Nam, cũng là những bật mí riêng tư về công việc bếp núc văn chương
trên những sáng tác cụ thể của mình à ông tâm đắc hoặc chúng được dư luận
chú ý. Trong đó ông không ngại ngần bộc trực cái tạng và cá tính nghệ thuật
của mình. Ông khẳng định rằng “Tôi chỉ viết được những gì mình đã trải
nghiệm và mỗi cuốn văn xuôi tự sự đều có một phần đời tôi”. Điều này chứng

17


tỏ rằng căn cốt sáng tác của Ma Văn Kháng xuất phát từ hiện thực cuộc sống,
bắt rễ từ đời sống hiện sinh của con người với muôn vẻ tốt/xấu, thiện/ác… nơi
thế tục.
Ở mảng bài viết này, ta dễ dàng nhận ra sự cầu toàn đáng trân trọng của
ông trong nghệ thuật. Ở đây nhà văn không chỉ cần chú ý chăm chút đ ến hình
tượng- nghệ thuật cao đẹp (cái được biểu hiện) mà nhà văn còn phải chăm
chút cho cái biểu hiện nghệ thuật. Tác phẩm văn chương đích thực xét đến
cùng là một đơn vị nghệ thuật hoàn chỉnh, một phức thể vẹn toàn. Tác giả hơn
ai hết phải in đậm dấu ấn sáng tạo của mình để không bị trộn lẫn giữa đông
đảo các cây bút trong thiên hạ.
Vị trí của tập tiểu luận Phút giây huyền diệu
Từ những năm 80 của thế kỉ trước, nhà văn Ma Văn Kháng đã là tác giả
của nhiều tiểu thuyết gây chú ý trên văn đàn: Đồng bạc trắng hoa xòe, Đám
cưới không có giấy giá thú, Mưa mùa hạ… Bước sang thế kỉ XXI, Ma Văn
Kháng luôn khát khao kiếm tìm cái mới về đề tài, cách tân táo bạo về tư duy
nghệ thuật và đã tạo cho mình một phong cách mới mẻ, độc đáo trong đời văn
của mình. Ông đã nhận được rất nhiều giải thưởng cao quý. Đến nay, ông vẫn
là một trong những cây đại thụ của nền văn học đương đại. Gần đây, cuốn tiểu
luận bút kí “Phút giây huyền diệu” của ông được xuất bản. Cuốn sách là tập

hợp những bài viết về những người bạn văn và những trăn trở nghề nghiệp
của họ và bản thân tác giả. Cuốn sách là cái nhìn sâu sắc về toàn cảnh nghề
Viết văn cũng như công việc viết văn của cây bút cổ thụ vẫn đang sung sức
trong nền văn chương nước nhà. Vào ngày 4/1/2014, Hội nhà văn Việt Nam
đã chính thức công bố giải thưởng văn học của hội năm 2013, một trong số 4
tác phẩm được trao giải là cuốn tiểu luận bút kí “Phút giây huyền diệu” của
nhà văn Ma Văn Kháng. Đánh giá về các tác phẩm được giải, nhà thơ Nguyễn
Quang Thiều cho rằng: Nhà văn Ma Văn Kháng, người được trao Giải thưởng
Hồ Chí Minh, đã viết Phút giây huyền diệu bằng trải nghiệm sống và kinh

18


nghiệm sáng tác của mình. Ông dựng lên một đời sống nội tâm sâu sắc, đa
chiều, nhân văn và nhiều ám ảnh, từ đó, khám phá ra triết lý sống và sáng tạo.
Cuốn sách hé lộ cho chúng ta lối đi bí ẩn và diệu kỳ của sự sáng tạo, để hòa
quyện một cách tài tình và đầy thuyết phục về mối quan hệ giữa đời sống và
nghệ thuật, khẳng định sự kỳ diệu của sáng tạo chỉ có thể sinh ra từ sự diệu kỳ
của đời sống. Tác phẩm này còn gợi mở cho những nhà nghiên cứu văn học
hiểu thêm những cách tiếp cận khác nhau một văn bản nghệ thuật và sự sinh
ra của nghệ thuật từ đời sống, cũng như gợi mở cho các đồng nghiệp, đặc biệt
là những đồng nghiệp trẻ cách xử lý chất liệu đời sống khi sáng tạo và thăng
hoa trong lối đi riêng biệt của mỗi nhà văn.
Tập tiểu luận bút kí cho thấy thêm một vỉa năng lực mới, dồi dào của
nhà văn Ma Văn Kháng.

19


Chƣơng 2

NHỮNG QUAN NIỆM VỀ CÁC VẤN ĐỀ CHUNG
CỦA VĂN HỌC
2.1. Bản chất của văn học
Mở đầu cuốn sách của mình tác giả Ma Văn Kháng viết rằng: “Chân lí
dù có cao siêu đến đâu thì cũng bắt đầu từ những điều đơn giản, những việc
bình thường trong cuộc sống được người ta làm theo, làm đi làm lại, được
thực tiễn kiểm nghiệm rồi đúc kết lại mà thành và từ đó xuất hiện cái mà ta vẫn
gọi là lí luận. Tất nhiên không gian càng rộng thời gian càng dài thì lí luận,
chân lí càng được thử thách, càng mang tính phổ quát, trường tồn.”[10, 5]
Từ xưa đến nay, văn học là một hiện tượng không ngừng vận động,
không ngừng đổi mới, từ môi trường xã hội văn hóa này sang môi trường xã
hội văn hóa khác, từ nhà văn này sang nhà văn khác. Đối với mỗi người sáng
tác, thì những gì làm được, cho dù là thành tựu xuất sắc đi nữa, của một thời,
của một người nào đó, chỉ có thể là kinh nghiệm, một lời khuyên, một sự gợi
ý, một điểm xuất phát, cũng có thể là một thách thức, thúc giục khai phá
những con đường mới. Tuy nhiên trong lịch sử lâu dài của nó thì văn học vẫn
có một số nét bản chất khá bền vững mà nhà văn và nhà nghiên cứu văn học
cần ý thức rõ nhằm khai phá có hiệu quả nhất sức mạnh của văn học. Việc
chú trọng đến bản chất của văn học đã có từ xa xưa. Có thể nhận thấy điều
này trong quan niệm của Khổng Tử và các nhà nho về “văn dĩ tải đạo, thi dĩ
ngôn chí”, trong nhận thức về sự bất phân giữa văn và sử, văn và triết ở thời
kỳ đầu sự phát triển của văn chương. Những người mác xít cũng đặc biệt nhấn
mạnh bản chất tư tưởng của văn chương, coi văn chương và nghệ thuật nói
chung là một hình thái ý thức xã hội, một công cụ nhận thức, một “vũ khí tư
tưởng”. Tất nhiên cách nhận thức cuộc sống, tác động tư tưởng của văn

20



×