Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Nghệ thuật của cách xưng hô Mình-Ta trong Việt Bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.5 KB, 3 trang )

Cặp đại từ xưng hô ta – mình là là cặp từ xưng hô quen thuộc
trong những câu ca dao, dân ca, mang sắc điệu trữ tình, đằm
thắm, mặn nồng của tình cảm mà những đôi lứa yêu nhau dành
cho nhau
Ở bài thơ Việt Bắc, viết về một sự kiện mang tầm lịch sử nhưng Tố Hữu đã lựa chọn cách mở đầu bằng
một cuộc đối đáp mang âm hưởng dân ca và cách xưng hô ta – mình ngọt ngào đằm thắm. Điều đặc biệt
là cách tác giả sử dụng cặp từ ta – mình trong bài thơ không chỉ một lần mà nó trở thành một điệp khúc
trở đi trở lại, luyến láy hết sức tài hoa.
Đoạn đầu bài thơ là lời của người ở lại với người ra đi, thể hiện tình cảm của người dân Việt Bắc với cán
bộ kháng chiến trong buổi chia tay:
Mình về mình có nhớ taMười lăm năm ấy thiết tha mặn nồngMình về mình có nhớ khôngNhìn cây nhớ
núi, nhìn sông nhớ nguồn
Chữ mình ở đây chỉ người ra đi, còn chữ ta để nói tới người ở lại. Tình cảm nhớ thương dồn nén sâu nặng
trong chữ mình. Mỗi câu lục trong đoạn thơ chữ mình lặp lại hai lần cùng với nhiều thanh bằng làm nhịp
thơ như trùng xuống, khắc khoải, da diết. Người ở lại đặt những câu hỏi tu từ vừa như nhắc nhở người ra
đi hãy nhớ về Việt Bắc, vừa thể hiện tình cảm sâu sắc, mặn nồng. Bốn chữ nhớ trong 4 dòng thơ nhắc nhớ
về 15 năm kháng chiến và khung cảnh Việt Bắc. Cặp từ xưng hô mình – ta đầy tình tứ như xoắn quyện
lấy nhau, vì là lời của người ở lại nên nhắc tới mình thì nhiều, nhắc tới ta thì ít. Chữ ta chỉ được nhắc đến
một lần như một sự khiêm tốn để cho những kỉ niệm ùa về trong giây phút chia tay. Trong ca dao Việt
Nam, cặp từ xưng hô mình –ta cũng khá quen thuộc, là cách xưng hô của những đôi lứa yêu nhau. Nhắc
đến cặp từ này, người ta thường nhắc đến nỗi nhớ, đến sự gắn bó thủy chung:
Nước non một gánh chung tìnhNhớ ai ai có nhớ mình chăng ai?Một đàn cò trắng bay quanhCho loan nhớ
phượng cho mình nhớ taMình nhớ ta như cà nhớ muốiTa nhớ mình như cuội nhớ trăngMình về, mình nhớ
ta chăng?Bao giờ cho hương bén hoaCho đào bén túi, cho ta bén mìnhThuyền không, đậu bến Giang
ĐìnhTa không, ta quyết lấy mình làm đôiTrăm năm ước bạn chung tìnhTrên trời dưới đất, có mình có ta
Những câu thơ lục bát của Tố Hữu vận dụng nhuần nhuyễn cách nói của ca dao, dân ca. Cũng có thể nói
đó là một lối tập ca dao mà đọc lên âm điệu thật tha thiết, ngọt ngào. Chất giọng Huế, chất giọng trữ tình
thương mến ấy có lẽ chỉ tìm thấy ở tác giả Việt Bắc.
Đoạn thơ thứ hai của bài là lời đáp lại của người ra đi tạo nên sự cân xứng cho kết cấu đối đáp dân ca.
Người ở lại nhớ nhung bao nhiêu thì người ra đi bâng khuâng, bồn chồn, lưu luyến bấy nhiêu:
Tiếng ai tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước điÁo chàm đưa buổi phân liCần tay nhau


biết nói gì hôm nay
Chữ ta, chữ mình không xuất hiện nhưng thực ra đã hóa thân vào tiếng ai tha thiết bên cồn, vào hình ảnh
áo chàm giản dị mà đầy nghĩa tình cách mạng. Có cả mình, cả ta ở cái cầm tay như một nốt lặng của tình
cảm trong buổi phân ly. Ở đây, chỉ có thứ ngôn ngữ không lời của ánh mắt mới đủ sức chứa đựng nỗi
niềm của người đi, kẻ ở.
Sang đến đoạn ba và đoạn bốn cặp từ mình – ta được tác giả sử dụng hết sức tài hoa, luyến láy tạo nhạc
tính cho đoạn thơ.
Ở đoạn ba, cặp từ mình đi, mình về lặp đi lặp lại 6 lần trong 6 câu lục của đoạn thơ. Mình ở đây vẫn chỉ
người ra đi.Và dù là mình đi hay mình về cũng chỉ chung một hành động. Đi là chia tay chiến khu, về là
về miền xuôi thủ đô. Nét đặc sắc trong sự lặp lại của cụm từ này là không hề tạo ra sự nhàm chán cho
người đọc bởi tiết tấu biến hóa: mình đi – mình về – mình về -mình đi:


Mình đi, có nhớ những ngàyMưa nguồn suối lũ những mây cùng mùMình về , có nhớ chiến khuMiếng
cơm chấm muối, mối thù nặng vai?Mình về, rừng núi nhớ aiTrám bùi để rụng, măng mai để giàMình đi,
có nhớ những nhàHắt hiu lau xám, đậm đà lòng sonMình về, còn nhớ núi nonNhớ khi kháng nhật, thưở
còn Việt Minh
Và mỗi lần như vậy câu nào cũng gắn với từ nhớ. Người ở nhắc lại những kỉ niệm trong buổi đầu kháng
chiến đầy khó khăn gian khổ mà sâu nặng ân tình. Tố Hữu cũng sử dụng triệt để thủ pháp đối trong những
câu bát của đoạn thơ này tạo nhịp thơ vừa cân xứng hài hòa, vừa dễ đi vào lòng người. Kết thúc đoạn thơ
là ba chữ mình trong một câu thơ độc đáo:
Mình đi, mình có nhớ mìnhTân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?
Chữ mình ở đây vừa để chỉ người ra đi, vừa để nói tới người ở lại trong một sự hòa quyện khăng khít tuy
hai mà một. Chữ nhớ trở thành một chiếc cầu nối giữa hai chữ mình càng làm tăng thêm sự da diết nhớ
nhung trong tình cảm của người dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến. Ta đã gặp ở đâu đó trong ca dao
những cuộc chia tay và biết bao nỗi nhớ của người đi, người về như vậy:
Chàng về khuyên bạn nhất tâmTrăm năm chớ có ôm cần thuyền aiChàng về giẫm cội cho bềnGió rung
mặc gió, em không quên chàng
Tình cảm thủy chung son sắt của đôi lứa yêu nhau từ câu ca dao có bao đời nay đã đi vào những vần thơ
cách mạng của Tố Hữu sao mà tự nhiên và ngọt ngào đến vậy. Ta có cảm tưởng lời của người ở lại cứ

ngân nga dài mãi như sợi dây vô hình vấn vít lấy người ra đi: trong lòng ta, giờ chỉ có mình, sao nỡ ra đi?

Không lặp lại cách nói ở đoạn ba, đến đoạn bốn cặp từ mình – ta đắp đổi cho nhau một cách linh hoạt ta
với mình, mình với ta tạo thành 2 vế cân xứng:
Ta với mình, mình với taLòng ta sau trước mặn mà đinh ninhMình đi, mình lại nhớ mìnhNguồn bao nhiêu
nước, nghĩa tình bấy nhiêu
Mình với ta như một đôi không thể tách rời, để rồi hòa lại làm một Mình đi, mình lại nhớ mình. Đó chính
là câu trả lời cho câu hỏi Mình đi, mình có nhớ mình ở đoạn thơ trước. Có thể nói sự nhắc lại này tô đậm
hơn nữa sự gắn bó không thể tách rời giữa ta và mình, giữa cán bộ kháng chiến và đồng bào Việt Bắc.
Cuộc chia tay trở thành khúc hát đối đáp để bày tỏ tình cảm nhớ nhung, lưu luyến. Tình cảm ấy sẽ ở lại
trong tim người dân Việt Bắc, và sẽ theo người cán bộ về xuôi. Nhưng dù đi đâu về đâu, tình cảm ấy
không bao giờ vơi cạn. Bàn sâu hơn về chữ mình, ta cũng gặp khá nhiều trong ca dao:
Bây giờ hỏi thiệt anh BaCòn thương như cũ hay là hết thương?Ban ngày dãi nắng tối lại dầm sươngThân
em lao khổ, mình có nhớ thương hỡi mình?Trầu không vôi ắt trầu lạtCau không hạt ắt là cau giàMình
không lấy ta ắt là mình thiệtTa không lấy mình ta biết lấy ai?
Cách sử dụng từ mình của Tố Hữu vừa học tập ca dao, vừa có sự sáng tạo mới mẻ. Ca dao cũng nhắc
nhiều tới từ mình trong một câu, nhưng thường hàm ý chỉ một người. Còn với Việt Bắc, chỉ chữ mình
thôi có cả ta và mình trong sự thống nhất.
Qua bốn đoạn thơ đầu của bài thơ Việt Bắc, ta thấy cặp đại từ xưng hô ta –mình được tác giả sử dụng khá
nhuần nhuyễn, thành thục, tài hoa, lặp lại nhưng không vô vị, luyến láy mà không nhàm chán, thống nhất
mà rất linh hoạt. Thể thơ lục bát, phép điệp, phép đối hài hòa…Tất cả tạo nên một cuộc đối đáp đầy tâm
trạng giữa người ở lại và người ra đi. Có thể nói đây là một minh chứng rõ nét cho chất trữ tình chính trị,
chất dân tộc đậm đà của ngòi bút Tố Hữu.
Trong những đoạn khác của bài Việt Bắc, cặp từ ta – mình vẫn được tác giả sử dụng một cách tài tình và
khéo léo, tô đậm nghĩa tình của người dân Việt Bắc với cách mạng, với Đảng, với Bác Hồ, khắc sâu nỗi
nhớ của người cán bộ khi phải chia tay chiến khu, đồng thời dựng lại một thời kì kháng chiến gian khổ
mà hào hùng ở chiến khu Việt Bắc:


Ta đi, ta nhớ những ngàyMình đây ta đó đắng cay ngọt bùi…Thương nhau chia củ sắn lùiBát cơm sẻ nửa,

chăn sui đắp cùng…Ta về, mình có nhớ taTa về, ta nhớ những hoa cùng người…Mình về mình lại nhớ
taMái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào…Mình về với Bác miền xuôiThưa giùm Việt Bắc không nguôi
nhớ ngườiNhớ ông cụ mắt sáng ngờiÁo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường…
Ta – mình là điệp khúc hay nhất, trữ tình nhất trong Việt Bắc – một khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca
về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến một thời.
loigiaihay.com
Xem thêm: Video bài giảng môn Văn học
>>>>> Luyện thi ĐH-THPT Quốc Gia 2016 bám sát cấu trúc Bộ GD&ĐT bởi các Thầy Cô uy tín,
nổi tiếng đến từ các trung tâm Luyện thi ĐH hàng đầu Hà Nội, các Trường THPT Chuyên và Trường Đại
học.



×