Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Câu hỏi + đáp án ôn thi cao học môn triết học marx – lenin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (303.73 KB, 60 trang )

CÂU HỎI ÔN TẬP TRIẾT HỌC MARX – LENIN
Câu 1: Trình bày các tiền đề, giai đoạn phát triển của triết học Marx – Lenin?
Thứ nhất: Các tiền đề ra đời triết học Marx – Lenin:
• Tiền đề kinh tế - chính trị - xã hội:
-

Những năm 30 của thế kỉ 19, Chủ nghĩa tư bản bắt đầu đi vào giai đoạn

phát triển mới: phương thức sản xuất tư bản đã phát triển manh mún và trở thành lực
lượng kinh tế thống trị ở Anh – Pháp và một phần ở Đức. Nó thể hiện tính vượt trội
hơn hẳn so với nền sản xuất phong kiến. Chủ nghĩa tư bản đã đơn giản hóa mối quan
hệ xã hội, tạo ra không gian thông thoáng cho cá nhân, khai thông cho sự phát triển
của lực lượng sản xuất, lý luận, đòi hỏi cách mạng hóa khoa học kĩ thuật. Nó đã thay
đổi hình thái kinh tế xã hội phong kiến bằng hình thái kinh tế xã hội Tư bản – là một
tất yếu khách quan và nó thể hiện sự vận động đi lên của xã hội. Giai cấp Tư sản đã
đóng vai trò hết sức quan trọng trong lịch sử
-

Quan hệ sản xuất thúc đẩy các quan hệ xã hội khác. Quan hệ sản xuất Tư

bản với tinh thần cạnh tranh, sản xuất mới có tính trọng tâm, phá vỡ tình trạng cát cứ,
bế quan tỏa cảng, tích tụ sản xuất, khắc phục tình trạng sản xuất nhỏ, manh mún.
Cách mạng Tư sản thực chất là thay thế phương thức sản xuất cũ bằng phương thức
sản xuất tư bản.
-

Sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm bộc lộ

những tư tưởng đối lập bên trong vốn có của nó và biểu hiện về mặt xã hội là cuộc
đấu tranh của giai cấp công nhân chống các nhà tư bản. Nhiều cuộc khởi nghĩa của
công nhân đã mang tính chất của khởi nghĩa vũ trang


 Từ đó đặt ra nhu cầu khách quan là phải có một vũ khí lý luận sắc bén, phản
ánh được một cách khoa học quá trình vận động cách mạng của giai cấp công
nhân – đó là sự chuẩn bị về tư tưởng, lý luận cho cuộc cách mạng về chính trị
 Các phong trào mang tính tự phát, thiếu tổ chức. Do đó, đòi hỏi cấp thiết
phải có một vũ khí lý luận khoa học, các học thuyết Xã hội chủ nghĩa không
tưởng ra đời.
 Sự đối lập của phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa ngày càng gay gắt
dẫn đến phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân càng lúc càng
1


gay gắt. Vì vậy, vai trò lịch sử của giai cấp tư sản về cơ bản kết thúc, một số
hình thái tư sản trước đây có những giá trị khoa học nhất định giờ không còn
tính khách quan khoa học nữa.
-

Triết học Marx ra đời đã phản ánh đúng lịch sử khách quan phát triển đấu

tranh Cách mạng của giai cấp công nhân toàn thế giới như nguyện vọng và lợi ích
chân chính của nó. Với sự ra đời của triết học Marx, giai cấp công nhân đã tìm thấy ở
đó sức mạnh và vũ khí tinh thần của mình.
• Tiền đề lý luận:
1. Tiền đề sâu xa: Đó là sự kế thừa có chọn lọc tinh hoa, tinh thần của nhân
loại được tích lũy trong suốt hơn 2.000 năm. Di sản Karl Marx và Engels kế
thừa là phong cách tư duy phương tây không chấp nhận sự khẳng định một
chiều mà tìm kiếm chân lý mới, tranh luận tạo nên thời đại lịch sử kế tiếp
nhau mang phong cách tư duy hai chiều, mặc dù mỗi thời đại sau đều có sự
kế thừa thời đại trước.
2. Tiền đề trực tiếp và cụ thể: là triết học cổ điển Đức mà cụ thể là phương
pháp biện chứng của Hegel và chủ nghĩa duy vật của Feuerbach.

3. Các tiền đề khác: Truyền thống văn hóa và khai sáng triết học Marx đã
tiếp thu và phát triển lên tầm cao mới, những giá trị nhân văn của các thời
đại đã qua được phát triển lên tầm cao mới hoàn thiện hơn
4. Tiền đề khoa học tự nhiên: Thế kỉ 18 – 19, khoa học tự nhiên phát triển
như vũ bão với hàng loạt phát minh mang ý nghĩa vượt thời đại, đưa đến sự
biến đổi trong phong cách tư duy của con người. Nổi bật là 3 phát minh
lớn:
- Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng
- Thuyết tế bào
- Thuyết tiến hóa
Thứ hai: Thời kì phát triển của triết học Marx
-

Giai đoạn 1837 – 1844:

Quá trình chuyển biến tư tưởng của Marx và

Engels về mặt thế giới quan, từ Chủ nghĩa Duy tâm sang Chủ nghĩa Duy vật biện
chứng, về mặt nhân sinh quan từ Chủ nghĩa Dân chủ sang Chủ nghĩa Cộng sản, tất cả
thể hiện qua hàng loạt tác phẩm.
2


-

Giai đoạn 1844 – 1848:

Là thời kì luận điểm nền tảng đầu tiên của Chủ

nghĩa Duy vật biện chứng và Chủ nghĩa Duy vật lịch sử, xác định được diện mạo của

Chủ nghĩa Marx nói chung và triết học Marx nói riêng.
-

Giai đoạn 1848 – 1871:
• Thời kì 1848 – 1852:

Sự phát triển của quan niệm duy vật về lịch sử

trong quá trình cách mạng Dân chủ Tư sản - Marx và Engels đánh giá nội dung
và thực chất các cuộc cách mạng Dân chủ tư sản, vai trò của giai cấp nông dân
trong các cuộc cách mạng đó, rút ra những bài học quý giá về liên minh các
lực lượng trong xã hội vì những mục tiêu chung, phác thảo những vấn đề tổ
chức xã hội tương lai.
• Thời kì 1950 – 1960:

Sự phát triển triết học Marx trong quá trình xây

dựng Kinh tế - Chính trị học, đáng chú ý nhất là bộ Tư bản, nó không chỉ là
một tác phẩm Kinh tế - Chính trị mà là một hệ thống triết học thật sự, là sự giải
thích các vấn đề kinh tế bằng phương pháp triết học.

3


Câu 2: Triết học là gì? Vấn đề cơ bản của triết học, phương pháp nhận thức
thế giới của triết học?
Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội về những nguyên tắc chung
nhất của tồn tại và nhận thức, thái độ của con người đối với thế giới, là khoa học về
những quy luật chung nhất của sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và TD (?)
1. Khái niệm triết học:

- Triết học là hệ thống lý luận chung nhất của con người về thế giới và vai trò của
con người trong thế giới ấy
Tri thức triết học mang tính: hệ thống – lý luận – khái quát
- Triết học đã ra đời trong thời kì chiếm hữu nô lệ (ở phương tây), và trong thời kì
từ chiếm hữu nô lệ sang phong kiến (ở phương đông) gắn liền với phân công lao
động xã hội, tách lao động trí óc ra khỏi lao động chân tay.
+ Ở giai đoạn đầu, khi triết học mới ra đời, triết học nghiên cứu mọi thứ tri
thức, triết học là tri thức bao gồm mọi tri thức. Đây là giai đoạn mà triết học là
khoa học của mọi khoa học. Do điều kiện sống, triết học phương đông gọi là triết
học hướng nội (đề cập đến con người, xã hội loài người), triết học phương tây là
triết học hướng ngoại (chủ yếu nói về vũ trụ).
+ Thời kì trung cổ, giáo hội giữ vai trò nhiếp chính, quyền lực của nhà nước
lúc này không bằng giáo hội, khoa học lúc này phục vụ cho thần học, khoa học
nghiên cứu kinh thánh để chứng minh sự đúng đắn của kinh thánh (ở phương tây),
còn ở phương đông triết học vẫn phát triển như thời kì cổ đại.
+ Thời kì phục hưng (Thời kì khai sáng) – thời kì khôi phục những gì hưng
thịnh bị vùi dập đem lại ánh sáng trí tuệ. Khoảng thế kỉ 15, giai cấp tư sản giành
được chính quyền nên rất muốn đẩy mạnh quá trình sản xuất ra của cải vật chất,
nhận thấy cần phải phát triển về khoa học  tạo điều kiện cần thiết để khoa học
phát triển, đánh dấu một thời kì mới về đối tượng nghiên cứu của triết học, lấy tự
nhiên – con người – xã hội loài người làm đối tượng nghiên cứu.
Vào khoảng thế kỉ 17, lượng kiến thức của con người đã tương đối nhiều. Sự
phát triển của sản xuất lúc này đòi hỏi con người phải hiểu thật sâu từng lĩnh vực của
thế giới, phân công lao động đi vào chi tiết, tỉ mỉ, thể hiện sản xuất đã phát triển, đòi
hỏi kiến thức sâu của con người, các nhà khoa học phải chọn từng lĩnh vực để nghiên
4


cứu. Mỗi một lĩnh vực các nhà khoa học nghiên cứu hình thành nên một khoa học cụ
thể, lúc này các khoa học tách khỏi triết học để trở thành một khoa học độc lập.

2. Vấn đề cơ bản của triết học:
Ngành khoa học nào cũng nghiên cứu rất nhiều vấn đề, tất cả các vấn đề đó gọi
là hệ thống các vấn đề (hệ vấn đề). Trong hệ thống vấn đề thì vị trí và vai trò của các
vấn đề không giống nhau. Trong các vấn đề sẽ có những vấn đề bổ trợ, có những vấn
đề giữ vai trò nền tảng, định hướng để ngành khoa học ấy giải quyết những vấn đề
còn lại – Đó là vấn đề cơ bản.
Vậy, vấn đề cơ bản của triết học là gì? Đó là vấn đề cơ bản, nền tảng, đóng vai
trò định hướng để dựa vào đó giải quyết những vấn đề còn lại. Đi vào cụ thể thì vấn
đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Mối quan hệ này còn
thể hiện mối quan hệ giũa tồn tại và tư duy, giữa thế giới và con người.
Vì sao mối quan hệ giữa vật chất và ý thức lại là vấn đề cơ bản của triết học?
Bởi vì:
1. Không có một trường phái triết học nào không bàn đến mối quan hệ và vấn đề
đó trong suốt lịch sử triết học. Mối quan hệ này xuyên suốt lịch sử triết học, không có
trào lưu triết học nào lại không giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Khi
giải quyết vấn đề này ta sẽ biết đâu là triết học duy học duy vật và đâu là triết học
duy tâm.
2. Bởi khi giải quyết được vấn đề này thì các vấn đề khác sẽ được giải quyết.
3. Trong phép biện chứng thừa nhận biện chứng khách quan và biện chứng chủ
quan. Biện chứng chủ quan thể hiện dưới dạng lý luận nhận thức, phép biện chứng và
logic biện chứng. Đổi mới tư duy thực chất là trở về với tư duy biện chứng. Lý luận
nhận thức có khách thể và chủ thể. Triết học xã hội có tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
- Mặt thứ nhất: Xác định ngôi thứ giữa vật chất và ý thức, xác định cái nào có
trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào. Có 3 cách xác định:
+ Cách 1: Vật chất có trước – ý thức có sau  vật chất quyết định ý thức, thừa
nhận tính thứ nhất của vật chất, tính thứ 2 của ý thức.
+ Cách 2: Ý thức có trước - vật chất có sau  ý thức quyết định vật chất, thừa
nhận tính thứ nhất của ý thức, tính thứ 2 của vật chất
5



+ Cách 3: Vật chất và ý thức không tồn tại độc lập, chúng không nằm trong
quan hệ sản sinh, cũng không nằm trong quan hệ quyết định lẫn nhau.
Trong 3 cách giải quyết trên thì:
* Cách 1 và 2, tuy đối lập về nội dung nhưng giống nhau ở chỗ chúng đều thừa
nhận tính thứ nhất của một nguyên thể vật chất hoặc ý thức, những cách giải quyết
này thuộc về triết học nhất nguyên.
Trong triết học nhất nguyên, những người khẳng định tính thứ nhất của vật chất
thuộc trường phái nhất nguyên duy vật, còn gọi là chủ nghĩa duy vật. Những người
khẳng định tính thứ nhất của ý thức thuộc trường phái triết học nhất nguyên duy tâm,
còn gọi là chủ nghĩa duy tâm.
Chủ nghĩa duy vật gồm:

Chủ nghĩa duy vật chất phác
Chủ nghĩa duy vật siêu hình
Chủ nghĩa duy vật biện chứng

Chủ nghĩa duy tâm gồm:

Chủ nghĩa duy tâm chủ quan
Chủ nghĩa duy tâm khách quan

* Cách 3 thuộc về triết học nhị nguyên. Triết học nhị nguyên có khuynh hướng
điều hòa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, nhưng về bản chất – triết học nhị
nguyên nghiêng về chủ nghĩa duy tâm
- Mặt thứ hai: Đề cập đến thuộc khả năng nhận thức của con người; Con người có
khả năng nhận thức những điều mình chưa biết không?
* Phái khả tri cho rằng con người có khả năng nhận thức những gì mình chưa
biết, phái này khẳng định con người có thể hiểu được đối tượng từ rộng đến sâu, từ ít

đến nhiều. Lý luận của phái này gọi là khả tri luận.
* Phái bất khả tri cho rằng con người không có khả năng nhận thức những gì
mình chưa biết. Phái này cho rằng con người cứ phải theo đuổi các sinh vật bởi nó
luôn thay đổi nên con người không thể hiểu được đối tượng hoặc ít ra là nhận thức
được bản chất của nó.
3. Phương pháp nhận thức thế giới của triết học:
Phương pháp là hệ thống những nguyên tắc, những yêu câu mà bắt buộc con
người phải thực hiện trong khi con người vươn đến mục đích của mình
6


Có 2 phương pháp:

Phương pháp siêu hình
Phương pháp biện chứng

- Phương pháp siêu hình: Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời khỏi
cái khác biệt và giữa những mặt đối lập nhau có một ranh giới tuyệt đối. Nhận
thức đối tượng ở trạng thái bất biến, nếu có sự biến đổi thì chỉ là sự biến đổi về
số lượng và nguyên nhân của sự biến đổi đó nằm ngoài đối tượng.
- Phương pháp biện chứng: nhận thức đối tượng trong mối liên hệ có sự tác
động qua lại, ảnh hưởng, ràng buộc nhau, được nhận thức trong trạng thái
động, nằm trong xu thế thay đổi, vận động và phát triển.
Kết luận: Triết học dựa trên các thành tựu khoa học cụ thể, rút ra những kết luận
chung nhất, và những kết luận chung ấy đóng vai trò định hướng của các khoa học
cụ thể.

7



Câu 3: Phân tích nội dung và ý nghĩa định nghĩa vật chất của Lenin?
Định nghĩa:
1. Các quan niệm của các nhà duy vật trước Marx:
- Quan niệm thời cổ đại: Xuất hiện những quan niệm mang tính trực quan cảm
tính để giải thích thế giới theo lập trường duy vật. Theo họ, thế giới tồn tại
khách quan được cấu thành từ vật chất, vật chất là bản nguyên của thế giới.
Tuy nhiên, những quan niệm này mang tính trực quan, cảm tính, họ đồng nhất
vật chất với vật chất cụ thể. Những quan điểm này còn thô sơ, nhưng nó có ưu
điểm là vật chất được xem là cơ sở đầu tiên của mọi sự vật hiện tượng trong
thế giới khách quan. Quan niệm đó hoàn toàn đối lập với quan niệm của Chủ
nghĩa duy tâm về cơ sở đầu tiên của thế giới là tinh thần.
- Quan niệm về vật chất của triết học duy vật thời kì khai sáng (TK 17 - 18):
Quan niệm về vật chất thời kì này mang tính siêu hình máy móc. Ngoài việc
khẳng định chủ nghĩa duy vật thời cổ đại, các nhà triết học thời kì này còn
đồng nhất vật chất với một thuộc tính nào đó của vật chất - như đồng nhất vật
chất với khối lượng, năng lượng
- Quan niệm về vật chất của Triết học duy vật thời cận đại (cuối TK 19 đầu 20):
Đến cuối TK 19 đầu 20, vật lý đã có những phát minh rất quan trọng, chính nó
đã góp phần làm sụp đổ chủ nghĩa duy vật cũ. Việc phát hiện ra tia X, phát
hiện ra hiện tượng phóng xạ, phát hiện ra điện tử, hiện tượng khối lượng điện
tử tăng khi vận tốc của nó tăng. Những phát hiện đó đối lập nhau với quan
niệm vật chất về nguyên tử hay là về khối lượng. Chủ nghĩa duy tâm lợi dụng
tình hình đó để giải thích cho quan điểm của mình về thế giới, chống lại chủ
nghĩa duy tâm. Vì vậy, thời kì này đã diễn ra một cuộc khủng hoảng về thế
giới quan trong các nhà triết học và khoa học có quan điểm duy vật siêu hình
về vật chất.
Trước sự khủng hoảng đó của triết học, Lenin đã viết tác phẩm “Chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, ông đã bác bỏ những quan niệm sai
lầm của chủ nghĩa duy tâm và cho rằng không phải “vật chất tiêu tan” mà chỉ có
giới hạn hiểu biết của con người về vật chất là tiêu tan, nghĩa là cái mất đi không

phải là vật chất mà là giới hạn của sự nhận thức về vật chất.
8


Bằng sự kế thừa khoa học tự nhiên, những quan điểm có chọn lọc của chủ
nghĩa duy vật trước Marx, Lenin đã đưa ra một định nghĩa toàn diện và khoa học về
phạm trù vật chất.
2. Định nghĩa của Lenin về vật chất:
Định nghĩa: Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Phân tích:
a. Vật chất là một phạm trù triết học: Phạm trù là những khái niệm cơ bản,
không thể thiếu được trong một ngành khoa học nào đó, phản ánh những đặc trưng
chung nhất của một nhóm đối tượng.
-

Phạm trù triết học là một phạm trù rộng và khái quát nhất không thể hiểu

theo nghĩa hẹp như các khái niệm vật chất thường dùng trong các lĩnh vực khoa học
cụ thể hoặc đời sống hàng ngày. Vật chất có thể định nghĩa được bằng cách đặt nó
trong quan hệ độc lập với ý thức xem cái nào có trước, cái nào quyết định cái nào.
-

Với tư cách là một phạm trù triết học, vật chất phải thể hiện thế giới quan

và hướng đến giải quyết vấn đề cơ bản của triết học.
b. Vật chất dùng để chỉ thực tại khách quan: Thực tại khách quan là những gì
tồn tại ngoài ý thức, không phụ thuộc vào ý thức, ý thức không thể làm thay đổi hay
quyết định bất kì cái gì của nó. Đó là tiêu chuẩn để phân biết cái gì là vật chất, cái

gì không phải là vật chất, cả trong tự nhiên và trong đời sống xã hội.
-

Vật chất là vô cùng, vô tận, nó có vô vàn các thuộc tính khác nhau, rất đa

dạng và phong phú mà khoa học ngày càng tìm ra và phát hiện thêm những thuộc
tính mới của nó.
-

Trong tất cả những thuộc tính của vật chất thì thuộc tính “thực tại khách

quan”, sự tồn tại bên ngoài độc lập với ý thức của con người là thuộc tính chung
nhất, vĩnh hằng với mọi dạng, mọi đối tượng khác nhau của vật chất.
-

Tất cả những gì tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức của con người đều

là những dạng khác nhau của vật chất. Như những quy luật kinh tế xã hội, những
quan hệ sản xuất của xã hội, tuy không tồn tại dưới dạng vật thể, khối lượng, năng

9


lượng, cấu trúc phân tử, nguyên tử… nhưng chúng tồn tại khách quan, có trước ý
thức và quyết định ý thức. Vì vậy chúng chính là vật chất dưới dạng xã hội
-

Thuộc tính “tồn tại khách quan” cũng là tiêu chuẩn để khẳng định thế giới

vật chất có tồn tại thực sự, tồn tại do chính nó hay không. Bởi vậy, nó là cơ sở khoa

học để đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm dưới mọi hình thức
c. “Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác”: Vật chất tồn tại
khách quan, nhưng không tồn tại vô hình, trừu tượng, mà là sự tồn tại hiện thực, cụ
thể. Khi vật chất tác động lên các giác quan của con người thì gây ra cảm giác của
con người, đem lại cho con người sự nhận thức về chính nó. Như vậy, khái niệm
nhận thức của con người đối với vật chất chính là xuất phát từ thuộc tính tồn tại
cảm tính, tức tồn tại có thể nhận thức được bản thân vật chất.
Con người có thể nhận thức được khách quan nhờ các giác quan của mình, nó
thuộc về phái khả tri (con người có thể nhận thức những cái mình chưa biết). Nó
nói lên tầm quan trọng của các giác quan trong quá trình nhận thức, khoa học chứng
minh rằng mọi hoạt động nhận thức của con người đều thông qua các giác quan.
Nếu các giác quan này ngày càng hoàn thiện thì nhận thức của con người ngày càng
cao, nếu các giác quan của con người khiếm khuyết thì nhận thức của con người
cũng khiếm khuyết. Trình độ nhận thức của con người phụ thuộc rất nhiều vào các
giác quan, đó là cầu nối của quá trình nhận thức, điều đó khẳng định thực tại khách
quan là cái có trước, còn cảm giác là cái có sau, vật chất tồn tại không lệ thuộc vào
ý thức.
d. “Được cảm giác chúng ta chép lại, chụp lại”: phản ánh sự hiểu biết của con
người chỉ là hình ảnh về thực tại khách quan. Nó là kết quả của quá trình các giác
quan của con người chụp lại, chép lại, phản ánh lại thực tại khách quan  sự hiểu
biết của con người thuộc lĩnh vực ý thức, thực tại khách quan thuộc về thế giới vật
chất. Ý thức là hình ảnh về thế giới vật chất xã hội trong quá trình nhận thức của
con người. Chính vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất sẽ quyết
định nội dung ý thức.
e. “Không phụ thuộc vào cảm giác”: đề cập đến tính chất quan trọng nhất của
vật chất: sự tồn tại trong ý thức không phụ thuộc vào ý thức, đó là tồn tại khách

10



quan, là cơ sở quan trọng nhất để xác định một cái gì đó có thuộc về vật chất hay
không.
Kết luận: Vật chất có nhiều thuộc tính, thuộc tính tồn tại khách quan, thuộc tính
phản ánh nhưng quan trọng nhất là tồn tại khách quan. Đó là cơ sở quan trọng nhất
để xem xét, còn các vấn đề còn lại cho ta hiểu về ý thức, mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức, khả năng nhận thức của con người.
3. Rút ra từ định nghĩa:
Sự thống nhất giữa tính trừu tượng của phạm trù và tính hiện thực của vật chất
được thể hiện: vật chất với tư cách là phạm trù thì nó là kết quả của quá trình khái
quát hóa, trừu tượng hóa của con người. Nó là sản phẩm của tư duy trên vật chất,
với tư cách là vật chất thì nó là những cái thể hiện cụ thể qua các sự vật, các quá
trình, các quan hệ…
 Trong thế giới có rất nhiều các sự vật với kích thước, thuộc tính khác nhau
thuộc về thế giới vi mô, vĩ mô… chúng có đặc tính chung là tồn tại khách quan bên
ngoài ý thức của con người. Từ đó, con người khái quát hóa các sự vật cụ thể thành
khái niệm chung. Đó là khái niệm vật chất.
Lenin đã có một cách định nghĩa mới là không định nghĩa vật chất theo cách
thông thường mà đã đem vật chất đối lập với ý thức.
4. Ý nghĩa:
a. Định nghĩa đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Marx về
vật chất. Chủ nghĩa duy vật trước Marx lấy cái trong giới tự nhiên để giải thích cho
thế giới. Điều đó về cơ bản là đúng nhưng hạn chế ở chỗ là đã đồng nhất vật chất
với vật thể. Định nghĩa của Lenin đã phân biệt được vật chất với vật thể một cách
rõ ràng.
Chủ nghĩa duy vật trước Marx:
Vật chất = nước, lửa, không khí  tồn tại khách quan
Chủ nghĩa duy vật biện chứng:
Vật chất = thực tại khách quan  tồn tại khách quan
Khác nhau ở chỗ chủ nghĩa duy vật trước Marx biểu hiện một hoặc một số cái,
còn chủ nghĩa duy vật biện chứng biểu hiện mọi cái, chính điều này làm cho Chủ

nghĩa duy vật phát triển lên một trình độ mới trở thành chủ nghĩa duy vật biện
11


chứng, tạo cơ sở khoa học cho quan niệm duy vật trong lĩnh vực xã hội, đó là chủ
nghĩa duy vật lịch sử, và đồng thời tạo cơ sở khoa học cho sự thống nhất giữa chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
b. Định nghĩa bác bỏ những quan điểm duy tâm về vật chất, Chủ nghĩa duy
tâm thừa nhận tính thứ nhất của ý thức, nhưng ý thức chỉ là hình ảnh của thế giới
khách quan.
c. Giải quyết được vấn đề cơ bản của triết học trên quan điểm duy vật.
d. Góp phần giải quyết khủng hoảng về mặt thế giới quan diễn ra cuối thế kỉ
XIX đầu XX, góp phần thúc đẩy khoa học phát triển, vì nó cho rằng con người có
khả năng nhận thức thế giới, cho con người thấy rằng quá trình nhận thức ấy phải
thống qua các giác quan
e. Đặc tính khắc phục tính chất trực quan siêu hình máy móc và những biến
tướng của nó trong quan niệm về vật chất của các nhà triết học tư sản hiện đại.
f. Khẳng định thế giới vật chất khách quan là vô cùng, vô tận, luôn vận động
và phát triển không ngừng nên đã có tác động cổ vũ, động viên các nhà khoa học đi
sâu nghiên cứu thế giới vật chất, tìm ta những kết quả mới, những thuộc tính mới,
những thuộc tính mới và những quy luật vận động của vật chất để làm phong phú
thêm kho tàng tri thức của nhân loại.
Ngày nay, mặc dù khoa học tự nhiên đã tiến những bước rất dài so với thời
điểm khi những định nghĩa vật chất của Lenin ra đời, nhưng nó vẫn giữ nguyên ý
nghĩa cho đến ngày nay. Sự thừa nhận hay không định nghĩa này vẫn là tiêu chuẩn
để phân biệt thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm.

12



Câu 4: Nguồn gốc ý thức, bản chất của ý thức, ý nghĩa?
Ý thức là phạm trù triết học chỉ một dạng hoạt động dặc biệt diễn ra trong bộ óc
con người, phản ánh thế giới khách quan. Ý thức là thuộc tính đặc biệt chỉ có riêng
ở dạng vật chất có tổ chức cao. Ý thức được hình thành từ thuộc tính phản ánh và
thông qua hoạt động lao động cải biến thế giới tự nhiên và xã hội của con người.
1. Nguồn gốc ý thức:

Nguồn gốc tự nhiên

Bộ não đang hoạt động

Nguồn gốc xã hội:

Các sự vật hiện tượng
trong thế giới khách
quan tác động đến giác
quan gây hiện tượng
phản ánh.
Lao động và ngôn ngữ

a. Nguồn gốc tự nhiên:
-

Trên cở sở tiếp cận y học, sinh học, ta rút ra nguồn gốc ý thức trên cơ sở

tiếp nhận triết học. Bộ não con người có khoảng 17 tỉ tế bào thần kinh, có 2 loại tế
bào trắng và xám. Tế bào trắng thu nhận thông tin, hấp thụ thông tin; tế bào xám xử
lý thông tin dẫn ra tổ chức sáng tạo, làm cho khả năng xử lý thông tin cao. Tỉ lệ
chất xám và chất trắng trong não người về cơ bản là như nhau, trên não bộ chia làm
nhiều khu, mỗi khu lưu giữ những chức năng khác nhau, chỉ có não bộ đang hoạt

động mới sản sinh ra ý thức.
Bộ não của con người là một dạng cụ thể đặc biệt của vật chất, khác với tất cả
các dạng vật chất khác về cấu trúc và thuộc tính.
-

Phản ánh là thuộc tính chung của mọi dạng vật chất. Đó là năng lực giữ lại,

tái hiện của hệ thống vật chất này đối với những đặc điểm của hệ thống vật chất
khác trong quátrình tác động qua lại.
VD: Tất cả các sự vật hiện tượng trong vũ trụ đều có khả năng nhận thức qua
lại lẫn nhau. Khi A tác động đến B thì B sẽ tác động trở lại A, đồng thời B vẫn giữ
lại các dấu vết của A tạo ra.
Phản ánh là quá trình, trong đó một sự vật này khi nhận tác động của một sự
vật khác, nó có khả năng tác động ngược trở lại vật đã tác động đến nó, đồng thời
với quá trình đó nó giữ lại những dấu vết mang nội dung vật đã tác động lên nó.
Quá trình phản ánh này diễn ra khác nhau ở các sự vật hiện tượng khác nhau. Sự
13


khác nhau này bị quyết định bởi mức độ tác động và cấu trúc của các dạng vật chất
trong khi tác động qua lại lẫn nhau.
Cùng với sự tiến hóa của thế giới vật chất, thuộc tính phản của nó cũng phát
triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, trong đó ý thức là hiện tượng phản
ánh cao nhất của thế giới vật chất.
 Ý thức là một thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao của bộ não
người, là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người.
b. Nguồn gốc xã hội:
- Lao động là sự tác động vào giới tự nhiên của con người, làm giới tự nhiên
thay đổi về tính chất, hình dáng, cấu trúc cho phù hợp với nhu cầu của con người.
Lao động có vai trò to lớn trong việc hình thành và phát triển ý thức:

• Thay đổi cấu trúc cơ thể của vượn người để trở thành cơ thể của con
người: giải phóng 2 chi trước của con người để làm những việc tinh vi hơn.
• Hoạt động lao động làm cho các giác quan của con người ngày càng
trở nên hoàn thiện: cải biến nguồn thức ăn (nhiều đạm)
• Nhờ quá trình lao động mà ngôn ngữ ra đời, nhờ quá trình lao động
ngôn ngữ thêm hoàn thiện, làm cho con người liên kết lại với nhau, làm nên
mối quan hệ khách quan trong xã hội.
• Hoạt động lao động làm thuộc tính bản chất của các sự vật, hiện tượng,
quá trình tự bộc lộ
• Lao động giúp con người hoàn thiện bàn tay, chế tạo ra của cải lao
động, làm cho hoạt động có mục đích của con người đạt mục đích cao hơn,
làm cho con người khác nhau về chất so với con vật.
- Ngôn ngữ giúp con người nhận thức, cho phép con người ý thức được về
đối tượng một cách gián tiếp:
• Ngôn ngữ giúp con người trao đổi thông tin, qua đó cung cấp cho con
người những nội dung mới, hoặc điều chỉnh những nội dung mà con người đã
có.
• Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu thứ 2, là cái vỏ vật chất của tư duy, là
phương tiện để con người giao tiếp trong xã hội, phản ánh một cách khách
quan sự vật, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và trao đổi giữa các thế hệ. Không
14


có nguôn ngữ nào lại không chứa đựng một lượng nội dung ý thức nhất định
và không có một ý thức. Tư tưởng nào lại không bộc lộ bằng ngôn ngữ. Vì thế
ngôn ngữ chứa đựng tư tưởng và tư tưởng bộc lộ qua ngôn ngữ. Thông qua
ngôn ngữ, con người hiểu được tri thức, rèn luyện tư tưởng là rèn luyện ngôn
ngữ. Sự hoàn thiện và phát triển của ý thức dẫn đến sự hoàn thiện và phát
triển của ngôn ngữ.
Tóm lại, lao động và ngôn ngữ là 2 sức kích thích chủ yếu để hình thành và

phát triển ý thức.
2. Bản chất của ý thức:
- Ý thức là sự phản ảnh của thế giới khách quan vào bộ não người thông qua
hoạt động thực, nên bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan, là sự phản ánh sáng tạo thế giới vật chất.
• Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Điều đó có nghĩa
là nội dung của ý thức là do thế giới khách quan quyết định, nhưng ý thức là
hình ảnh chủ quan, là hình ảnh tinh thần chứ không phải là hình ảnh vật lý, vật
chất như chủ nghĩa duy vật tầm thường quan niệm.
• Sự cải biến trong sáng tạo của ý thức là tuân theo quy luật phản ánh
không xuyên tạc hiện thực.
- Ý thức là sự phản ánh khách quan một cách chủ động và tích cực (sáng tạo)
• Con người chủ động tác động vào sự vật, bắt sự vật bộc lộ các thuộc
tính của mình, qua đó con người nhận thức, hiểu biết sâu sắc hơn về thế giới.
• Bên cạnh phản ánh và hiểu biết về sự vật, còn người còn sử dụng những
tri thức về sự vật, qua đó chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người.
• Phản ánh ý thức là sáng tạo vì nó bao giờ cũng do con người thực tiễn
quyết định. Nhu cầu đó đòi hỏi chủ thể phản ánh phải hiểu rõ về cái được phản
ánh. Trên cơ sở đó hình thành nên hình ảnh tinh thần và những hình ảnh đó
ngày càng phản ánh đúng đắn hơn hiện thực khách quan. Song sự sáng tạo của
ý thức là sự sáng tạo của phản ánh dựa trên những cơ sở phản ánh.
- Phản ánh ý thức là sáng tạo vì phản ánh đó bao giờ cũng dựa trên hoạt động
thực tiễn và là sản phẩm của các quan hệ xã hội, ý thức mang bản chất xã hội.
15


• Ý thức là một hiện tượng xã hội. Là sản phẩm của sự phát triển xã hội,
không phải chỉ là sự phát triển giản đơn.
• Nếu con người tách khỏi xã hội sẽ không hình thành nên tri thức.
 Kết cấu của ý thức: tri thức, tình cảm, ý chí… Trong đó, tri thức là yếu tố

quan trọng nhất, quyết định bản chất chủ động, sáng tạo, tích cực của ý
thức.
Kết luận: Ý thức mang bản chất xã hội, nó là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan. Ý thức con người bị những điều kiện xã hội quyết định cả về nội dung
lẫn hình thức biểu hiện, tất cả mọi giai đoạn trong xã hội quyết định hình thức biểu
hiện ý thức của con người trong xã hội đó. Ý thức phản ánh toàn bộ đời sống vật
chất của xã hội đó ở mỗi giai đoạn lịch sử đó, ý thức là hình ảnh về thế giới khách
quan, nhưng hình ảnh về thế giới khách quan đó không y nguyên như bản thân của
thế giới mà nó bị cải tạo qua chủ quan của mỗi người. Chủ quan thể hiện qua tri
thức, kinh nghiệm, tố chất của mỗi người.
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Do ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nên trong nhận thức
và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, cần chống lại bệnh chủ
quan duy ý chí.
- Do ý thức là sự phản ánh tự giác sáng tạo hiện thực nên cần chống tư tưởng
thụ động và chủ nghĩa giáo điều xa rời thực tiễn.

16


Câu 5: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, ý nghĩa?
1. Quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
a.

Khái niệm:
- Vật chất: Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách

quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta
chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
- Ý thức: Ý thức là một phạm trù triết học chỉ một dạng hoạt động đặc

biệt diễn ra trong bộ óc con người, phản ánh thế giới khách quan. Ý thức là thuộc
tính đặc biệt chỉ riêng có ở dạng vật chất có tổ chức cao. Ý thức được hình thành
từ thuộc tính phản ánh và thông qua hoạt động lao động cải biến giới tự nhiên và
xã hội của con người.
b.

Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
- Vật chất quyết định ý thức:
• Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất quyết định ý thức, vật chất

là nguồn gốc của ý thức, vật chất sinh ra ý thức. Ý thức là chức năng của óc người
– dạng vật chất có tổ chức cao của thế giới vật chất – là cơ quan phản ánh để hình
thành ý thức. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong
quá trình phản ánh thế giới khách quan.
• Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào óc người, thế giới vật
chất là nguồn gốc khách quan của ý thức, quyết định nội dung của ý thức
- Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất:
• Ý thức có tính độc lập tương đối so với vật chất, có tính năng động,
sáng tạo nên có thể tác động trở lại vật chất, góp phần cải biến thế giới khách
quan thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
• Ý thức không phản ánh đúng hiện thực khách quan, có thể kềm hãm
với một mức độ nhất định hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình cải
tạo tự nhiên, cải tạo xã hội.
• Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động của
con người, con người dựa trên những tri thức của mình về thế giới khách quan,
hiểu biết những quy luật khách quan từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện
pháp thực hiện và ý chí thực hiện mục tiêu ấy.
17



• Vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của ý thức con người trong quá
trình cải tạo thế giới (thực hiện) được phát triển đến mức độ nào chăng nữa cũng
phải dựa trên sự phản ánh thế giới khách quan.
c.

Biểu hiện của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội

Đó là quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó tồn tại xã hội quyết
định ý thức xã hội và ý thức xã hội có tính độc lập tương đối, tác động trở lại tồn
tại xã hội. Ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để xem xét
các mối quan hệ xã hội khác như chủ thể và khách thể, lý luận và thực tiễn, điều
kiện khách quan và nhân tố chủ quan.
2. Ý nghĩa phương pháp luận
- Vật chất quyết định ý thức, ý thức là sự phản ánh vật chất cho nên trong
nhận thức phải đảm bảo nguyên tắc “tính khách quan của sự xem xét” và trong
hoạt động thực tiễn phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động
theo các quy luật khách quan. Nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta trong nhận thức và
hành động phải xuất phát từ bản thân sự vật, hiện tượng, từ thực tế khách quan,
không được xuất phát từ ý muốn chủ quan, không lấy ý muốn chủ quan của mình
là cơ sở, không lấy ý chí áp đặt cho thực tế. Nắm vững nguyên tắc khách quan đòi
hỏi phải tôn trọng sự thật, tránh thái độ chủ quan, nóng vội, định kiến, không
trung thực => tôn trọng quy luật khách quan.
- Ý thức có tính độc lập tương đối tác động trở lại vật chất, thông qua hoạt
động của con người nên cần phải phát huy tính tích cực của ý thức đối với vật
chất bằng cách nâng cao năng lực nhận thức các quy luật khách quan và vận dụng
chúng vào hoạt động thực tiễn của con người:
• Nguyên tắc khách quan: Không loại trừ mà còn đòi hỏi phải phát huy tính
năng động, chủ quan, phát huy tính sáng tạo của ý thức.
• Vai trò tích cực của ý thức là ở chỗ nhận thức được thế giới khách quan
làm cho con người hình thành được mục đích, phương hướng, biện pháp

và ý chí cần thiết cho hoạt động thực tiễn của mình.
• Trong hoạt động thực tiễn phải giáo dục và nâng cao trình độ tri thức xã
hội cho nhân dân nói chung, nâng cao trình độ cho cán bộ, Đảng viên,
nhất là trong điều kiện nền văn minh trí tuệ ngày nay. Mặt khác, phải
18


củng cố, bồi dưỡng nhiệt tình, ý chí cách mạng cho nhân dân, rèn luyện
phẩm chất đạo đức cho CB – Đảng viên, bảo đảm sự thống nhất giữa
nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học.
• Để thực hiện nguyên tắc khách quan và phát huy tính năng động chủ quan
của con người, phải vận dụng đúng giá trị (qh?) lợi ích, phải có động cơ
trong sáng, thái độ thật sự khách quan, khoa học và không vụ lợi.
- Cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí, cũng như thái độ thụ động, chờ đợi
vào điều kiện vật chất, hoàn cảnh khách quan.
3. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào đời sống xã hội
- Nhân tố vật chất gồm:

Tồn tại
Tính chất địa lý ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống xã

hội
Dân số với tất cả các biểu hiện của nó.
Phương thức SX là sự thống nhất giữa LLSX và QHSX
Không gian và thời gian
Quy luật.
- Nhân tố ý thức gồm:

Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Ý thức là sự p.ánh sáng tạo TGKQ & bộ óc con ngườ.i

Đường lối chủ trương, chính sách, kế hoạch, biện pháp.
Các q.điểm, quan niệm, tâm tư, tiêu chuẩn, nguyện vọng
Một số biểu hiện của phong tục tập quán, thói quen đề
cập đến hoạt động con người nhưng cũng có một phần
thuộc về ý thức.

- Ý nghĩa cụ thể:
+ Nếu vật chất là nguồn gốc ý thức, sản sinh và quyết định ý thức thì trong hoạt
động của mình, con người phải tôn trọng nguyên tắc khách quan, tôn trọng
nguyên tắc khách quan là tôn trọng vài trò quyết định của nhân tố vật chất. Biểu
hiện của việc tôn trọng nguyên tắc khách quan:
• Khi đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch, biện pháp, mục tiêu,
mục đích… Con người không được thuần túy xuất phát từ ý muốn chủ quan

19


của mình và trên hết phải xuất phát từ nhân tố vật chất. Điều đó đòi hỏi mỗi cá
nhân, vùng, địa phương, phải xuất phát từ yếu tố vật chất.
• Khi đã có đường lối, chủ trương, chính sách đúng thì vấn đề trọng yếu
trước tiên quyết định hành động của con người thành công hay thất bại là con
người có tìm ra, huy động được, tổ chức được những nhân tố vật chất thành
lực lượng vật chất hay không? – Tìm ra nhân tố vật chất khó bởi vì nó đòi hỏi
con người phải có tri thức đúng về vật chất, huy động tốt sẽ tổ chức tốt, sức
mạnh sẽ tăng lên nhiều lần…
• Vì vật chất là nguồn gốc của ý thức, sản sinh ý thức, quyết định ý thức nên
muốn giải thích các hiện tượng tinh thần con người, phải quay về với nguồn
gốc của nó là đời sống vật chất.
+ Nếu ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động của con người thì
trong cuộc sống của mình, con người phải phát huy vai trò tích cực của những

nhân tố chủ quan – phát huy tính năng động chủ quan của con người, thực chất là
phát huy sự tác động tích cực trở lại nhân tố ý thức đối với vật chất. Hướng tích
cực thể hiện những nhân tố ý thức thúc đẩy các nhân tố vật chất, biểu hiện của
tính tích cực năng động, sáng tạo:
• Con người phải biết tôn trọng tri thức khoa học sáng tạo
• Truyền bá tư tưởng khoa học ấy vào quần chúng để nó trở thành tri thức,
niềm tin định hướng quần chúng hành động.
• Con người phải không ngừng rèn luyện để tiếp cận, làm chủ tri thức, duy trì
và phát triển thuần phong, mỹ tục.
• Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy tính năng động của ý thức.
Con người phải cố gắng làm chủ tri thức khoa học toàn diện bao gồm tri thức
khoa học tự nhiên và tri thức khoa học xã hội.
• Khi muốn thực hiện hay xây dựng một điều gì đó phải chống cái đối lập với
nó, chống tư tưởng xem thường vai trò ý thức, xem thường tri thức khoa học,
các yếu tố khác nhau như thuần phong, mỹ tục…
4. Khắc phục và ngăn ngừa bệnh chủ quan duy ý chí:

20


 Bệnh chủ quan, duy ý chí là một sai lầm khá phổ biến ở nước ta và ở nhiều
nước XHCN trước đây, gây tác hại nghiêm trọng đối với sự nghiệp xây dựng
XHCN.
 Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan một cách sáng tạo, sáng tạo
trên cơ sở của sự phản ánh. Vì vậy, nếu cường điệu tinh thần sáng tạo của ý
thức sẽ rơi vào bệnh chủ quan duy ý chí. Bệnh chủ quan, duy ý chí là khuynh
hướng tuyệt đối hóa vai trò nhân tố chủ quan của ý chí, xa rời hiện thực khách
quan, lấy nhiệt tình cách mạng thay cho sự yếu kém về tri thức khoa học.
 Sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí là lối suy nghĩ và hành động giản
đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan biểu hiện trong một số chủ

trương và chính sách, xa rời hiện thực khách quan.
 Bệnh chủ quan duy ý chí có nguồn gốc từ nhận thức, sự yếu kém về tri thức
khoa học, tri thức lý luận, không đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn.
- Bệnh chủ quan, duy ý chí còn do nguồn gốc lịch sử - xã hội, giai cấp, tâm lý
của người sản xuất nhỏ chi phối. Cơ chế quan liêu bao cấp cũng tạo điều kiện cho sự
ra đời của bệnh chủ quan, duy ý chí.
- Để khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí phải sử dụng đồng bộ biện pháp. Trước
hết phải đổi mới tư duy, lý luận nâng cao năng lực trí tuệ, trình độ lý luận của Đảng.
Trong hoạt động thực tiễn phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan,
phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của
hệ thống chính trị, chống bảo thủ, trì trệ, quan liêu.

21


Câu 6: Trình bày nội dung của phương pháp biện chứng duy vật?
Nội dung của phép biện chứng duy vật được thể hiện qua 2 nguyên lý, 2 nguyên
lý này được cụ thể qua các quy luật:
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
- Thế giới được hình thành từ những sự vật, hiện tượng, những quá trình khác
nhau. Không có một sự vật hiện tượng nào tồn tại cô lập, tách rời khỏi những sự vật,
hiện tượng khác nhau, chúng luôn nằm trong mối liên hệ với nhau.
a. Khái niệm:
Mối liên hệ phổ biến là khái niệm dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau, ảnh hưởng
nhau, ràng buộc nhau, góp phần quyết định sự tồn tại và phát triển của nhau giữa các
mặt, các yếu tố, các bộ phận trong một bộ phận hoặc giữa các sự vật hiện tượng với
nhau.
b. Nội dung và tính chất các mối liên hệ phổ biến:
- Tính khách quan: Không phụ thuộc vào ý thức con người. Nhờ có mối
liên hệ mà có sự vận động qua lại, đó là phương thức tồn tại của vật chất, là một yếu

tố khách quan. Do đó, mối liên hệ cũng là một tất yếu khách quan. Liên hệ là vốn có
của các sự vật hiện tượng mà chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó.
- Tính phổ biến: Mối liên hệ tồn tại trong tất cả mọi sự vật hiện tượng, ở tất
cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Mối liên hệ phổ biến mà hiện thực, là cái
vốn có của mọi sự vật hiện tượng, nó thể hiện tính thống nhất vật chất của thế giới.
- Tính phong phú đa dạng: Các sự vật hiện tượng trong thế giới vật chất là
đa dạng nên mối liên hệ giữa chúng cũng đa dạng. Vì thế khi nghiên cứu các sự vật
hiện tượng cần phải phân loại các mối liên hệ một cách cụ thể. Tính đa dạng, phong
phú còn thể hiện ở vai trò, vị trí của các mối liên hệ đối với sự tồn tại của các chính
thể là không giống nhau.
 Căn cứ vào tính chất, phạm vi, trình độ, có thể có những mối liên hệ sau:
chung – riêng; cơ bản – không cơ bản; bên trong – bên ngoài, chủ yếu – thứ yếu;

22


không gian – thời gian… Sự phân loại này là tương đối và mối liên hệ chỉ là một bộ
phận, một mặt trong toàn bộ mối liên hệ phổ biến nói chung.
 Phép biện chứng duy vật nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất và phổ
biến nhất của thế giới chủ quan, còn những hình thức cụ thể của mối liên là đối tượng
nghiên cứu của các ngành khoa học cụ thể.
c. Ý nghĩa
Vì mối liên hệ mang tính khách quan và mang tính phổ biến nên trong hành
động nhận thức của con người, con người cần phải tôn trọng tính toàn diện, nghĩa là
khi con người nhận thức một đối tượng nào đó, hoặc giải quyết một vấn đề gì đó,
đánh giá gì đó thì ngoài việc tìm hiểu bản thân đối tượng ra, con người cần tìm hiểu
tất cả các mối liên hệ mà nó có (quan hệ toàn diện).
Con người không bao giờ nhận thức được tất cả các mối liên bản chất không
gian vô hạn, thời gian không điểm khởi đầu, không điểm kết thúc. Con người có
nhiều mối liên hệ, nếu con người càng hiểu nhiều mối liên hệ thì sai lầm của con

người càng ít. Nếu tôn trọng điểm toàn diện thì sẽ đạt được hiệu quả tối ưu hơn, cần
chống tư tưởng phiến diện một chiều, phiến diện lấy một yếu tố nhỏ thay cho chỉnh
thể.
Từ tính riêng biệt của các mối liên hệ đòi hỏi con người phải tôn trọng quan
điểm lịch sử cụ thể, nghĩa là khi nhận thức nhận định, đánh giá một điều gì đó thì con
người phải đặt nó vào không gian của nó, thời gian của nó, những mối liên hệ của nó
(ở đâu?; khi nào?; với cái gì?) Cần chống quan điểm chung chung, đại khái.
=> Nguyên lý vế mối liên hệ phổ biến phản ánh đặc trưng thứ nhất trong
phép biện chứng.
2. Nguyên lý về sự phát triển:
Mọi sự vật, hiện tượng ở trạng thái động, nằm trong khuynh hướng chung là
phát triển
- Nguồn gốc của sự phát triển là đấu tranh giữa các mặt đối lập để giải quyết
xung đột của sự vật
- Khuynh hướng của sự phát triển là nguồn gốc của sự vật phát triển dẫn đến
chất của sự vật thay đổi ngược lại.

23


- Khuynh hướng của sự phát triển là: Sự phát triển diễn ra không theo đường
thẳng mà bằng một đường quanh co, phức tạp, được biểu diễn bằng một đường
xoắn ốc đi lên, là quá trình phủ định của phủ định - trong đó cái mới ra đời
thay thế cái cũ, và hết mỗi chu kì - sự vật lặp lại dường như giống cái ban đầu
nhưng ở mức độ cao hơn.
 Khái niệm về sự phát triển:
Phát triển là khuynh hướng chung. Đề cập đến trạng thái phát triển là đề
cập đến vận động tiến lên được xác định về hướng từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ kém hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn.
Từ khái niệm trên cho thấy:

- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển có mối liên hệ
biện chứng với nhau, vì nhờ có mối liên hệ thì sự vật mới có sự vận động và
phát triển.
- Cần phân biệt khái niệm vận động với khái niệm phát triển. Vận động là mọi
sự biến đổi nói chung, còn phát triển là sự vận động có khuynh hướng và gắn
liền với sự ra đời của cái mới hợp quy luật.
 Nội dung và tính chất của nguyên lý:
Phát triển là thuộc tính vốn có của mọi sự vật hiện tượng, là khuynh
hướng chung của thế giới, sự phát triển có tính chất tiến lên, kế thừa liên tục. Sự
phát triển thường diễn ra quanh co, phức tạp, phải trải qua những khâu trung gian,
thậm chí có lúc có sự thụt lùi tạm thời. Phát triển là sự thay đổi về chất của sự vật,
nguồn gốc của sự phát triển là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập trong bản thân sự
vật.
 Phân biệt quan điểm biện chứng và siêu hình về sự phát triển:
Quan điểm xem sự phát triển là một quá trình vận động và tiến lên thông
qua những bước nhảy vọt về chất. Nguồn gốc của sự phát triển là cuộc đấu tranh
của các mặt đối lập ở trong sự vật.
Quan điểm siêu hình nói chung không thừa nhận sự phát triển của sự vật
vì họ thường tuyệt đối hóa sự ổn định của sự vật - hiện tượng. Sau này, khi khoa
học đã chứng minh cho quan điểm về sự phát triển của sự vật, buộc họ phải nói đến

24


sự phát triển. Song với họ, phát triển chỉ là sự tăng hay giảm đơn thuần về lượng,
không có sự thay đổi về chất, nguồn gốc của nó ở bên ngoài sự vật hiện tượng.

 Ý nghĩa:
- Từ việc nghiên cứu nguyên lý trên, chúng ta thấy rằng: Phát triển là
khuynh hướng chung, là bản chất của sự vận động và phát triển. Muốn nhận

thức đúng sự vật phải có quan điểm phát triển, đồng thời phải biết đặt sự vật
trong điều kiện lịch sử cụ thể.
- Quá trình phát triển có thụt lùi tạm thời, không được bi quan, đồng thời
phải biết ủng hộ cái mới, phải chấp nhận nó vì sự phát triển cao hơn.
- Hiện nay chúng ta đang trong công cuộc đổi mới đất nước, cần phải
phân tích tình hình một cách biện chứng để rút ra bài học bổ ích cho lý luận cách
mạng, trên cơ sở đó điều chỉnh hoạt động thực tiễn nhằm tiếp tục trên con đường
XHCN mà Đảng ta đã lựa chọn.
 Ý nghĩa phương pháp luận
- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi trong nhận thức sự vật cần
phải có quan điểm toàn diện. Với quan điểm này, khi nghiên cứu sự vật phải
xem xét tất cả các mối liên hệ của bản thân sự vật với các sự vật hiện tượng
khác, phải phân loại các mối liên hệ để hiểu rõ vị trí và vai trò của từng mối liên
hệ đối với sự vận động và phát triển của sự vật, tôn trọng quan điểm toàn diện.
- Nếu khuynh hướng của các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan
là vận động đi lên thì trong nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm phát
triển. Quan điểm phát triển đòi hỏi phải phát triển sự vật trong sự phát triển, cần
phát hiện được cái mới, ủng hộ cái mới, cần phải tìm nguồn gốc của sự phát
triển trong bản thân sự vật. Tôn trọng quan điểm lịch sử cụ thể
Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật là cơ sở lý luận của
quan điểm toàn diện, lịch sử cụ thể và phát triển. Với cách xem xét và nghiên
cứu theo quan điểm toàn diện sẽ giúp ta hiểu được bản chất sự vật, làm cho nhận
thức phản ánh đúng đắn về sự vật và hoạt động thực tiễn có hiệu quả cao.

25


×