Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Giọng điệu thơ Lưu Quang Vũ trong tuyển tập Gió và Tình yêu thổi trê đất nước tô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (693.34 KB, 64 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

NGUYỄN THỊ THU LAN

GIỌNG ĐIỆU THƠ LƢU QUANG VŨ
TRONG TUYỂN TẬP GIÓ VÀ TÌNH
YÊU THỔI TRÊN ĐẤT NƯỚC TÔI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lí luận văn học

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với Thạc sĩ Nguyễn Thị
Vân Anh, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ Lí luận văn học khoa
Ngữ Văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi cũng xin gửi tới người thân, gia đình, bạn bè, những người đã luôn động
viên giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu lời cảm ơn sâu sắc.
Vì điều kiện thời gian có hạn nên đề tài không tránh khỏi những hạn chế nhất
định. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô và các bạn để khóa luận
hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2015
Sinh viên

Nguyễn Thị Thu Lan




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận “Giọng điệu thơ Lưu Quang Vũ trong tuyển tập
Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi” là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Nguyễn Thị Vân Anh. Khóa luận không sao chép
từ một tài liệu có sẵn nào. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2015
Sinh viên

Nguyễn Thị Thu Lan


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ...................................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu .............................................................................................. 5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................................. 5
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 5
6. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................... 5
7. Đóng góp của khóa luận .......................................................................................... 6
8. Bố cục khóa luận ..................................................................................................... 6
PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................... 7
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ GIỌNG ĐIỆU ...................................................... 7
1.1. Khái niệm giọng điệu ........................................................................................... 7
1.2. Vai trò của giọng điệu ........................................................................................ 10
CHƢƠNG 2. GIỌNG ĐIỆU THƠ LƢU QUANG VŨ TRƢỚC NĂM 1975 ..... 13
2.1. Cơ sở hình thành giọng điệu .............................................................................. 13
2.1.1. Bối cảnh lịch sử, văn hóa - xã hội ............................................................. 13

2.1.2. Yếu tố gia đình, quê hương và những kỉ niệm tuổi học trò ......................... 14
2.2. Một số giọng điệu chủ đạo trong các sáng tác trước năm 1975 ......................... 15
2.2.1. Giọng đắm đuối đến mê hoặc.................................................................... 15
2.2.2. Giọng tâm tình, ngợi ca ............................................................................ 22

2.2.3. Giọng lạc quan tin tưởng....................................................................... 26
2.2.4. Giọng cô đơn, khắc khoải ......................................................................... 27
2.2.5. Giọng đượm buồn, xót xa, cay đắng .......................................................... 29
CHƢƠNG 3. GIỌNG ĐIỆU THƠ LƢU QUANG VŨ SAU NĂM 1975............ 41
3.1. Cơ sở hình thành giọng điệu .............................................................................. 41
3.1.1. Bối cảnh lịch sử, văn hóa - xã hội ............................................................. 41
3.1.2. Yếu tố đời tư của nhà thơ.......................................................................... 41


3.2. Một số giọng điệu chủ đạo trong các sáng tác sau năm 1975 ............................ 43
3.2.1. Giọng trăn trở, xót xa ............................................................................... 43
3.2.2. Giọng suy tư, chiêm nghiệm triết lí ........................................................... 45
3.2.3. Giọng dịu dàng, đằm thắm ........................................................................ 49
PHẦN KẾT LUẬN .................................................................................................. 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Giọng điệu là một phương diện biểu hiện quan trọng của chủ thể sáng
tạo. Nó cũng là một nhân tố cốt yếu trong cấu trúc hình thức nghệ thuật của tác
phẩm văn học. Nghiên cứu giọng điệu nghệ thuật của nhà thơ sẽ giúp chúng ta cảm
nhận sâu sắc hơn thế giới tâm trạng, cảm xúc của chủ thể trữ tình và đặc biệt là thấy
được cá tính sáng tạo, phong cách nghệ thuật của mỗi nhà văn.
1.2. Từ trước đến nay, nhắc đến Lưu Quang Vũ là ta biết đến một kịch gia

nổi tiếng của sân khấu kịch nói Việt Nam. Ông để lại hơn 50 vở kịch và được đánh
giá là “nhà viết kịch lớn nhất thế kỉ này của Việt Nam” (thế kỉ XX - Phan Ngọc), là
“Moliere ở Việt Nam”. Với tư cách là một kịch gia, Lưu Quang Vũ đã khẳng định
được vị trí và sự ảnh hưởng mạnh mẽ của mình trên “địa hạt sân khấu” hiện đại Việt
Nam. Song, ít ai biết rằng thơ mới chính là lĩnh vực, là miền sâu thẳm, là tâm hồn
và là đời sống của Lưu Quang Vũ. Thơ ông thể hiện khát vọng được bày tỏ tâm hồn
mình với thế giới xung quanh, được tham dự vào dòng chảy mãnh liệt của đời sống,
được trao gửi và dâng hiến. Hay nói như là nhà thơ Vũ Quần Phương, người thơ
cùng thế hệ với Lưu Quang Vũ: “Có cảm giác anh viết kịch để sống với mọi người
và làm thơ để sống với riêng mình… Tôi thấy thơ mới là nơi anh kí thác nhiều nhất
và tôi tin nhiều bài thơ của anh sẽ thắng được thời gian” và “về lâu dài, sự đóng góp
của Lưu Quang Vũ với thơ ca còn lớn hơn về kịch”.
Sau khi Lưu Quang Vũ qua đời, các tập thơ của ông đã lần lượt được giới
thiệu và xuất bản. Đến năm 2010, tuyển tập thơ Gió và tình yêu thổi trên đất nước
tôi của Lưu Quang Vũ được Nxb. Hội Nhà văn ra mắt bạn đọc. Ngay sau đó tập thơ
đã được Hội Nhà văn Hà Nội trao giải “Thành tựu trọn đời về thơ”. Cuốn sách tập
hợp 137 thi phẩm của Lưu Quang Vũ, trong đó có cả những tác phẩm chưa từng
được công bố của ông. Lần đầu tiên, bạn đọc được nhận diện một cách đầy đủ và
trọn vẹn về thơ Lưu Quang Vũ cả về số lượng lẫn chất lượng. Những cảm xúc nồng
nàn được thể hiện bởi nghệ thuật tài hoa khiến thơ Lưu Quang Vũ tạo được ấn
tượng sâu đậm trong lòng độc giả.
1


1.3. Tiếp cận tập thơ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi từ góc nhìn giọng
điệu chúng tôi muốn góp thêm một cái nhìn tương đối hệ thống về gương mặt thơ
độc đáo này. Qua đó, thấy được, bên cạnh một nhà soạn kịch tài năng còn có một
nhà thơ tài hoa Lưu Quang Vũ. Thực tế cho thấy, hiện nay thơ Lưu Quang Vũ chỉ
mới được một số người biết đến và chưa được dạy ở các cấp học, bậc học. Do đó,
lựa chọn đề tài này, cũng là cách chúng tôi tạo ra sợi dây đồng cảm, yêu thích và

trân trọng di sản thơ Lưu Quang Vũ ở nhiều bạn đọc.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trên thi đàn Việt Nam, Lưu Quang Vũ xuất hện với một phong cách thơ đôn
hậu, hiền hòa và thiết tha tình nghĩa. Chính vì thế, thơ ông dễ đi vào lòng người,
gây được cảm tình với độc giả. Với Lưu Quang Vũ, thơ luôn là một phần của tâm
hồn, của cuộc đời và lẽ sống. Nhưng, so với kịch, thơ Lưu Quang Vũ lại chịu sự
thách thức và sàng lọc kĩ lưỡng của thời gian. Trong khoảng thời gian dài, độc giả
dường như đã quên thơ Lưu Quang Vũ bởi sự ra đời rầm rộ hơn 50 vở kịch của ông.
Và phải đến khi Lưu Quang Vũ qua đời, nhất là sau khi tập thơ Gió và tình yêu thổi
trên đất nước tôi nhận giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội thì việc đánh giá, ghi
nhận về vai trò, vị trí của thơ Lưu Quang Vũ trong đời sống văn học nước nhà sôi
động và tích cực hơn nhiều.
Điểm lại các bài phê bình, giới thiệu, nghiên cứu về thơ Lưu Quang Vũ
chúng ta có thể tổng kết những nội dung sau:
2.1. Một số bài nghiên cứu khẳng định Lưu Quang Vũ trước hết và trên hết
là một nhà thơ tài hoa.
Đầu tiên phải kể đến ý kiến của Hoài Thanh, trong bài viết Một cây bút có
nhiều triển vọng đã đánh giá những vần thơ của Lưu Quang Vũ: “nó là vàng thật,
đúng nó là thơ”; “Lưu Quang Vũ có nhiều câu nhiều đoạn đúng là thơ, lại có một
bài thơ rất hay. Năng khiếu của anh đã rõ. Miễn anh đi đúng nhất định anh sẽ đi xa”.
PGS. TS Nguyễn Thị Minh Thái trong bài viết Thơ tình Lưu Quang Vũ thì
cho rằng: “Trong tính cách sáng tạo của con người tài hoa trẻ trung Lưu Quang Vũ
thì thơ là hồn cốt nhân hậu nhất” [10, tr. 92], và “Đi suốt chiều dài đời thơ Lưu
Quang Vũ, tôi có cảm giác như đi vào một kho báu. Ở những câu thơ ta nhặt vô tình
2


nhất cũng óng ánh một vẻ đẹp riêng, không hiểu sao chỉ có ở thơ Lưu Quang Vũ một vẻ đẹp trong vắt của thi ca” [10, tr. 95].
Vũ Quần Phương trong bài Đọc thơ Lưu Quang Vũ đã nhận thấy: “Đọc hết
các bản thảo anh để lại, tôi thấy thơ mới là nơi anh kí thác nhiều nhất và tôi tin

nhiều bài thơ của anh sẽ thắng được thời gian”; “Tôi thấy trước sau cốt cách thi sĩ
vẫn là nét trội nhất trong tâm hồn của anh. Tôi trộm nghĩ, về lâu dài sự đóng góp
của Lưu Quang Vũ về thơ còn lớn hơn về kịch” [10, tr. 33].
Tác giả Anh Ngọc cũng cho rằng, chỉ chiếm phân nửa trong tập Hương cây Bếp lửa cũng đủ để Lưu Quang Vũ: “Có một vị trí vững vàng, bởi một hồn thơ dào
dạt, một tài thơ sắc sảo với vẻ hồn nhiên đến như là ngẫu hứng, với một mạch nguồn
hình ảnh và từ ngữ đầy trực cảm và đột biến tuôn ra dường như bất tận” [10, tr. 109].
Chân dung và tài năng thi ca của Lưu Quang Vũ còn được khẳng định trong
cuốn tiểu luận Những gương mặt tiêu biểu của thi ca Việt Nam (2006) của Kiều
Văn. Đọc thơ Lưu Quang Vũ, Kiều Văn phải “bàng hoàng và kính phục” khi nhận
ra trong đó chân dung của “một nhà thơ giàu tư tưởng và có một tầm tư duy rất cao,
trước những tình cảm sâu sắc và rộng lạ thường, trước một chất người hết sức tinh túy
và cao quý, và trước một nghệ thuật thơ chân chất nhưng thượng thăng” [17, tr. 389].
Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra được những đóng góp “sáng giá” của Lưu Quang Vũ
cho đất nước, cho văn học.
Như vậy qua những đánh giá cảm nhận ở trên, ta thấy các nhà nghiên cứu đã
khẳng định Lưu Quang Vũ trước hết và trên hết là một nhà thơ tài hoa.
2.2. Trong những bài nghiên cứu, phê bình cũng đã đi sâu vào tìm hiểu cách
thức thể hiện trong thơ Lưu Quang Vũ.
- Một yếu tố được các nhà phê bình rất chú ý đó là những biểu tượng của thế
giới nghệ thuật trong thơ Lưu Quang Vũ. Trong bài viết Lưu Qung Vũ tâm hồn trở
gió in trên Tạp chí nghiên cứu văn học, tác giả Phạm Xuân Nguyên đã phát hiện
“gió” là một biểu tượng, tượng trưng cho toàn bộ thế giới thơ Lưu Quang Vũ, làm
nên bản sắc riêng của thế giới nghệ thuật ấy. Tác giả đã có những phát biểu sâu sắc về
sức sáng tạo của Lưu Quang Vũ qua những câu thơ “nổi gió” của ông và khẳng định:
“Đời anh là gió, thơ anh là mây. Gió thổi mát và mây che mát. Mây cho gió dừng
3


chân và gió cho mây bay bổng. Gió và mây hợp lại có thể làm mưa, mưa tưới nhuần
mặt đất. Gió lòng anh thổi tới lòng ta” [7, tr. 34].

Vương Trí Nhàn lại khám phá một biểu tượng khác: “mưa” - biểu tượng
này thường gắn với rất nhiều bài thơ tài hoa của Lưu Quang Vũ: “Trong các thi
sĩ đương thời, Vũ là người nhạy cảm với mưa, thân thuộc với mưa hơn ai hết”.
“Ở anh, mưa cho thấy sự trôi chảy của thời gian mà con người thấy bất lực, không
sao níu kéo nổi. Mưa làm cho hiện tại trở nên vô nghĩa và tương lai trở nên lờ mờ
không xác định” [8, tr. 69].
Còn trong bài viết Nỗi lao lung của một hồn thơ mới bước vào đời, Phan
Trọng Thưởng chú ý dến biểu tượng “bầy ong” như hình bóng của tác giả: “Hình
như anh cảm thấy sự đồng than, đồng phận nào đó giữa mình với con ong: sự cần
mẫn, ý thức chắt chiu, tìm kiếm, nhỏ nhoi giản dị” [16].
- Yếu tố thứ hai về cách thức biểu hiện trong thơ Lưu Quang Vũ được nói
đến khá nhiều là giọng điệu.
Hoài Thanh đã nhận thấy “Câu thơ Lưu Quang Vũ thường ngọt ngào hiền hậu”.
Trong bài viết Lưu Quang Vũ, hồn thơ đắm đuối, Vũ Quần Phương đã chỉ ra ở Lưu
Quang Vũ một “giọng thơ đến đắm đuối” và khẳng định: “Đắm đuối là bản sắc cảm
xúc của Lưu Quang Vũ”, “Tìm ra những yếu tố cấu thành cái chất đắm đuối này
cũng là cách tìm ra bản chất thi pháp Lưu Quang Vũ” [19, tr. 357]. Lưu Khánh Thơ,
Bích Thu cũng dùng từ “đắm đuối” để nói về giọng điệu thơ Lưu Quang Vũ. Đề cập
đến vấn đề này, Bích Thu trong bài Những bài thơ sống với thời gian đã có nhận
xét: “Thơ của Vũ lôi cuốn người đọc không chỉ ở sự trau chuốt lời lẽ, ngôn từ với
những kĩ xảo ngón nghề mà chính ở hồn thơ đắm đuối chân thành giản dị mà nồng
nàn da diết” [10, tr. 101]. Lê Đình Kỵ trong bài viết Hương cây - Bếp lửa - Đất
nước đời ta đã nêu ý kiến “Thơ Lưu Quang Vũ có một điệu tâm hồn riêng và không
thể thiếu tâm tình” [10, tr. 29].
Như vậy, có thể thấy, qua những bài viết về thơ Lưu Quang Vũ, các nhà
nghiên cứu đã phát hiện ra những nét đặc sắc khác nhau trong thơ của ông. Chúng
ta có thể thấy đã có một số bài viết nghiên cứu thơ ông dưới góc độ giọng điệu

4



nhưng chưa phải là nhiều. Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu thơ Lưu Quang Vũ,
chúng tôi nhận thấy vấn đề về giọng điệu thơ Lưu Quang Vũ còn nhiều vấn đề chưa
được triển khai, làm rõ. Trong phạm vi khóa luận tốt nghiệp này, chúng tôi mong
muốn tìm hiểu những đặc trưng giọng điệu thơ Lưu Quang Vũ để thấy được những
nét riêng trong thơ ông, từ đó khẳng định những đóng góp đáng trân trọng của Lưu
Quang Vũ trên thi đàn.
3. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng lí thuyết về giọng điệu để tiếp cận thơ Lưu Quang Vũ nhằm thấy
được đặc điểm cũng như những biểu hiện phong phú về phương diện giọng điệu thơ
Lưu Quang Vũ qua tuyển tập Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi.
Góp phần làm sáng tỏ phong cách thơ Lưu Quang Vũ và chỉ ra những đóng
góp của tác giả đối với nền thơ ca Việt Nam hiện đại.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khóa luận trình bày những vấn đề lí thuyết về giọng điệu.
Chỉ ra những đặc sắc, độc đáo trong giọng điệu tập thơ Gió và tình yêu thổi
trên đất nước tôi của Lưu Quang Vũ để thấy được sự đóng góp của một gương mặt
thơ rất riêng, giàu cá tính.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Với đề tài “Giọng điệu thơ Lưu Quang Vũ trong tuyển tập Gió và tình yêu
thổi trên đất nước tôi”, chúng tôi xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu của
khóa luận như sau:
Đối tượng nghiên cứu: Yếu tố giọng điệu trong tập thơ Gió và tình yêu thổi
trên đất nước tôi.
Phạm vi nghiên cứu: Tập trung khảo sát 137 bài thơ được in trong tuyển tập
Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận phối hợp vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó chủ
yếu sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp hệ thống


5


Phương pháp thống kê, phân loại
Phương pháp so sánh đối chiếu
Phương pháp phân tích văn học
7. Đóng góp của khóa luận
Trên cơ sở, phát hiện được giọng điệu chủ âm và các sắc giọng phong phú
khác trong thơ Lưu Quang Vũ, khóa luận một mặt cho thấy những nét độc đáo trong
tư duy nghệ thuật của Lưu Quang Vũ. Mặt khác, cũng góp một tiếng nói khẳng định
và ghi nhận Lưu Quang Vũ ở một tầm cao mới, xứng đáng hơn trên bình diện thơ ca
chứ không dừng lại ở một cây bút thơ được mọi người biết đến.
8. Bố cục khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung của khóa luận
được triển khai thành 3 chương:
Chương 1: Khái quát về giọng điệu
Chương 2: Giọng điệu thơ Lưu Quang Vũ trước năm 1975
Chương 3: Giọng điệu thơ Lưu Quang Vũ sau năm 1975

6


PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ GIỌNG ĐIỆU
1.1. Khái niệm giọng điệu
Từ trước tới nay trong văn học, chúng ta thường bắt gặp khái niệm “hơi
văn”, “khí văn”, hay “tone”. Đó đều là những cách gọi khác nhau của giọng điệu.
Với tư cách là một phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học, giọng điệu đã thu hút
được sự quan tâm của giới phê bình nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu, phê bình văn

học đã nhận ra vai trò quan trọng của giọng điệu nghệ thuật trong việc khẳng định
tài năng, phong cách người nghệ sĩ. Trong Những vấn đề thi pháp học hiện đại giáo
sư Trần Đình Sử khẳng định: “Phân tích tác phẩm văn học mà bỏ qua giọng điệu
tức là tước đi cái phần quan trọng tạo nên bản sắc độc đáo của nhà văn”. Nhà
nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến lại cho rằng: “Câu văn có hồn là câu văn có giọng,
ngữ điệu, bởi vì từ ngữ của bài văn được chọn có thông báo nhiều điều quan trọng
nhưng bài văn không có giọng điệu đọc lên vẫn nhạt nhẽo vô vị. Sự phong phú, tính
đa nghĩa, ý vị đậm đà của bài văn trước hết là ở giọng. Năng khiếu văn ở phần tinh
tế nhất là năng lực bắt được chúng cái giọng của văn bản mình đọc và tạo ra được
giọng đích đáng cho tác phẩm mình”.
Cho đến nay, mặc dù đã xuất hiện không ít các công trình nghiên cứu, nhưng
giọng điệu vẫn là một khái niệm cần tìm hiểu để được lập luận một cách chặt chẽ
hơn. Nói một cách khác, khái niệm này dường như vẫn đang trong quá trình hoàn
thiện. Vì vậy, chúng ta vẫn thấy một sự thật, đó là giữa các nhà nghiên cứu vẫn
chưa có sự thống nhất cao về khái niệm này.
Theo nhà nghiên cứu Lê Huy Bắc trong Bách khoa thư Mỹ có định nghĩa:
“Tone là âm thanh được xét trong sự can thiệp của trường độ, cường độ, âm sắc và
âm lượng của nó”. Đây chính là cách quan niệm về giọng điệu trên lập trường của
ngôn ngữ học. M.H. Abrams trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học đã đưa ra nhận
định về “tone”: “tone” có nghĩa “là thái độ của người phát ngôn văn học đối với
người nghe của anh ta” [1].

7


M.B. Khrapchenco trong Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của
văn học, khi bàn về giọng điệu nghệ thuật lại cắt nghĩa theo một phạm vi hết sức
rộng: “Giọng điệu, hiểu theo nghĩa rộng của từ đó không phải chỉ là màu sắc xúc
cảm của thiên truyện hay của hành động kịch mà là một cái gì hơn thế”.
Giáo sư Trần Đình Sử trong cuốn Thi pháp Truyện Kiều đã cho rằng: “Giọng

điệu trong văn học là một hiện tượng nghệ thuật toát ra từ bản thân tác phẩm và
mang một nội hàm tư tưởng thẩm mĩ… Giọng điệu văn học là hiện tượng “siêu
ngôn ngữ học”, phụ thuộc vào cấu trúc nghệ thuật của tác phẩm, khuynh hướng
nghệ thuật của tác giả và của thời đại. Giọng điệu là biểu hiện của thái độ, cảm xúc
của chủ thể đối với đời sống”. Hay trong một công trình khác, ông khẳng định:
“Giọng điệu là một yếu tố đặc trưng của hình tượng tác giả… Giọng điệu ở đây
không đơn giản là một tín hiệu âm thanh có âm sắc đặc thù để nhận ra người nói mà
là một giọng điệu mang nội dung tình cảm, thái độ ứng xử trước các hiện tượng đời
sống” [12, tr. 142]. Có thể thấy, trong quan niệm của Trần Đình Sử, giọng điệu là một
hiện tượng đã vượt ngoài “tầm kiểm soát” của ngôn ngữ, và được tạo nên bởi mối quan
hệ giữa thái độ, cảm xúc của nhà văn với hiện thực cuộc sống. Như vậy, quan niệm này
không chỉ chú ý tới khía cạnh thái độ cảm xúc, lập trường tư tưởng, tình cảm của tác
giả, mà còn chú ý tới tính chi phối của phạm vi hiện thực tới giọng điệu.
Theo cách khác, Lê Huy Bắc trong bài viết Giọng và giọng điệu trong văn
xuôi hiện đại lại không thể hiện trực tiếp quan niệm của mình, mà thông qua việc
phân biệt giọng và giọng điệu để giới hạn nội hàm của khái niệm. Theo ông: “Giọng
điệu là âm thanh xét ở góc độ tâm lí, biểu hiện các thái độ: buồn, vui, hờ hững, …”.
Với các giới hạn này, có thể nói Lê Huy Bắc đã phát hiện ra bản chất của giọng
điệu. Tuy nhiên nó vẫn chưa là một khái niệm đầy đủ.
Trong chuyên luận Giọng điệu trong thơ trữ tình, PGS.TS. Nguyễn Đăng
Điệp đã có sự nghiên cứu khá kĩ càng về giọng điệu trong văn học. Tác giả đã bày
tỏ khá rõ nét quan niệm về vấn đề này. Nguyễn Đăng Điệp đã cho rằng: “Giọng
điệu biểu thị thái độ, cảm xúc, tư thế của chủ thể phát ngôn qua lời văn nghệ thuật.
Không thể có giọng điệu nếu không có những rung động sâu sắc, những nỗi đau,

8


những xót xa trước thân phận con người, không chia sẻ với họ niềm vui và tình yêu
cuộc sống” [2, tr. 57].

Nhìn một cách tổng quát các ý kiến ta thấy rằng, tuy chưa hoàn toàn thống
nhất với nhau nhưng các nhà phê bình, nghiên cứu đều ít nhiều có sự gặp gỡ nhau ở
khía cạnh này hay khía cạnh khác trong quan niệm về giọng điệu. Từ các quan niệm,
nhận thấy giọng điệu đã được nhìn nhận chủ yếu theo khuynh hướng: giọng điệu là
biểu hiện của lập trường tư tưởng, thái độ của nhà văn với hiện thực cuộc sống.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, mục từ “Giọng điệu”, các soạn giả đã đưa
ra khái niệm về giọng điệu như sau: “Thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo
đức của nhà văn đối với đối tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn qui định cách
xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành
kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm (…) Giọng điệu phản ánh lập trường xã
hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả, có vai trò rất lớn tạo nên
phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc. Thiếu một giọng điệu
nhất định, nhà văn chưa thể viết ra một tác phẩm, mặc dù đã có đủ tài liệu và sắp
xếp trong hệ thống nhân vật. Không nên lẫn lộn giữa giọng điệu và ngữ điệu là
phương tiện biểu hiện của lời nói, thể hiện qua cách lên giọng, xuống giọng, nhấn
mạnh, nhịp điệu …, chỗ ngừng. Giọng điệu là một phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm
văn học. Nó đòi hỏi người trần thuật, kể chuyện hay nhà thơ trữ tình phải có khẩu
khí, có giọng điệu. Giọng điệu trong tác phẩm gắn với cái giọng điệu “trời phú” của
mỗi tác giả, nhưng mang nội dung khái quát nghệ thuật, phù hợp với đối tượng thể
hiện. Giọng điệu trong tác phẩm thường đa dạng, có nhiều sắc thái trên cơ sở một
giọng cơ bản, chủ đạo, chứ không đơn điệu” [4, tr. 134].
Như vậy, xét về mọi phương diện thì khái niệm trên đây là tương đối hoàn
chỉnh, có thể bao quát mọi khía cạnh của giọng điệu. Chúng tôi chấp nhận khái
niệm này như một lí thuyết công cụ để soi sáng cho sự nghiên cứu của mình.
Tuy nhiên để tránh sự hiểu lầm về yếu tố giọng điệu, chúng tôi thấy cần có
sự phân biệt khái niệm này với một số khái niệm gần gũi với nó.
Trước hết cần thấy rằng, giọng điệu nghệ thuật khác với giọng điệu tác giả
vốn có ngoài đời: Giọng điệu của tác giả ngoài đời là giọng điệu của con người cụ

9



thể, là giọng điệu ngôn ngữ trong đời sống với những nét đặc thù về tính cách,
phong tục, nghề nghiệp, thói quen, trình độ,…; còn giọng điệu nghệ thuật luôn
mang nội dung tình cảm, thái độ, cách ứng xử của tác giả trước những hiện tượng
đời sống được miêu tả. Việc đồng nhất giọng điệu nghệ thuật và giọng điệu tác giả
vốn có ngoài đời là một việc làm mang tính khiên cưỡng, thậm chí sai lệch về bản
chất vấn đề.
Bên cạnh đó chúng ta cũng cần phân biệt giọng điệu với ngữ điệu. “Không
nên lẫn lộn giữa giọng điệu với ngữ điệu là phương diện biểu hiện của lời nói thể
hiện qua cách lên giọng, xuống giọng, nhấn mạnh …” [4, tr. 135]. Tuy cả hai khái
niệm này cũng có cùng một phương tiện biểu hiện là âm thanh, nhưng chúng lại
thuộc hai lĩnh vực khác nhau. Ngữ điệu thuộc phạm vi của ngôn ngữ học, là hiện
tượng của câu và nó có các chức năng biểu cảm. Còn giọng điệu lại là hiện tượng
“siêu ngôn ngữ”, thuộc phạm vi của lí luận văn học, nó phụ thuộc vào cấu trúc nghệ
thuật của tác phẩm, khuynh hướng nghệ thuật của tác giả và cả thời đại.
1.2. Vai trò của giọng điệu
Giọng điệu nghệ thuật là một trong những vấn đề phức tạp nhất của thi pháp
học hiện đại. Tuy nhiên, việc tìm hiểu giọng điệu trong tác phẩm văn chương lại
cung cấp những tri thức về một phương diện cơ bản cấu thành hình thức nghệ thuật
của văn học, một thước đo không thể thiếu để xác định tài năng và phong cách độc
đáo của người nghệ sĩ.
Nhìn một cách khái quát, giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình
cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả. Từ đây giọng điệu có vai trò rất quan trọng
trong việc tạo nên phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc.
Dấu ấn phong cách trong giọng điệu chính là “chất riêng” độc đáo, không thể
lẫn của mỗi nhà văn, mà nói như Turghenev là: “không thể tìm thấy trong bất kì cổ
họng của người khác” [5, tr 90]. Tại sao giọng điệu lại là yếu tố hàng đầu thể hiện
phong cách nghệ thuật của nhà văn? Có thể lí giải theo cách của M.B. Khrapchenco
trong cuốn Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học: “Do chỗ

giọng điệu gắn liền với việc dùng hình tượng để miêu tả đối tượng của sáng tác, cho
nên nó có đặc điểm của cách nhìn nhận riêng của cá nhân đối với đời sống”.
10


Lê Huy Bắc trong Giọng và giọng điệu văn xuôi hiện đại khẳng định:
“…giọng điệu là một bộ phận style (phong cách), chúng thoát thai từ các cơ sở rồi
góp phần tạo nên style cho mỗi tác phẩm, tác giả” [3, tr. 411].
PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp cho rằng: “Giọng điệu là một yếu tố cơ bản
thuộc phong cách nghệ thuật, giọng điệu văn chương vừa cho phép người đọc nhận
ra vẻ riêng của nghệ sĩ, vừa có ý nghĩa như một tiêu chí xác định chân tài nhà văn”.
Trong Nam sơn tùng thoại nhận xét rất tinh tế: “Văn như con người của nó,
văn nhân hậu thì con người của nó trầm mà tĩnh, văn ôn nhu thì con người của nó
khiêm mà hòa, văn cao khất thì con người của nó đam mà giản; văn hùng hồn thì
con người của nó cương mà nhanh, văn uyên sâu thì con người của nó thuần túy mà
đứng đắn”.
Trong Lí luận văn học, giọng điệu được biểu hiện như là lập trường, thái độ,
thể hiện qua hệ thống lời văn nghệ thuật, với các yếu tố như: cách xưng hô, cách gọi
tên sự vật, cách xây dựng hình ảnh, cách tổ chức nhịp điệu, cách dùng từ ngữ,…
Giọng điệu trong tác phẩm thường có giá trị đa dạng, có nhiều sắc thái trên cơ sở
giọng điệu cơ bản, chủ đạo chứ không hề đơn điệu. Nói như M.B. Kharapchenco:
“Giọng điệu không những không loại trừ mà còn cho phép tồn tại trong tác phẩm văn
học những sắc điệu khác nhau” - Tức là, trong một tác phẩm văn học có sự xuất hiện
của “giọng điệu chủ yếu” (hay còn gọi “giọng chủ đạo” - giọng điệu cơ bản, xuyên suốt
tác phẩm, thể hiện một cách sâu sắc lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm
mĩ của tác giả với sự vật hiện tượng được miêu tả) và các “sắc điệu bao quanh” với tư
cách là bè đệm. Như thế, về thực chất, giọng điệu cũng là một hệ thống. Hệ thống ấy
được kiến tạo trong sự kết hợp hài hòa giọng điệu chung (giọng chủ đạo) và những
sắc điệu khác nhau được thể hiện trong tác phẩm. Do đó, khi khai thác giọng điệu
trong tác phẩm văn học bất kì, ta phải xem xét theo hệ thống ấy.

Khác hẳn với văn xuôi tự sự, “Thơ trữ tình chủ yếu được nói đến như một
bản tự thuật tâm trạng” bởi thế, giọng điệu trong thơ trữ tình chủ yếu là giọng đơn.
Giọng điệu trữ tình được thể hiện ở nhiều cấp độ: Giọng điệu trữ tình chịu sự quy
định của chủ thể trữ tình, cảm hứng chủ đạo và góc độ giao tiếp, giọng điệu in đậm

11


dấu ấn cá tính sáng tạo của nghệ sĩ - vì cá tính sáng tạo là thể hiện tập trung nhất,
rực rỡ nhất của cái cá biệt, chủ quan…
Có thể nói, giọng điệu là yếu tố không thể thiếu trong bất kì tác phẩm văn
chương nào, trong đó có thơ. Nếu không có giọng điệu, tác phẩm nghệ thuật sẽ
không còn là tác phẩm nghệ thuật nữa. Giọng điệu trong thơ thể hiện quan điểm,
tình cảm, thái độ của tác giả đối với cách nhìn về cuộc sống và sự vật.
Lưu Quang Vũ là một nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ. Lưu Quang Vũ đã nhanh chóng tạo cho mình một giọng điệu riêng. Đó
là giọng điệu trẻ trung, trong sáng, tràn đầy niềm tin yêu vào cuộc sống trong thời kì
đầu, là giọng cay đắng xót xa trước những va vấp và những mất mát của bản thân.
Xuyên suốt các tác phẩm thơ là giọng đắm đuối nồng nàn. Với giọng điệu thơ độc
đáo đó, thơ Lưu Quang Vũ vừa mới xuất hiện đã thu hút được sự chú ý đặc biệt của
độc giả.

12


Chƣơng 2
GIỌNG ĐIỆU THƠ LƢU QUANG VŨ TRƢỚC NĂM 1975
2.1. Cơ sở hình thành giọng điệu
2.1.1. Bối cảnh lịch sử, văn hóa - xã hội
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tuy đã

trở thành một nước độc lập nhưng vẫn đứng trước những thách thức to lớn. Cũng
như bối cảnh xã hội lúc ấy, văn học vừa diễn ra xu hướng hội tụ, vừa tiếp tục phân
hóa thành nhiều khuynh hướng. Trong thời kì chống Pháp, văn học đã được xây dựng
để phục vụ cho cuộc chiến đấu của người Việt Nam mà hạt nhân là Việt Minh. Văn
học được định hướng theo phương châm do Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định từ
“Đề cương văn hóa Việt Nam” năm 1943 là Dân tộc - Khoa học - Đại chúng còn đối
với văn học thì làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng. Trong kháng
chiến chống Pháp, khẩu hiệu “Kháng chiến hóa văn hóa - Văn hóa hóa kháng
chiến” của Hồ Chí Minh cũng phản ánh mục tiêu và đi kèm với nó là phương pháp
chi phối văn hóa nói chung và văn học nói riêng trong giai đoạn ấy. Về phong cách,
để có thể kháng chiến hóa văn hóa, văn học phải nhằm đến đối tượng quần chúng
đông đảo mà chủ yếu là nông dân và do vậy văn học giai đoạn này đều hướng đến
phong cách hiện thực, đại chúng.
Trong bối cảnh đó, những người sáng tác mà trong số họ có rất nhiều nhà thơ
của phong trào Thơ mới, những nhà văn hiện thưc phê phán với không ít cây bút tài
năng băn khoăn về câu hỏi: Viết cho ai? Viết cái gì? Viết như thế nào? Người ta im
lặng, hoặc cảm thấy bứt rứt vì không thể viết như cũ cũng chưa thể viết được cái
mới như ý muốn của mình. Trong thời gian này đã nảy sinh những cuộc tranh luận
về nghệ thuật, trong đó người nghệ sĩ băn khoăn; đem nghệ thuật phục vụ chính trị
có phải là rẻ rúng nghệ thuật không? Quần chúng có khả năng thưởng thức nghệ
thuật không?
Hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ trường kì suốt 30
năm đã tác động sâu sắc, toàn diện tới đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc, trong
đó có văn nghệ, tạo nên những đặc điểm riêng biệt của một nền văn học hình thành và
phát triển trong hoàn cảnh chiến tranh gian khổ, ác liệt.

13


Nền kinh tế nghèo nàn và chậm phát triển, điều kiện giao lưu văn hóa bị hạn

chế (chủ yếu tiếp xúc và chịu ảnh hưởng văn hóa các nước xã hội chủ nghĩa, cụ thể
là Liên Xô và Trung Quốc …).
Trong hoàn cảnh như vậy, văn học giai đoạn 1945 - 1975 vẫn phát triển và
đạt được nhiều thành tựu, đóng góp cho lịch sử văn học những giá trị riêng.
2.1.2. Yếu tố gia đình, quê hương và những kỉ niệm tuổi học trò
Lưu Quang Vũ mang nợ thơ từ trong huyết thống. Cha ông - Lưu Quang Thuận
sinh ông cùng lúc với thơ. Có thể nói, Lưu Quang Thuận là một tính cách thơ đằm
thắm, dạt dào và mặn mòi như biển Đà Nẵng quê ông. Ngay từ thuở mới lên năm,
lên sáu, nhà thơ Lưu Quang Thuận đã sớm phát hiện ra tâm hồn đa cảm, tài hoa của
đứa con trai đầu lòng và ông “đã tin chắc rằng sau này lớn lên con trai của mình sẽ
trở thành thi sĩ” [13]. Còn mẹ Lưu Quang Vũ là một phụ nữ tảo tần, đảm đang, giàu
lòng yêu thương và đức hi sinh. Bà đã để lại trong tâm trí nhà thơ những hình ảnh
ngọt ngào của tuổi thơ “mải chơi trốn học”, “những tối mẹ ngồi khâu lại áo”… Đó là
những kỉ niệm một thời không thể quên đã in dấu trong các sáng tác của Lưu Quang Vũ
sau này.
Hình thành nên diện mạo, tâm hồn thơ Lưu Quang Vũ còn có sự góp mặt của
vùng quê trung du Bắc Bộ - thôn Chu Hưng “ấm những ngày gian khổ khó quên
nhau”. Đúng vậy, quê hương từ xưa đến nay vốn là nguồn cảm hứng không bao giờ
vơi cạn trong thơ. Quê hương là nơi chôn nhau cắt rốn, là nơi thấm đượm biết bao kỉ
niệm, là nơi ta gửi gắm tình cảm sâu đậm. Chính ở nơi đây, Lưu Quang Vũ được sinh
ra trong mối tình nồng thắm của cha mẹ và sự yêu thương, bao bọc của làng xóm. Vì
thế cái tên Chu Hưng đi vào trong thơ Lưu Quang Vũ một cách rất giản dị tự nhiên
không chỉ như một địa danh, một nơi chôn nhau cắt rốn mà còn như nguồn cội sáng
tạo đời thơ Lưu Quang Vũ.
Và ngay từ thuở còn cắp sách tới trường, Lưu Quang Vũ đã là một cậu bé đa
cảm. Cậu học sinh lớp 9 họ Lưu từng rung động, xuyến xao trước một cô bạn nhỏ
mến thương:
“Suối nào mát bằng suối hồi còn bé
Vẫn tắm mùa hè xao động nắng trưa


14


Câu thơ nào hay bằng câu ca dao tập đọc
Ai xinh bằng cô bạn nhỏ mến thương?”
(Tuổi thơ)
Tuổi học trò đầy mộng mơ, lãng mạn khi nhìn vào “đôi mắt mở to” của cô
bạn cùng lớp: “Cô bé con có đôi mắt mở to/ Đã đánh mất kho vàng và tiếng hát”
(Những ngày chưa có em) hay: “Gương mặt em mưa ướt át/ Đôi mắt to tan vỡ cả
trời chiều”. Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, nhìn vào đôi mắt ta như hiểu được tâm tư,
tình cảm. Trái tim chàng trai mười lăm tuổi như nghẹt thở, bối rối khi nhìn vào đôi
mắt long lanh của cô bạn cùng lớp. Đó là những rung động đầu tiên tuổi học trò
trong trẻo, hồn nhiên và tươi trong của một cậu bé thiếu niên.
Khi là chàng trai mười bảy, mười tám:
“Mắt người trong như giếng nước ban đầu
Mảnh trăng liềm nghiêng một nỗi nhớ nhau”
(Đêm hành quân)
Những ai đã trải qua rung động đầu đời có lẽ sẽ không bao giờ nguôi ngoai
nỗi nhớ. Đôi mắt trong veo của người con gái như “giếng nước” ấy khiến chàng trai
luôn đau đáu một nỗi nhớ nhung, để rồi Lưu Quang Vũ sáng tạo ra những hình ảnh
mới lạ giàu sức biểu cảm: “Mảnh trăng liềm nghiêng một nỗi nhớ nhau”…
Đó là nỗi nhớ nhẹ nhàng, sâu lắng mà da diết. Nếu không phải là một tâm
hồn nhiều cảm xúc, lắm mộng mơ thì sẽ không có những rung động đẹp đẽ, trong
sáng đến như vậy. Chính những tháng ngày mộng mơ vô tư, hồn nhiên, trong sáng
ấy đã nuôi dưỡng và chắp cánh những vần thơ của ông.
2.2. Một số giọng điệu chủ đạo trong các sáng tác trƣớc năm 1975
2.2.1. Giọng thơ “đắm đuối đến mê hoặc”
Giọng điệu văn chương là một phạm trù quan trọng của thi pháp học có nhiệm
vụ tìm hiểu một trong những hình thức bộc lộ cái chủ quan của nhà văn trong tác
phẩm văn học. Việc cảm nhận giọng điệu có từ lâu nhưng mãi đến đầu thế kỉ XX, với

sự xuất hiện của M.Bakhtin và các công trình khoa học nổi tiếng của ông, vấn đề
giọng điệu văn chương mới thật sự trở thành một đối tượng tự giác của khoa học

15


văn học. Cùng với sự lớn mạnh của thi pháp học hiện đại, việc nghiên cứu giọng
điệu như một hiện tượng nghệ thuật đã thu được nhiều thành tựu đáng ghi nhận.
Ngày nay, khi tìm hiểu một nhà văn hay một thời đại văn học, người ta không thể
không quan tâm đến giọng điệu với tư cách là một yếu tố then chốt tạo nên sự độc
đáo của nhà văn và thời đại văn học ấy. Trong văn học, giọng điệu thể hiện thái độ,
lập trường, cách nhìn nhận của chủ thể phát ngôn về đối tượng được nói đến và đối
tượng mà lời văn đó hướng tới.
Tìm hiểu giọng điệu trong tập thơ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi của
Lưu Quang Vũ, chúng tôi nhận thấy giọng điệu chủ đạo được nhà thơ sử dụng trong
tập thơ đó là giọng “đắm đuối đến mê hoặc” khi viết về quê hương, đất nước và
những người thân yêu của anh.
Giọng điệu đó cũng là một đặc trưng mang tính thi pháp của thơ Lưu Quang
Vũ. Tâm hồn tươi trẻ với những khao khát mãnh liệt được gắn bó với cuộc đời đã
tạo nên trong thơ anh chất men nồng nàn, đắm say. Ngay từ những vần thơ đầu tay,
Lưu Quang Vũ đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc bởi những cảm xúc
tươi trong, tin cậy và đặc biệt bởi một giọng thơ rất đắm đuối.
Theo Vũ Quần Phương: “đắm đuối là một đặc điểm của suốt đời Lưu Quang Vũ”.
Vui hay buồn, tin cậy hay hoang mang… bao giờ anh cũng đắm đuối. Đặc điểm này
ít thấy ở các nhà thơ khác. Hình như từ sau cách mạng tháng Tám -1945, thơ Việt
Nam ta chuộng sự tỉnh táo, chắc khỏe, giàu chất liệu cụ thể của đời sống công nông
binh, các nhà thơ thường sử dụng bút pháp hiện thực. Thơ có ít mê hơn. Giọng thơ
còn mang nhiều sự đắm đuối, trong kháng chiến chống Pháp, có lẽ chỉ thấy ở
Nguyễn Đình Thi và Quang Dũng, ngay Xuân Diệu nổi tiếng về say đắm ở giai
đoạn trước, giờ đây cũng tỉnh táo nhiều. Vào những năm sáu mươi, một vài nhà thơ

có uy đã bắt đầu lên tiếng: Thơ cần phải có mê hơn. Chính vì vậy, giọng thơ đắm
đuối của Lưu Quang Vũ lúc bấy giờ rất được mến chuộng. Để có được giọng điệu
đắm đuối, những câu thơ ấy mang giọng điệu tự nhiên, dịu dàng, tha thiết. Thơ ông
là sự tuôn chảy của dòng cảm xúc. Đó là lời nói tự đáy lòng, tự nhiên như hơi thở.
“Hôm nay từ mặt trận
Tôi trở về thành phố tuổi thơ

16


Trời trong veo dưới những vùng nước mưa
Người trên phố xếp hàng dài mua củi”
(Viết lại một bài thơ Hà Nội)
Chỉ với mấy câu thơ nhưng ta thấy những cảm xúc vô cùng nồng nàn tha
thiết khi viết về thiên nhiên, cuộc sống: “Giờ đang chiều tháng tư/ Trong vườn
chùm nhót đỏ/ Dãy bàng lên búp nhỏ/ Xanh như là thương nhau…” Cứ thế thiên
nhiên ùa vào trong thơ anh dạt dào cảm xúc. Có thể thấy, ít nhà thơ nào lại có giọng
điệu say đắm khi viết về thiên nhiên như ông.
Lưu Quang Vũ không chỉ dành tình yêu nồng nàn cho thiên nhiên mà tác giả
còn gửi gắm cả vào tiếng Việt. Nhà thơ thấy hình hài đất nước qua từng nét chữ, âm
thanh: “Tiếng mẹ gọi trong hoàng hôn khói sẫm/ Cánh đồng xa cò trắng rủ nhau về/
Có con nghé trên lưng bùn ướt đẫm/ Nghe xào xạc gió thổi giữa cau tre” (Tiếng
Việt).Với nhà thơ, tiếng Việt giống như “vị muối”, như “dòng sông”: Mỗi sớm dậy
nghe bốn bề thân thiết/ Người qua đường chung tiếng Việt cùng tôi/ Như vị muối
chung lòng biển mặn/ Như dòng sông thương mến chảy muôn đời.
Nghệ sĩ nhân dân Đào Trọng Khánh từng đánh giá: “Người làm thơ về quê
hương thì nhiều nhưng viết hay, tha thiết và xúc động như Lưu Quang Vũ trong bài
thơ Tiếng Việt thì rất ít”.
Giọng thơ đắm đuối đi liền với cảm xúc dịu dàng, tha thiết. Trong những câu thơ
của Lưu Quang Vũ lúc nào cũng cháy bỏng một tình yêu đất nước sâu xa, hồn hậu và

đằm thắm, mà ông gọi giản dị đất Việt là Việt Nam, là Người - Một đất nước đau thương
mà anh dũng. Tình yêu nồng nàn với quê hương đất nước nên mỗi một vùng đất, mỗi
một miền quê anh đi qua đều để lại trong lòng nhà thơ những ấn tượng khó phai: “Ta đi
giữ nước yêu thương lắm/ Mỗi xóm thôn qua mỗi nghĩa tình” (Gửi tới các anh).
Trong cái cảm nhận của tuổi thơ, của một cậu bé lúc ấy mới 15 tuổi, quê
hương hiện lên mượt mà như những bức tranh thủy mặc, sinh động và mang tính
chất dân gian như tranh Đông Hồ. Rời xa thôn Chu Hưng đã 9 năm, nhà thơ bồi hồi
nhớ lại. Hình ảnh thôn Chu Hưng thật ấm nồng, tha thiết: “Ôi Chu Hưng đêm nằm
nghe suối đổ/ Nghe gió ngàn và tiếng hoẵng giữa rừng sâu/ Ôi Chu Hưng sắn vùi
trong bếp đỏ” (Thôn Chu Hưng).

17


Và “Con suối nhỏ xuyên rừng nơi ấy/ Là ngọn nguồn sông biển yêu thương”.
Những kí ức về quê hương, về sông Thao, về phố huyện dường như đã mang hơi
thở và lớn lên cùng Lưu Quang Vũ. Thiên nhiên tuổi thơ đầy ắp kỉ niệm. Nó là
nguồn cảm hứng cho cậu bé thi sĩ. Và đó cũng là tình cảm rất tha thiết trong thơ
Lưu Quang Vũ, tạo cho thơ ông một giọng điệu riêng, giọng “đắm đuối đến mê hoặc”.
Có những khi quê hương ấy là một Hải Phòng đầy yêu thương - nơi nhà thơ
dành nhiều tình cảm nhất: “Hải Phòng là một cái gì đó, không phải Hà Nội, nhưng sẵn
sàng chào đón người ta, khi người ta từ bỏ Hà Nội. Hải Phòng có cuộc sống của than
bụi, lại có biển, có trùng khơi, rất hợp với Vũ” [18, tr. 126].
Cũng như nhiều nhà thơ cùng thế hệ, những vần thơ đầu tay của Lưu Quang
Vũ là tiếng nói tha thiết quê hương và gửi trao tin cậy trước cuộc đời. Có khác
chăng, ở Lưu Quang Vũ, tiếng thơ ấy được cất lên với giọng tha thiết, sâu lắng hơn:
“Sao tên sông lại là Thương
Để cho lòng anh nhớ?”
(Qua sông Thương)
Phải yêu lắm cảnh sắc thiên nhiên đất nước mình, Lưu Quang Vũ mới viết nên

những câu thơ đậm đà bản sắc Việt Nam qua một hình tượng thời gian tươi tắn và sinh
động: “Tháng Bảy mưa nhiều/ Tháng Tám sen tàn bưởi chín/ Chim ngói bay về bịn rịn/
Tháng Chín lúa trổ đòng đòng/ Trời thu hương cốm mát trong” (Gửi tới các anh).
Một đất nước Việt Nam hiện lên trong thơ Lưu Quang Vũ tươi đẹp sáng
ngời, tràn đầy sức sống:
“Đất nước mình tươi hoa đẹp nắng
Ta cùng gìn giữ phải không anh?”
(Gửi tới các anh)
Qua những gì gần gũi, thân thương nhất của quê hương đất nước, Lưu Quang
Vũ đã tạo được dấu ấn về một lối viết tài hoa, nồng nàn cảm xúc và một giọng thơ
“đắm đuối đến mê hoặc”. Chính điều đó đã tạo nên sức lôi cuốn ở thơ ông.
Lưu Quang Vũ cảm thụ đời sống không chỉ bằng nhận thức mà bằng cả giác
quan. Cảm giác là hạt nhân đầu tiên của cảm hứng Lưu Quang Vũ. Cảm giác gọi

18


những ý thức tuôn chảy. Đọc thơ ông, chúng ta ít thấy dấu vết của bố cục, cảm hứng
luôn ào ạt, đầy ắp hình ảnh thực và ảo, hiện thực và tưởng tượng, sách vở và đời
sống hòa quyện thúc đẩy nhau trong các câu thơ dồn dập. Cảm hứng ấy đã tạo nên
cái đắm đuối của thơ Lưu Quang Vũ. Ông viết như trong một cơn say, như sự nhập
đồng bất chấp cực đoan và phi lí trong chi tiết. Ngoài những cảm nhận, những rung
động tinh tế của ông trước những biến đổi tinh vi nhất của cuộc sống đã làm nên
giọng đắm đuối nồng nàn, ta còn thấy trong thơ Lưu Quang Vũ một thế giới của
tưởng tượng. Giàu tưởng tượng nên mới thành đắm đuối. Trong thơ ông có cánh
buồm đen của tên cướp biển, có ngọn lửa bập bùng người Âu Lạc múa trên châu thổ
sông Hồng còn nguyên nếp phù sa. Có những đoạn thơ ông làm mê lòng ta như cổ
tích: “Trung Hoa của tuổi thơ/ Tiếng ngựa hí đêm khuya/ Đoàn xe Chiến Quốc đi
trong tuyết/ Rũ rượi tóc râu, đao thương sáng quắc/ Não bạt thanh la xủng xỏeng/
Dữ tơn mà sầu thương” (Trung Hoa).

Thơ Lưu Quang Vũ dường như đã phá vỡ mọi qui luật, khuôn khổ, mọi định
dạng để dẫn người đọc bước vào một thế giới cảm xúc dâng trào. Thơ ông luôn chảy
theo dòng tình cảm tự nhiên. Câu thơ dài ngắn là theo cảm xúc, hình ảnh tự nhiên như
lời nói thường: “Cốc nước trên bàn/ Quyển sách gập giữa trang/ Tấm gương soi vào
khoảng trống/ Ngọn đèn soi vào gian phòng vắng/ Tấm áo em trên thành phố im lìm/
Chiếc thìa con, lát chanh mỏng úa vàng/ Vài sợi tóc đen/ Vương trên lược/ Những đồ
vật lung linh dấu vết/ Của dịu hiền thân thuộc ngón tay em” (Vắng em).
Hình ảnh cuộc sống hàng ngày hiện lên trong thơ Lưu Quang Vũ thật dịu dàng,
đầy cảm xúc kể cả với những việc rất bình thường như Cái máy nước đầu ngõ. Ta
cũng có thể bắt gặp những hình ảnh ấy trong thơ của Nguyễn Đình Thi khi cảm
nhận về cuộc sống hàng ngày: “Anh yêu em - vậy thôi - anh có em trong đời/ Em
niềm thương của anh, lo lắng của anh/ Dòng sông không bao giờ yên của anh”
(Trên con đường nhỏ).
Có những lúc thơ ông thủ thỉ, ân tình, có lúc dịu dàng. Đặc biệt những vần
thơ viết về tình yêu, với giai điệu lúc nào cũng tha thiết, nồng nàn. Bởi tình yêu như
một lẽ sống không thể thiếu đối với một hồn thơ Lưu Quang Vũ. Và nhà thơ cũng

19


quan niệm rằng: sự đầy đủ của cuộc đời con người là ở chỗ tìm thấy tình yêu, mặc
dù tình yêu ấy không ở lại cùng ta suốt cuộc đời.
Khi còn là cậu học sinh lớp 9, Lưu Quang Vũ đã là một cậu bé nhiều cảm
xúc, lắm mộng mơ với những rung động đầu đời thật nhẹ nhàng, trong sáng. Trong
bài thơ Tuổi thơ, ta bắt gặp một giọng điệu trẻ trung khi viết về cuộc sống với một
niềm tin yêu mãnh liệt:
“Hoa nào đẹp bằng hoa tuổi thơ
Ổi nào ngon bằng ổi năm xưa
Suối nào mát bằng suối hồi còn bé
Vẫn tắm mùa hè xao động nắng trưa

Võng nào êm bằng võng ru ngày ấy
Trang giấy nào thơm bằng trang giấy khai trường
Câu thơ nào hay bằng câu ca dao tập đọc
Ai xinh bằng cô bạn nhỏ mến thương?”
Lưu Quang Vũ viết tập thơ đầu tay khi chưa đầy 20 tuổi. Nhìn đời bằng cặp
mắt tươi non và căng tròn nhựa sống, nên người thi sĩ ấy nhìn đâu cũng chỉ thấy hoa
tươi và nắng đẹp, nhìn đâu cũng chỉ có tình yêu, sự sinh sôi, nảy nở. Thế giới nghệ
thuật được ông tạo ra trong thơ giống như một thiên đường trên mặt đất, không chỉ
có ánh sáng và hương sắc của cỏ hoa mà kì diệu và tuyệt vời biết bao còn có em những rung động đầu đời của người thi sĩ hồn nhiên mơ mộng. Trong thế giới lung
linh hương sắc ấy, em hiện hữu là khu vườn tình đẹp nhất, ngọt ngào nhất:
“Trong thành phố có một vườn cây tươi mát
Trong triệu người có em của ta
Buổi trưa nắng bầy ong đi kiếm mật…
Mảnh vườn em vẫn là mảnh vườn xanh
Nơi ban đầu lòng ta ươm tổ mật
Nơi ta hát những chùm thơ thứ nhất
Nơi thu sang mây trắng vẫn bay về”
(Vườn trong phố)

20


×