Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn trong các chính sách an sinh xã hội của đảng và nhà nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (928.43 KB, 65 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cấp thiết của đề tài nghiên cứu:
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước góp
phần bảo đảm ổn định đời sống cho người lao động, ổn định chính trị, trật tự
an toàn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ tổ quốc. Thực
hiện tốt chính sách BHXH trên nguyên tắc công bằng và tiến bộ xã hội trong
hệ thống chính sách xã hội, sẽ là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, là yếu
tố quyết định cho sự ổn định và phát triển kinh tế, phát triển xã hội.
Xã hội ta là xã hội vì con người; đặt con người vào vị trí trung tâm của
phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và lấy việc nâng cao chất lượng cuộc sống
con người làm mục tiêu phục vụ. Đảng ta luôn nhấn mạnh phát triển kinh tế
phải đi đôi với giải quyết tốt vấn đề xã hội. Từ ngày đầu thành lập nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà đến nay Đảng và Nhà nước ta đã luôn quan tâm đến
ban hành, bố sung, sửa đổi các chính sách Xã hội trong đó có chính sách
BHXH phù hợp với từng thời kỳ.
Tuy nhiên, chính sách BHXH hiện hành còn còn có mặt hạn chế. Số
lao động tham gia bảo hiểm xã hội mới chỉ chiếm khoảng 15% lao động xã
hội, chủ yếu là cho đối tượng BHXH bắt buộc do Bộ Luật lao động điều
chỉnh (lao động trong khu vực Nhà nước và lao động làm việc trong các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên).
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu
dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa lại càng đòi hỏi phải giải quyết tốt những vấn đề xã hội. Chủ
trương của Đảng và Nhà nước ta là từng bước mở rộng đối tượng tham gia
BHXH cho lao động toàn xã hội và trong tất cả mọi thành phần kinh tế là
một chủ trương đúng đắn và có tầm chiến lược. Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX đã nêu rõ: “Khẩn trương mở rộng hệ thống bảo hiểm xã


hội và an sinh xã hội” và “thực hiện các chính sách xã hội bảo đảm an toàn


cuộc sống mọi thành viên cộng đồng, bao gồm bảo hiểm xã hội đối với người
lao động thuộc các thành phần kinh tế ”.
Mặt khác, trước những thành tựu to lớn đạt được sau 15 năm thực hiện
công cuộc đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc do Đảng
khởi xướng và lãnh đạo, đất nước đang bước vào thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Cùng với sự phát triển kinh tế, đời sống nhân dân ngày một cải
thiện, nhu cầu BHXH cho mọi người lao động ngày càng trở thành vấn đề
bức xúc, khách quan và chính đáng.
Vì vậy, nghiên cứu tổ chức thực hiện BHXH đối với người lao động mà
trước hết là người lao động trong các hợp tác xã công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp (HTX CNTTCN), là đối tượng có quan hệ khác biệt so với quan hệ
lao động do Bộ Luật lao động quy định và không thuộc đối tượng tham gia
BHXH bắt buộc theo điều lệ BHXH hiện hành là cần thiết và có ý nghĩa thiết
thực trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
2.1. Mục đích:
- Nghiên cứu tình hình tổ chức thực hiện BHXH cho người lao động
trong các HTX CNTTCN trong thời gian qua.
- Xây dựng cơ sở lý luận cho việc tổ chức thực hiện BHXH đối với các
HTX CNTTCN trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nêu được những cơ sở lý luận về tổ chức thực hiện BHXH trong khu
vực HTX CNTTCN ở Việt Nam.
- Khái quát thực trạng tình hình hoạt động BHXH đối với các HTX
CNTTCN ở Việt Nam trong thời gian qua.
- Đưa ra một số định hướng và giải pháp tổ chức thực hiện BHXH đối
với các HTX CNTTCN trong thời gian tới.


3. Tình hình nghiên cứu đề tài:

Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn trong các chính sách an sinh xã
hội của Đảng và Nhà nước ta. Những năm qua các cơ quan quản lý nhà nước
về kinh tế - xã hội, các nhà khoa học đã có nhiều đề tài nghiên cứu đề xuất
chính sách chế độ cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước. BHXH Việt Nam từ khi thành lập đến nay đã có nhiều đề tài
nghiên cứu về BHXH trên cả lĩnh vực khoa học cơ bản và khoa học ứng
dụng, đã và đang là cơ sở để đề xuất với cơ quan quản lý nhà nước hoàn
thiện, bổ sung, sửa đổi về chính sách, chế độ và cơ chế quản lý BHXH.
Các khoá đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cao cấp của Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, nhiều học viên đã có những đề tài nghiên
cứu ở từng nội dung khác nhau liên quan đến bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên các
đề tài mới chỉ tập trung phân tích sự bất cập của chính sách, chế độ và cơ chế
quản lý bảo hiểm xã hội đối với đối tượng hiện đã và đang tham gia BHXH
theo quy định hiện hành, chưa nghiên cứu để triển khai tổ chức thực hiện
BHXH đối với khu vực kinh tế tập thể, cụ thể là người lao động làm việc
trong các HTX phi nông nghiệp, trong đó có các HTX CNTTCN.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
4.1. Cơ sở lý luận:
- Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
chính sách xã hội.
- Các văn kiện của Đảng và Nhà nước về chính sách xã hội và chính
sách BHXH.
- Lý luận xã hội học về chính sách xã hội và chính sách BHXH.
- Các công trình nghiên cứu, hội thảo khoa học, giáo trình kinh tế bảo hiểm,
tài liệu tổng kết về hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp và số liệu trong niên giám
thống kế qua một số năm...

- C¸c c«ng tr×nh nghiªn cøu, héi th¶o khoa



học, giáo trình kinh tế bảo hiểm, tài liệu tổng kết về hợp tác xã tiểu thủ
công nghiệp và số liệu trong niên giám thống kế qua một số năm...
4.2. Phng phỏp nghiờn cu:
S dng cỏc phng phỏp v k thut iu tra xó hi hc kt hp vi
phõn tớch ti liu v tng kt thc tin.
5. í ngha thc tin ca ti nghiờn cu:
ti nghiờn cu a ra mt s nh hng v gii phỏp t chc thc
hin BHXH i vi HTX CNTTCN trong thi gian ti, nhm xut vi cỏc
c quan qun lý nh nc v BHXH tham kho sm ban hnh chớnh sỏch,
ch bo him xó hi i vi khu vc kinh t tp th, trc ht l ngi lao
ng lm vic trong cỏc HTX CNTTCN.
6. Kt cu ti:
Ngoi phn m u, kt lun v mc lc danh mc ti liu tham kho,
ti nghiờn cu gm 3 chng, c th nh sau:
Chng I: C s lý lun v t chc thc hin BHXH trong cỏc HTX
CNTTCN.
Chng II: Thc trng v hot ng BHXH i vi cỏc HTX
CNTTCN Vit Nam trong nhng nm qua.
Chng III: Mt s nh hng v gii phỏp t chc thc hin
BHXH i vi cỏc HTX CNTTCN Vit Nam trong thi
gian ti.


CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN BHXH TRONG
CÁC HTX CNTTCN
I. TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI.

1. Giới thiệu chung về Bảo hiểm xã hội:
1.1. Bảo hiểm xã hội vấn đề quan trọng của chính sách xã hội

1.1.1. Khái niệm chính sách xã hội:
Các Mác là người sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cơ sở lý
luận và phương pháp luận cho mọi khoa học xã hội, trong đó có xã hội học.
Sự tồn tại xã hội là nhân tố quyết định ý thức xã hội, phương thức sản xuất là
yếu tố quyết định sự vận động và phát triển của xã hội nói chung. Xã hội
biến đổi theo quy luật từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế
- xã hội khác. Sự phát triển của xã hội loài người được xem là quá trình lịch
sử tự nhiên. Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã vạch ra bé khung lý luận cơ bản
làm nền tảng cho xã hội học mác xít đi sâu nghiên cứu chính sách xã hội, coi
chính sách xã hội là bộ phận không thể tách rời khỏi đối tượng nghiên cứu
của nó.
Chính sách xã hội là công cụ tác động vào những quan hệ xã hội
nhằm giải quyết những vấn đề xã hội đang dặt ra, góp phần thực hiện công
bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội và phát triển toàn diện con người.
Mét trong những luận điểm trọng tâm trong lý thuyết xã hội học của
Mác là con người đóng vai trò vừa là chủ thể của xã hội, vừa là khách thể
chịu sự chi phối của xã hội. Nghiên cứu xã hội học về chính sách xã hội là
nghiên cứu những nguyên nhân, đặc điểm và tính chất của những khác biệt
xã hội nhằm điều chỉnh hoặc làm giảm bớt những hậu quả của chúng, tạo
điều kiện tối ưu cho các hoạt động lao động, môi trường lao động và môi
trường sống của con người.
Chính sách xã hội sẽ nhằm đạt tới những mục tiêu sau:


Một là: góp phần giải quyết những hậu quả xã hội có tính lịch sử nh:
tàn dư chiến tranh, hậu quả của chủ nghĩa thực dân, tàn dư của phong tục tập
quán lạc hậu, bảo thủ...
Hai là: Xác định và góp phần giải quyết những vấn đề xã hội nảy sinh
do chính tình trạng lạc hậu về kinh tế, văn hoá, xã hội và những hệ quả của
ngay sự phát triển tạo ra, làm sao tạo được môi trường tự nhiên và xã hội tốt

nhất cho sự phát triển của mỗi người, mỗi nhóm xã hội, bảo đảm cho họ phát
huy cao nhất những khả năng sẵn có của mình.
Chính sách xã hội chỉ có thể thực hiện được một cách triệt để một khi
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất phù hợp với trình độ xã hội hoá cao của
lực lượng sản xuất giữ địa vị thống trị và nhà nước thực sự của dân, do dân,
vì dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng đề cập một cách tóm tắt, méc mạc:" làm
cho mọi người có công ăn việc làm, được Êm no và sống cuộc đời hạnh
phóc".
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội Đảng ta nhấn mạnh:" Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phóc
con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân
trong sự nghiệp xây dựng CNXH. Phương hướng lớn của chính sách xã hội là
phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về
quyền lợi và nghĩa vụ công dân, kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã
hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa đáp ứng các nhu cầu
trước mắt và chăm lo lợi Ých lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng
xã hội." Đó là tư tưởng cơ bản có tính chất quyết định đối với mọi chính sách
xã hội được hoạch định trong thời gian trước mắt còng nh trong chiến lược
lâu dài của Đảng ta.
Trong đường lối và chiến lược phát triển kinh tế xã hội, khi đề cập về
việc giải quyết tốt các vấn đề xã hội, Nghị quyết IX của Đảng đã nêu :"
Thực hiện các chính sách xã hội bảo đảm an toàn cuộc sống mọi thành viên
cộng đồng".


1.1.2. Hệ thống các chính sách xã hội:
- Hệ thống những chính sách xã hội điều chỉnh quan hệ giữa các cấu
thành của cơ cấu xã hội.
Hệ thống này được phân chia thành hai nhóm chính là:
+ Nhóm những chính sách xã hội điều chỉnh cơ cấu xã hội giai cấp.

+ Chính sách xã hội tác động vào những nhóm xã hội đặc thù.
- Hệ thống chính sách xã hội tác động vào các mối quan hệ xã hội
trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Hệ thống này được phân chia
thành một số nhóm sau:
+ Nhóm các chính sách xã hội tác động điều chỉnh quá trình sản xuất
vật chất và tái tạo chính con người. Bao gồm: chính sách dân số, chính sách
việc làm, chính sách bảo hộ lao động.
+ Nhóm chính sách xã hội tác động vào quá trình phân phối và phân
phối lại thu nhập. Bao gồm: chính sách tiền lương, chính sách phóc lợi xã
hội, chính sách BHXH, chính sách ưu đãi xã hội, chính sách cứu trợ xã hội.
+ Nhóm chính sách xã hội tác động đến lĩnh vực hoạt động văn hoá
tinh thần. Bao gồm: chính sách giáo dục, chính sách khuyến khích phát triển
văn hoá, nghệ thuật.
1.1.3. Bảo hiểm xã hội là một bộ phận quan trọng của chính sách xã
hội:
Nh phần trên đã trình bày, trong hệ thống chính sách xã hội, BHXH
thuộc nhóm chính sách xã hội tác động vào quá trình phân phối và phân phối
lại thu nhập. BHXH cần cho tất cả mọi người trong mọi giai tầng xã hội bất
luận giầu hay nghèo, địa vị xã hội cao hay thấp. Thực tế tai nạn rủi ro không
trừ một ai. Do đó đảm bảo sự cân bằng thu nhập cho người lao động khi họ
mất hoặc giảm sút khả năng lao động là hết sức cần thiết. Xã hội nào hệ
thống BHXH càng tốt thì xã hội càng phát triển ổn định, người lao động càng
yên tâm, tha thiết với sản xuất.


Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa
ở nước ta là" Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, trước hết là nhân dân lao động". ở từng giai đoạn, từng thời kỳ Đảng và
Nhà nước ta luôn chú trọng đến các vấn đề thuộc chính sách xã hội trong đó
có BHXH.Trong Hiến pháp được Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng

hoà thông qua ngày 31/12/1959, tại Điều 32 đã ghi rõ quyền của người lao
động được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật, hoặc mất sức lao động.
Ngày 27/ 12/1961 Hội đồng Chính phủ (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị
định số 218/CP ban hành Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công
nhân viên chức Nhà nước. Khi định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu
trong đó có chính sách giải quyết một số vấn đề xã hội, tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta xác định phải giải quyết tốt việc: “ Thực hiện
và hoàn thiện chế độ BHXH, bảo đảm đời sống người nghỉ hưu được ổn định,
từng bước được cải thiện. Xây dựng Luật BHXH" [ 20 trang 115]. Trong
đường lối và chiến lược phát triển kinh tế xã hội, khi đề cập về việc giải
quyết tốt các vấn đề xã hội, Nghị quyết IX của Đảng đã nêu :" Thực hiện các
chính sách xã hội bảo đảm an toàn cuộc sống mọi thành viên cộng đồng, bao
gồm BHXH đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế,cứu trợ xã
hội "[ 22trang 106 ], và trong định hướng cơ chế chính sách và các giải pháp
chủ yếu thực hiện kế hoạch 5 năm 2001-2005 đã nêu rõ: "Cải cách cơ chế
BHXH và bảo đảm xã hội, cải cách và tăng cường chất lượng hệ thống
BHXH, cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản cho nhân dân, nhất là cho người
nghèo, vùng nghèo. Ban hành Luật BHXH" [ 22 trang 336 ].
Những điều đó cho thấy trong chính sách xã hội, BHXH cho người lao
động có một tầm quan trọng đặc biệt, luôn luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Đảng và Nhà nước ta quan tâm.
1.2. Bảo hiểm xã hội và những khái niệm có liên quan.
1.2.1. Khái niệm Bảo hiểm xã hội


Đứng trên mỗi góc độ khác nhau, các nhà kinh điển đưa ra một định
nghĩa về BHXH khác nhau. Theo Tổ chức Lao động Quốc tế - ILO- BHXH
được hiểu là: "Sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình, thông
qua một loạt các biện pháp công cộng (bằng pháp luật, trách nhiệm của
Chính phủ) để đối phó với tình trạng khó khăn về kinh tế và xã hội do bị

ngừng hoặc giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi
già, chết; thêm vào đó, BHXH còn chăm sóc y tế, sức khoẻ và trợ cấp cho
các gia đình đông con."
Song có thể hiểu một cách khái quát nhất theo Từ điển bách khoa Việt
nam thì: "BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho
người lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất, dùa
trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, có
sự bảo hộ của Nhà nước theo Pháp luật, nhằm đảm bảo an toàn đời sống cho
ngưòi lao dộng và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội."
Bảo hiểm xã hội cần cho tất cả mọi người trong mọi giai tầng xã hội
bất luận giầu hay nghèo, địa vị xã hội cao hay thấp. Do đó đảm bảo sự cân
bằng thu nhập cho người lao động khi họ mất hoặc giảm sút khả năng lao
động là hết sức cần thiết. Xã hội nào hệ thống BHXH càng tốt thì xã hội
càng phát triển ổn định, người lao động càng yên tâm, tha thiết với sản xuất.
1.2.2. Chính sách Bảo hiểm xã hội:
Chính sách Bảo hiểm xã hội là những chủ trương, quan điểm, nguyên
tắc BHXH để giải quyết các vấn đề xã hội liên quan đến một tầng líp đông
đảo người lao động và các vấn đề kích thích phát triển kinh tế của từng thời
kỳ. Chính sách BHXH nằm trong hệ thống chính sách xã hội. Trong mỗi giai
đoạn phát triển kinh tế khác nhau, chính sách BHXH được Nhà nước đề ra
và thực hiện phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của
từng giai đoạn.
1.2.3. Chế độ Bảo hiểm xã hội :


Chế độ BHXH là sự cụ thể hoá chính sách BHXH. Bao gồm các chế độ
trợ cấp như: chăm sóc y tế, trợ cấp ốm đau, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi
già, trợ cấp tai nạn lao động, trợ cấp gia đình, trợ cấp thai sản, trợ cấp tàn tật,
trợ cấp mất người nuôi dưỡng.

1.2.4. Trợ cấp BHXH:
Trợ cấp BHXH là khoản tiền do cơ quan BHXH trích từ quỹ BHXH để
chi trả cho người LĐ đã tham gia BHXH, khi họ bị giảm hay mất nguồn thu
nhập do bị suy giảm hoặc mất khả năng lao động, hoặc mất việc làm và hội
tụ đủ các điều kiện thụ hưởng chế độ BHXH theo luật định.
1.2.5. Quỹ BHXH:
Hiện nay, chưa có định nghĩa thống nhất về quỹ BHXH. Nhưng có thể
hiểu quỹ BHXH là tổng số tiền đóng góp của những người tham gia BHXH,
của Nhà nước, của các nguồn khác bằng tiền, tạo thành một quỹ tiền tệ tập
trung, mang tính xã hội rất cao, được hạch toán độc lập với ngân sách Nhà
nước (NSNN) và được quản lý thống nhất theo các chế độ tài chính, kế toán
hiện hành của Nhà nước; để chi trả các chế độ BHXH cho những người tham
gia BHXH, gia đình họ và chi cho việc quản lý quỹ BHXH.
1.2.6. Tiền đóng BHXH:
Tiền đóng BHXH (hay còn gọi là phí BHXH) là khoản tiền của
những người tham gia BHXH đóng cho cơ quan quản lý quỹ BHXH để hình
thành quỹ BHXH.
Việc xác định mức đóng BHXH là một việc rất hệ trọng, nó có ý nghĩa
quyết định đối với việc cân bằng thu - chi của quỹ BHXH. Tuy nhiên, việc
xác định chính xác mức đóng BHXH không phải dễ dàng và không phải lúc
nào cũng làm được, bởi vì nó phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố khác nhau và
bản thân các nhân tố này cũng thường xuyên biến động.


2. Những chế độ BHXH chủ yếu:
2.1. Chăm sóc y tế (Bảo hiểm y tế):
Người tham gia BHXH khi bị ốm đau, mắc các bệnh tật thông thường hoặc
đột xuất sẽ được cơ quan y tế chăm sóc, khám và chữa bệnh mà không phải trả lệ
phí khám, chữa bệnh (hoặc chỉ phải trả một phần). Lệ phí này do BHXH trích từ
quỹ BHXH (hay quỹ Bảo hiểm y tế) để chi trả cho các cơ quan y tế theo định kỳ

hoặc theo từng trường hợp người bệnh cụ thể.
2.2. Chế độ trợ cấp ốm đau:
Người tham gia BHXH, nếu có đủ điều kiện quy đinh, khi bị ốm đau phải
nghỉ làm việc để khám, chữa bệnh, không có thu nhập trong những ngày này, nên
được cơ quan BHXH trả trợ cấp ốm đau để hỗ trợ cho đời sống của họ và gia đình
trong những ngày nghỉ ốm không có thu nhập này. Ngoài ra đối với người LĐ khi
có con còn nhỏ bị ốm, người mẹ (hoặc bố) cũng được nghỉ theo để chăm sóc con
cái bị đau ốm (con ốm, mẹ nghỉ). Những ngày nghỉ này cũng được BHXH trả trợ
cấp ốm đau như chính bản thân mình bị ốm.
2.3. Chế độ trợ cấp thất nghiệp:
Người lao đông tham gia BHXH, nếu có đủ điều kiện quy đinh, khi bị thất
nghiệp (mất việc làm và chưa tìm được việc làm), được BHXH trả một khoản trợ
cấp thất nghiệp để ổn định tạm thời cuộc sống của bản thân và gia đình họ trong
thời gian thất nghiệp.
2.4. Trợ cấp hưu trí (hay còn gọi là trợ cấp tuổi già):
Người lao động khi hết tuổi lao động, có tham gia BHXH và có đủ các điều
kiện quy định, sẽ được BHXH trả trợ cấp hưu trí để sống và nghỉ ngơi trong những
năm cuối đời.
2.5. Chế độ tử, tuất: gồm hai loại trợ cấp:


- Người lao động khi tham gia BHXH, không may bị chết (do ốm đau,
tai nạn, già cả...) đều được BHXH trợ cấp một khoản tiền để làm các thủ tục
mai táng, chôn cất cho người đã quá cố. Khoản trợ cấp này gọi là “tiền mai
táng” được trả cho người đứng ra làm việc này.
- Người lao động có tham gia BHXH, không may bị từ trần, thì ngoài
trợ cấp khi chết (như đã nêu ở phần trên), những người thân sống dùa vào
nguồn thu nhập của người đã chết còn được BHXH trợ cấp một khoản tiền từ
quỹ BHXH gọi là trợ cấp mất người nuôi dưỡng (hay trợ cấp tuất, trợ cấp cô
nhi, quả phụ).

2.6. Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp:
Người lao động khi tham gia BHXH, trong quá trình lao động, làm
việc, sản xuất và kinh doanh, dịch vụ không may bị tai nạn lao động (TNLĐ)
không do lỗi của cá nhân người lao động gây ra, hoặc bệnh nghề nghiệp
(BNN), sẽ được chữa chạy không phải mất tiền (tiền chữa chạy do người chủ
sử dụng lao động trả). Sau đó, nếu sức khoẻ và khả năng lao động bị giảm sút
dẫn đến nguồn thu nhập bình thường bị giảm, ảnh hưởng đến cuộc sống lâu
dài, sẽ được BHXH trả một khoản trợ cấp, gọi là trợ cấp tai nạn lao động &
bệnh nghề nghiệp (TNLĐBNN) nhằm ổn định cuộc sống của họ.
2.7. Trợ cấp tàn tật (trợ cấp mất sức lao động):
Người lao động khi tham gia BHXH, có đủ các điều kiện quy định,
nhưng chưa đến tuổi về hưu mà sức khoẻ, khả năng lao động bị giảm sút quá
nhiều, hoặc không còn khả năng lao động dẫn đến nguồn thu nhập bị giảm
hoặc mất, cũng sẽ được BHXH trả một khoản trợ cấp, gọi là trợ cấp tàn tật
(hoặc trợ cấp mất sức lao động), để hỗ trợ cho cuộc sống của họ và gia đình.
Khoản trợ cấp này có thể trả một lần hoặc trả nhiều lần theo định kỳ(trợ cấp
thường xuyên), tuỳ theo mức suy giảm khả năng lao động, mức độ và thời
gian đóng góp tiền BHXH của người LĐ và người SDLĐ.
2.8. Trợ cấp thai sản:


Người lao động là nữ, tham gia BHXH, nếu có đủ các điều kiện quy
định khi có thai, được nghỉ để thăm, khám thai, nghỉ trước và sau khi đẻ một
thời gian nhất định. Thời gian nghỉ này sẽ không có thu nhập, nên cũng được
BHXH chi trả một khoản trợ cấp, gọi là trợ cấp thai sản.
3. Chính sách, chế độ BHXH của Đảng và Nhà nước ta đối với
người lao động trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
Thuật ngữ “Kinh tế ngoài quốc danh” (KTNQD) đã được khẳng định
từ rất sớm trong các văn kiện Nghị quyết của Đảng và Nhà nước ta, đã được
dùng phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng và niên giám thống

kê từ năm 1954 đến nay.
Từ năm 1954 - 1985, kinh tế ngoài quốc doanh chủ yếu bao gồm thành
phần kinh tế tập thể (các HTX và các tổ hợp tác), thành phần kinh tế tư bản
nhà nước (các xí nghiệp công tư hợp doanh), thành phần kinh tế cá thể (các
xí nghiệp tư nhân, các hộ gia đình...)
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, kinh tế ngoài quốc doanh đã
ngày càng giữ vững được vai trò và vị trí của mình trong nền kinh tế quốc
dân, cả trong nhận thức tư tưởng lẫn hoạt động thực tiễn. Đảng và Nhà nước
ta đã khẳng định thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển kinh tế
nhiều thành phần. Điều này đã được nêu rõ bằng những chủ trương, chính
sách và quy định cụ thể trong các văn bản sau: Nghị quyết 16 của Bộ Chính
trị (15/7/1988) về phát triển kinh tế ngoài quốc doanh; Nghị định 221/HĐBT
và 222/HĐBT ngày 23/7/1991 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành những quy
định cụ thể hoá một số điều trong Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công
ty. Đặc biệt, nhà nước đã ban hành Nghị định số 27/HĐBT và Nghị định
28/HĐBT ngày 9/3/1988 về sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp, xây
dựng, vận tải, trong đó có quy định cụ thể việc thực hiện các chính sách lao
động và xã hội đối với người lao động làm thuê ở các thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh.


Ngày 18/4/1989 Bé Lao động - Thương binh và Xã hội đã ra Thông tư
số 09/LĐTBXH-TT hướng dẫn thực hiện các chính sách lao động và xã hội
theo tinh thần nghị định số 27 và 28 /HĐBT.
Thông tư này có một số nội dung quy định cụ thể việc thực hiện các
chế độ BHXH đối với người lao động làm việc ở khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh như sau:
Người lao động làm việc trong các HTX được hưởng các quyền lợi
BHXH khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động (TNLĐ), hưu trí hoặc chấm dứt
hợp đồng lao động, chết. Người chủ sử dụng lao động có trách nhiệm thực

hiện BHXH cho người lao động.
Về các chế độ BHXH gồm có:
a. Chế độ đối với người lao động bị ốm đau:
Người lao động bị ốm đau được đi khám bệnh và điều trị tại các cơ sở
y tế, bệnh viện, được hưởng trợ cấp ốm đau và chi phí khám bệnh, thuốc men
và điều trị.
Thời gian và mức trợ cấp do người sử dụng lao động và người lao động
thoả thuận, nhưng mức trợ cấp ốm đau không thấp hơn 70% mức tiền công
thường ngày, thời gian trợ cấp tối đa không quá 12 tháng.
b. Chế độ đối với lao động nữ khi có thai và khi sinh:
Người lao động nữ khi có thai thì được khám thai, sinh đẻ lần thứ nhất
và lần thứ hai được nghỉ làm việc và được hưởng trợ cấp thai sản bằng 100%
tiền công, được bồi dưỡng sinh con và mua sắm vật dùng cho con, được nghỉ
cho con bú, mỗi ngày1giờ cho đến khi con đủ 12 tháng tuổi.
Thời gian và mức bồi dưỡng nói trên do Ban chấp hành công đoàn
(nơi có tổ chức Công đoàn), nơi chưa có tổ chức Công đoàn thì đại diện của
tập thể lao động và người chủ sử dụng lao động thỏa thuận, nhưng thời gian
nghỉ đẻ và mức trợ cấp thai sản không Ýt hơn 2 tháng, mức bồi dưỡng không


thấp hơn quy định của Nhà nước đối với công nhân viên chức các xí nghiệp
quốc doanh.
c. Chế độ đối với ngươì lao động bị TNLĐ hoặc bệnh nghề nghiệp:
Người lao động bị TNLĐ hoặc bệnh nghề nghiệp được điều trị tại các
cơ sở y tế và bệnh viện của Nhà nước, được trợ cấp bằng 100% tiền công và
mọi khoản chi phí trong thời gian điều trị cho đến khi khỏi bệnh.
Khi TNLĐ hoặc bệnh nghề nghiệp gây thương tật thì được Hội đồng
Giám định y khoa xếp hạng thương tật và được hưởng trợ cấp mất sức lao
động (MSLĐ) do thương tật gây nên.
Mức trợ cấp phụ thuộc vào hạng thương tật và được trợ cấp thương tật

1 lần theo quy định sau:

Hạng thương tật

K. hạng

Tỷ lệ MSLĐ (%)

5 – 20

Số tháng trợ cấp theo tiền công

1–2

4

3

21 - 40 41 - 60
3-5

6-8

2

1

61 - 80

Trên 80


9 - 11

12

d. Chế độ đối với người lao động bị chết:
Người lao động bị chết, thì thân nhân được trợ cấp tiền chi phí về
chôn cất, và được trợ cấp vì mất người nuôi dưỡng. Mức trợ cấp và chi phí
chôn cất nói trên do Công đoàn (nơi có tổ chức Công đoàn), nơi chưa có tổ
chức Công đoàn thì đại diện của tập thể lao động và người chủ sử dụng lao
động thoả thuận, nhưng mức chi phí về chôn cất không được thấp hơn mức
quy định của Nhà nước đối với công nhân viên chức xí nghiệp quốc doanh.
Mức trợ cấp vì mất người nuôi dưỡng không thấp hơn 15 tháng tiền
công (nếu chết vì tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp), không thấp hơn 6
tháng tiền công ( nếu chết do ốm đau, hoặc bị tai nạn rủi ro).
Thông tư này cũng quy định cách chi trả BHXH nh sau:
- Trợ cấp BHXH đối với các trường hợp ốm đau, thai sản, TNLĐ, bệnh
nghề nghiệp và trợ cấp cho thân nhân người lao động bị chết trong khi đang


làm việc theo hợp đồng lao động thì do người chủ sử dụng lao động chi trả
theo chế độ quy định đã nêu ở trên.
- Mức BHXH cho các trường hợp MSLĐ, hưu trí, chấm dứt hợp đồng
lao động là 10% tiền công (mức bảo hiểm này được tính như sau: Nếu mức
tiền công ghi trong hợp đồng lao động đã bao gồm 10% nói trên thì người
chủ sử dụng lao động (SDLĐ) có trách nhiệm giữ lại cho người lao động
(LĐ), nếu mức tiền công ghi trong hợp đồng lao động chưa bao gồm 10% nói
trên thì người SDLĐ phải chi thêm và tổ chức chi trả theo 1 trong 3 phương
pháp sau:
+ Ở những nơi có tổ chức BHXH thì chuyển cho tổ chức BHXH ở đó

để thực hiện BHXH cho người lao động.
+ Gửi vào 1 tài khoản riêng tại Ngân hàng cho từng người lao động
nếu được người lao động thoả thuận.
+ Chi trả trực tiếp hàng tháng cho người lao động, cùng lúc trả tiền
công để người lao động tự về BHXH khi nghỉ hưu trí, mất sức hoặc chấm dứt
hợp đồng lao động.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
BHXH TRONG CÁC HTX CNTTCN

1. Đặc điểm các hợp tác xã công nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp ở Việt
nam.
Hợp tác xã là một hình thức biểu hiện của kinh tế tập thể, là sản phẩm
tất yếu của quá trình hợp tác. Ngày nay có thể coi HTX là một đơn vị kinh tế,
một “tế bào” của nền kinh tế.
Đối với nước ta, từ khi đổi mới cải tiến quản lý HTX, thì khái niệm về
HTX đã được hiểu rõ ràng hơn. Theo Luật HTX được Quốc hội nước Cộng
hoà XHCN Việt Nam Khoá IX, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 20/03/1996, (có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1997), thì :


“Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có
nhu cầu, lợi Ých chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy
định của Pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên
nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống góp phần phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước ”, [6, trang 7].
HTX có thể phân loại theo những tiêu thức khác nhau:
+ Theo trình độ hợp tác: có các loại sau:
- Hợp tác từng khâu, từng việc, từng thời gian. Đây là loại hình hợp tác
“lỏng”, không định hình hoặc phi hình thể.

- Hợp tác theo hợp đồng dân sự, là loại hình tổ hợp tác, chưa phải là
pháp nhân kinh tế.
- Hợp tác chặt chẽ, ổn định, lâu dài như một doanh nghiệp (có nơi gọi
là doanh nghiệp tập thể), có tư cách pháp nhân, đó là loại hình HTX.
+ Theo ngành nghề kinh doanh chính của HTX, có các loại sau:
HTX Nông nghiệp; HTX Công nghiệp; HTX Tiểu công nghiệp; HTX
Thủ công nghiệp; HTX Giao thông vận tải; HTX Xây dựng; HTX Thuỷ sản;
HTX Thương mại; HTX Tín dụng (Quỹ tín dụng nhân dân); HTX hỗn
hợp.Trong phạm vi của đề tài, chỉ nghiên cứu tổ chức thực hiện BHXH trong
các HTX CNTTCN còn các loại HTX khác không thuộc phạm vi nghiên cứu
của đề tài này.
Theo Luật HTX thì HTX có các quyền lợi sau đây: Tự lùa chọn ngành,
nghề, lĩnh vực, quy mô sản xuất, kinh doanh, và địa bàn hoạt động; quyết
định hình thức và cơ cấu tổ chức sản xuất, kinh doanh; được phép xuất, nhập
khẩu, liên doanh, liên kết với các tổ chức và cá nhân ở trong và ngoài nước,
thuê khoán lao động theo các quy định của pháp luật Nhà nước; kết nạp xã
viên mới, giải quyết việc xã viên xin ra khái HTX, khai trừ xã viên; quyết
định việc phân phối thu nhập và xử lý các khoản thua lỗ của HTX theo điều


lệ của HTX; quyết định việc khen thưởng, kỷ luật những xã viên vi phạm
điều lệ HTX; buộc xã viên bồi thường các khoản thiệt hại đã gây ra cho
HTX; được phép vay vốn ngân hàng và huy động các nguồn vốn khác, cho
xã viên vay vốn theo quy định của pháp luật; được bảo hộ bí quyết công
nghệ, phát minh sáng kiến, mẫu , mã sản phẩm theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, HTX còn có nhiều quyền khác có liên quan theo quy định của pháp
luật.
Còng theo Luật HTX thì HTX còn có các nghĩa vụ sau: Sản xuất, kinh
doanh đúng ngành, nghề, mặt hàng đã đăng ký với Nhà nước; thực hiện đúng
chế độ kế toán, thống kê, kiểm toán hiện hành; thực hiện đầy đủ nghĩa vụ

thuế, nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật; bảo toàn và phát triển
vốn hoạt động của HTX, quản lý và sử dụng đất được Nhà nước giao quyền
sử dụng theo quy định của pháp luật; chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ
và các nghĩa vụ khác; bảo vệ môi trường; bảo đảm các quyền lợi của xã viên
và thực hiện các cam kết kinh tế đối với xã viên; đóng BHXH cho xã viên
theo quy định của pháp luật; chăm lo giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao
trình độ, cung cấp thông tin để mọi xã viên tích cực tham gia xây dựng HTX
và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các tổ chức chính trị - xã hội (được pháp
luật công nhận) hoạt động trong HTX.
Theo điều lệ mẫu HTX CNTTCN và HTX xây dựng được ban hành
kèm theo Nghị định số 44/CP ngày 29/4/1997 thì “HTX CNTTCN là tổ chức
kinh tế tự chủ, do những người lao động có nhu cầu lợi Ých chung, tự nguyện
cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật, để sản xuất kinh
doanh trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp và dịch
vụ CNTTCN” [6, trang 235]
Đặc điểm cơ bản của các HTX nói chung và HTX CNTTCN nói riêng
ảnh hưởng đến hoạt động của BHXH đó là:
1. Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế không phải là một tổ chức xã hội
hoặc hành chính, vì vậy HTX trước hết phải tổ chức các hoạt động sản xuất


kinh doanh có hiệu quả trên cơ sở đó thông qua các nguyên tắc cơ bản như tự
nguyện, cùng có lợi, dân chủ và bình đẳng mà HTX thực hiện các chức năng
xã hội khác, trước hết là đối với các xã viên của mình. Nguyên tắc dân chủ ở
đây thể hiện ở chỗ mỗi xã viên một phiếu bầu, không lấy cơ sở vốn góp cổ
phần nhiều hay Ýt để quy định phiếu bầu và làm nguyên tắc quản lý. Đây là
điểm khác biệt cơ bản giữa HTX (kể cả các HTX cổ phần) với công ty cổ
phần, công ty đối vốn khác.
2. Về sở hữu và phân phối trong HTX: Trong HTX có thể có các loại sở
hữu đan xen nhau bao gồm sở hữu tập thể và sở hữu cá nhân xã viên (bao

gồm sở hữu đối với phần vốn góp cổ phần, vốn cho HTX vay theo cơ chế tín
dụng và các quyền lợi khác của xã viên). Chế độ phân phối đối với xã viên
thực hiện một phần theo vốn góp cổ phần, một phần theo sức lao động mà
người xã viên tham gia làm việc tại HTX và một phần khác theo mức độ xã
viên sử dụng dịch vụ của HTX.
3. Hoạt động theo Điều lệ cụ thể của HTX, được xây dựng trên cơ sở
Điều lệ mẫu HTX Công nghiệp và Xây dựng, (ban hành kèm theo Nghị định
số 44/CP, ngày 29/4/1998).
4. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HTX: HTX được tổ chức và
hoạt động theo những nguyên tắc cơ bản nhất định:
- Tù nguyện, tán thành Điều lệ HTX và xin vào, hoặc xin ra khái HTX.
- Thực hiện quản lý dân chủ và bình đẳng giữa các xã viên.
- HTX tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh,
dịch vụ của mình, đồng thời cũng tự quyết định việc phân phối thu nhập,
đảm bảo HTX và xã viên cùng có lợi.
- Chia lãi bảo đảm kết hợp hài hoà lợi Ých của xã viên và sự phát triển
của HTX.
- Hợp tác và phát triển cộng đồng : Xã viên phải phát huy tinh thần tập
thể, nâng cao ý thức hợp tác trong HTX và trong cộng đồng xã hội, hợp tác


giữa các HTX ở trong nước với nhau, cũng như hợp tác với các HTX ở nước
ngoài theo quy định của pháp luật.
5. Căn cứ vào Luật HTX thì có thể coi các HTX CNTTCN là các doanh
nghiệp tập thể, kinh doanh trên lĩnh vực CNTTCN.
6. Thành viên của HTX được gọi là xã viên. Một người có thể là xã viên
của nhiều HTX không cùng ngành, nghề, nếu điều lệ HTX không quy định
khác. Mét HTX CNTTCN Ýt nhất phải có 9 xã viên, trong đó phải có 2/3 xã
viên có nghề chuyên môn phù hợp với ngành, nghề của HTX.
7. Hé gia đình cũng có thể trở thành xã viên HTX. Điều kiện trở thành

xã viên HTX là hộ gia đình phải cử người đại diện cho mình có đủ tiêu chuẩn
xã viên, làm đơn xin vào HTX và chỉ có quyền lợi và nghĩa vụ như một xã
viên khác.
8. Về quyền lợi và nghĩa vô : Quyền lợi và nghĩa vụ của xã viên được
ghi rõ trong điều lệ mẫu HTX công nghiệp và xây dựng (ban hành kèm theo
Nghị định số 44/CP, ngày 29/4/1998), nhưng ở đây cần lưu ý một số điểm sau
:
+ Về quyền lợi :
- Xã viên được ưu tiên làm việc cho HTX và được HTX trả công lao
động theo quy định trong Điều lệ của HTX. Thu nhập (tiền công) của xã viên
là tuỳ thuộc vào tình hình sản xuất, kinh doanh của các HTX mà họ tham gia
và khả năng lao động của họ, nên thường không ổn định.
- Xã viên được hưởng lãi chia theo vốn góp, công sức đóng góp của xã
viên và theo mức độ sử dụng dịch vụ của HTX.
- Được hưởng thụ các phóc lợi xã hội chung của HTX, được HTX thực
hiện các cam kết kinh tế; được tham gia BHXH theo quy định của pháp luật.
- Được chuyển nhượng vốn góp và các quyền lợi, nghĩa vụ của mình
cho người khác nếu người đó có đủ điều kiện và tự nguyện làm đơn xin vào


HTX và được Đại hội xã viên chấp thuận. Tuy nhiên, không được phép
chuyển nhượng quyền thụ hưởng các chế độ BHXH loại hình bắt buộc.
- Được tham gia các HTX khác không cùng ngành, nghề với điều kiện
phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo điều lệ của HTX mà mình tham gia.
- Được thừa kế tài sản và các quyền lợi (trừ thừa kế hưởng thụ chế độ
BHXH bắt buộc), nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật và điều lệ HTX.
+ Về nghĩa vụ :
- Góp vốn theo quy định của điều lệ HTX.
- Thực hiện các cam kết kinh tế với HTX, chịu trách nhiệm về các
khoản nợ; chia sẻ rủi ro thiệt hại, thua lỗ của HTX trong phạm vi phần vốn

góp của mình, chịu trách nhiệm bồi hoàn các thiệt hại do mình gây ra theo
quy định của điều lệ HTX.
- Nép BHXH theo luật định.
9. Hiện tại, các HTX CNTTCN thường là các tổ chức kinh tế của những
người lao động nghèo; Ýt vốn, công nghệ sản xuất lạc hậu, thủ công là chủ
yếu; máy móc thiết bị chắp vá, già cỗi, cũ kỹ, trình độ và năng lực quản lý có
hạn. Do đó, năng suất lao động và hiệu quả kinh tế thấp.
10. Nhiều HTX đông về số lượng xã viên nhưng có quy mô sản xuất,
kinh doanh và dịch vụ nhỏ bé, lại thiếu ổn định, thường xuyên biến động mọi
mặt như lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, địa bàn hoạt
động, thị trường tiêu thụ không ổn định và nhỏ bé...
11. Trình độ quản lý của các Ban Chủ nhiệm HTX nói chung là yếu.
Trình độ tay nghề, nghiệp vụ và năng lực làm việc của đa số xã viên trong
các HTX có hạn. Đặc biệt là sự am hiểu về các chế độ chính sách của Nhà
nước (trong đó có chính sách, chế độ BHXH) còn bất cập và có mức độ.
12. Hình thức tồn tại của các HTX đa dạng, phong phú và thực hiện ở
mọi ngành, mọi nghề như: Các tổ hợp tác, HTX cấp thấp, HTX cấp cao, Liên
hiệp HTX, Liên minh các HTX, HTX cổ phần, ...


13. Khi phong trào hợp tác hoá phát triển tốt theo đúng nghĩa của nó thì
HTX trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thường rất
năng động, linh hoạt trước những thay đổi của thị trường. Đặc biệt là với các
nhu cầu nhỏ, lẻ và phục vụ kịp thời cho địa phương, do nó có khả năng
nhanh chóng, kịp thời chuyển hướng kinh doanh và mặt hàng chủ yếu, mức
tăng giảm lao động dễ dàng.
14. Nói chung nơi làm việc của các HTX CNTTCN có tính ổn định cao
và Ýt bị đe dọa mất nơi làm việc.
15. Tổ chức sản xuất kinh doanh và dịch vụ nói chung là gọn nhẹ, tổ
chức quản lý linh hoạt. Các quyết định quản lý được thực hiện nhanh, mặc

dù tình trạng thiếu tác phong công nghiệp của người xã viên là khá phổ biến,
đặc biệt là đối với các HTX chưa chuyển đổi.
2. Cơ sở lý luận về tổ chức thực hiện các chế độ BHXH trong các
HTX CNTTCN.
2.1. Cơ sở chủ yếu để tổ chức thực hiện các chế độ BHXH:
Điều 140 của Bộ Luật Lao động đã nêu rõ:
1. Nhà nước quy định chính sách về BHXH nhằm từng bước mở rộng
và nâng cao việc bảo đảm vật chất, góp phần ổn định đời sống cho người lao
động và gia đình trong các trường hợp người lao động ốm đau, thai sản, hết
tuổi lao động, chết, bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, gặp
rủi ro và các khó khăn khác.
2. Các loại hình BHXH Bắt buộc hoặc tự nguyện được áp dụng đối với
từng loại đối tượng và từng loại doanh nghiệp để bảo đảm cho người lao
động được hưởng các chế độ BHXH thích hợp”.
Riêng đối với các HTX, việc thực hiện BHXH đã được ghi rõ trong
nghĩa vụ thứ 9, Điều 9, Luật HTX được Quốc hội Khoá IX, kỳ họp thứ 9
thông qua ngày 20/3/1996 như sau: “Đóng bảo hiểm xã hội cho xã viên theo


quy định của pháp luật”, [6, trang 11]. Người xã viên HTX cũng có nghĩa vụ
và quyền lợi tham gia BHXH.
Điều 23: Quyền của xã viên ghi: “Tham gia BHXH theo quy định của
pháp luật” [6, trang 17]
Điều 24. Nghĩa vụ của xã viên ghi: “Tham gia đóng BHXH theo quy
định của pháp luật”[6, trang 18]
Ngoài ra khi tổ chức thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao
động cần dùa trên các cơ sở chủ yếu sau đây:
+ Bản chất của chế độ xã hội, thể chế chính trị, truyền thống và bản
sắc dân téc của mỗi nước.
+ Mục tiêu của sự nghiệp BHXH thực hiện tại mỗi quốc gia;

+ Chính sách BHXH đối với người lao động của Đảng và Nhà nước;
+ Tiêu chuẩn tối thiểu về các chế độ BHXH đã được Công ước quốc tế
102 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) quy định từ năm 1952.
+ Mức độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và của
cộng đồng nói riêng.
+ Nhận thức và nhu cầu về BHXH của cộng đồng nói chung và của
người LĐ nói riêng.
+ Điều kiện làm việc, đặc điểm và tính chất của công việc lao động mà
người LĐ phải thực hiện thường xuyên.
+ Khả năng đóng góp tiền BHXH của đa số người lao động trong cộng
đồng.
+ Mức sống trung bình và mức sống tối thiểu của đa số người dân lao
động trong cộng đồng.
+ Xác suất trung bình xẩy ra các hiện tượng rủi ro xã hội, tai nạn lao
động, ốm đau.. của người lao động tính trong những khoảng thời gian khác
nhau.


+ Sù tính toán khoa học đối với từng chế độ BHXH dùa trên cơ sở xác
định các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến từng chế độ nói riêng và quỹ BHXH
nói chung.
+ Mức hưởng BHXH phải thấp hơn mức chuẩn làm cơ sở để xác định
tiền đóng BHXH, đồng thời phải đảm bảo cân bằng thu- chi của quỹ BHXH.
Nhưng phải đảm bảo mức sống tối thiểu cho người LĐ và gia đình họ.
Quá trình thực hiện cần đảm bảo các yêu cầu như: tính hợp lý; tính
thống nhất; tính hệ thống; tính đồng bộ; tính kế thừa. Xác định được mô
hình, cơ cấu tổ chức bộ máy, quy định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn.
Đảm bảo hệ thống bộ máy phải tinh, gọn.
2.2. Cơ sở lùa chọn các chế độ BHXH thực hiện trong các HTX
CNTTCN:

Để lùa chọn các chế độ BHXH sẽ thực hiện trong các HTX CNTTCN,
trước hết, cần phải căn cứ vào chính sách BHXH và các chế độ BHXH mà
Đảng và Nhà nước ta đã ban hành. Sau đó có thể dùa vào các cơ sở chủ yếu
sau để điều chỉnh cho phù hợp.
Như đã biết, chế độ BHXH là những biểu hiện cụ thể, những phương
tiện thực hiện các mục tiêu của chính sách BHXH của một quốc gia nào đó.
Chế độ BHXH nêu lên sự bố trí, sắp xếp nhất định về các phương tiện (khả
năng tài chính, điều kiện kinh tế - xã hội), phù hợp với những quy luật của
từng nước trong các giai đoạn phát triển khác nhau.
Một chế độ BHXH thường được xác định bởi các yếu tố sau: Đối tượng
được hưởng BHXH; các trường hợp được BHXH; điều kiện hưởng; mức trợ
cấp và thời hạn hưởng trợ cấp BHXH.
Những yếu tố này lại dùa trên cơ sở những căn cứ sau :
- Các nhu cầu tối thiểu và nhu cầu mở rộng của đối tượng được thụ
hưởng BHXH.


- Các chi phí bắt buộc để có thể trang trải những “rủi ro” xã hội được
bảo hiểm.
- Mức độ giảm sút thu nhập khi rủi ro xã hội xảy ra.
- Khả năng, mức độ và thời hạn đóng góp BHXH.
- Khả năng thanh toán của quỹ BHXH.
Ngoài ra, còn phải xem xét đến thể chất của con người, điều kiện sống
và điều kiện lao động của con người, chức năng tổ chức và trình độ quản lý
xã hội của quốc gia.
Mét trong những vấn đề để lùa chọn chế độ BHXH trong các HTX
TTCN là cơ sở xác định các điều kiện hưởng BHXH của đối tượng tham gia
BHXH thuộc khu vực HTX CNTTCN cũng tương tự như với người lao động
thuộc khu vực khác. Trong hệ thống các điều kiện có thể nêu một số điều
kiện chủ yếu sau :

+Điều kiện sinh học;
+ Mức suy giảm khả năng lao động của người lao động;
+ Cơ sở kinh tế - xã hội xác định mức hưởng BHXH : ở đây có thể nêu
một số nhân tố chính: Khả năng hoặc tiềm lực phát triển kinh tế của đất nước
nói chung và của các HTX CNTTCN nói riêng; trình độ quản lý lao động,
quản lý kinh doanh của các HTX CNTTCN; các chính sách về dân số, lao
động và việc làm được thực hiện tại khu vực này; mức sống của xã viên và
các thành viên trong gia đình họ; trình độ nhận thức xã hội của xã viên. .
Tuỳ theo từng điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể mà có thể lùa chọn các
chế độ BHXH sẽ thực hiện.
+ Điều kiện tài chính BHXH thuộc khu vực HTX CNTTCN:
Trong hệ thống các điều kiện BHXH, điều kiện về tài chính BHXH giữ
vị trí đặc biệt quan trọng. Trong BHXH hiện đại, điều kiện tài chính được coi
là điều kiện tiên quyết, làm cơ sở để lùa chọn các chế độ BHXH. Mối quan
hệ tài chính trong BHXH thể hiện mối quan hệ nhu cầu và khả năng đáp ứng


×