Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật việt nam lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 84 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
……

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 37 (2011 – 2015)

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

ThS: Bùi Thị Mỹ Hương

Nguyễn Thị Hồng Đang

Bộ môn Luật Thương mại

MSSV: 5115969
Lớp Luật Hành chính – K37
Cần Thơ, tháng 12 năm 2014


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………


…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
……………….………………………………………………………………
……………………
Cần Thơ, ngày… tháng … năm 2014



MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................ 1
2. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu .................................................................................................. 2
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................... 3
5. Bố cục của đề tài......................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VẤN ĐỀ KẾT HÔN CÓ YÊU TỐ
NƯỚC NGOÀI ............................................................................................................... 4
1.1. Khái niệm về kết hôn, kết hôn có yếu tố nước ngoài ............................................. 4
1.1.1. Khái niệm về kết hôn ...................................................................................... 4
1.1.2. Khái niệm về kết hôn có yếu tố nước ngoài .................................................... 5
1.2. Lịch sử phát triển của pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước
ngoài ở Việt Nam............................................................................................................ 7
1.2.1. Giai đoạn từ trước năm 1986 ......................................................................... 7
1.2.1.1. Giai đoạn trước cách mạng tháng Tám năm 1945 .............................. 7
1.2.1.2. Giai đoạn năm 1946 đến năm 1959 .................................................... 8
1.2.1.3. Giai đoạn năm 1959 đến năm 1986 .................................................... 9
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1986 đến nay ................................................................... 11
1.2.2.1. Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2000 .............................................. 11
1.2.2.2. Giai đoạn từ năm 2000 đến nay ........................................................ 12
1.3. Phương pháp điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài......................... 13
1.3.1. Phương pháp xung đột ................................................................................. 14
1.3.2. Phương pháp thực chất ................................................................................ 15
1.4. Nguồn luật điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài............................. 16
1.4.1. Pháp luật quốc gia ....................................................................................... 16
1.4.2. Điều ước quốc tế .......................................................................................... 18
1.5. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật về quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài .. 18
1.5.1. Yếu tố chủ thể .............................................................................................. 19
1.5.2. Yếu tố khách thể của quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài ......................... 21

1.5.3. Yếu tố sự kiện pháp lý làm xác lập quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài .... 21


1.6. Các nguyên tắc chung điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài........... 22
1.6.1. Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài ......... 22
1.6.2. Nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia vào quan
hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài ..................................................................................... 23
1.6.3. Nguyên tắc áp dụng pháp luật nước ngoài ................................................... 25
1.6.4. Nguyên tắc áp dụng pháp luật Việt Nam ...................................................... 27
1.7. Các nguyên tắc đặc thù điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài ........ 27
1.7.1. Nguyên tắc Luật quốc tịch ........................................................................... 27
1.7.2. Nguyên tắc Luật nơi cư trú .......................................................................... 28
1.7.3. Nguyên tắc Luật nơi thực hiện hành vi ......................................................... 29
CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUAN HỆ KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ
NƯỚC NGOÀI ............................................................................................................. 31
2.1. Điều kiện kết hôn đối với việc kết hôn có yếu tố nước ngoài............................... 31
2.1.1. Điều kiện về độ tuổi kết hôn đối với việc kết hôn có yếu tố nước ngoài ........ 32
2.1.2. Điều kiện về sự tự nguyện của các bên đối với việc kết hôn có yếu tố nước
ngoài.............................................................................................................................. 33
2.1.3. Việc kết hôn không thuộc các trường hợp cấm kết hôn ................................. 34
2.2. Các trường hợp từ chối đăng kí kết hôn có yếu tố nước ngoài ........................... 39
2.2.1. Vi phạm điều kiện kết hôn ............................................................................ 39
2.2.2. Vi phạm mục đích kết hôn ............................................................................ 41
2.3. Tổ chức và hoạt động của trung tâm tư vấn, hỗ trợ kết hôn có yếu tố
nước ngoài .................................................................................................................... 42
2.3.1. Địa vị pháp lý của Trung tâm tư vấn, hỗ trợ kết hôn có yếu tố
nước ngoài ..................................................................................................................... 42
2.3.2. Thủ tục đăng kí hoạt động của Trung tâm, cấp lại giấy hoạt động của Trung
tâm................................................................................................................................. 43
2.3.3. Quyền hạn, nhiệm vụ của Trung tâm tư vấn, hỗ trợ kết hôn có yếu tố nước

ngoài.............................................................................................................................. 44
2.4. Thẩm quyền đăng kí kết hôn có yếu tố nước ngoài ............................................. 48
2.4.1. Thẩm quyền đăng kí kết hôn của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương (gọi tắt là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) ......................................................... 48
2.4.2. Thẩm quyền đăng kí kết hôn của cơ quan đại diện Việt Nam ở
nước ngoài ..................................................................................................................... 49


2.4.3. Thẩm quyền đăng kí kết hôn của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài ở
nước ngoài ..................................................................................................................... 50
2.5. Giải quyết việc đăng kí kết hôn có yếu tố nước ngoài ......................................... 51
2.5.1. Hồ sơ đăng kí kết hôn có yếu tố nước ngoài ................................................. 51
2.5.2. Thời hạn giải quyết việc đăng kí kết hôn có yếu tố nước ngoài..................... 53
2.6. Trình tự, thủ tục giải quyết việc kết hôn có yếu tố nước ngoài. .......................... 54
2.6.1. Trình tự, thủ tục giải quyết việc kết hôn có yếu tố nước ngoài tại
Việt Nam ........................................................................................................................ 54
2.6.1.1. Nộp, tiếp nhận hồ sơ đăng kí kết hôn có yếu tố nước ngoài tại
Việt Nam............................................................................................................................54
2.6.1.2. Giải quyết việc đăng kí kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam ... 55
2.6.1.3. Lễ đăng kí kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam ...................... 57
2.6.2. Trình tự, thủ tục giải quyết việc kết hôn có yếu tố nước ngoài tại cơ quan đại
diện của Việt Nam ở nước ngoài .................................................................................... 58
2.6.2.1. Nộp, tiếp nhận hồ sơ đăng kí kết hôn có yếu tố nước ngoài tại cơ quan
đại diện của Việt Nam ở nước ngoài .............................................................................. 58
2.6.2.2. Xem xét, giải quyết hồ sơ đăng kí kết hôn có yếu tố nước ngoài tại cơ
quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài ..................................................................... 59
2.6.2.3. Tổ chức lễ đăng kí kết hôn ................................................................ 60
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VỀ VẤN ĐỀ KẾT
HÔN CÓ YẾU TỔ NƯỚC NGOÀI ............................................................................ 62
3.1. Thực trạng về quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài .......................................... 62

3.1.1. Tác động của quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài .................................... 62
3.1.1.1. Tác động tích cực của quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài............ 62
3.1.1.2. Tác động tiêu cực của quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài............ 63
3.1.2. Một số thuận lợi của quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài ......................... 64
3.1.2.1. Đơn giản hóa các thủ tục trong quan hệ kết hôn có yếu tố
nước ngoài...................................................................................................................64
3.1.2.2. Quyền lợi của phụ nữ được bảo vệ hơn trong quan hệ hôn nhân có yếu
tố nước ngoài....................................................................................................................65
3.1.3. Một số bất cập trong quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài ......................... 66
3.1.3.1. Bất cập trong việc xác nhận tình trạng hôn nhân có yếu tố
nước ngoài...................................................................................................................67


3.1.3.2. Bất cập trong việc xin giấy xác nhận của tổ chức y tế khi làm thủ tục
kết hôn có yếu tố nước ngoài .......................................................................................... 68
3.1.3.3. Bất cập trong việc chờ đợi các Trung tâm tư vấn, hỗ trợ kết hôn có
yếu tố nước ngoài .... .........................................................................................................68
3.2. Giải pháp hoàn thiện về quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài .......................... 69
3.2.1. Tạo điều kiện để mọi người nâng cao ý thức, tuyên truyền những tác hại của
kết hôn không đúng mục đích ......................................................................................... 69
3.2.2. Mở rộng việc ủy quyền xác nhận tình trạng hôn nhân .................................. 70
3.2.3. Quy định cụ thể giấy xác nhận của tổ chức y tế trong khi làm thủ tục kết hôn
có yếu tố nước ngoài ...................................................................................................... 71
3.2.4. Thành lập các Trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài.............................................................................................................................. 71
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam – Lý luận và thực tiễn


LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Gia đình – là hạt nhân cốt lõi của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng tâm hồn con người,
là môi trường quan trọng để hình thành và phát triển nhân cách, góp phần tích cực và
quan trọng trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự tác động qua lại và chi phối lẫn
nhau giữa gia đình và xã hội được khẳng định rõ nét trong hôn nhân. Trong thời đại ngày
nay, xu thế hội nhập – quốc tế hóa là xu hướng khách quan của các nước đang mở rộng
thì hòa vào sự phát triển của nền kinh tế, quan hệ hôn nhân cũng được hình thành dưới
nhiều góc độ khác nhau của xã hội dựa trên những nguyên tắc, cơ sở nhất định. Hôn nhân
giữa công dân Việt Nam với nhau, giữa người Việt Nam với người nước ngoài được tôn
trọng và được pháp luật bảo vệ trên nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng và
vợ chồng bình đẳng. Quan hệ hôn nhân của người Việt Nam với người nước ngoài ngày
càng phổ biến và tăng nhanh về số lượng.
Do tính chất phức tạp của quan hệ này, nhà nước đã kịp thời thừa nhận và bảo vệ
bằng cách thông qua hình thức ban hành văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh và bổ
sung sửa đổi để hoàn thiện nội dung của chế định này trên thực tế. Có những văn bản ra
đời trước như Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000, Pháp lệnh Hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài,
Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về quan hệ Hôn nhân và gia đình
có yếu tố nước ngoài, Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 7 năm 2006 sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP và hiện nay là Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2000 sửa đổi, bổ sung năm 2010, sắp tới là Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 có hiệu lực vào ngày 01 tháng 01 năm 2015, Nghị định số 24/2013/NĐ-CP ngày 28
tháng 03 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn
nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, Thông tư
22/2013/TT-BTP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số
24/2013/NĐ-CP ngày 28 tháng 03 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ Hôn nhân và gia đình có yếu tố

nước ngoài ban hành ngày 31 tháng 12 năm 2013. Đây là cơ sở pháp lý vững chắc hướng
các chủ thể trong quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài phát huy tối đa quyền tự do kết
hôn và đảm bảo trật tự ổn định xã hội. Tuy nhiên hệ thống pháp luật hiện hành vẫn còn
tồn tại những thiếu sót, những bất cập trong quá trình áp dụng, ảnh hưởng rất lớn đến
cuộc sống của chủ thể kết hôn và những giá trị đạo đức truyền thống của xã hội. Qua đó
việc không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về kết hôn có yếu
tố nước ngoài nói riêng là nhiệm vụ quan trọng ở nước ta.
GVHD: ThS: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 1

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Đang


Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam – Lý luận và thực tiễn

Quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài trên thực tế đã mang lại rất nhiều giá trị và ý
nghĩa tích cực trong các lĩnh vực của đời sống, góp phần tích cực vào việc hợp tác giữa
các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, kết hôn có yếu tố nước ngoài cũng có
những hạn chế, tiêu cực trong xã hội. Kết hôn có yếu tố nước ngoài có nơi người phụ nữ
đã trở thành “hàng hóa” để kinh doanh, những “bà mai” đã thừa cơ hội để thực hiện hành
vi môi giới, lừa đảo, làm ảnh hưởng trầm trọng đến xã hội. Có trường hợp khi kết hôn sẽ
vi phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục của người Việt Nam, không nhằm mục đích xây
dựng gia đình. Có trường hợp còn đau lòng hơn bởi nó xâm phạm nghiêm trọng đến nhân
cách và phẩm giá của người phụ nữ Việt Nam, đó không phải là những trường hợp phổ
biến nhưng nó đã gây nên làn sóng phẫn nộ trong lòng của người dân, sự xúc phạm lòng
tự tôn dân tộc của người Việt. Hiện nay công dân Việt Nam kết hôn với người nước
ngoài, đặc biệt là phụ nữ Việt Nam kết hôn với công dân Đài Loan, Hàn Quốc và mới
đây nhất đó là công dân Malaysia đang được dư luận hết sức quan tâm, vấn đề này đặt ra
để pháp luật nước ta và xã hội chung tay giải quyết đảm bảo quyền tự do kết hôn, đảm

bảo quan hệ đối ngoại với các quốc gia trên thế giới không bị ảnh hưởng xấu, đồng thời
đảm bảo trật tự xã hội trong nước, hạn chế và ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực trong
kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Vì những lý do trên nên Người viết chọn đề tài “Vấn đề kết hôn có yếu tố nước
ngoài theo pháp luật Việt Nam – Lý luận và thực tiễn” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
Đề tài này đề cập đến những quy định của pháp luật và tình trạng kết hôn có yếu tố nước
ngoài ở nước ta hiện nay. Cùng với thực trạng nghiên cứu được, đề tài này sẽ đưa ra một
số giải pháp nhằm đóng góp ý kiến cho các quy định hiện hành. Thông qua đề tài này
người đọc sẽ nhìn nhận vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài một cách bao quát và bên
cạnh đó sẽ hiểu rõ hơn về vấn đề đáng quan tâm hiện nay ở một số vùng nông thôn còn
thiếu thốn ở nước ta.
2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của luận văn, Người viết nghiên cứu những lý luận chung về quan hệ
kết hôn có yếu tố nước ngoài: các khái niệm cơ bản, lịch sử phát triển, phương pháp điều
chỉnh, nguồn luật điều chỉnh, đối tượng điều chỉnh, các nguyên tắc chung và các nguyên
tắc đặc thù điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài. Người viết tìm hiểu những
quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài: điều kiện kết
hôn, các trường hợp cấm kết hôn, tổ chức và hoạt động của Trung tâm tư vấn hỗ trợ kết
hôn có yếu tố nước ngoài, thẩm quyền đăng kí kết hôn, hồ sơ, thời hạn giải quyết, trình tự
thủ tục giải quyết việc kết hôn có yếu tố nước ngoài. Từ những lý luận chung và những
quy định của pháp luật, Người viết tìm hiểu thực trạng cũng như giải pháp hoàn thiện về
vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài, tuy nhiên Người viết chỉ tìm hiểu thực trạng kết hôn
giữa nữ công dân Việt Nam với nam công dân nước ngoài.
GVHD: ThS: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 2

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Đang



Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam – Lý luận và thực tiễn

3. Mục đích nghiên cứu
Là một sinh viên năm cuối sắp rời khỏi giảng đường đại học, Người viết mong bản
thân có thể tìm hiểu kĩ hơn về kết hôn có yếu tố nước ngoài, đặc biệt trong giai đoạn giao
lưu quốc tế trên mọi phương diện của cuộc sống.
Vì vậy, mục đích nghiên cứu của Người viết là nhằm giúp chúng ta hiểu rõ hơn về
quy định của pháp luật Việt Nam: áp dụng pháp luật, thẩm quyền giải quyết các vấn đề
liên quan như điều kiện kết hôn, trình tự thủ tục tiến hành đăng kí kết hôn, giải quyết
những mâu thuẩn trong việc áp dụng pháp luật, xung đột pháp luật giữa pháp luật quốc
gia và pháp luật quốc tế. Ngoài ra, Người viết còn đưa ra những biện pháp và hướng giải
quyết nhằm hoàn thiện pháp luật trong quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài này.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, người viết đã thực hiện các phương pháp sau:
+ Phương pháp phân tích luật viết: phân tích những quy định của pháp luật hiện
hành điều chỉnh vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài, sau đó đánh giá, tổng hợp cùng với
việc hệ thống hóa các cơ sở lý luận để có thể nhìn một cách đầy đủ diễn biến của quan hệ
pháp luật kết hôn có yếu tố nước ngoài.
+ Phương pháp đối chiếu, so sánh: đối chiếu lý luận với thực tiễn, sau đó đút kết từ
thực tiễn tinh thần chung theo luật và đề ra hướng hoàn thiện trong quan hệ hôn nhân có
yếu tố nước ngoài.
+ Ngoài ra, Người viết còn tiến hành tìm hiểu trên sách báo, các trang thông tin điện
tử, giáo trình của một số trường đại học có liên quan đến. Song song với các phương
pháp nêu trên Người viết còn sử dụng các phương pháp như: phương pháp phân tích,
tổng hợp, phương pháp liệt kê, phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch… để người
viết hoàn thành luận văn một cách nhanh chóng, chính xác và hiệu quả.
5. Bố cục của đề tài
Đề tài được chia thành 3 chương, nội dung của các chương như sau:
+ Chương 1: Khái quát chung về vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài
+ Chương 2: Pháp luật Việt Nam về quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài

+ Chương 3: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề kết hôn có yếu
tố nước ngoài.

GVHD: ThS: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 3

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Đang


Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam – Lý luận và thực tiễn

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
Trước thời kỳ đổi mới, ở Việt Nam hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là
loại quan hệ ít phổ biến. Tuy nhiên trong quá trình hội nhập quốc tế, khi mà Việt Nam
tham gia ngày càng sâu, rộng vào các quan hệ quốc tế, quan hệ hôn nhân và gia đình có
yếu tố nước ngoài không còn là hiện tượng hiếm gặp trong đời sống xã hội nữa mà ngày
càng phát triển một cách đa dạng và phức tạp cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Việc điều
chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài trở thành một yêu cầu cấp
bách và quan trọng, đó không chỉ góp phần ổn định và phát triển giao lưu dân sự quốc tế
mà còn là nhu cầu thiết yếu của xã hội, hướng đến bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân khi tham gia vào quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài.
1.1. Khái niệm về kết hôn, kết hôn có yếu tố nước ngoài
Ngày nay xu thế toàn cầu hóa ngày càng mở rộng, sự hợp tác của các quốc gia ngày
càng trở nên phổ biến, do đó sự hình thành quan hệ hôn nhân cũng được hiểu theo nhiều
cách khác nhau, tuy nhiên đó chỉ là những quan điểm được truyền lại từ xa xưa. Từ
những quan điểm đó Luật của nước ta đã có định nghĩa rõ ràng về hôn nhân và cả hôn
nhân có yếu tố nước ngoài để hạn chế việc hiểu sai nghĩa và áp dụng không đúng.
1.1.1. Khái niệm về kết hôn

Theo quan điểm của Mác – Lênin, gia đình là đơn vị tổ chức nhỏ nhất của xã hội, là
tế bào của xã hội, có tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển của xã hội nên gia đình gắn
liền với đời sống của xã hội, hạnh phúc của mỗi cá nhân, góp phần quan trọng vào sản
xuất, đào tạo con người.
Trong bài nói chuyện tại Hội nghị thảo luận dự thảo Luật Hôn nhân - gia đình
(tháng 1-1959), Hồ Chủ Tịch đã nói: “Rất quan tâm đến gia đình là đúng, vì nhiều gia
đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới
tốt”1. Chính vì vậy, xây dựng một gia đình hạnh phúc, tiến bộ đang là vấn đề thu hút sự
quan tâm của nhiều người, tất cả tiền đề của gia đình chính là hôn nhân.
Hôn nhân, trong chừng mực nào đó, được hiểu là sự kết hợp giữa hai người, một
nam và một nữ để chung sống, giúp đỡ và hỗ trợ cần thiết cho nhau. Ở các nước Hồi
giáo, họ công nhận chế độ đa thê, ở vài bộ tộc lại sống theo chế độ đa phu. Mặt khác, ở
một số nước xuất hiện xu hướng cho rằng sự khác biệt giới tính không phải là điều kiện
bắt buộc của hôn nhân: những người cùng giới tính vẫn có thể chung sống với nhau và
tạo thành một gia đình.
1

Huyền Trang, Tư tưởng Hồ Chí Minh về gia đình và giáo dục gia đình, Ban quản lý lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh,
[ngày truy cập: 11/7/2014].

GVHD: ThS: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 4

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Đang


Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam – Lý luận và thực tiễn

“Hôn nhân là quan hệ vợ chồng sau khi đã kết hôn”2. Vậy kết hôn là điểm khởi đầu

cho đời sống vợ chồng, cho quá trình làm việc, sản xuất của gia đình và con người.
Theo quan điểm truyền thống thì kết hôn là việc nam và nữ được gia đình hai bên tổ
chức lễ cưới và họ hàng thừa nhận. Khi đó, hai bên nam nữ bắt đầu cuộc sống vợ chồng,
cùng nhau sản xuất, tạo dựng một gia đình không hề có sự điều chỉnh của pháp luật mà
chỉ được xác lập theo phong tục, tập quán. Nhưng từ khi có pháp luật điều chỉnh thì quan
hệ kết hôn phải tuân theo những quy định, qua nhiều góc độ khác nhau thì kết hôn được
hiểu theo nhiều cách khác nhau.
Theo góc độ Luật học thì “kết hôn là sự liên kết giữa một người đàn ông và một
người đàn bà thành vợ chồng được pháp luật công nhận”3. Việc kết hôn là sự kết hợp
giữa một người đàn ông và một người đàn bà cùng mục đích xác lập quan hệ vợ chồng.
Kết hôn là một mối quan hệ cơ bản trong gia đình và sau đó là được sự bảo vệ và điều
chỉnh của pháp luật.
Quy định tại điều 8 khoản 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 sửa đổi, bổ sung
năm 2010 “kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp
luật về điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn”. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 là đạo
luật Hôn nhân và gia đình đầu tiên của nước ta không có định nghĩa về kết hôn, nhà nước
ta nắm bắt tình hình thực tế đã ban hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, lần đầu
tiên đã ghi nhận định nghĩa về kết hôn. Và Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 sửa đổi
bổ sung năm 2010 lần thứ hai ghi nhận định nghĩa kết hôn để khi áp dụng pháp luật và
thực hiện pháp luật trở nên dễ dàng. Việc xác lập quan hệ kết hôn tuân theo những quy
định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn. Kết hôn là sự thừa nhận của
Cơ quan có thẩm quyền về việc xác lập quan hệ vợ chồng giữa những người khác giới,
làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa họ với nhau.
1.1.2. Khái niệm về kết hôn có yếu tố nước ngoài
Hiện nay do sự giao lưu của nước ta và các nước trên thế giới là do kết quả của quá
trình thực hiện “nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình hữu nghị, hợp
tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập,
hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên
hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; là

bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc
gia, dân tộc, góp phần vào sự hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên

2
3

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 sửa đổi bổ sung năm 2010, điều 8, khoản 6.
Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa Hà Nội, 1999, trang 244.

GVHD: ThS: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 5

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Đang


Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam – Lý luận và thực tiễn

thế giới”4 của Đảng và Nhà nước ta thì các quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài phát
triển mạnh mẽ. Nhờ vào hành lang pháp lý ở nước ta ngày càng thông thoáng để thực
hiện chính sách của Đảng và Nhà nước, người nước ngoài đến với Việt Nam đầu tư phát
triển kinh tế, họ làm ăn, sinh sống, ngược lại, công dân Việt Nam được ra nước ngoài học
tập, làm việc và nghiên cứu.
Quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài hiện đang là vấn đề cấp bách, vì vậy việc điều
chỉnh vấn đề nhằm đảm bảo quyền lợi cho người Việt Nam cũng như công dân của các
nước tham gia vào quan hệ này là cần thiết. Việc điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố
nước ngoài không chỉ phụ thuộc vào pháp luật quốc gia mà còn phụ thuộc vào pháp luật
nước ngoài, các điều ước quốc tế mà các nước kí kết hoặc gia nhập.
Để điều chỉnh được vấn đề này thì pháp luật hôn nhân và gia đình của nước ta đã
định nghĩa trên cơ sở vận dụng điều 758 Bộ luật Dân sự 2005 về quan hệ dân sự có yếu

tố nước ngoài và Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 sửa đổi bổ sung năm 2010. Theo
khoản 2 điều 8 thì: “kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định
của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn”, và tại khoản 14 điều 8 “quan hệ
hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình:
a)
b)
c)
quan hệ

Giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài;
Giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam;
Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt
đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước

ngoài.”
Bên cạnh đó tại khoản 4 điều 100 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 sửa đổi bổ
sung năm 2010 quy định quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ
giữa công dân Việt Nam với nhau mà một hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài.
Từ những quy định trên, kết hôn có yếu tố nước ngoài được xác định với các chủ
thể: Công dân Việt Nam với người nước ngoài; người nước ngoài với nhau nhưng thường
trú tại Việt Nam; giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ xác lập theo pháp luật
nước ngoài, giữa công dân Việt Nam với nhau mà một hoặc cả hai bên định cư ở nước
ngoài.
Quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài chịu sự tác động qua lại của pháp luật quốc
gia và các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia kí kết hoặc đã là thành viên nhằm đảm
bảo cho quan hệ này phù hợp với ý chí và quyền lợi của mình, đời sống và xã hội.

4

Hiến pháp năm 2013, điều 12.


GVHD: ThS: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 6

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Đang


Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam – Lý luận và thực tiễn

1.2. Lịch sử phát triển của pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước
ngoài ở Việt Nam.
Khi nghiên cứu pháp luật về điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài thì
chúng ta cần nghiên cứu sự hình thành và phát triển của pháp luật điều chỉnh quan hệ này
để lấy đó làm cơ sở phân giai đoạn lịch sử, qua đây cho thấy sự phát triển của pháp luật
Việt Nam về quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài cùng với sự hợp tác phát triển kinh tế
giữa các nước trong khu vực nói riêng và trên thế giới nói chung. Để làm rõ vấn đề
Người viết chia làm hai mốc lịch sử: Giai đoạn trước năm 1986 và giai đoạn từ năm 1986
đến nay.
1.2.1. Giai đoạn từ trước năm 1986
1.2.1.1. Giai đoạn trước cách mạng tháng Tám năm 1945
Từ trước năm 1945 nước ta là nước thuộc địa nữa phong kiến, quan hệ dân sự trong
giai đoạn này được quy định trong Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long.
Bộ luật Hồng Đức gọi là Quốc triều hình luật, ban hành dưới triều thời Hậu Lê. Bộ
luật Hồng Đức là công trình luật học vĩ đại đã kế thừa các di sản pháp luật của các đời
vua trước, đồng thời tiếp thu có sàng lọc Bộ luật nhà Đường ở Trung Quốc mà vẫn giữ
được nét độc đáo của nền luật cổ Việt Nam.
Bộ luật Gia Long gọi là Hoàng Việt luật lệ, ban hành dưới triều nhà Nguyễn và soạn
thảo theo quy trình chặt chẽ dưới sự kiểm soát của Hoàng đế. Năm 1815, bộ luật in thành
sách ban hành trên phạm vi toàn quốc, và là lần đầu tiên trong lịch sử một bộ luật thống

nhất từ Đàng Trong đến Đàng Ngoài. Tuy nhiên ngay từ khi ban hành Bộ luật này có
nhiều quy định lạc hậu hơn so với Bộ luật Hồng Đức.
Dưới thời Pháp thuộc đất nước bị chia cắt làm ba kì: Nam kì, Trung Kì, Bắc Kì. Ở
Nam Kì, thực dân Pháp ban hành Bộ dân luật giản yếu Nam Kì. Ở Bắc Kì, Bộ dân luật
Bắc Kì năm 1931 được thay thế cho Bộ luật Gia Long theo Nghị định của Thống sứ Bắc
Kì. Ở Trung Kì, thực dân Pháp ban hành Hoàng Việt Trung Kì hộ luật năm 1939. Tuy
nhiên pháp luật dân sự trong thời kì này có những mặt hạn chế nhất định: hạn chế về hôn
nhân và gia đình, kết hôn, ly hôn… mang nặng tư tưởng phong kiến, đề cao nho giáo,
trọng nam khinh nữ.
Trong thời kì này tuy có ba bộ luật điều chỉnh các quan hệ xã hội nhưng không hề
có quy định cụ thể nào về quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài, nhưng việc kết hôn giữa
công dân An Nam và người Pháp vẫn diễn ra thường xuyên.

GVHD: ThS: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 7

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Đang


Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam – Lý luận và thực tiễn

Như vậy, có thể thấy:
Thứ nhất, trong thời kì phong kiến, nước ta thực hiện chính sách “bế quan tỏa cảng”
nên các bộ luật trong thời kì này không thực sự có quy định về quan hệ kết hôn có yếu tố
nước ngoài.
Thứ hai, trong thời kì Pháp thuộc, nước ta có mối quan hệ với các nước như Trung
Quốc, các nước Đông Nam Á, các nước Phương Tây, tuy nhiên các mối quan hệ này còn
rất hạn chế. Pháp luật thời kì này bắt đầu có một số quy định về quan hệ hôn nhân và gia
đình có yếu tố nước ngoài nhưng chủ yếu là điều chỉnh các quan hệ về quốc tịch.

1.2.1.2. Giai đoạn năm 1946 đến năm 1959
Sau Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 02 tháng 9 năm 1945, tại Quảng
trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn
độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mở ra lịch sử chính thể cộng hòa
dân chủ nhân dân ở nước ta. Tuyên ngôn độc lập là văn kiện chính trị - pháp lý cơ bản
đầu tiên của Nhà nước dân chủ nhân dân Việt Nam.
Trong giai đoạn này, chỉ một tháng sau khi giành được chính quyền, Chính phủ lâm
thời đã ra Sắc lệnh ngày 20 tháng 9 năm 1945 thành lập Ban dự thảo Hiến pháp. Ngày 02
tháng 03 năm 1946, Quốc hội tại kì họp thứ nhất chính thức thông qua Ủy ban dự thảo
Hiến pháp. Ngày 9 tháng 01 năm 1946, Quốc hội thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của
Nhà nước dân chủ nhân dân Việt Nam. Hiến pháp năm 1946 mở ra lịch sử lập hiến ở
nước ta, và Hiến pháp 1946 hợp hiến hóa Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và là cơ
sở pháp lý cơ bản để củng cố tổ chức Nhà nước. Hiến pháp năm 1946 vừa là đạo luật cơ
bản vừa là cương lĩnh chính trị đại đoàn kết dân tộc chống kẻ thù chính của đất nước, đó
chính là tác động thực tế lớn lao, có ý nghĩa lịch sử lâu dài và là điểm lý thú nhất của
Hiến pháp. Điều 9 Hiến pháp quy định: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi
phương diện”, từ đây người phụ nữ Việt Nam đã có quyền thực hiện mọi công việc như
nam giới.
Sắc lệnh 97/SL ngày 22 tháng 5 năm 1950 sửa đổi một số luật lệ của dân sự cũ. Sắc
lệnh này khẳng định nguyên tắc những quyền dân sự được sử dụng đúng với luật pháp và
phù hợp với quyền lợi chung của nhân dân. Sắc lệnh 97/SL không quên điều chỉnh những
vấn đề liên quan đến hôn nhân và gia đình, sắc lệnh xóa bỏ những quy định trái với các
nguyên tắc tiến bộ trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Các quy định tiến bộ và khá chi
tiết: “người con đã thành niên không bắt buộc phải có cha mẹ bằng lòng mới kết hôn
được” (điều 2 Sắc lệnh 79/SL) hoặc xóa bỏ tục lệ phong kiến cấm kết hôn trong thời gian
có tang, bảo vệ quyền lợi của con ngoài giá thú. Sự ra đời của sắc lệnh này đã bãi bỏ
những quy định lạc hậu trong Bộ ba dân luật, thay vào đó là những quy định tiến bộ điều
chỉnh quan hệ kết hôn. Trong giai đoạn này, các vấn đề liên quan đến kết hôn đều phải
GVHD: ThS: Bùi Thị Mỹ Hương


Trang 8

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Đang


Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam – Lý luận và thực tiễn

tuân theo sắc lệnh này nhưng trong văn bản lại không có quy định nào quy định về kết
hôn có yếu tố nước ngoài.
Tuy chưa có văn bản cụ thể nào điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài
nhưng trong một số văn bản điều chỉnh các quan hệ pháp luật khác đã có đề cập tới vấn
đề này. Điều 5 và điều 6 sắc lệnh 53/SL ngày 20 tháng 10 năm 1945 về Quốc tịch Việt
Nam công nhận thực tế là có quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, nhưng sau đó sắc
lệnh 051/SL ngày 14 tháng 12 năm 1959 đã bãi bỏ điều 5 và điều 6 sắc lệnh 53/SL. Hiến
pháp năm 1959 ra đời là cơ sở pháp lý quan trọng để điều chỉnh quan hệ hôn nhân nói
chung và quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng trong giai đoạn này. Tuy có quy
định nhưng để tìm một quy định cụ thể và trực tiếp về kết hôn có yếu tố nước ngoài thì
chưa có.
Nhìn chung, pháp luật về hôn nhân có yếu tố nước ngoài còn nhiều hạn chế, chưa
tập hợp thành một hệ thống, chưa có văn bản pháp luật riêng để điều chỉnh mà chỉ ghi
nhận trong Hiến pháp năm 1946. Đó là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng chế độ hôn
nhân mới, tiến bộ ở nước ta. Ngoài ra quan hệ hôn nhân còn được điều chỉnh theo một số
sắc lệnh, bãi bỏ những quy định lạc hậu, góp phần giải phóng phụ nữ, thúc đẩy xã hội
phát triển. Bên cạnh đó, quan hệ của nước ta với các nước xã hội chủ nghĩa mới bắt đầu
hình thành và dần được củng cố, ở thời kì này phát triển con người là rất quan trọng, các
nước tiếp nhận công dân nước ta với nhiều ngành nghề khác nhau, Việt Nam bắt đầu gửi
công dân của nước mình qua các nước để học tập, nghiên cứu, đồng thời Việt Nam tiếp
nhận nhiều chuyên gia, cán bộ các nước đến cộng tác, giúp đỡ và huấn luyện cho cán bộ
Việt Nam. Trong bối cảnh như thế, các quan hệ nước ngoài bắt đầu phát sinh, do đó đòi
hỏi phải có pháp luật điều chỉnh. Tuy nhiên, vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài vẫn

chưa là vấn đề được quan tâm và cấp bách. Bởi pháp luật thời này là pháp luật thời chiến,
pháp luật chỉ mang tính dân chủ nhân dân, phục vụ kịp thời những công việc cấp bách và
thiết yếu của cách mạng. Nhưng chính giai đoạn này đã góp phần nảy sinh ra các quan hệ
tiềm tàng cho sự phát triển tiếp tục ở các giai đoạn sau.
1.2.1.3. Giai đoạn năm 1959 đến năm 1986
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, thực dân Pháp phải kí Hiệp định Giơ-ne-vơ (20
tháng 7 năm 1954), miền Bắc được giải phóng nhưng đất nước còn tạm chia làm hai
miền. Nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới này là: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Hiến pháp năm 1946 "đã hoàn thành sứ
mệnh của nó. Nhưng so với tình hình mới và nhiệm vụ cách mạng mới hiện nay thì nó
không thích hợp nữa. Vì vậy, chúng ta phải sửa đổi Hiến pháp ấy". (Hồ Chí Minh: Báo
cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi năm 1959). Ngày 23 tháng 01 năm 1957 tại kỳ họp thứ
6 Quốc hội khóa I ra nghị quyết về việc sửa đổi Hiến pháp và thành lập Ban sửa đổi Hiến
GVHD: ThS: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 9

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Đang


Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam – Lý luận và thực tiễn

pháp đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngày 01 tháng 4 năm 1959 Dự thảo Hiến pháp
sửa đổi công bố để nhân dân thảo luận, đóng góp ý kiến. Tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội
khóa I, ngày 31 tháng 12 năm 1959 Hiến pháp sửa đổi được thông qua và ngày 01 tháng
01 năm 1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh công bố Hiến pháp này, Hiến pháp tiếp
tục khẳng định sự bình đẳng của nam và nữ, ghi nhận được sự quan trọng của vấn đề, đây
là đạo Luật Hôn nhân và gia đình đầu tiên của nước ta. Luật này quán triệt bốn nguyên
tắc cơ bản: Hôn nhân tự do và tiến bộ, một vợ một chồng, nam nữ bình đẳng, bảo vệ
quyền lợi của người phụ nữ và quyền lợi hợp pháp của con cái nhưng Luật Hôn nhân và

gia đình năm 1959 lại không có quy định về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài.
Pháp luật trong nước đã điều chỉnh một số vấn đề liên quan tới quan hệ hôn nhân có
yếu tố nước ngoài:
Ở miền Nam, Chính phủ đã ban hành Nghị định 04 ngày 16 tháng 01 năm 1961
kèm theo điều lệ về đăng kí hộ tịch, trong đó quy định về vấn đề sinh, tử, kết hôn. Tiếp
đến Bộ Nội vụ ban hành thông tư 05 ngày 21 tháng 6 năm 1961 hướng dẫn thi hành Điều
lệ trên. Trong văn bản này chưa quy định cụ thể về vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài
nhưng nó là tiền đề cơ bản để giải quyết quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài.
Ở miền Nam, dưới sự cai trị của Ngụy quyền miền Nam, các hôn nhân trong thời kì
này vẫn chịu sự điều chỉnh của Pháp qui giản yếu năm 1883 cho đến năm 1959. Vì lý do
đó nên ngày 02 tháng 01 năm 1959, luật Gia đình của chính quyền họ Ngô được ban
hành. Về mặt pháp lý, Luật Gia đình này chấm dứt sự điều chỉnh của Pháp qui giản yếu
năm 1883 đối với các quan hệ hôn nhân trong khu vực tạm thời nằm trong sự cai trị của
ngụy quyền miền Nam. Chính quyền họ Ngô bị lật đổ vào tháng 11 năm 1963, chính
quyền bù nhìn mới lên thay đã ban hành Sắc luật 15/64 thay cho Luật Gia đình năm
1959. Ngày 20 tháng 12 năm 1972, Bộ dân luật được ban hành. Bộ luật này ra đời đã
thay thế Sắc luật 15/64 cùng với những văn bản bổ sung, sửa đổi sắc luật này trước đó.
Về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài được quy định như sau: “Trong trường
hợp hôn thú lập ở ngoại quốc, trong vòng ba tháng sau khi trở về lãnh thổ Việt Nam,
người có quốc tịch Việt Nam phải xuất trình một bản sao chứng thư hôn thú cũ nhất là ba
tháng gửi cho biện lý tòa án nơi trú ngụ. Biện lý sẽ ra lệnh đăng ký vào sổ giá thú đương
niên và ghi chú vào lề chứng thư khai sinh của đương sự, ở sổ chánh cũng như ở sổ
kép”5.
Nhìn chung các văn bản pháp luật dưới chế độ ngụy quân, ngụy quyền miền Nam là
các văn bản có nội dung đi ngược với lợi ích quốc gia và dân tộc. Mặc dù đã xóa bỏ chế
độ đa thê nhưng vẫn còn thể hiện nguyên tắc bất bình đẳng giữa vợ và chồng, cấm ly hôn
giữa vợ và chồng.
5

Bộ dân luật, chương III, điều 125.


GVHD: ThS: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 10

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Đang


Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam – Lý luận và thực tiễn

Sau khi thống nhất đất nước, quan hệ hợp tác giữa nước ta và các nước ngày càng
mở rộng, do đó công dân của các nước được phép qua lại để học tập, nghiên cứu, truyền
đạt kinh nghiệm cho nhau nên việc liên quan đến yếu tố nước ngoài cũng theo đó tăng
lên, vì vậy cần phải có quy định của pháp luật để điều chỉnh vấn đề này. Để giải quyết
được vấn đề này, nước ta đã kí kết nhiều Hiệp định tương trợ tư pháp (HĐTTTP) với các
nước như: Liên Xô (1981), Tiệp Khắc (1982), Cu Ba (1984), Hunggari (1985), Bungari
(1986). Các hiệp định này đã tạo ra một khung pháp lý khá hoàn chỉnh để điều chỉnh các
quan hệ hôn nhân giữa các nước với nhau. Ngoài quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa,
Việt Nam dần mở rộng quan hệ với tất cả các nước, từ đó, quan hệ hôn nhân và gia đình
có yếu tố nước ngoài trở nên phức tạp hơn.
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1986 đến nay
1.2.2.1. Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2000
Ngày 29 tháng 12 năm 1986 Luật Hôn nhân và gia đình được Quốc hội thông qua
bao gồm 10 chương và 57 điều. Luật này phù hợp với tình hình lúc bấy giờ - thời kì
chuyển dần sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Luật dành riêng một
chương để điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài và quy định như sau:
“Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên tuân theo
những quy định của pháp luật nước mình về kết hôn. Nếu việc kết hôn giữa công dân Việt
Nam với người nước ngoài tiến hành ở Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân
theo các quy định ở Điều 5, Điều 6, Điều 7 của Luật này. Thủ tục kết hôn do Hội đồng bộ

trưởng quy định.”6. Ngoài ra ở giai đoạn này “trong trường hợp đã có hiệp định tương
trợ tư pháp và pháp lý về hôn nhân và gia đình giữa Việt Nam và nước ngoài, thì tuân
theo những quy định của hiệp định đó”7. Dành riêng một chương để điều chỉnh quan hệ
hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài thấy được sự quan tâm đối với nhân dân và
tầm nhìn xa trông rộng của Nhà nước ta trong xu thế lúc bấy giờ, cùng với sự phát triển
dần của hệ thống pháp luật và công cuộc lập pháp ở nước ta.
Năm 1993, pháp lệnh hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước
ngoài được Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 02 tháng 02 năm 1993 và có hiệu
lực ngày 01 tháng 03 năm 1994. Đây là văn bản chuyên biệt đầu tiên điều chỉnh một phần
quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, trong đó lần đầu tiên quy định áp
dụng tập quán quốc tế để điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài “ở nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt
Nam với người nước ngoài được tôn trọng và bảo vệ phù hợp với các quy định của Hiến
pháp, Luật Hôn nhân và gia đình, Pháp lệnh này và các quy định khác của pháp luật Việt
6
7

Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, chương IX, điều 52.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, chương IX, điều 54.

GVHD: ThS: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 11

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Đang


Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam – Lý luận và thực tiễn

Nam, cũng như các quy định về hôn nhân và gia đình trong các điều ước quốc tế mà

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kí kết hoặc tham gia”8.
“Trong quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước
ngoài tại Việt Nam, người nước ngoài được hưởng quyền và có nghĩa vụ như pháp luật
Việt Nam quy định cho công dân Việt Nam.
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền lợi chính đáng của
công dân Việt Nam ở nước ngoài trong quan hệ hôn nhân và gia đình với người nước
ngoài, phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật và tập quán quốc tế.”9.
Việt Nam xây dựng một hệ thống pháp luật khá đầy đủ, tương đối ổn định về quy
định điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, các văn bản này góp phần quan
trọng vào công cuộc xây dựng đất nước tiến bộ, ngoại giao, chính sách đối ngoại mở
rộng, tăng cường các mối quan hệ hữu nghị, ổn định lâu dài trong thời kì mới.
1.2.2.2. Giai đoạn từ năm 2000 đến nay
Trước tình hình thực tế có nhiều mối quan hệ phát sinh trong lĩnh vực hôn nhân nên
ngày 9 tháng 6 năm 2000 ra đời Luật Hôn nhân và gia đình có hiệu lực ngày 01 tháng 01
năm 2001 thay thế cho Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 và Pháp lệnh Hôn nhân và
gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài năm 1993. Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000 có 13 chương và 110 điều, Luật này dành một chương để điều chỉnh quan
hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài gồm 7 điều từ điều 100 đến điều 106, các
điều luật xác định rõ nguyên tắc, cách giải quyết các xung đột pháp luật và xung đột thẩm
quyền trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Sự ra đời của các văn
bản điều chỉnh các vấn đề liên quan đến yếu tố nước ngoài phần nào giải quyết được
những quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài một cách rõ ràng và thuận tiện
cho người dân, sự thực thi pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền không bị gập ghềnh
như trước.
Điểm chung nhất của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 trong điều chỉnh quan
hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là xu hướng áp dụng pháp luật Việt Nam
giải quyết các xung đột pháp luật. Thẩm quyền giải quyết hôn nhân và gia đình có yếu tố
nước ngoài rõ ràng, khả thi hơn so với luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 và Pháp lệnh
Hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài năm 1993.
Ngày 10 tháng 7 năm 2002 Nghị đinh 68/2002/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi

tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về quan hệ hôn nhân
và gia đình có yếu tố nước ngoài được thông qua bao gồm 84 điều. Ngày 16 tháng 12
8
Pháp lệnh Hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài năm 1993, chương 1, điều 1, khoản
1.
9
Pháp lệnh Hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài năm 1993, chương 1, điều 1, khoản
2.

GVHD: ThS: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 12

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Đang


Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam – Lý luận và thực tiễn

năm 2002, Bộ Tư pháp ra Thông tư 07/2002/TT-BTP hướng dẫn thi hành một số điều của
Nghị định 68/2002/NĐ-CP. Thời gian sau, ngày 21 tháng 7 năm 2006 Nghị định
69/2006/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 68/2002/NĐCP ngày 10 tháng 7 năm 2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Các
văn bản pháp lý này ra đời đã tạo tiền đề cho việc áp dụng dể dàng và một cách thống
nhất của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 sửa đổi, bổ sung năm 2010 có hiệu lực thi
hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2011. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 sửa đổi bổ
sung năm 2010 không có thay đổi mà do sự hợp nhất của Luật Nuôi con nuôi và Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Ngày 28 tháng 03 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 24/2013/NĐ-CP
Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan

hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Nghị định ra đời bãi bỏ Nghị định
68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài, Nghị định 69/2006/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố
nước ngoài. Cùng với nghị định 24/2013/NĐ-CP thì ngày 31 tháng 12 năm 2013 Bộ Tư
pháp ban hành Thông tư 22/2013/TT-BTP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Nghị định số 24/2013/NĐ-CP ngày 28 tháng 03 năm 2013 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và
gia đình có yếu tố nước ngoài và mới nhất là Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có
hiệu lực vào ngày 01 tháng 01 năm 2015.
1.3. Phương pháp điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài
Phương pháp điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài là phương pháp xung
đột và phương pháp thực chất. Cả hai phương pháp này cùng áp dụng đồng thời nhưng
trong những trường hợp nhất định chỉ cần áp dụng một phương pháp đó là phương pháp
thực chất.
Các quốc gia không chỉ dừng lại ở việc thể hóa quy phạm thực chất mà còn thống
nhất hóa quy phạm xung đột. Trong các điều kiện về kinh tế, trình độ phát triển và lợi ích
của các quốc gia còn khác biệt thì việc thống nhất hóa các quy phạm thực chất là khó
khăn, nhưng thống nhất hóa các quy phạm xung đột lại dễ hơn, thống nhất hóa các quy
phạm xung đột góp phần củng cố việc nhất thể hóa quy phạm thực chất.

GVHD: ThS: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 13

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Đang



Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam – Lý luận và thực tiễn

1.3.1. Phương pháp xung đột
Phương pháp xung đột không trực tiếp giải quyết quan hệ kết hôn có yếu tố nước
ngoài, mà chỉ có nhiệm vụ dẫn chiếu tới luật thực chất của quốc gia mà ở đó có các quy
định phân định quyền và nghĩa vụ của các bên, nó được xây dựng trên cơ sở hệ thống các
quy phạm xung đột của quốc gia, kể cả các quy phạm xung đột trong các điều ước quốc
tế mà quốc gia đó là thành viên. Tính gián tiếp của phương pháp xung đột thể hiện ở việc
dẫn chiếu đến hệ thống pháp luật áp dụng, còn việc áp dụng phụ thuộc vào pháp luật của
nước mà được quy phạm xung đột dẫn chiếu đến.
Khoản 1 điều 103 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 sửa đổi bổ sung năm
2010 quy định: “trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi
bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn; nếu việc kết hôn được
tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài còn
phải tuân theo các quy định của Luật này về điều kiện kết hôn.”. Ví dụ trên không quy
định quyền và nghĩa vụ các bên tham gia vào quan hệ này mà chỉ quy định chọn pháp
luật áp dụng. Theo quy định, việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài
phải tuân theo pháp luật của nước mà họ mang quốc tịch về điều kiện kết hôn, ngoài ra
nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước
ngoài còn phải tuân theo các quy định của Việt Nam về điều kiện kết hôn.
Thông thường các quy phạm pháp luật cấu thành từ ba bộ phận: giả định, quy định
và chế tài. Tuy nhiên quy phạm xung đột cấu thành từ 2 bộ phận: phần phạm vi (trường
hợp đặt ra) và phần hệ thuộc (hệ thống lựa chọn) và không thể thiếu đi phần nào. Trong
đó, phần phạm vi chỉ ra những mối quan hệ sẽ được giải quyết ở phần hệ thuộc, phần hệ
thuộc thường không trực tiếp xác định hình thức thưởng phạt mà chỉ nêu lên các văn bản
quy phạm hoặc hệ thống pháp luật được áp dụng trong phần phạm vi.
Hiện nay có các quy phạm xung đột: quy phạm xung đột một bên là quy phạm áp
dụng pháp luật của chính quốc gia ban hành ra nó; quy phạm xung đột nhiều bên là loại
quy phạm quy định có thể áp dụng pháp luật nước này, có thể áp dụng pháp luật nước kia
tùy vào từng trường hợp cụ thể. Quy phạm xung đột được ghi nhận trong các văn bản

pháp luật như: Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 sửa đổi
bổ sung năm 2010 và các văn bản khác.
Phương pháp xung đột có tính chất đặc thù và riêng biệt và có những hạn chế.
Phương pháp xung đột rất trừu tượng, phải có chuyên môn sâu và chắc trong lĩnh vực
pháp luật mới hiểu. Phương pháp xung đột luôn được hoàn thiện, bổ sung và quan hệ kết
hôn có yếu tố nước ngoài được phương pháp xung đột điều chỉnh khá hiệu quả.

GVHD: ThS: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 14

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Đang


Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam – Lý luận và thực tiễn

1.3.2. Phương pháp thực chất
Phương pháp thực chất được xây dựng trên cơ sở hệ thống các quy phạm thực chất,
trực tiếp phân định quyền và nghĩa vụ rõ ràng giữa các bên tham gia quan hệ này. Trong
quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài, quy phạm thực chất áp dụng để giải quyết:
Thứ nhất, khi quy phạm thực chất được pháp luật quy định áp dụng để điều chỉnh
quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài thì các quy định điều chỉnh về quyền và nghĩa vụ
của công dân Việt Nam cũng sẽ được áp dụng cho người nước ngoài tại Việt Nam.
Khoản 2 điều 100 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 sửa đổi bổ sung năm 2010
“trong quan hệ hôn nhân và gia đình với công dân Việt Nam, người nước ngoài tại Việt
Nam được hưởng các quyền và nghĩa vụ như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp
luật Việt Nam có quy định khác”, quan hệ hôn nhân và gia đình với công dân Việt Nam
nói chung và quan hệ kết hôn với công dân Việt Nam nói riêng, người nước ngoài được
hưởng quyền và nghĩa vụ như công dân Việt Nam. Ví dụ không quy định vấn đề chọn
luật để điều chỉnh mà quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam cũng sẽ

được áp dụng cho người nước ngoài tại Việt Nam.
Thứ hai, trường hợp có quy phạm xung đột dẫn chiếu đến, khi phát sinh quan hệ kết
hôn có yếu tố nước ngoài, vấn đề chọn luật điều chỉnh được đặt ra. Nếu quy phạm xung
đột dẫn chiếu đến pháp luật của nước nào thì pháp luật của nước đó được áp dụng.
Điều 101 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 sửa đổi bổ sung năm 2010: “trong
trường hợp Luật này, các văn bản pháp luật khác cảu Việt Nam có quy định hoặc điều
ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kí kết hoặc tham gia viện dẫn thì
pháp luật nước ngoài được áp dụng, nếu việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc
quy định trong Luật này; trong trường hợp pháp luật nước ngoài dẫn chiếu trở lại pháp
luật Việt Nam thì áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình Việt Nam.” Việc dẫn chiếu
các quy phạm xung đột để chọn luật áp dụng bao gồm dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến
pháp luật của nước thứ ba: Trường hợp dẫn chiếu ngược là pháp luật của nước thứ nhất
có quy phạm xung đột dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ hai, pháp luật của nước thứ
hai lại có quy phạm xung đột dẫn chiếu ngược lại pháp luật của nước thứ nhất, khi đó
pháp luật của nước thứ nhất được áp dụng. Trường hợp dẫn chiếu đến pháp luật của nước
thứ ba là pháp luật của thứ nhất có quy phạm xung đột dẫn chiếu đến pháp luật của nước
thứ hai, pháp luật của nước thứ hai lại có quy phạm xung đột dẫn chiếu đến pháp luật của
nước thứ ba thì pháp luật của nước thứ ba được áp dụng. Trong trường hợp dẫn chiếu
ngược và dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba, các quy phạm pháp luật quy định
trong pháp luật được các quy phạm xung đột dẫn chiếu đến để điều chỉnh quan hệ kết hôn
có yếu tố nước ngoài là quy phạm thực chất.

GVHD: ThS: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 15

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Đang


Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam – Lý luận và thực tiễn


Quy phạm thực chất còn được xây dựng trong điều ước quốc tế còn gọi là quy phạm
thực chất thống nhất, các quy phạm thực chất được xây dựng trong các văn bản pháp quy
của mỗi nhà nước được gọi là quy phạm thực chất trong nước. Các loại quy phạm này tồn
tại và hỗ trợ lẫn nhau điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Phương pháp này có ưu điểm là giải quyết trực tiếp các quan hệ và chỉ áp dụng
trong quan hệ cụ thể. Phương pháp này giúp cho việc giải quyết các xung đột nhanh
chóng, do không phải trải qua giai đoạn chọn hệ thống pháp luật và các quy phạm của hệ
thống đó để giải quyết. Phương pháp này chỉ sử dụng đối với các bên tham gia quan hệ
cụ thể và đôi khi chỉ áp dụng cho một đối tượng cụ thể nên các chủ thể thường biết trước
các điều kiện pháp lý để hợp tác với nhau trong quan hệ tránh xảy ra xung đột. Phương
pháp này điều chỉnh trực tiếp bằng cách các quốc gia kí các điều ước quốc tế, trong các
điều ước quốc tế đó có các quy phạm thực chất thống nhất, vì vậy nó đã làm tăng khả
năng điều chỉnh hữu hiệu của luật pháp, loại bỏ sự khác biệt, mâu thuẫn trong luật pháp
giữa các nước. Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm phương pháp này còn tồn tại những
hạn chế: các quy phạm thực chất do tính cụ thể và trực tiếp của phương pháp mà đôi khi
nó không thể dự liệu được hết các quan hệ pháp sinh trong các lĩnh vực; phần lớn các
quốc gia có điều kiện khác nhau, do đó việc xây dựng một quy phạm thực chất thống
nhất chung giữa các quốc gia không đơn giản, và đi đến việc thống nhất ý chí giữa các
bên tốn rất nhiều thời gian và công sức.
1.4. Nguồn luật điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài
Tìm hiểu một hệ thống pháp lý một trong những vấn đề quan trọng đó là nguồn
pháp luật điểu chỉnh, nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài là
các hình thức chứa đựng các nguyên tắc, các quy phạm điều chỉnh quan hệ này. Quan hệ
kết hôn thông thường chỉ chịu sự điều chỉnh bởi quy định trong pháp luật quốc gia nhưng
quan hệ kết hôn kết hôn có yếu tố nước ngoài còn chịu sự điều chỉnh bởi các quy phạm
pháp luật trong các loại nguồn pháp luật khác. Căn cứ vào cơ sở hình thành và giá trị
pháp lý của các nguồn luật điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài, người ta
chia thành hai loại nguồn: pháp luật quốc gia và điều ước quốc tế.
1.4.1. Pháp luật quốc gia điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài

Pháp luật quốc gia là hệ thống các quy phạm pháp lý, thành văn hoặc không thành
văn do nhà nước đặt ra hoặc công nhận nhằm điều chỉnh quan hệ pháp lý giữa các chủ thể
của pháp luật.
Pháp luật quốc gia là loại nguồn khá phổ biến so với các loại nguồn khác, pháp luật
quốc gia với tư cách là nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài
là các hình thức chứa đựng các nguyên tắc, các quy phạm pháp luật trong nước nhằm

GVHD: ThS: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 16

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Đang


Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam – Lý luận và thực tiễn

điều chỉnh quan hệ này. Hình thức được coi là nguồn của pháp luật phụ thuộc vào từng
hệ thống pháp luật của từng quốc gia quy định.
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các vấn đề về quyền và nghĩa vụ của
các bên tham gia vào quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài quy định trong các văn bản:
Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Đây là văn bản có vị trí
đặc biệt quan trọng trong hệ thống pháp luật của nước ta, ban hành bởi cơ quan quyền lực
cao nhất - Quốc hội. Trong mọi trường hợp các quy định tại các văn bản khác không
được trái với quy định của Hiến pháp. Quyền kết hôn được xem là quyền cơ bản của
công dân, pháp luật thừa nhận và bảo vệ được ghi nhận trong các Hiến pháp của nước ta,
theo điều 36 Hiến pháp năm 2013 quy định: “nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn
nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn
trọng lẫn nhau; nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ
và trẻ em”.
Bộ luật Dân sự năm 2005: quan hệ dân sự nói chung và quan hệ kết hôn có yếu tố

nước ngoài nói riêng được quy định trong phần quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Những nguyên tắc được quy định trong phần này kết hợp với những quy định về hôn
nhân và gia đình nói chung trong Bộ luật Dân sự đã tạo nên những nguyên tắc cơ bản
trong quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 sửa đổi bổ sung năm 2010: Luật Hôn nhân và
gia đình là văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình, trong đó có quan
hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài, và quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài được quy định
từ điều 100 đến điều 106. Và lịch sử trải qua các giai đoạn đã hình thành nên Luật Hôn
nhân và gia đình năm 1959, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000. Quá trình hình thành nên các văn bản quy định về hôn nhân và gia đình
luôn có những bước tiến vượt bậc, sắp tới đây là Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có
hiệu lực vào ngày 01 tháng 01 năm 2015.
Ngoài các văn bản nêu trên, nhà nước ta đã ban hành hàng loạt các nghị định, quyết
định, thông tư,… nhằm quy định hoặc chi tiết hóa và hướng dẫn việc thi hành các luật,
giải quyết các vấn đề về địa vị pháp lý của người nước ngoài như: Nghị định
68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài. Nghị định 69/2006/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố
nước ngoài. Ngày 28 tháng 03 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 24/2013/NĐCP Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về
GVHD: ThS: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 17

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Đang


Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam – Lý luận và thực tiễn


quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Ngày 31 tháng 12 năm 2013 Bộ Tư
pháp ban hành Thông tư 22/2013/TT-BTP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Nghị định số 24/2013/NĐ-CP ngày 28 tháng 03 năm 2013 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và
gia đình có yếu tố nước ngoài.
1.4.2. Điều ước quốc tế điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài
Trong quan hệ của Việt Nam với các nước, nhất là các nước trong khu vực Đông
Nam Á, điều ước quốc tế điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài đóng vai trò
quan trọng. Điều ước quốc tế là văn bản pháp lý quốc tế do các quốc gia cùng nhau thỏa
thuận xây dựng nên, nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa họ
với nhau thông qua các quy phạm được gọi là quy phạm điều ước.
Khoản 1 điều 100 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 sửa đổi bổ sung năm
2010: “ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu
tố nước ngoài được tôn trọng và bảo vệ phù hợp với các quy định của pháp luật Việt
Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kí kết hoặc tham gia”.
Pháp luật quốc gia và điều ước quốc tế được Việt Nam công nhận và tôn trọng, khi tham
gia vào quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài, công dân Việt Nam phải tuân theo quy
định của pháp luật quốc gia và không trái với các quy định của điều ước quốc tế mà Việt
Nam kí kết hoặc tham gia.
Để đảm bảo sự công bằng và bảo vệ cho công dân của các nước khi ở trên nước sở
tại, Việt Nam đã kí kết với nhiều nước điều chỉnh các mối quan hệ đa dạng của nước ta
với nước ngoài. Trong quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài, Việt Nam đã kí kết với
nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự và hình sự
có hiệu lực năm 2000, Việt Nam kí kết với Mông Cổ hiệp định số 39/LPQT ngày 17
tháng 4 năm 2000 về tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự có hiệu
lực từ ngày 13 tháng 6 năm 2002, Việt Nam kí kết với nước Cộng hòa Belarus hiệp định
tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình, lao động và hình sự có hiệu
lực năm 2001. Các hiệp định này công nhận và bảo đảm việc thực hiện tôn trọng các
quyền nhân thân và tài sản của công dân các quốc gia kí kết này trên lãnh thổ quốc gia
nước kí kết kia trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia

với nhau, tạo tiền đề cho sự hợp tác sâu rộng.
1.5. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật về quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài
“Yếu tố nước ngoài” trong quan hệ kết hôn đã làm cho việc điều chỉnh này có sự
khác biệt so với việc điều chỉnh quan hệ kết hôn trong nước. Và để giải quyết được vấn
đề phức tạp này người ta dựa vào ba dấu hiệu sau đây để xác định có yếu tố nước ngoài,

GVHD: ThS: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 18

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Đang


Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam – Lý luận và thực tiễn

các dấu hiệu đó là: yếu tố chủ thể, yếu tố khách thể, yếu tố sự kiện pháp lý làm xác lập
quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Thứ nhất, khi quan hệ đó có chủ thể là công dân Việt Nam, người nước ngoài.
Thứ hai, khách thể đó quyền nhân thân được thực thi ở nước ngoài hoặc được đặt
dưới sự bảo hộ của pháp luật nước ngoài.
Thứ ba, sự kiện pháp lý làm xác lập quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài.
1.5.1. Yếu tố chủ thể
Vấn đề xác định chủ thể trong quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài thường căn cứ
vào hệ thuộc Luật nhân thân của đương sự, tức là dựa vào yếu tố cư trú của đương sự
hoặc dựa vào yếu tố quốc tịch của đương sự.
Khoản 14 điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 sửa đổi bổ sung năm 2010,
chủ thể trong quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài bao gồm hai chủ thể: công dân Việt
Nam (bao gồm công dân Việt Nam ở trong nước và công dân Việt Nam định cư ở nước
ngoài), người nước ngoài (bao gồm công dân nước ngoài và người không quốc tịch). Yếu
tố chủ thể được chia làm hai trường hợp:

Trường hợp thứ nhất, chủ thể là công dân Việt Nam
Khoản 1 điều 17 Hiến pháp năm 2013 thì: “công dân nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam”. Cơ sở pháp lý quan trọng để xác định
tư cách chủ thể trong quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài đó là quốc tịch của các bên.
Quốc tịch là trạng thái pháp lý ràng buộc xác định mối quan hệ giữa nhà nước với cá
nhân có quốc tịch. Ở Việt Nam quốc tịch được quy định trong Luật quốc tịch năm 2008,
theo quy định của Luật này người mang quốc tịch Việt Nam là người: được sinh ra trong
hay ngoài lãnh thổ Việt Nam mà có cha và mẹ đều là công dân Việt Nam (điều 15); được
sinh ra trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam mà có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn
người kia là người không quốc tịch hoặc có mẹ là công dân Việt Nam mà cha không ghi
rõ là ai (khoản 1 điều 16); được sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người
kia là công dân nước ngoài, nếu có sự thỏa thuận bằng văn bản của cha mẹ vào thời điểm
đăng kí khai sinh cho con, trường hợp được sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà cha mẹ
không thỏa thuận được việc lựa chọn quốc tịch cho con (khoản 2 điều 16); được sinh ra
trên lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh có cha mẹ đều là người không quốc tịch, nhưng có
nơi thường trú tại Việt Nam (khoản 1 điều 17); được sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam có
mẹ là người không quốc tịch, nhưng có nơi thường trú tại Việt Nam, con cha không rõ là
ai (khoản 2 điều 17). Ngoài ra, theo quy định của Luật quốc tịch năm 2008 xác định quốc
tịch Việt Nam còn được nhập, trở lại quốc tịch…

GVHD: ThS: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 19

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Đang


×