Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

Tuyển tập 30 đề thi học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 12 (có đáp án)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.9 MB, 50 trang )


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VĨNH PHÚC

KỲ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI CẤP TỈNH
LỚP 12 THPT NĂM HỌC 2012-2013

ĐỀ THI CHÍNH THỨC

Môn: NGỮ VĂN – THPT CHUYÊN
Thời gian: 180 phút, không kể thời gian giao đề.
Ngày thi: 02/11/2012.

Câu 1 (3,0 điểm).
R.Ta-go, nhà thơ Ấn Độ cho rằng: Thà làm một bông hoa sen nở khi thấy
mặt trời rồi mất hết tinh nhụy, còn hơn giữ nguyên hình nụ búp trong sương lạnh
vĩnh cửu của mùa đông.
Suy nghĩ của anh (chị) về nhận định trên.
Câu 2 (7,0 điểm).
Bàn về thơ, có ý kiến cho rằng: Hành động sáng tạo trong thơ ca là một sự
giải tỏa những cảm xúc tràn đầy trong tâm hồn nhà thơ.
Anh (chị) hãy bình luận và làm sáng tỏ ý kiến trên.

----------------HẾT---------------Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm.

Họ tên học sinh…………………….....………..Số báo danh……………


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VĨNH PHÚC


KỲ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI CẤP TỈNH
LỚP 12 THPT NĂM HỌC 2012-2013

Môn: NGỮ VĂN – THPT CHUYÊN
HƯỚNG DẪN CHẤM
(Gồm 04 trang)

Câu 1 (3,0 điểm)
I. Yêu cầu về kĩ năng
Biết cách làm bài văn nghị luận xã hội: Bố cục và hệ thống ý sáng rõ. Biết vận dụng phối
hợp nhiều thao tác nghị luận. Hành văn trôi chảy. Lập luận chặt chẽ. Dẫn chứng chọn lọc,
thuyết phục. Không mắc các lỗi diễn đạt, dùng từ, ngữ pháp, chính tả.
II. Yêu cầu về kiến thức
Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo những ý cơ
bản sau:
1. Giải thích ý nghĩa của lời nhận định
- Hoa sen: ủ mầm trong bùn đất, tối khuất, nhơ bẩn nhưng mạnh mẽ vươn lên. Hoa
sen là biểu tượng cho phẩm cách thanh sạch, biết vươn lên trong cuộc sống của con người.
- Mặt trời: Đó là ánh sáng vĩnh cửu đem lại sự sống cho vạn vật. Mặt trời tượng
trưng cho sức sống mạnh mẽ, sự huy hoàng.
- Nụ búp: ẩn dụ cho cái non nớt, nhút nhát, e sợ của con người.
- Sương lạnh vĩnh cửu: là môi trường lạnh giá, khắc nghiệt, ở đó vạn vật phải ẩn
mình, thu mình, không thể sinh sôi phát triển. Vì thế nó tượng trưng cho những khó khăn,
thử thách trong cuộc sống.
=> Ý nghĩa câu nói: Ý kiến của Ta- go là một triết lí sống mạnh mẽ, tích cực và tiến
bộ. Trong cuộc sống có rất nhiều khó khăn thử thách, nhưng nếu biết sống và cống hiến hết
mình ta sẽ nhận được thành quả xứng đáng. Nếu sống nhút nhát, thụ động thì cuộc đời thật
nhạt nhẽo, vô nghĩa.
2. Bàn luận, mở rộng vấn đề
a. Tại sao nên chọn cách sống như “bông hoa sen”?

- Cuộc sống rất quý giá nhưng lại ngắn ngủi, và chỉ đến duy nhất một lần. Ta phải
sống thế nào cho xứng đáng, phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những tháng năm đã
sống hoài, sống phí. Ta cần có một trái tim đầy nhiệt huyết để sống hết mình, để cảm nhận
từng hơi thở trong khoảnh khắc của đời mình.
- Đã là con người thì cần phải có ước mơ, lý tưởng và khát khao thực hiện những
điều đó. Tuy nhiên, cuộc sống luôn ẩn chứa những khó khăn, thử thách và những điều tốt
đẹp không bỗng dưng mà có. Thay vì để khó khăn đánh bại, ta hãy đón nhận chúng như một
cơ hội để rèn luyện bản lĩnh của chính mình, để ta thêm trưởng thành.
- Khi ta chọn làm “bông hoa sen nở trong ánh mặt trời” đó là lúc ta sống hết mình và
cống hiến hết mình. Ta sẽ có cơ hội được toả sáng, được khẳng định, lưu lại dấu chân trên
con đường đã đi và tận hưởng những điều tuyệt diệu mà cuộc sống mang lại. Đó cũng chính
là cách khiến cuộc sống của ta thêm ý nghĩa và trở nên có ích. Đó mới là cuộc sống đích
thực của con người.
1


b. Tại sao không nên chọn cách sống như “nụ búp”?
- Nếu ta không dám đối mặt trước những khó khăn, thử thách của cuộc sống vì ta sợ
sai lầm, sợ sẽ thất bại, sợ bị cười chê… để rồi mãi mãi ta sống trong vỏ bọc hèn nhát của
mình. Đó là lối sống mòn, sống thừa, sống vô ích mà không được ai biết đến. Một “cuộc
sống đang mòn ra, đang rỉ đi, đang nổi váng.”
- Cuộc sống không mục tiêu, ước mơ, hoài bão thật vô vị. Sống như thế thực chất chỉ
là tồn sự tại mà thôi, là chết ngay cả khi đang sống.
c. Nâng cao
- Liệu có phải lúc nào ta cũng sống hết mình? Nếu cứ hết mình như thế sẽ có lúc ta
kiệt sức. Vậy ta cần phải biết lượng sức mình, không phải lúc nào cũng nên lao về phía
trước. Để đối mặt với mọi thử thách trên đường đời trước tiên ta phải trân trọng chính bản
thân ta. Đừng nôn nóng theo đuổi mục đích mà quên mất bản thân mình.
- Có những phút giây ta nên thu mình lại khi đã cảm thấy mỏi mệt. Khi ấy không
phải ta đang hèn nhát, chỉ là ta đang tìm kiếm chút bình yên cho tâm hồn, tìm được lại ý chí,

lòng quyết tâm để tiếp tục tiến lên phía trước.
3. Bài học nhận thức và hành động
- Phê phán lối sống yếu mền, thụ động, chỉ biết ngồi chờ vận may và sự thuận lợi.
- Cuộc sống của mỗi người được quyết định bởi sự tự nhận thức, bản lĩnh và nghị lực
vươn lên không ngừng. Cuộc sống quá ngắn ngủi, hãy cứ cháy hết mình đến tận cùng của
khát vọng, ước mơ.
III. Biểu điểm
- Điểm 3,0: Đáp ứng được các yêu cầu nêu trên; Văn viết có cảm xúc. Dẫn chứng
chọn lọc và thuyết phục. Có thể còn một vài sai sót nhỏ.
- Điểm 2,0: Cơ bản đáp ứng được các yêu cầu nêu trên. Dẫn chứng chưa thật phong
phú. Có thể còn một vài sai sót nhỏ.
- Điểm 1,0: Chưa hiểu chắc yêu cầu của đề bài. Kiến thức sơ sài. Còn mắc nhiều lỗi.
- Điểm 0: Không hiểu đề, sai lạc phương pháp.
Câu 2 (7,0 điểm)
I. Yêu cầu về kĩ năng
Hiểu đề, biết cách làm bài văn nghị luận văn học. Biết phân tích dẫn chứng để làm
sáng tỏ vấn đề. Bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ. Hành văn trôi chảy. Văn viết có cảm xúc.
Không mắc các lỗi diễn đạt, dùng từ, ngữ pháp, chính tả.
II. Yêu cầu về kiến thức
Học sinh hiểu đúng vấn đề : đề bài bàn về vai trò của tình cảm,cảm xúc trong thơ.
Đó là một trong những đặc trưng của thơ, nhất là thơ trữ tình. Bài viết cần xuất phát từ điều
đó để bình luận và chứng minh vấn đề. Quá trình viết bài, phải có dẫn chứng phân tích để
làm nổi bật các luận điểm. Học sinh có thể trình bày bằng nhiều cách khác nhau nhưng cần
trình bày được các ý sau đây:
1. Giải thích
- Thơ là một hình thức sáng tác văn học nghiêng về thể hiện cảm xúc thông qua tổ
chức ngôn từ đặc biệt, giàu nhạc tính, giàu hình ảnh và gợi cảm.
- Hành động sáng tạo thi ca: là qúa trình làm thơ của người nghệ sĩ trước tác động
của đời sống hiện thực.
2



- Sự giải phóng những cảm xúc tràn đầy được hiểu là: mỗi khi có điều gì chất chứa
trong lòng, không nói ra, không chịu được, đó là lúc thi sĩ tìm đến thơ để giãi bày.
=> Ý kiến trên đã chỉ ra đặc trưng của thơ trữ tình và đề cao vai trò của tình cảm,
cảm xúc trong thơ.
2. Bình luận và chứng minh
- Khẳng định ý kiến trên là hoàn toàn đúng, ý kiến đó đã xuất phát từ đặc trưng của
thể loại thơ trữ tình và từ quy luật chung của sáng tạo nghệ thuật. Đã có nhiều ý kiến của
các nhà thơ, nhà phê bình văn học xưa nay có những quan điểm tương đồng. Thơ chỉ bật ra
khi tim ta cuộc sống đã tràn đầy (Tố Hữu), Hãy xúc động hồn thơ cho ngòi bút có thần
(Ngô Thì Nhậm)… Xuân Diệu từng phát biểu: Một bài thơ hay là thơ chín đỏ trong cảm
xúc.Thiếu tình cảm, cảm xúc chỉ có thể trở thành người thợ làm những câu chữ có vần chứ
không làm được nhà thơ.
- Thơ là tiếng nói của đời sống tình cảm con người trước cuộc sống. Thơ trữ tình lấy
cảm xúc bên trong của đời sống tinh thần nhà thơ để biểu hiện. Khi rung động sâu sắc với
cuộc sống, trong những trạng thái vui, buồn ở mức thăng hoa, con người có nhu cầu bộc lộ
tình cảm, khi đó, người ta cần đến thơ. (dẫn chứng )
- Thơ ra đời rất sớm trong lịch sử nhân loại. Người ta làm thơ như một nhu cầu cần
thiết trong cuộc sống. Con người dùng thơ để bộc lộ tâm tư tình cảm, nỗi niềm. Thơ là tiếng
nói tha thiết của tâm hồn. Đó có thể là những cảm xúc, suy tư về nhân tình thế thái, về số
phận con người, thăng trầm của xã hội, những cảm xúc về đất nước, nhân dân, nhân loại. Có
khi đó chỉ là những tâm tư của cá nhân trong cuộc đời… ( dẫn chứng)
- Tình cảm trong thơ phải là thứ tình cảm chân thật của nhà thơ. Tình cảm ấy là
những trạng thái vui, buồn, sung sướng, đau khổ… mà người nghệ sĩ từng trải qua, từng
sống trong những cung bậc ấy. Thơ không chấp nhận thứ tình cảm giả tạo, mờ nhạt. Nếu
nhà thơ không viết thơ bằng nước mắt, bằng máu của chính mình, không sống sâu sắc với
những tình cảm của con người thì thơ sẽ thiếu sức sống, chỉ có thể làm được những bài thơ
vô hồn, chỉ là những câu chữ hoa mĩ được ép khô trên trang giấy. ( dẫn chứng)
- Tình cảm, cảm xúc trong thơ phải có sức lay động lòng người. Thơ là kết quả của

sự nhập tâm với đời sống. Chế Lan Viên có lí khi cho rằng: Chẳng có thơ đâu giữa lòng
đóng khép. Như vậy, nhà thơ cần có tấm lòng với cuộc đời, mở lòng với cuộc sống để đón
nhận những tình cảm, những rung động từ hiện thực cuộc đời. Đó cũng là cách để nâng tâm
hồn mình lên, biết yêu thương, đồng cảm vui buồn với mọi người xung quanh. Nhà thơ phải
biết sống đẹp, có trái tim mãnh liệt, phong phú, sâu sắc. Tình cảm là yếu tố ngọn nguồn của
cái đẹp trong thơ, khi đó thơ sẽ có sức mạnh thanh lọc tâm hồn con người. (dẫn chứng)
- Tình cảm, cảm xúc trong thơ phải phải được truyền tải bằng một hình thức nghệ
thuật độc đáo, mang tính thẩm mỹ thể hiện trên các phương diện: Thể loại, ngôn ngữ thơ,
hình ảnh, tứ thơ, tính nhạc, chất họa…. Điều đó đem lại cho thơ vẻ đẹp hoàn mĩ. (dẫn
chứng)
3. Nâng cao
- Thơ gắn kết những tâm hồn đồng điệu. Nhà thơ cần nắm bắt cái riêng biệt để biểu
hiện được cái phổ quát, qua cảm xúc, nỗi lòng của nhà thơ, người đọc thấy được mình ở
trong đó.

3


- Thơ không chỉ cần cảm xúc mà cần cả lí trí. Đó là chiều sâu của nhận thức. Nếu thơ
chỉ thiên về cảm xúc, bài thơ sẽ thiếu chất trí tuệ, thiếu sự suy tưởng triết lí mang tính khái
quát về cuộc sống.
- Sự tiếp nhận ở người đọc thơ: cần sự tri âm, sự đồng cảm với tác phẩm, với nhà thơ
để có thể sẻ chia những tình cảm đồng điệu. Khi ấy, thơ sẽ có sức sống lâu bền trong lòng
người đọc nhiều thế hệ.
- Bài học cho người nghệ sĩ: phải biết đề cao yếu tố tình cảm, cảm xúc trong việc
sáng tác thơ.
III. Biểu điểm
- Điểm 7,0: Đáp ứng được yêu cầu nêu trên, văn viết sâu sắc, diễn đạt trong sáng. Bài
viết thể hiện sự sáng tạo, cảm thụ riêng. Có thể còn một vài sai sót nhỏ.
- Điểm 5-6: Cơ bản đáp ứng được yêu cầu trên, văn viết chưa thật sâu sắc nhưng diễn

đạt trong sáng. Có thể mắc một vài sai sót nhỏ.
- Điểm 3-4: Cơ bản hiểu yêu cầu của đề. Bố cục bài viết rõ ràng. Chọn và phân tích
được dẫn chứng song ý chưa sâu sắc. Có thể mắc một vài sai sót nhỏ.
- Điểm 1-2: Chưa hiểu rõ yêu cầu của đề. Diễn đạt lúng túng, trình bày cẩu thả.
- Điểm 0: Sai lạc cả nội dung và phương pháp.
* Lưu ý:
- Giám khảo nắm vững yêu cầu của hướng dẫn chấm để đánh giá tổng quát bài làm
của thí sinh. Cần khuyến khích những bài viết có chất văn, có những suy nghĩ sáng tạo.
- Việc chi tiết hóa điểm số của các câu, các ý phải đảm bảo không sai lệch với tổng
điểm của câu và được thống nhất trong hội đồng chấm. Điểm lẻ được làm tròn đến 0,5 điểm
sau khi đã chấm xong và cộng tổng điểm toàn bài.

4


UBND TỈNH BẮC NINH
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐỀ CHÍNH THỨC

ĐỀ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI CẤP TỈNH
NĂM HỌC 2012-2013
Môn: Ngữ văn - Lớp 12 - THPT
Thời gian làm bài: 180 phút (không kể thời gian giao đề)
Ngày thi 29 tháng 3 năm 2013
===== =====

Câu 1. (4,0 điểm)
Ngày Tết, Mị muốn đi chơi xuân nhưng bị A Sử trói đứng vào cột nhà. Tô Hoài
viết tiếp:
“Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu

còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi.
“Em không yêu, quả pao rơi rồi - Em yêu người nào, em bắt pao nào…”. Mị vùng bước
đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe
tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ
mình không bằng con ngựa.”
(Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài, Ngữ văn 12 Nâng cao,
Tập 2, NXB Giáo dục, 2008, trang 09)

Cảm nhận của anh (chị) về hai âm thanh “tiếng sáo” và “tiếng chân ngựa đạp
vào vách” trong đoạn văn trên.
Câu 2. (6,0 điểm)
Có ý kiến cho rằng:
Ai cũng muốn làm điều gì đó rất lớn lao, nhưng lại không nhận ra rằng cuộc sống
được tạo thành từ những điều rất nhỏ.
Anh (chị) hãy viết bài văn ngắn (khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ của mình về ý
kiến trên.
Câu 3. (10 điểm)
Cảm nhận nét đặc sắc của bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” - Thanh Thảo. (Ngữ
văn 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2008)
========Hết========
(Đề thi có 01 trang)


UBND TỈNH BẮC NINH
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HƯỚNG DẪN CHẤM ĐỀ THI CHỌN HỌC SINH
GIỎI CẤP TỈNH
NĂM HỌC 2012-2013
Môn: Ngữ văn - Lớp 12 - THPT


Hướng dẫn chấm có 05 trang
Câu 1. (4,0 điểm)
Ngày Tết, Mị muốn đi chơi xuân nhưng bị A Sử trói đứng vào cột nhà. Tô Hoài
viết tiếp:
“Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu
còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi.
“Em không yêu, quả pao rơi rồi - Em yêu người nào, em bắt pao nào…”. Mị vùng bước
đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe
tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ
mình không bằng con ngựa.”
(Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài, Ngữ văn 12 Nâng cao,
Tập 2, NXB Giáo dục, 2008, trang 09)

Cảm nhận của anh (chị) về hai âm thanh “tiếng sáo” và “tiếng chân ngựa đạp
vào vách” trong đoạn văn trên.
------------------------1. Yêu cầu về kĩ năng:
Học sinh có thể viết thành một bài văn ngắn hoặc một đoạn văn thể hiện những
cảm nhận của mình về chi tiết âm thanh tiếng sáo, tiếng chân ngựa đạp vào vách trong
một đoạn văn hay vào bậc nhất, in đậm phong cách Tô Hoài trong truyện ngắn Vợ chồng
A Phủ. Yêu cầu bố cục sáng rõ, diễn đạt mạch lạc, giàu hình ảnh, cảm xúc.
2. Yêu cầu về kiến thức:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn văn. (0,5 điểm)
Đoạn văn tả cảnh Mị bị A Sử trói vào cột nhà trong bóng tối, trong tâm trạng chập chờn
mê tỉnh. Hai âm thanh tiếng sáo gọi bạn yêu và tiếng chân ngựa đạp vào vách đan cài thể
hiện sự giao tranh quyết liệt giữa số phận bi thảm và sức sống tiềm tàng trong Mị.
- Âm thanh “tiếng sáo” gọi bạn yêu. (1,0 điểm)
+ Đó là âm thanh đặc trưng của núi rừng Tây Bắc, là tiếng gọi bạn trong những đêm tình
mùa xuân - một sinh hoạt giàu tính nhân văn của người Mèo.
+ Âm thanh tiếng sáo là thế giới ước mơ của Mị. Mị đang sống với tiếng sáo của những

đêm tình mùa xuân ngày trước, đang muốn tìm lại tuổi trẻ, tình yêu, hạnh phúc của mình.
Mị chỉ còn biết tiếng sáo, sống trong tiếng sáo, mê man chập chờn trong tiếng sáo. Tiếng
sáo đánh thức quá khứ, thức dậy trong Mị ý thức về cuộc sống, tình yêu và hạnh phúc.
+ Tiếng sáo đã trở thành âm thanh mê hoặc, dẫn dụ, gọi Mị vùng bước đi. Sức sống trào
dâng mãnh liệt khiến Mị quên cả hiện thực, bất chấp dây trói như không biết mình đang
bị trói. Tiếng sáo trở thành một biểu trưng sâu sắc cho ước mơ, cho sức sống tiềm tàng
của Mị.
- Âm thanh “tiếng chân ngựa đạp vào vách”. (1,0 điểm)
+ Tiếng chân ngựa đạp vào vách là biểu trưng cho hiện thực nô lệ, cho số phận khổ đau
của Mị. Tiếng chân ngựa đạp vào vách xoáy sâu nỗi đau tinh thần gợi một sự so sánh
nghiệt ngã - thân phận con người không bằng thân trâu ngựa.
+ Sức mạnh của âm thanh ấy lớn hơn cả dây trói vốn chỉ trói được thể xác. Nó làm âm
thanh tiếng sáo tắt ngay, ước mơ tan biến, đủ sức bắt Mị trở về với hiện thực đau khổ.


- Hai âm thanh đối lập, giao tranh nhau. (1,0 điểm)
+ Hai âm thanh đan cài nhau khép mở hai thế giới: một thế giới của ước mơ, của sức
sống với tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị; một thế giới của hiện thực với tiếng chân ngựa
đạp vách nhắc nhở thân phận ngựa trâu.
+ Hai âm thanh giao tranh đối lập nhau, khép mở hai tâm trạng. Tâm trạng mê man theo
tiếng sáo gọi bạn tình, trào dâng khát vọng- sức sống mãnh liệt và tâm trạng bừng tỉnh,
đau đớn, cay đắng của Mị khi nhận ra thân phận của mình không bằng con ngựa. Đó
chính là sự giao tranh quyết liệt giữa số phận bi thảm và sức sống tiềm tàng trong Mị.
- Đánh giá. (0,5 điểm)
Hai âm thanh - hai biểu trưng sâu sắc, giàu ý nghĩa trong một đoạn văn nhỏ nhưng đã cô
đúc được giá trị tác phẩm về cả hai mặt nội dung và nghệ thuật, thể hiện rõ phong cách
nghệ thuật của nhà văn Tô Hoài.
Câu 2. (6,0 điểm)
Có ý kiến cho rằng: Ai cũng muốn làm điều gì đó rất lớn lao, nhưng lại không
nhận ra rằng cuộc sống được tạo thành từ những điều rất nhỏ.

Anh (chị) hãy viết bài văn ngắn (khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ của mình về ý
kiến trên.
-------------------------1. Yêu cầu về kĩ năng:
- Biết cách làm bài nghị luận xã hội, kết cấu rõ ràng, lập luận chặt chẽ, văn thuyết phục.
- Biết cách chọn và kết hợp nhiều thao tác lập luận phù hợp, vận dụng nhuần nhuyễn các
thao tác lập luận: giải thích, chứng minh, bình luận.
2. Yêu cầu về kiến thức:
Thí sinh có thể linh hoạt trong cách trình bày nhưng cần đảm bảo các ý sau:
a. Giải thích:
- Ai cũng muốn làm điều gì đó rất lớn lao: khát vọng hướng tới những cái đích của đời
người, làm thay đổi cuộc sống theo chiều hướng tốt đẹp hơn.
- nhưng lại không nhận ra rằng cuộc sống được tạo thành từ những điều rất nhỏ: không
ý thức được rằng những việc lớn bao giờ cũng phải bắt đầu từ nhiều việc nhỏ, như những
dòng sông được tạo thành từ nhiều con suối...
b. Bình luận:
- Mơ ước làm nên điều lớn lao là nguyện vọng chính đáng của mọi người, cần được tôn
trọng, động viên, khuyến khích.
- Nhưng phải luôn ý thức rằng:
+ Một nhân cách hoàn thiện vốn được bồi đắp từ những việc làm rất nhỏ, nhất là những
hành vi đạo đức, lối sống. Ý nghĩa của cuộc sống cũng được kiến tạo từ những điều đơn
sơ, bình dị.
+ Phê phán lối sống, cách nghĩ, lời nói ngụy biện: vì việc lớn mà quên việc nhỏ, muốn
trở thành vĩ nhân mà quên mình cũng là một con người bình thường.
(Lưu ý: mỗi luận điểm có dẫn chứng thực tế để minh hoạ)

c. Bài học:
- Nhận thức sâu sắc rằng, việc gì nhỏ mấy mà có ích thì kiên quyết làm...
- Thường xuyên rèn luyện đức tính kiên nhẫn, bắt đầu từ những việc làm nhỏ để có thể
hướng tới những điều lớn lao.
3. Biểu điểm:

- Điểm 5-6: Đáp ứng tốt các yêu cầu trên, hành văn trong sáng, có cảm xúc.


- Điểm 4-5: Đáp ứng được phần lớn các yêu cầu trên, hành văn trong sáng, mạch lạc, ít
mắc lỗi.
- Điểm 2-3: Đáp ứng được khoảng một nửa yêu cầu trên, còn một số lỗi về diễn đạt,
chính tả.
- Điểm 1: Không hiểu đề hoặc hiểu còn mơ hồ, nhiều lỗi diễn đạt.
Giám khảo có thể cho điểm theo các ý:
Ý a. 1,5 điểm.
Ý b. 3,0 điểm.
Ý c. 1,5 điểm.
Điểm hình thức trong điểm nội dung.
Câu 3. (10 điểm)
Cảm nhận nét đặc sắc của bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” - Thanh Thảo. (Ngữ
văn 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2008)
-------------------------A. Yêu cầu về kĩ năng:
Thí sinh biết cách làm bài văn nghị luận văn học, bố cục rõ ràng, kết cấu chặt chẽ, vận
dụng linh hoạt các hình thức lập luận, diễn đạt lưu loát, giàu chất văn.
B. Yêu cầu về kiến thức:
Thí sinh cần chỉ ra, phân tích và đánh giá được những nét đặc sắc về nội dung và nghệ
thuật trong tác phẩm “Đàn ghi ta của Lor-ca”. Thí sinh có thể triển khai bài viết theo
nhiều cách khác nhau, nhưng cần đảm bảo những nội dung sau:
1. Giới thiệu nhà thơ Thanh Thảo và bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca.
- Thanh Thảo là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Ông có nhiều
nỗ lực cách tân thơ Việt Nam hiện đại. Thơ ông giàu tính triết luận, cảm hứng thường
hướng về những con người sống có nghĩa khí, nhân cách ngời sáng dù số phận có thể
ngang trái.
- Trên hành trình đổi mới thơ, “ông vua trường ca” đã ám ảnh người đọc bằng nhiều sáng
tác độc đáo. Trong đó, “Đàn ghi ta của Lor-ca” in trong tập “Khối vuông ru - bích”

(1985) là một thi phẩm đặc sắc.
2. Nét đặc sắc của bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca”.
a. Về nội dung.
Bài thơ như một khúc tráng ca tưởng niệm về Lor-ca, tái hiện hình tượng người
nghệ sĩ tự do và cô đơn; một cái chết oan khuất, bi phẫn bởi những thế lực tàn ác; một
tâm hồn bất diệt. Bài thơ đã làm sống lại huyền thoại về một con người, một nghệ sĩ, một
chiến sĩ, về xứ sở Tây Ban Nha, âm nhạc và thi ca.
Bài thơ đã thể hiện sự ngưỡng mộ, xúc động sâu sắc, đồng cảm tri âm của Thanh
Thảo với nhà thơ, nghệ sĩ, chiến sĩ Lor-ca.
- Vẻ đẹp bi tráng của Lor-ca.
+ Lor-ca được miêu tả trên nền rộng lớn của văn hóa Tây Ban Nha: hình ảnh áo choàng
đỏ gắt; vầng trăng; yên ngựa; cô gái Di-gan; nốt nhạc ghi ta li-la-li-la-li-la. Tất cả làm
nổi bật tình yêu và sự gắn bó không thể tách rời của Lor-ca với xứ sở Tây Ban Nha.
Hình ảnh áo choàng đỏ gắt giúp ta liên tưởng đến khung cảnh của một đấu trường giữa
công dân Lor-ca cùng khát vọng dân chủ với nền chính trị độc tài, giữa nền nghệ thuật
già nua Tây Ban Nha với nghệ thuật cách tân của Lor-ca.


=> Nổi bật hình tượng Lor-ca là một nghệ sĩ đơn độc lang thang hát nghêu ngao cùng
tiếng đàn bọt nước cùng với vầng trăng chếnh choáng, trên yên ngựa mỏi mòn, dùng
tiếng đàn ghi ta để giãi bày nỗi đau buồn và khát vọng yêu thương của nhân dân mình.
+ Cái chết bi tráng của Lor-ca.
Hiện thân cho số phận đau thương: bị bọn phát xít giết hại dã man (bị điệu về bãi bắn, áo
choàng bê bết đỏ,…).
Cái chết của Lor-ca gợi lên hình ảnh cái đẹp bị bạo lực tàn ác huỷ diệt (tiếng ghi ta tròn
bọt nước vỡ tan - tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy,…)
- Sự ngưỡng mộ, xúc động sâu sắc, đồng cảm tri âm của Thanh Thảo với nhà thơ,
nghệ sĩ, chiến sĩ Lor-ca.
+ Suy ngẫm về cái chết Lor-ca: Sự đồng cảm, thương xót, ngưỡng vọng (giọt nước mắt
vầng trăng, long lanh trong đáy giếng,…). Cái chết của Lor-ca như một sự giã từ (bơi

sang ngang trên chiếc ghi ta màu bạc; ném lá bùa; ném trái tim mình...), cùng với cây
đàn nghệ thuật, Lor-ca đã cập bến bất tử.
+ Suy ngẫm về sức sống tiếng đàn, khát vọng nghệ thuật của Lor-ca: Tiếng đàn tượng
trưng cho nghệ thuật của Lor-ca. Đó là cái đẹp mà sự tàn ác không thể hủy diệt nổi. Nó sẽ
sống, lưu truyền mãi tiếng đàn như có mọc hoang mặc cho không ai chôn cất. Nhà thơ
Thanh Thảo đã thật sự cảm thông, thấu hiểu khát vọng nghệ thuật của Lor-ca. Nghệ sĩ
Lor-ca ra đi bất ngờ khiến hành trình cách tân nghệ thuật của ông bị dang dở và con
đường ông đã đi qua không ai thực sự hiểu. Lor-ca đã dặn “khi tôi chết hãy chôn tôi với
cây đàn”, lời dặn đó thể hiện nhân cách nghệ sĩ, tình yêu say đắm với nghệ thuật và tình
yêu tha thiết với đất nước Tây Ban Nha của Lor-ca. Lor-ca cho rằng cần phải biết chôn
nghệ thuật của ông để thi ca đó không trở thành vật án ngữ, cản trở sự sáng tạo nghệ thuật
giúp nghệ thuật đi tới, vươn cao hơn.
Thanh Thảo thể hiện niềm tin mãnh liệt vào sự bất tử của tiếng đàn. Kết thúc bài thơ âm
thanh li-la-li-la-li-la vang vọng - tiếng đàn nghệ thuật, Lor-ca còn mãi với thời gian.
b. Về nghệ thuật.
- Thể thơ tự do, gạt bỏ mọi quy tắc ngữ pháp, không sử dụng các dấu chấm câu, câu thơ
dài - ngắn không đều, không viết hoa đầu dòng, nhịp điệu phóng khoáng tự do để cho
mạch cảm xúc tuôn trào.
- Hình tượng tiếng đàn được xây dựng trong thế song - trùng với hình tượng Lor-ca. Lorca là một nghệ sĩ kép - nhạc sĩ và nhà thơ, cho nên việc Thanh Thảo chọn hình tượng đàn
ghi ta để tái hiện cuộc đời, nghệ thuật, cái chết của Lor-ca, dùng hình tượng tiếng đàn ghi
ta suy tư về sự bất tử của Lor-ca là một sự sáng tạo nghệ thuật mang ý nghĩa sâu sắc.
- Bài thơ giàu nhạc tính có sự giao thoa giữa thơ và nhạc.
+ Bài thơ mang dáng dấp một ca khúc. Mạch kể chuyện (cốt tự sự - tái hiện lại cuộc đời,
cái chết của Lor-ca…) hiện ra qua cấu trúc của một ca khúc (khúc dạo đầu, bản nhạc và
vĩ thanh)
+ Mô phỏng lối tiết tấu của nhạc (mô phỏng chuỗi âm thanh: li-la li-la li- la), sử dụng lối
diễn tấu ghita, sử dụng những điệp khúc, những từ láy... Thanh Thảo đã “khảm” tiếng
nhạc vào ngôn từ, hình ảnh thơ tạo sức gợi lớn.
- Sử dụng thi liệu: Thanh Thảo đã thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của Lor-ca, lựa chọn
những thi liệu đầy ám ảnh, gợi cảm từ thế giới nghệ thuật ấy đưa vào bài thơ “Đàn ghi ta

của Lor-ca”. Đó là những thi liệu: đàn ghi ta, yên ngựa, vầng trăng, áo choàng đỏ, cô gái
Di gan, lá bùa hộ mệnh,…
- Ngôn ngữ, hình ảnh thơ: mang tính đa nghĩa, tính biểu tượng cao, được sáng tạo theo lối
lạ hóa của thơ tượng trưng, siêu thực: tiếng đàn bọt nước, tiếng ghi ta lá xanh, tiếng ghi


ta nâu, tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan, tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy, giọt nước mắt
vầng trăng …Biện pháp hoán dụ (tiếng hát để chỉ Lor-ca, áo choàng bê bết đỏ để chỉ cái
chết), biện pháp so sánh và chuyển đổi cảm giác theo thuyết tương giao (tiếng ghi ta nâu,
tiếng ghi ta lá xanh, tiếng ghi ta tròn) giữa âm thanh, hình ảnh, sắc màu.
=> Lor-ca là một nhà thơ cách tân, một nhà thơ tượng trưng siêu thực. Thanh Thảo đã
dùng nghệ thuật của Lor-ca để cảm hiểu, nói về Lor-ca. Bài thơ là sự tri âm sâu sắc, sự
sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ Thanh Thảo.
3. Đánh giá.
- Bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca là một thi phẩm thành công kết tinh nhiều nỗ lực tìm tòi,
sáng tạo mới mẻ của Thanh Thảo theo hướng hiện đại hóa cả về nội dung và nghệ thuật.
- Sự sáng tạo ấy là kết quả của mối đồng cảm sâu sắc của Thanh Thảo với Lor-ca. Đây
chính là sự cộng hưởng của những khát vọng sáng tạo nghệ thuật. Dù Thanh Thảo khẳng
định “ Lorca trong tôi - Mãi mãi là bí mật” thì bài thơ “Đàn ghi ta của Lorca” vẫn là một
khúc tưởng niệm đặc biệt bằng thơ, “tiếng nói tri âm” của một nhà thơ Việt Nam với nhà
thơ Tây Ban Nha thiên tài.
C. Biểu điểm.
- Điểm 9-10: Đáp ứng tốt các yêu cầu trên, lập luận chặt chẽ, văn viết có cảm xúc, dẫn
chứng chọn lọc, chính xác, có sức thuyết phục.
- Điểm 7-8: Đáp ứng phần lớn những yêu cầu trên, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng chọn lọc,
chính xác. Có thể mắc những lỗi nhỏ.
- Điểm 5-6: Tương đối đủ các ý lớn tuy còn sơ sài, biết chọn và phân tích dẫn chứng, còn
mắc một số lỗi.
- Điểm 3-4: Chưa thật hiểu yêu cầu của đề, nội dung sơ sài.
- Điểm 1-2: Hiểu sai đề, diễn đạt yếu.

Giám khảo có thể cho điểm theo ý:
Ý 1: 1,0 điểm
Ý 2: a: 4,0 điểm
b: 4,0 điểm
Ý 3: 1,0 điểm
Điểm hình thức trong điểm nội dung.
=============Hết=============


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
THANH HOÁ

KỲ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI CẤP TỈNH
Năm học: 2013 - 2014
Môn thi: NGỮ VĂN
Lớp 12 - THPT
Ngày thi: 20 tháng 3 năm 2014
Thời gian: 180 phút (không kể thời gian giao đề)
Đề thi có 03 câu, gồm 01 trang

ĐỀ THI CHÍNH THỨC
Số báo danh
…………………….

Câu 1 (6.0 điểm )
Hạnh phúc trong tầm tay.
Câu 2 (6.0 điểm)
Tiếng nói riêng của Xuân Diệu và Hàn Mặc Tử trong cảm nhận về sự sống trần
gian qua hai đoạn thơ sau:
“...Của ong bướm này đây tuần tháng mật;

Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;...”
(Trích Vội vàng, Xuân Diệu, Ngữ văn 11, tập 2, NXBGD, 2008)
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền...”
(Trích Đây thôn Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử, Ngữ văn 11, tập 2, NXBGD, 2008)
Câu 3 (8.0 điểm)
“Phong cách văn học biểu hiện trước hết ở cách nhìn, cách cảm thụ có tính
chất khám phá, ở giọng điệu riêng biệt của tác giả.”
(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD, 2008)
Từ hình tượng sông Hương trong bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông? của
Hoàng Phủ Ngọc Tường, anh/ chị hãy bàn luận về ý kiến trên.
===== Hết =====

- Thí sinh không sử dụng tài liệu.
- Giám thị không giải thích gì thêm.


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
THANH HOÁ

KỲ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI CẤP TỈNH
Năm học: 2013 - 2014
Môn thi: NGỮ VĂN

Lớp 12 - THPT
Ngày thi: 20 tháng 3 năm 2014
HƯỚNG DẪN CHẤM
ĐỀ CHÍNH THỨC

I. Yêu cầu chung
Giám khảo cần:
- Nắm bắt kĩ nội dung trình bày của thí sinh để đánh giá được một cách tổng quát và
chính xác, tránh đếm ý cho điểm.
- Vận dụng linh hoạt hướng dẫn chấm, nên sử dụng nhiều mức điểm một cách hợp lí.
Đặc biệt khuyến khích những bài viết có cảm xúc và sáng tạo...
- Chấm theo thang điểm 20 (câu 1: 6.0 điểm; câu 2: 6.0 điểm; câu 3: 8.0 điểm)
II. Yêu cầu cụ thể
Câu 1 (6.0 điểm)
1. Yêu cầu về kĩ năng:
- Biết cách làm một bài nghị luận xã hội về một hiện tượng đời sống: hệ thống luận
điểm rõ ràng, lập luận chặt chẽ, hành văn trong sáng, giàu cảm xúc, hình ảnh.
- Biết kết hợp các thao tác lập luận, bố cục hợp lí, không mắc lỗi diễn đạt, lỗi chính tả.
2. Yêu cầu về kiến thức
Cần đáp ứng một số ý chính sau:
Nội dung
1. Giải thích
- Mỗi người có một quan niệm và cảm nhận khác nhau về hạnh phúc. Tuy
nhiên có thể nhận thấy hạnh phúc thường gắn liền với trạng thái vui sướng khi
con người cảm thấy thỏa mãn ý nguyện nào đó của mình.
- Hạnh phúc trong tầm tay: hạnh phúc không phải điều gì quá xa vời. Ai
cũng có khả năng tạo lập hạnh phúc cho bản thân mình.
2. Bàn luận
- Hạnh phúc là khát vọng, là mong muốn, là đích đến của con người trong
cuộc sống.

- Mỗi người tùy thuộc vào khả năng và hoàn cảnh đều có thể có được hạnh
phúc. Vì vậy, con người cần phải nỗ lực, cố gắng để đạt được hạnh phúc.
- Hạnh phúc không phải là điều gì quá xa vời. Nhiều khi hạnh phúc chính là
những điều giản dị, gần gũi xung quanh chúng ta mà không phải ai cũng đủ tự tin
và tinh tế để nhận ra.
- Những người tự ti, mặc cảm về bản thân hay theo đuổi những điều viển
vông vượt quá khả năng của mình đều không thể có được hạnh phúc.
3. Bài học nhận thức và hành động

Điểm
1.0
0.5

0.5
4.0
1.0
1.0

1.0

1.0
1.0


- Cần có nhận thức đúng đắn về hạnh phúc trong mối quan hệ với hoàn cảnh
và khả năng của bản thân.
- Luôn tự tin, biết trân trọng và gìn giữ hạnh phúc.

0.5
0.5


Câu 2 (6.0 điểm)
1. Yêu cầu về kĩ năng:
- Biết cách làm một bài nghị luận văn học: hệ thống luận điểm rõ ràng, lập luận chặt
chẽ, hành văn trong sáng, giàu cảm xúc, hình ảnh.
- Biết kết hợp các thao tác lập luận, bố cục hợp lí, không mắc lỗi diễn đạt, lỗi chính tả.
2. Yêu cầu về kiến thức
Cần đáp ứng một số ý chính sau:
Nội dung
1. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, vấn đề nghị luận
2. Tiếng nói riêng của Xuân Diệu và Hàn Mặc Tử trong những cảm
nhận về sự sống trần gian qua hai đoạn thơ
2.1. Giải thích
- Tiếng nói riêng là nét độc đáo trong cách nhìn, cách cảm nhận và cách thể
hiện của nhà thơ, là biểu hiện cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ.
- Tiếng nói riêng góp phần bộc lộ tư tưởng, khẳng định bản lĩnh, tài năng của
mỗi nhà văn, nhà thơ.
2.2. Biểu hiện tiếng nói riêng của Xuân Diệu và Hàn Mặc Tử trong cảm
nhận về sự sống trần gian qua hai đoạn thơ
2.2.1. Cảm hứng sáng tạo
- Với Xuân Diệu là cảm xúc rạo rực, háo hức của một trái tim nồng nhiệt,
cuồng si đang tận hưởng trọn vẹn thanh sắc của cuộc đời.
- Còn với Hàn Mạc Tử là nỗi khắc khoải trong nỗ lực tìm kiếm sợi dây liên
hệ với cuộc đời.
2.2.2. Những cảm nhận riêng về sự sống trần gian
- Trong đoạn thơ của Xuân Diệu:
+ Thiên nhiên tạo vật quấn quýt, giao hòa, quyến rũ và rạo rực xuân tình,
hiển hiện trực tiếp như một bữa tiệc trần gian bày ra trước mắt thi nhân.
+ Nhân vật trữ tình chủ động khám phá và tận hưởng mọi vẻ đẹp cuộc sống
với một niềm vui sướng, hân hoan.

- Trong khổ thơ của Hàn Mặc Tử:
+ Thiên nhiên trong buổi ban mai trong trẻo, tinh khôi, vừa gần gũi, thân
thuộc vừa xa lạ, cách ngăn hiện lên trong nỗi nhớ của thi nhân.
+ Nhân vật trữ tình khao khát, say mê nhưng không thể có được cảm giác
hòa hợp, gắn bó. Đó là tâm thế của người lữ khách chan chứa lòng yêu sống, đau
đáu hướng về cuộc đời.
2.2.3. Nghệ thuật biểu hiện
- Đoạn thơ của Xuân Diệu: hình ảnh mới lạ, ngôn ngữ gợi cảm với nhiều
biện pháp tu từ đặc sắc (nhân hóa, so sánh,…), cú pháp tân kì.
- Đoạn thơ của Hàn Mặc Tử: câu hỏi tu từ đa sắc thái, hình ảnh giàu sức liên

Điểm
0.5
5.0
0.5

4.5
0.5

3.0
1.5

1.5

1.0


tưởng, ngôn ngữ tinh tế, độc đáo (đại từ phiếm chỉ ai, phụ từ chỉ mức độ quá)...
3. Đánh giá khái quát


0.5

- Hai đoạn thơ ngắn nhưng phần nào đã biểu hiện được những nét độc đáo
trong phong cách thơ Xuân Diệu và Hàn Mặc Tử.
- Tiếng nói riêng đó được tạo nên từ tài năng vượt trội, tâm hồn nhạy cảm
trước thiên nhiên, cuộc sống và trái tim thấm đẫm tình đời, tình người của hai thi
sĩ, góp phần tạo nên sự hấp dẫn và sức sống lâu bền của tác phẩm.
Câu 3 (8.0 điểm)
1. Yêu cầu về kĩ năng:
- Biết cách làm một bài nghị luận văn học: hệ thống luận điểm rõ ràng, lập luận chặt
chẽ, hành văn trong sáng, giàu cảm xúc, hình ảnh.
- Biết kết hợp các thao tác lập luận, bố cục hợp lí, không mắc lỗi diễn đạt, lỗi chính tả.
2. Yêu cầu về kiến thức
Cần đáp ứng một số ý chính sau:
Nội dung

Điểm

1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vấn đề nghị luận

1.0

2. Giải thích ý kiến

0.5

Phong cách văn học là những nét riêng, độc đáo của một tác giả trong quá
trình nhận thức và phản ánh cuộc sống... phong cách là sự thể hiện tài nghệ của
người nghệ sĩ trong việc đưa đến cho độc giả một cái nhìn mới mẻ về cuộc đời
thông qua những phương thức, phương tiện nghệ thuật mang đậm dấu ấn cá nhân

của người sáng tạo.
3. Bàn luận

6.0

3.1. Khẳng định vấn đề

0.5

- Hình tượng sông Hương trong Ai đã đặt tên cho dòng sông? góp phần
khẳng định phong cách của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
- Nét độc đáo trong phong cách của nhà văn biểu hiện trước hết ở cách
nhìn, cách cảm thụ và giọng điệu riêng biệt.
3.2. Biểu hiện của phong cách Hoàng Phủ Ngọc Tường khi xây dựng
hình tượng sông Hương
3.2.1 Cách nhìn, cách cảm thụ có tính chất khám phá
- Sông Hương luôn được cảm nhận ở vẻ đẹp giàu nữ tính:
+ Hình ảnh sông Hương gắn với vẻ đẹp của người con gái: cô gái Digan,
người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở, là người gái đẹp nằm ngủ mơ
màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, là người tài nữ đánh đàn lúc đêm
khuya, là nàng Kiều trong đêm tình tự với Kim Trọng, là người con gái dịu dàng
của đất nước.
+ Sông Hương được miêu tả bằng một hệ thống từ ngữ gợi nét đẹp đặc
trưng của người phụ nữ: sắc đẹp dịu dàng, đường cong thật mềm, hình cung thật

5.5
4.0
2.0

1.0



tròn, dòng sông mềm như tấm lụa, uốn một cánh cung rất nhẹ, điệu slow tình
cảm, ngập ngừng như muốn đi muốn ở, những vấn vương của một nỗi lòng, chút
lẳng lơ kín đáo của tình yêu... Đó là vẻ đẹp dịu dàng, đằm thắm, kín đáo nhưng
cũng đầy gợi cảm.
- Sông Hương được miêu tả trong chiều sâu của những giá trị văn hóa:
+ Hình ảnh so sánh mới lạ: là bản trường ca của rừng già, vẻ đẹp trầm mặc
như triết lí, như cổ thi, điệu slow tình cảm, là không gian sinh thành và nuôi
dưỡng nền âm nhạc cổ điển Huế, là hành động rất lạ với tự nhiên và rất giống
con người ở đây...
+ Trong quan hệ với thi ca, sông Hương luôn gợi những cảm hứng mới mẻ,
không bao giờ tự lặp lại mình... Mỗi nhà thơ đều có một khám phá riêng về nó...

0.5

0.5

3.2.2. Giọng điệu riêng biệt

1.5

- Giọng điệu tha thiết, yêu thương:
+ Dõi theo hành trình của sông Hương từ thượng nguồn cho đến khi về với

0.5

biển.
+ Phát hiện những biến đổi tinh tế của sông Hương trong không gian và
thời gian.

+ Phát hiện mối liên hệ khăng khít giữa vẻ đẹp của sông Hương với mảnh
đất cố đô và những nét đặc trưng trong văn hóa của con người xứ Huế.
- Giọng điệu dịu dàng, mê đắm: hành trình của sông Hương được miêu tả
trong sự liên tưởng đến câu chuyện tình yêu mãnh liệt, say đắm với nhiều cung
bậc cảm xúc: mong đợi, vui sướng, ngập ngừng, bịn rịn, lưu luyến, nhớ nhung...
- Giọng điệu tự hào, trân trọng:
+ Khám phá nét riêng, độc đáo của sông Hương trong tương quan với
những dòng sông nổi tiếng trên thế giới để chợt nhớ và yêu quý điệu chảy lặng lờ
của nó khi ngang qua thành phố.
+ Sông Hương đã sống những thế kỉ quang vinh với nhiệm vụ lịch sử của
nó... là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh
biếc.
4. Đánh giá khái quát
- Thông qua cách nhìn, cách cảm thụ có tính chất khám phá, giọng điệu
riêng biệt, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem đến cho người đọc hình ảnh một sông
Hương vừa quen, vừa lạ, vừa chân thực nhưng đầy sức gợi.
- Sông Hương trong bài kí là sản phẩm của một cái tôi nghệ sĩ tinh tế tài
hoa, một cái tôi giàu vốn văn hóa và trí tưởng tượng phong phú, một cái tôi say
đắm với tình yêu quê hương đất nước. Cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
làm nên sự đa dạng cho thể loại kí nói riêng và nền văn học dân tộc nói chung.

0.5

0.5

0.5


Họ và tên thí sinh:……………………..…………..


Chữ ký giám thị 1:

Số báo danh:……………………………..………...

…………….………………..

SỞ GDĐT BẠC LIÊU
CHÍNH THỨC

KỲ THI CHỌN HSG LỚP 12 VÒNG TỈNH
NĂM HỌC 2011 - 2012
* Môn thi: NGỮ VĂN (BẢNG B)
* Ngày thi: 05/11/2011
* Thời gian: 180 phút (Không kể thời gian giao đề)

(Gồm 01 trang)

ĐỀ
Câu 1: (8 điểm)
Mac-xim Gorki có nói: “Sách mở rộng trước mắt tôi những chân trời mới”.
Tục ngữ Việt Nam lại đúc kết một kinh nghiệm: “Đi một ngày đàng, học một sàng
khôn”.
Anh, chị hãy cho biết ý kiến của mình về hai câu trên.
Câu 2: (12 điểm)
“Thơ nghệ thuật của Hồ Chí Minh có sự hòa hợp độc đáo giữa bút pháp cổ điển
và bút pháp hiện đại; giữa chất trữ tình và chất “thép”; giữa sự trong sáng, giản dị và
sự hàm súc, sâu sắc”.
(Ngữ văn 12, tập 1– NXB Giáo dục, 2008, tr.29)
Anh, chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
---HẾT---



SỞ GDĐT BẠC LIÊU

KỲ THI CHỌN HSG LỚP 12 VÒNG TỈNH
NĂM HỌC 2011 - 2012

CHÍNH THỨC
(Gồm 03 trang)

* Môn thi: NGỮ VĂN (BẢNG B)
* Ngày thi: 05/11/2011
* Thời gian: 180 phút (Không kể thời gian giao đề)

HƯỚNG DẪN CHẤM
Câu 1: (8 điểm)
Ý
Nội dung
I. Yêu cầu về kỹ năng
- Nắm vững kỹ năng làm bài văn nghị luận xã hội.
- Bố cục rõ ràng; diễn đạt mạch lạc, trong sáng.
- Không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.

Điểm

II. Yêu cầu về kiến thức:

1

2


Giải thích:
- Câu nói của M.Gorki khẳng định vai trò của sách trong việc mở
rộng, nâng cao khả năng nhận thức cho con người; Còn câu tục ngữ
khẳng định vai trò của sự trải nghiệm thực tế đời sống giúp con
người trưởng thành, khôn lớn.
- Khái quát nội dung ý nghĩa cả hai câu: Đọc sách và trải nghiệm
thực tế là hai con đường giúp con người nâng cao tri thức, hiểu biết
và trưởng thành.
Phát biểu ý kiến
a- Về câu nói của M.Gorki:
- Khẳng định vai trò của sách (đối với người đọc): Sách giúp chúng
ta mở rộng kiến thức, nâng cao tầm hiểu biết về mọi mặt; Sách còn
có tác dụng trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm cho con người,
hướng tới Chân-Thiện-Mỹ;
- Thái độ cần có của người đọc: Chăm chỉ đọc sách, biết lựa chọn
sách tốt để đọc, có phương pháp đọc sách đúng đắn; biết tích luỹ kiến
thức để nâng cao vốn hiểu biết ...;
b- Về câu tục ngữ:
- Đề cao vai trò của sự trải nghiệm: Thực tế đời sống là cơ sở thực
tiễn để kiểm chứng và đánh giá kết quả đọc sách; Thế giới được phản
ánh trong sách không thể phong phú bằng thực tế đời sống. Vì thế, để
đạt được thành công, chúng ta không thể không trải nghiệm thực tế.
- Câu tục ngữ có ý nghĩa như một lời khuyên: Hãy gắn bó với thực tế
đời sống. Đó là cơ hội trải nghiệm để tự đánh giá năng lực thực tế
của mình, biết xử lí, ứng phó trước các tình huống xảy ra; Đó cũng là
con đường để nâng cao kiến thức và bản lĩnh của mình.

1


1

1,5

1,5

Bảng B


3

c- Bàn luận cả hai câu:
- Cả hai câu đều khẳng định: Con người muốn nâng cao nhận thức
phải biết gắn kiến thức sách vở và kiến thức thực tế, gắn lí thuyết với
thực tiễn, học phải đi đôi với hành. Nếu tuyệt đối hoá lí thuyết hoặc
thực tế sẽ khó đạt đến thành công.
- Mỗi phương pháp nhận thức đều có lợi thế và hạn chế riêng. Vì thế
phải kết hợp tốt cả hai nhằm phát huy lợi thế của từng phương pháp
để hoàn thiện trình độ và kinh nghiệm thực tế của mình.
- Phê phán sự lệch lạc trong việc lựa chọn con đường nhận thức của
một số người: coi trọng sách vở, xa rời lí thuyết, hoặc lười đọc sách,
không chọn đúng sách để đọc ...

3,0

Nhận thức và hành động của bản thân

1,0

- Nhận thức đúng vai trò của sách và sự trải nghiệm thực tế để nâng

cao hiểu biết, đi tới thành công.

- Liên hệ trách nhiệm của bản thân.
Lưu ý: Chỉ cho điểm tối đa khi bài làm đạt được cả yêu cầu về kỹ năng và kiến thức
Câu 2: (12 điểm)
Ý
Nội dung
I
Yêu cầu về kỹ năng:
- Biết làm bài văn nghị luận về một ý kiến bàn về văn học; kết cấu
bài viết chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, không mắc lỗi chính tả, dùng từ,
ngữ pháp; dẫn chứng phong phú, chọn lọc và thuyết phục; kỹ năng
cảm thụ thơ tinh tế
- bài viết có tính sáng tạo, thể hiện được chất giọng riêng, có vài
đoạn hay, sâu sắc.
II
Yêu cầu về kiến thức:
Trên cơ sở những hiểu biết về phong cách văn học và những kiến
thức về thơ nghệ thuật Hồ Chí minh, thí sinh cần làm rõ các ý sau:
1
Thơ nghệ thuật của Bác có sự kết hợp giữa bút pháp cổ điển và bút
pháp hiện đại:
- Bút pháp cổ điển:
+ Giàu cảm hứng về thiên nhiên, thiên nhiên thường được quan sát
từ cao, từ xa. Nhà thơ không coi trọng việc vẽ lại hình xác của sự vật
mà cốt yếu là ghi lại linh hồn của tạo vật bằng những nét chấm phá.
+ Nhân vật trữ tình thường có phong thái ung dung nhàn tản, hòa
hợp với thiên nhiên như những người bạn tri âm, tri kỉ.
- Bút pháp hiện đại:
+ Tư tưởng, tình cảm, hình tượng nghệ thuật luôn vận động một

cách tự nhiên hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai.
+ Trong mối quan hệ với thiên nhiên, con người làm chủ tình thế,
làm chủ thiên nhiên.
2
Thơ nghệ thuật Hồ chí Minh có sự hài hòa giữa chất tình và chất
thép.
- Chất tình: tâm tư tình cảm cao đẹp của thi sĩ Hồ chí Minh.
2

Điểm

4.0

4.0

Bảng B


- Chất thép: tinh thần chiến đấu, tinh thần cách mạng
- Hòa hợp giữa tâm hồn thi sĩ với tinh thần chiến sĩ.
3
Thơ nghệ thuật Hồ Chí minh có sự hòa hợp độc đáo giữa sự trong
sáng giản dị và sự hàm súc, sâu sắc.
- Trong sáng giản dị ở những hình ảnh gần gũi, giản dị, ở ngôn ngữ,
giọng điệu không cao ngạo, dạy đời.
4.0
- Hàm súc, sâu sắc ở lời ít, ý nhiều gợi ra những bài học sâu sắc về lẽ
sống, về con đường tu dưỡng, rèn luyện.
Lưu ý: Chỉ cho điểm tối đa khi bài làm đạt được cả yêu cầu về kỹ năng và kiến thức
HẾT


3

Bảng B


Họ và tên thí sinh:……………………..…………..

Chữ ký giám thị 1:

Số báo danh:……………………………..………...

…………….………………..

SỞ GDĐT BẠC LIÊU
CHÍNH THỨC

KỲ THI CHỌN HSG LỚP 12 VÒNG TỈNH
NĂM HỌC 2011 - 2012
* Môn thi: NGỮ VĂN (BẢNG B)
* Ngày thi: 05/11/2011
* Thời gian: 180 phút (Không kể thời gian giao đề)

(Gồm 01 trang)

ĐỀ
Câu 1: (8 điểm)
Mac-xim Gorki có nói: “Sách mở rộng trước mắt tôi những chân trời mới”.
Tục ngữ Việt Nam lại đúc kết một kinh nghiệm: “Đi một ngày đàng, học một sàng
khôn”.

Anh, chị hãy cho biết ý kiến của mình về hai câu trên.
Câu 2: (12 điểm)
“Thơ nghệ thuật của Hồ Chí Minh có sự hòa hợp độc đáo giữa bút pháp cổ điển
và bút pháp hiện đại; giữa chất trữ tình và chất “thép”; giữa sự trong sáng, giản dị và
sự hàm súc, sâu sắc”.
(Ngữ văn 12, tập 1– NXB Giáo dục, 2008, tr.29)
Anh, chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
---HẾT---


SỞ GDĐT BẠC LIÊU

KỲ THI CHỌN HSG LỚP 12 VÒNG TỈNH
NĂM HỌC 2011 - 2012

CHÍNH THỨC
(Gồm 03 trang)

* Môn thi: NGỮ VĂN (BẢNG B)
* Ngày thi: 05/11/2011
* Thời gian: 180 phút (Không kể thời gian giao đề)

HƯỚNG DẪN CHẤM
Câu 1: (8 điểm)
Ý
Nội dung
I. Yêu cầu về kỹ năng
- Nắm vững kỹ năng làm bài văn nghị luận xã hội.
- Bố cục rõ ràng; diễn đạt mạch lạc, trong sáng.
- Không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.


Điểm

II. Yêu cầu về kiến thức:

1

2

Giải thích:
- Câu nói của M.Gorki khẳng định vai trò của sách trong việc mở
rộng, nâng cao khả năng nhận thức cho con người; Còn câu tục ngữ
khẳng định vai trò của sự trải nghiệm thực tế đời sống giúp con
người trưởng thành, khôn lớn.
- Khái quát nội dung ý nghĩa cả hai câu: Đọc sách và trải nghiệm
thực tế là hai con đường giúp con người nâng cao tri thức, hiểu biết
và trưởng thành.
Phát biểu ý kiến
a- Về câu nói của M.Gorki:
- Khẳng định vai trò của sách (đối với người đọc): Sách giúp chúng
ta mở rộng kiến thức, nâng cao tầm hiểu biết về mọi mặt; Sách còn
có tác dụng trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm cho con người,
hướng tới Chân-Thiện-Mỹ;
- Thái độ cần có của người đọc: Chăm chỉ đọc sách, biết lựa chọn
sách tốt để đọc, có phương pháp đọc sách đúng đắn; biết tích luỹ kiến
thức để nâng cao vốn hiểu biết ...;
b- Về câu tục ngữ:
- Đề cao vai trò của sự trải nghiệm: Thực tế đời sống là cơ sở thực
tiễn để kiểm chứng và đánh giá kết quả đọc sách; Thế giới được phản
ánh trong sách không thể phong phú bằng thực tế đời sống. Vì thế, để

đạt được thành công, chúng ta không thể không trải nghiệm thực tế.
- Câu tục ngữ có ý nghĩa như một lời khuyên: Hãy gắn bó với thực tế
đời sống. Đó là cơ hội trải nghiệm để tự đánh giá năng lực thực tế
của mình, biết xử lí, ứng phó trước các tình huống xảy ra; Đó cũng là
con đường để nâng cao kiến thức và bản lĩnh của mình.

1

1

1,5

1,5

Bảng B


3

c- Bàn luận cả hai câu:
- Cả hai câu đều khẳng định: Con người muốn nâng cao nhận thức
phải biết gắn kiến thức sách vở và kiến thức thực tế, gắn lí thuyết với
thực tiễn, học phải đi đôi với hành. Nếu tuyệt đối hoá lí thuyết hoặc
thực tế sẽ khó đạt đến thành công.
- Mỗi phương pháp nhận thức đều có lợi thế và hạn chế riêng. Vì thế
phải kết hợp tốt cả hai nhằm phát huy lợi thế của từng phương pháp
để hoàn thiện trình độ và kinh nghiệm thực tế của mình.
- Phê phán sự lệch lạc trong việc lựa chọn con đường nhận thức của
một số người: coi trọng sách vở, xa rời lí thuyết, hoặc lười đọc sách,
không chọn đúng sách để đọc ...


3,0

Nhận thức và hành động của bản thân

1,0

- Nhận thức đúng vai trò của sách và sự trải nghiệm thực tế để nâng
cao hiểu biết, đi tới thành công.

- Liên hệ trách nhiệm của bản thân.
Lưu ý: Chỉ cho điểm tối đa khi bài làm đạt được cả yêu cầu về kỹ năng và kiến thức
Câu 2: (12 điểm)
Ý
Nội dung
I
Yêu cầu về kỹ năng:
- Biết làm bài văn nghị luận về một ý kiến bàn về văn học; kết cấu
bài viết chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, không mắc lỗi chính tả, dùng từ,
ngữ pháp; dẫn chứng phong phú, chọn lọc và thuyết phục; kỹ năng
cảm thụ thơ tinh tế
- bài viết có tính sáng tạo, thể hiện được chất giọng riêng, có vài
đoạn hay, sâu sắc.
II
Yêu cầu về kiến thức:
Trên cơ sở những hiểu biết về phong cách văn học và những kiến
thức về thơ nghệ thuật Hồ Chí minh, thí sinh cần làm rõ các ý sau:
1
Thơ nghệ thuật của Bác có sự kết hợp giữa bút pháp cổ điển và bút
pháp hiện đại:

- Bút pháp cổ điển:
+ Giàu cảm hứng về thiên nhiên, thiên nhiên thường được quan sát
từ cao, từ xa. Nhà thơ không coi trọng việc vẽ lại hình xác của sự vật
mà cốt yếu là ghi lại linh hồn của tạo vật bằng những nét chấm phá.
+ Nhân vật trữ tình thường có phong thái ung dung nhàn tản, hòa
hợp với thiên nhiên như những người bạn tri âm, tri kỉ.
- Bút pháp hiện đại:
+ Tư tưởng, tình cảm, hình tượng nghệ thuật luôn vận động một
cách tự nhiên hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai.
+ Trong mối quan hệ với thiên nhiên, con người làm chủ tình thế,
làm chủ thiên nhiên.
2
Thơ nghệ thuật Hồ chí Minh có sự hài hòa giữa chất tình và chất
thép.
- Chất tình: tâm tư tình cảm cao đẹp của thi sĩ Hồ chí Minh.
2

Điểm

4.0

4.0

Bảng B


- Chất thép: tinh thần chiến đấu, tinh thần cách mạng
- Hòa hợp giữa tâm hồn thi sĩ với tinh thần chiến sĩ.
3
Thơ nghệ thuật Hồ Chí minh có sự hòa hợp độc đáo giữa sự trong

sáng giản dị và sự hàm súc, sâu sắc.
- Trong sáng giản dị ở những hình ảnh gần gũi, giản dị, ở ngôn ngữ,
giọng điệu không cao ngạo, dạy đời.
4.0
- Hàm súc, sâu sắc ở lời ít, ý nhiều gợi ra những bài học sâu sắc về lẽ
sống, về con đường tu dưỡng, rèn luyện.
Lưu ý: Chỉ cho điểm tối đa khi bài làm đạt được cả yêu cầu về kỹ năng và kiến thức
HẾT

3

Bảng B


×