Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

đường lối CM của Đảng CSVN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.49 KB, 48 trang )

ĐỀ BÀI:
Câu 1: Chứng minh rằng: “ Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định
mọi thắng lợi của Cách mạng Việt Nam”?
Câu 2: Trong giai đoạn hiện nay, để phát huy vai trò lãnh đạo đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ mới. Theo anh (chị) Đảng Cộng sản Việt Nam cần phải làm gì?
Tại sao?

BÀI LÀM:
Câu 1:
Cách mạng Việt Nam từ khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản- Đảng do
Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện- đã đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác, đã giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước; giành
nhiều thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng đất nước và đổi mới theo hướng xã
hội chủ nghĩa. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam do nhiều nhân tố tạo nên,
song nhân tố quyết định hàng đầu là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của
Đảng. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng thông qua Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã khẳng
định: “sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi
của cách mạng Việt Nam”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu ( lần 2) Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa VIII cũng đã nhấn mạnh: “Sự lãnh đạo đúng đắn
và sáng suốt của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam”. Có thể nói sự ra đời của Đảng 3-2-1930 đánh dấu một bước ngoặt
mới trong lịch sử cách mạng Việt Nam .Với đường lối lãnh đạo đúng đắn và
sáng suốt mọi chiến thắng của dân tộc đều mang đậm dấu ấn của Đảng.
Lúc chiến tranh cũng như đất nước hoà bình Đảng luôn kề vai sát cánh
cùng nhân dân trong công cuộc bảo vệ và xây dựng tổ quốc xã hội chủ
nghĩa ,Đảng luôn khẳng định được mình là một tổ chức duy nhất có khả năng


lãnh đạo nhân dân trong công cuộc cách mạng giành độc lập dân tộc cũng
như trong công cuộc xây dựng đất nước


Vai trò lãnh đạo của Đảng được quyết định bởi nền tảng tư tưởng của
Đảng là chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trình độ trí tuệ, trình
độ lí luận của Đảng; bởi đường lối và sự lãnh đạo chính trị đúng đắn; bởi
phẩm chất đạo đức cộng sản chủ nghĩa trong sáng và bản lĩnh chính trị vững
vàng; bởi hệ thống tổ chức mạnh và kỷ luật tự giác, nghiêm minh; sự gắn bó
mật thiết với nhân dân và luôn phát huy những truyền thống đã được tôi
luyện trong quá trình đấu tranh cách mạng.
Về mặt lí luận: Có được thành quả cách mạng to lớn, trước hết là do
Đảng ta luôn biết kế thừa, vận dụng sáng tạo, phát triển các luận điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin về đấu tranh giành chính quyền và giữ chính quyền,
bảo vệ thành quả cách mạng. V.I Lênin đã từng chỉ rõ: “một cuộc cách mạng
chỉ có giá trị khi nó biết bảo vệ; và nguyên tắc cơ bản nhất là Đảng Cộng sản
phải lãnh đạo chặt chẽ quân đội, công nông và sự nghiệp quốc phòng, an ninh
trong mọi hoàn cảnh”, “ Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có
phong trào cách mạng”. “ Chỉ Đảng nào được một lí luận tiên phong hướng
dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong”. Khi truyền bá lí
luận để thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ sự cần thiết phải có một
Đảng cách mạng. Người cho rằng : “ Đảng mà không có chủ nghĩa cũng giống
như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”. Với nhận thức như
vậy, Nguyễn Ái Quốc đã đặc biệt coi trọng việc truyền bá lí luận Mác- Lênin
vào phong trào cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trang bị lí luận cho những
lớp thanh niên yêu nước, những lớp người cách mạng tiền bối. Trong quá
trình lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân ta, Đảng ta
thường xuyên tự nâng cao trình độ lí luận và tổng kết thực tiễn, từng bước
rút ra kinh nghiệm, những bài học lịch sử để có cơ sở làm rõ những vấn đề lí
luận của cách mạng Việt Nam.


Đảng ta ra đời là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Từ khi xuất hiện trên vũ đài

chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tỏ rõ là một đảng cách mạng chân
chính nhất, có sức hội tụ lớn nhất mọi sức mạnh của dân tộc, của giai cấp,
sớm trở thành đội tiên phong của giai cấp và của dân tộc trong cuộc đấu
tranh chống đế quốc, phong kiến. Có thể nói, sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng
sản Việt Nam là do thời đại, do giai cấp và dân tộc quy định.
Trong tác phẩm "Đường Cách mệnh" Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra có
ba thứ cách mệnh là: Tư bản cách mệnh, dân tộc cách mệnh và giai cấp cách
mệnh. Ba cuộc cách mạng này về tính chất, mục tiêu, nội dung và phương
pháp tiến hành có khác nhau. Ở các nước dân tộc chủ nghĩa và tư bản chủ
nghĩa, ba cuộc cách mạng này không tiến hành đồng thời; mỗi cuộc cách
mạng đều do một giai cấp cách mạng lãnh đạo như: Cách mạng tư sản do giai
cấp tư sản lãnh đạo đánh đổ chế độ phong kiến, quý tộc; cách mạng vô sản do
giai cấp công nhân lãnh đạo đánh đổ chế độ tư bản. Ở Việt Nam, do tính quy
định của lịch sử, cả ba cuộc cách mạng đó đều thuộc phạm trù cách mạng vô
sản. Sự kiện Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác-Lênin đã đánh dấu bước
ngoặt trong quá trình phát triển tư tưởng và cuộc đời hoạt động cách mạng
của Người: Chủ nghĩa yêu nước chân chính đã bắt gặp chủ nghĩa quốc tế vô
sản. Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không có
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Để thực hiện được mục
tiêu đó, Hồ Chí Minh khẳng định: “Trước hết phải có Đảng Cách mệnh, để
trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị
áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững, cách mệnh mới thành
công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”.
Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò lãnh đạo nhân dân Việt Nam cùng
một lúc vừa làm tư sản cách mạng, vừa làm dân tộc cách mạng và làm giai
cấp cách mạng. Đây là đặc điểm lớn nhất của cách mạng vô sản ở Việt Nam


do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và cũng là một đặc điểm của sứ mệnh
lịch sử của Đảng đối với giai cấp và dân tộc Việt Nam.

Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí
Minh nêu rõ trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm
tắt và Lời kêu gọi của Đảng khi Đảng mới thành lập, đó là: "Chủ trương làm
tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản";..." Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến";... Làm cho nước
Việt Nam được độc lập;... Giải phóng công nhân và nông dân thoát khỏi ách tư
bản; Mở mang công nghiệp và nông nghiệp;... Đem lại mọi quyền lợi tự do cho
nhân dân".
Về mặt thực tiễn:
Một là, lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cho thấy:
Thứ nhất, Công xã Pari (1871) đã nổ ra và giành được thắng lợi nhưng sau
đó nhanh chóng bị thất bại do chưa có sự lãnh đạo của chính đảng vô sản.
Thứ hai, năm 1917, dưới sự lãnh đạo của Đảng Bôn sê vích, Cách mạng
Tháng Mười Nga đã nổ ra và thành công. Từ năm 1917 - 1991, dưới sự lãnh
đạo của Đảng Bôn sê vích, Liên Xô đã đạt được rất nhiều thành tựu to lớn, trở
thành đối thủ và đối trọng trực tiếp, ngang tầm với Mỹ - cường quốc đứng
đầu thế giới tư bản, suốt gần một thế kỷ. Nhưng sau đó, do ban lãnh đạo Đảng
đã sửa đổi lời nói đầu và Điều 6 của Hiến pháp năm 1977, nên cuối tháng
8.1991, Đảng Cộng sản Liên Xô bị giải tán. Ngày 25.12.1991 là ngày tồn tại
cuối cùng của Liên Xô.
Thứ ba, ngày nay, mặc dù các thế lực thù địch đã và đang điên cuồng chống
phá, song dưới sự lãnh đạo của các đảng cộng sản (với khoảng 100 triệu đảng
viên), Trung Quốc, Cuba, Lào, Bắc Triều Tiên và Việt Nam (tổng dân số hơn
1,5 tỉ người, chiếm trên 1/5 dân số thế giới), với những nhận thức và tư duy
mới, vẫn đang vững bước đi lên theo con đường XHCN.


Hai là, trong nước, trước khi Đảng ta ra đời, mặc dù các phong trào
đấu tranh đã nổ ra hết sức mạnh mẽ, với tinh thần yêu nước rất cao nhưng
cuối cùng đều thất bại và bị thực dân Pháp dìm trong bể máu... Tiêu biểu là

các phong trào:
• Phong trào Cần Vương :
Vào giữa thế kỉ XIX thực dân Pháp đã xâm lược nước ta, triều đình Huế
đã cúi đầu làm tay sai cho Pháp, xã hội Việt Nam chuyễn từ xã hội phong kiến
thuần tuý sang xã hội thuộc địa, nữa phong kiến. Nhân dân ta bị thực dân
pháp cai trị, bóc lột, đè nén dẫn đến tình cảnh đen tối, khốn khổ của đòng bào
ta. Năm 1885, Vua Hàm Nghi cùng thương thư binh bộ là Tôn Thất Thuyết đã
tổ chức binh biến với chủ trương đánh vào toà khâm sứ Pháp và dồn Mang Cá
nhưng thất bại. Tháng 7 năm 1885, Vua Hàm Nghi xuống chiếu cần Vương
kêu gọi các nhân sĩ yêu nước đứng lên chống Pháp. Hưởng ứng lời kêu gọi
của chiếu Cần Vương phong trào đã nổ ra khắp các tỉnh như: khởi nghĩa Yên
Thế, khởi Nghĩa Ba Đình ... nhưng tất cả các phong trào này đều thất bại. Vua
Hàm Nghi bị di dày. Phong trào cần vương kết thúc. Có thể thấy phong trào
Cần Vương thất bại là do thiếu sự đoàn kết, chỉ có tính tự phát do vậy dễ dàng
bị Pháp đàn áp. Nhưng nguyên nhân chính đó là nó chưa có được một định
hướng, một đường lối đúng đắn và phù hợp với thực tiễn và hoàn cảnh của xã
hội Việt Nam để có thể lãnh đạo nhân dân chống Pháp.
• Phong trào Duy Tân :
Người khởi xướng là Phan Chu Trinh. Phong tào Duy Tân phát triển
mạnh mẽ ở các trường học để giáo dục, khơi dậy lòng yêu nước của nhân dân.
Từ đó giúp nhân dân nhận thức được kẻ thù ,đứng lên chống pháp và bon tay
sai. Năm 1908, nhà cầm quyền Pháp bắt Phan Chu Trinh và bỏ tù tại nhà tù
Côn Đảo. Do sự tác động của luật sư Phan Văn Tường và hội nhân quyền
Pháp, Ông được thả nhưng đưa sang Pháp sống. Phong trào Duy Tân kết thúc.
• Phong trào Đông Du :
Người khởi xướng phong trào là Phan Bội Châu. Ban đầu chỉ có 200
học sinh sang nhật học hỏi để chống Pháp và nhờ Nhật giúp đỡ để chống


Pháp. Nhưng sang đó gặp hai nhà chính trị tại Nhật là Khang Hữu Vi và

Lương Khải Siêu nên họ khuyên không thể nhờ Nhật đánh Pháp được bởi vì
như vậy Nhật lại thống trị Việt Nam. Do có một số hoạt động chống Pháp tại
Nhật nên Pháp yêu cầu Nhật trục xuất 200 học sinh đó về nước.Phong trào
Đông Du kết thúc. Phong trào Đông Du tuy thể hiện lòng yêu nước của nhân
dân nhưng nó thể hiện rõ nhất về sự khủng hoảng đường lối và các tổ chức
yêu nước chưa tìm ra được một đường lối đúng đắn. Điều này chỉ được khắc
phục với sự xuất hiện của đảng cộng sản Việt Nam.
• Việt Nam quốc dân Đảng :
Ban đầu có tên là nhà xuất bản Nam Đồng tư xã và nó hội tụ được
nhiều chí sĩ và nhân tài yêu nước. Tổ chức này có tư tưởng đi theo chủ nghĩa
Tam Dân của Tôn Trung Sơn với mục tiêu là đánh đưởi thực dân Pháp và
đánh đổ ngôi vua, thiết lập dân quyền. Phương pháp làm cách mạng là khủng
bố, ám sát và bạo động. Ngày 9 tháng 2 năm 1930 Việt Nam quốc dân đảng tổ
chức cuộc khởi nghĩa Yên Bái nhưng không thành công.
Các phong trào cách mạng trên đều thất bại đó là do chúng đều không
có một đường lối đúng đắn, nhận thức chưa đúng và chưa có một cơ sở lí luận
làm tiền đề và hình thức hoạt động chưa đúng. Mặt khác chúng chưa đoàn kết
được mọi tầng lớp nhân dân, xa rời quần chúng nên dễ dàng bị dập tắt.
Những khuyết điểm trên chỉ có thể được giải quyết và sự khủng hoảng về
đường lối chấm dứt khi đang cộng sản Việt Nam ra đời với lí luận Mac-LêNin
làm nền tảng đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.

Lúc này, sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một bước ngoặt vô
cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đánh dấu một mốc son
chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta, là sự khẳng định vai trò
lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam. Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời với đường lối đúng đắn đã chấm dứt tình trạng


khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng, mở ra

con đường và phương hướng phát triển mới cho cách mạng Việt Nam.
Từ ngày 3/2 đến ngày 7/2/1930 trên đất Trung Quốc đã diễn ra hội
nghị hợp nhất 3 Đảng: Đông Dương cộng sản Đảng, An Nam cộng sản Đảng
và Đông Dương cộng sản liên đoàn .Để phù hợp với nhu cầu khách quan cũng
như để có được sức mạnh vững chắc và duy nhất mới có thể thực hiện được
cách mạng vô sản. Hội nghị đã nhất chí cao và quyết định hợp nhất 3 Đảng
thành Đảng cộng sản Việt Nam. Nước ta đã có một chính Đảng đủ tư cách và
duy nhất lãnh đạo thống nhất trong cả nước và đó là thành quả tất yếu của
cuộc đấu tranh trong thời đại mới, là kết quả của quá trình lựa chọn con
đường cứu nước, sự kết hợp chủ nghĩa Mác- LêNin với phong trào công nhân
và phong trào yêu nước Việt Nam. Từ đây dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam cách mạng Việt Nam đã đi hết những thắng lợi này tới thắng lợi
khác:
Một là, sự lãnh đạo và nắm bắt thời cơ tài tình của Đảng cộng sản Việt
Nam đưa cách mạng Việt Nam thắng lợi 8-1945.
Sau khi vừa ra đời Đảng cộng sản Việt Nam đã phát động cao trào cách
mạng 1930-1931 mà đỉnh cao của nó là Xô Viết Nghệ Tĩnh làm cho thực dân
Pháp khiếp sợ, chúng đã đàn áp dã man quần chúng nhân dân. Sau khi thoát
khỏi thời kì thoái trào của cách mạng 1932-1935 ,Đảng đã lãnh đạo nhân dân
ta phát động được cao trào vận động dân chủ 1936-1939, đòi dân chủ, dân
sinh, cơm áo, hoà bình, chống phát xít, chống chiến tranh. Đảng đã đặt vấn đề
phải nhận thức lại mối quan hệ giữa 2 nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, phản đế
và điền địa ở Đông Dương – một xứ thuộc địa đang bị đế quốc thống trị, áp
bức , bóc lột .
Trước những tình hình quốc tế đang diễn ra hết sức phức tạp: Anh và
Pháp tuyên chiến với phát xít Đức. Ở Pháp chính phủ mặt trận nhân dân bị
lập đổ chính phủ phát xít Đức lên cầm quyền, chúng chỉa mũi nhọn khủng bố


vào Đảng cộng sản Đông Dương và phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân

chủ của nhân dân. Chúng thực hiện chính sách thống trị thời chiến ra sức vơ
vét sức người, sức của của nhân dân ta nhằm phục vụ cho chiến tranh. Năm
1940 Nhật nhảy vào xâm chiếm Đông Dương. Pháp, Nhật cấu kết bóc lột nhân
dân ta. Mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt hơn. Trước tình hình đó Đảng ta
nhanh chóng chuyễn hướng chỉ đạo về chiến lược, lãnh đạo nhân dân toàn
diện tiến tới dành chính quyền. Nội dung cơ bản của sự điều chỉnh chiến lược
cách mạng của hội nghị lần thứ VI của ban chấp hành trung ương Đảng:
- Thứ nhất: hội nghị đã xác định mâu thuẫn cơ bản, hàng đầu của nước
ta là mâu thuẩn dân tộc. Đảng kịp thời chuyễn hướng chỉ đạo chiến lược tập
trung là đánh đổ đế quốc, tay sai, giành độc lập dân tộc.
- Thứ hai: Đảng chủ trương thành lập mặt trận dân tộc thống nhất
chống đế quốc thật rộng rải, lấy liên minh công - nông làm cơ sở.
- Thứ ba: Đảng chủ trương tiến hành đấu tranh vũ trang để giành
chính quyền.
Sự thay đổi chiến lược của Đảng đó là một quyết nghị kịp thời, đúng
đắn trong điều kiện mâu thuẫn dân tộc nổi lên gay gắt. Nhờ đó Đảng ta đã
giải quyết thành công mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược là chống đế
quốc và chống phong kiến phù hợp với tình hình mới. Chính sự điều chỉnh
chiến lược đúng đắn đó có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của cách mạng
tháng 8-1945.
Tháng 6 năm 1945, Hồng quân Liên Xô đánh tan phát xít Nhật.Ở Đông
Dương quân đội Nhật rất hoang mang dao động. Như vậy kể thù chính của
nhân dân Đông Dương lúc này đã bị các lực lượng dân chủ trên thế giới đánh
bại Đảng ta nhận thấy đây là một cơ hội ngàn năm có một để nhân dân ta
giành chính quyền. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng khắp các tỉnh thành
trong cả nước đã nổi dậy giành chính quyền. Cuộc cách mạng đã thành công,
đất nước ta đã giàmh được độc lập .


Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng 8-1945 là kết quả của sự lãnh đạo

đúng đắn của Đảng kết hợp với trí sáng tạo và lòng dũng cảm của nhân dân
ta. Đó là thắng lợi do Đảng ta đã biết lợi dụng triệt để mâu thuẩn giữa chủ
nghĩa đế quốc và chủ nghiã phát xít, giữa chủ ngiã đế quốc và thế lực địa chủ
phong kiến, Đảng đã kiên quyết sử dụng bạo lực cách mạng đập tan bộ máy
nhà nước cũ lập nên nhà nước của nhân dân. Và đó là kết quả của chính sách
đoàn kết dân tộc của Đảng.
Hai là, Đảng cộng sản việt nam lãnh đạo nhân dân chống thù trong
giặc ngoài bảo vệ nhà nước non trẻ - đường lối của đảng trong cuộc kháng
chiến 9 năm chống thực dân pháp xâm lược(1946-1954).
Sau cách mạng tháng 8-1945 thành công, Chính phủ lâm thời Việt Nam
vừa thành lập còn non trẻ gặp phải rất nhiều khó khăn trước tình hình đất
nước “ngàn cân treo sợi tóc” thù trong, giặc ngoài và âm mưu phá hoại của
kẻ thù.
Ở miền bắc tính từ vĩ tuyến 16 trở ra 20 vạn quân tưởng kéo vào núp
bóng dưới danh nghĩa quân Đồng minh vào tước vũ khí Nhật nhưng thực ra
là để “ diệt Cộng cầm Hồ”, phá tan chính quyền cách mạng, thiết lập chính
quyền phản cách mạng tay sai của chúng. Ở phía Nam từ vĩ tuyến 16 trở vào
hai vạn rưỡi quân Anh cũng dưới danh nghĩa quân đồng minh vào giải giáp
quân Nhật nhưng thực ra giúp quân Pháp chiếm Nam Bộ. Quân Pháp theo gót
quân Anh trở lại nước ta cùng với toàn bộ quân Pháp bị Nhật đảo chính chạy
sang Lào và Trung Quốc nay cũng kéo về nhằm tái chiếm nước ta. Bên cạnh
những âm mưu xâm lược của đế quốc, nước ta còn phải chịu khó khăn do âm
mưu và hoạt động chống phá cách mạng của các tổ chức phản động theo gót
bọn đế quốc vào nước ta như: Việt Nam quốc dân Đảng do Vũ Hồng Khanh
cầm đầu, Việt Nam cách mạng đồng minh hội do Nguyễn Hải Thần cầm đầu,
Đại Việt quốc gia liên minh do Nguyễn Tường Tam cầm đầu .


Đất nước ta còn gặp khó khăn do nền kinh tế quốc dân để lại vô cùng
nghèo nàn, đất nước xơ xác tiêu điều. Hậu quả do chính sách thực dân để lại

rất nặng nề: tệ nạn cờ bạc ,nghiện hút và nạn dói lan tràn khắp nơi, 90% dân
chúng mù chữ...
Trong hoàn cảnh đó, Đảng cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân
chiến thắng thù trong giặc ngoài bảo vệ nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta đã bình tĩnh mềm dẻo cứng rắn lãnh đạo nhân dân ta vượt qua
muôn vàn khó khăn bảo vệ thành công nền độc lập dân tộc, đánh đuổi thù
trong giặc ngoài.
Để bảo vệ chính quyền cách mạng để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến
lâu dài Đảng ta đã nhận định đúng đắn coi Pháp là kẻ thù chính, Đảng ta
dùng chính sách mềm mỏng, hoà hoãn, lợi dụng những mâu thuẫn của những
kẻ thù để từng bước đánh đuổi từng kẻ thù một. Đảng ta hoà hoãn với Pháp
và tưởng bằng việc kí các hiệp định sơ bộ 6-3-1946 và tạm ước 14-9-1946 và
ưu tiên cho bọn tưởng một số ghế ở quốc hội. Bằng hiệp ước sơ bộ 6-3-1946
ta hoà hoãn với pháp và đã đuổi được 20 vạn quân Tưởng về nước, dẹp tan
các Đảng phản động như Việt Quốc, Việt Cách. Kẻ thù duy nhất của cách mạng
Việt Nam giờ đây chỉ còn một mình thực dân Pháp đang âm mưu thống trị
nước ta một lần nữa .
Sự lãnh đạo khôn khéo và tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa
nước ta thoát khỏi những giờ phút nguy hiểm nhất. Nhưng giờ đây đất nước
ta đang đứng trước nguy cơ bị thực dân Pháp thống trị một lần nữa, Đảng ta
cùng nhân dân ta lại chuẩn bị cho một cuộc chiến đấu gian khổ để bảo vệ nền
độc lập dân tộc.
Bên cạnh đó, Đảng cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta thắng
lợi cuộc kháng chiến kiến quốc chống thực dân Pháp xâm lược (1946-1954):


Mặc dù đã rất nhân nhượng Pháp nhưng trước âm mưu xâm lược trở
lại và trước sự phản bội của thực dân Pháp, Đảng ta đã phát động cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp. Đảng ta đã xác định :
- Cuộc kháng chiến nhằm đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập dan

tộc, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc
- Đây là cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì, diễn ra trên
mọi lĩnh vực: kinh tế, văn hoá- xã hội, chính trị, quân sự.
- Phải dựa vào sức mình để tự giải phóng mình, tự lực cánh sinh. Đây là
đường lối kháng chiến đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta bởi vì : trong tình
hình thực tế so sánh tương quan lực lượng giữa ta và Pháp thì lực lượng của
ta yếu hơn rất nhiều, chúng ta gặp khó khăn trên mọi lĩnh vực, thực dân đánh
chúng ta trên mọi phương diện do vậy đường lối mà Đảng ta đề ra là hết sức
đúng đắn và hợp lý. Nhờ đó mà quân và dân ta đã giành được rất nhiều thắng
lợi, chính đường lối kháng chiến đúng đắn là ngọn cờ hướng đạo cho nhân
dân ta chiến đấu và chiến thắng thực dân Pháp xâm lược dẫn tới chiến thắng
Điên Biên Phủ lừng lẫy năm châu, rung động địa cầu.
Ba là, Đảng lãnh đạo nhân dân ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội ở miền bắc và đánh tan chiến lược biến miền nam Việt nam thành thuộc
địa kiểu mới của đế quốc mĩ thống nhất tổ quốc.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội địa cầu, ngày 7-5-1954 Pháp
buộc phải kí với ta hiệp định Giơnevơ. Theo hiệp định quân Pháp phải rút khỏi
miền Bắc từ vĩ tuyến 17 trở ra. Đến ngày 16-5-1955 Pháp rút toàn bộ quân
viễn chinh ra khỏi miền Bắc. Miền Bắc đã hoàn toàn được giải phóng. Ở miền
Nam, Đế quốc Mĩ đã vi pham trắng trợn hiệp định Giơnevơ, chúng hất cẳng
Pháp, biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới của chúng và là một
căn cứ quân sự. Như vậy đất nước ta bị chia cắt .
Trước tình hình đó đại hội Đảng lần thứ 3 dã xác định đường lối chung
của cách mạng Việt Nam trong thời kì này là “Tăng cường đoàn kết toàn dân,


kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền
nam”. Đại hội đã quyết định đường lối cách mạng Việt Nam, ở Mổi miền sẽ
thực hiện nhiệm vụ riêng song có mối liên hệ chặt chẽ .

Đảng lãnh đạo nhân dân ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc giữ một vai trò quyết định
nhất đối với toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp giải phóng dân
tộc. Với vai trò quan trọng như vậy, Đảng ta cùng nhân dân ta đã bắt tay vào
xây dựng miền bắc xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Hồ Chí
Minh và đã thu được những thành tựu to lớn, xây dựng được một hậu
phương vững chắc cho chiến trường miền Nam. Tuy có một số sai lầm nhưng
Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta đạt những thành tựu vượt bậc về kinh tế,
văn hoá- xã hội, góp phần quyết định cho thắng lợi mùa xuân 1975.
Đảng lãnh đạo nhân dân miền nam đánh tan chiến lược thuộc địa kiểu
mới của Mĩ thống nhất đất nước. Trên cơ sở phân tích âm mưu và hoạt động
của đế quốc Mĩ đối với miền nam Việt nam ,nghị quyết trung ương 11 và nghị
quyết trung ương 12 đã khẳng định quyết tâm chiến lược đánh Mĩ :
- Nghị quyết xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là “Chống Mĩ
cứu nước” vì vậy phải động viên lực lượng của cả nước kiên quyết đánh bại
cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mĩ trong bất kì hoàn cảnh nào để bảo
vệ miền bắc, giải phóng miền nam .
- Phương châm chiến lược đánh lâu dài. Dựa vào sức mình là chính,
càng đánh càng mạnh tranh thủ thời cơ để giành thắng lợi. Hình thức đấu
tranh là kết hợp đấu tranh quân sự đấu tranh chính trị và đấu tranh binh vận.
Sự lãnh đạo đúng đắn, kịp thời và chính xác của Đảng là động lực mạnh
mẽ giúp quân và dân ta đánh bại từng bước âm mưu, hoạt động của kẻ thù và
giành chiến thắng trên khắp các chiến trường mà đỉnh cao của nó đó là chiến
thắng mùa xuân 1975 lịch sử, thống nhất đất nước sau 25 năm chia cắt.


Bốn là, Đảng lãnh đạo nhân dân ta xây dựng đất nước tiến lên chủ
nghĩa xã hội (1975- nay ).
Sau chiến thắng mùa xuân 1975 lịch sử, đất nước được thống nhất, non
sông thu về một mối. Đất nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo

của Đảng nhân dân ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là những năm
thực hiện đường lối đổi mới.
Sau 1975, đất nước ta gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế, nhưng dưới
sự lãnh đạo của Đảng và Sự đoàn kết toàn dân đã bắt tay vào công cuộc xây
dựng đất nước và đã đạt những thành quả to lớn: xoá bỏ vết thương chiến
tranh gây ra, khôi phục và phát tiển kinh tế, ổn định đời sống cho nhân dân
sản xuất công nghiệp và nông nghiệp tăng, xây dựng đươc cơ sở vật chất kĩ
thuật đáng kể và một số công trình lớn. Đặc biệt sau đại hội VI đại hội đổi
mới,đất nước ta bước vào một thời kì mới với một sức mạnh mới đã dưa đất
nước chuyễn mình, có những bước nhảy vọt mang tính đột phá. Nền kinh tế
nước ta phát triển nhanh chóng, tăng trưởng bình quân 8-9% năm, đời sống
của nhân dân được nâng cao rõ rệt, Việt Nam ngày càng có vị thế trên trương
quốc tế.
Tuy có một số sai lầm trong đường lối nhưng Đảng ta đã nhìn nhận
thẳng thắn, khách quan và được nêu ra trong đại hội VI và đã và đang được
Đảng và nhà nước ta sữa chữa. Điều đó khẳng định Đảng ta thực sự cầu thị
và dám nhìn thẳng vào sự thật để tìm cách đưa đất nước ta ngày càng giàu
mạnh.
Ngày nay, đất nước đã được hoà bình để tập trung công sức vào sự
nghiệp cải tạo và xây dựng đất nước.Trong giai đoạn này do đặc điểm lớn
nhất của nước ta là từ nền sản xuất nhỏ tiến lên chủ nghĩa xã hội không trải
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Chúng ta không những phải giải
quyết những nhiệm vụ đặt ra cho bất cứ cuộc cách mạng chủ nghĩa xã hội nào


mà còn phải giải quyết những gì mà chủ nghĩa tư bản đã phải giải quyết cách
đây hàng trăm năm. Nhiệm vụ lịch sử đặt ra cho nhân dân ta do đó mà càng
nặng nề hơn gấp bội. Trước một cuộc cách mạng hết sức to lớn, toàn diện và
sâu sắc như vậy làm sao có thể thành công nếu không có quần chúng nhân

dân lao động đông đảo có trình độ có tinh thần giác ngộ cao đứng lên tiến
hành với một tinh thần tiến công. Chính vì nhận thức được điều đó mà trong
đường lối đổi mới của Đảng , một trong những điều được nhấn mạnh là:
“phải lấy dân làm gốc”.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Đảng ta đang tự đổi mới, tự chỉnh
đốn về mọi mặt cho ngang tâm với nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Đảng đã và
đang tự đỏi mới tư duy, lí luận, nâng cao năng lực trí tuệ, đề ra cương lĩnh,
đường lối và sách lược đúng đắn, có căn cứ khoa học, phù hợp với thực tiễn
nước ta. Đây là vấn đề cốt lõi và cũng là sứ mệnh của Đảng.
Để đáp ứng nhu cầu của thực tiễn, Đảng ta đang phát huy tính dân chủ
trong Đảng, thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, tăng cường
đoàn kết trong Đảng, Giáo dục Đảng viên phải gương mẫu. Ngoài ra Đảng còn
đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng.
Tự hào về Đảng quang vinh, về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, mỗi cán bộ, đảng
viên và mỗi người dân Việt Nam càng thấy rõ hơn trách nhiệm của mình,
nguyện đi theo Đảng, xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, tiếp
tục lãnh đạo nhân dân ta đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và hội nhập quốc tế, thực hiện thắng lợi mục tiêu: Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Những thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược trên đây của cách mạng
nước ta đều bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng. Đảng ta đứng ở trung tâm
các sự kiện lịch sử vĩ đại của cách mạng và thực sự là nhân tố cơ bản lãnh đạo
và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Bởi vì:


-

Đảng Cộng sản Việt Nam là đôi thiếu niên tiền phong có tổ chức và là tổ
chức cao nhất của giai cấp công nhân, của dân tộc Việt Nam.


-

Đảng lấy chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động nhằm giải quyết kịp thời và
đúng đắn những vấn đề về chiến lược, sách lược của cách mạng nước
ta.

-

Đảng là người đại diện trung thành và đầy đủ nhất lợi ích sống còn và
nguyện vọng chân chính của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
của cả dân tộc Việt Nam. Đảng lấy phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân
làm mục đích cao nhất của mình.

-

Đảng có truyền thống đoàn kết thống nhất, kỷ luật nghiêm minh, thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, nhằm phát
huy dân chủ, tăng cường kỷ luật, đoàn kết thống nhất toàn Đảng, chống
tập trung quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, chia rẽ bè phái trong
Đảng.

-

Đảng có mối liên hệ máu thịt với quần chúng. Đây là tiêu chuẩn cơ bản
của một Đảng cách mạng chân chính.

Đảng kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế
xã hội chủ nghĩa trong sáng, tích cực ủng hộ sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình,

độc lập, tự do và tiến bộ của nhân dân các nước trên thế giới.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu quan trọng đã đạt được, cách
mạng nước ta còn rất nhiều khó khăn và tồn tại, nhất là trong thời kì trước
đổi mới. Đảng ta tự kiểm điểm là đã phạm những sai lầm khuyết điểm chủ
quan, nóng vội, duy ý chí, đặc biệt là những việc xác định chủ trương, đường
lối và cả trong công tác xây dựng Đảng. Những sai lầm và khuyết điểm trên
đã kéo và chậm sửa chữa, làm cho vai trò lãnh đạo của Đảng bị suy yếu, lòng
tin của quần chúng đối với Đảng bị giảm sút so với trước.


Những thắng lợi mà cách mạng Việt Nam giành được trong suốt 85
năm qua kể từ khi có Đảng là minh chứng sinh động nhất về vai trò và năng
lực lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam. Tự hào với những thắng
lợi đã đạt được, hướng tới tương lai tươi sáng, để làm tròn vai trò là người
chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam, là nhân tố hàng đầu quyết định
thắng lợi của cách mạng, Đảng phải không ngừng tự đổi mới, tự chỉnh đốn,
tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu; đẩy mạnh toàn diện
công cuộc đổi mới; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát
huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát triển kinh tế nhanh,
bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giữ vững ổn
định chính trị - xã hội; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ; sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại.
Từ đây có thể kết luận: Đảng cộng sản Việt Nam là một nhân tố cơ bản
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Câu 2:
Hiện nay, trong giai đoạn cách mạng mới, thế giới đã có nhiều thay đổi và
diễn biến phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác, phát triển và hội nhập vẫn
là xu thế lớn, nhưng xung đột sắc tộc, tôn giáo, chiến tranh cục bộ, can thiệp,
lật đổ, khủng bố vẫn diễn ra gay gắt; các yếu tố đe dọa an ninh, các nước lớn

dùng mọi thủ đoạn tinh vi, thậm chí cả hành động quân sự dưới mọi chiêu bài
để can thiệp, lấn lướt các quốc gia nhỏ, yếu thế và tội phạm công nghệ cao
tiếp tục gia tăng. Những vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, an ninh lương
thực, thiên tai, dịch bệnh,... sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp, không chỉ còn là vấn
đề của mỗi quốc gia mà muốn giải quyết được phải có sự chung tay, góp sức
của tất cả các nước trên thế giới. Song, chế độ chính trị, lợi ích của mỗi nước
lại khác nhau, số nước do Đảng Cộng sản là Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh


đạo không còn nhiều, trong khi sự chia sẻ trên tinh thần đoàn kết, hy sinh
giúp đỡ của các nước có chế độ do Đảng Cộng sản cầm quyền, lãnh đạo đối
với nước ta cũng đã thay đổi nhiều. Tuy xu hướng hòa bình, hữu nghị vẫn là
chính, nhưng việc tính toán để bảo vệ quyền lợi của mỗi quốc gia cũng thay
đổi. Quốc gia nào cũng có toan tính riêng trong bối cảnh phức tạp hơn. Toàn
cầu hóa, hội nhập và cách mạng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ
thông tin phát triển mạnh mẽ, làm cho thời gian như ngắn lại, không gian
như nhỏ đi, thúc đẩy hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức. Quá trình
cấu trúc lại nền kinh tế thế giới và nền kinh tế của mỗi quốc gia diễn ra mạnh
mẽ theo chiều sâu, lấy chất lượng tăng trưởng làm mục tiêu. Trong khi đó,
cạnh tranh trên tất cả các lĩnh vực, cả ở thị trường tại mỗi quốc gia và thị
trường thế giới, giữa các nước ngày càng gay gắt. Đấu tranh giai cấp và dân
tộc vẫn diễn biến phức tạp. Khu vực Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á là khu vực phát triển năng động nhưng vẫn tồn tại nhiều nhân tố gây
mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo càng nóng bỏng. Trong nước, tuy
đã có thành tựu và kinh nghiệm của hơn 25 năm đổi mới, tạo ra thế và lực
mới cho đất nước, nhưng "nước ta vẫn phải đứng trước nhiều thách thức lớn,
đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp. Nguy cơ tụt hậu xa
hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại.
Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm
trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội, "tự diễn biến", "tự

chuyển hóa" có diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện
"diễn biến hòa bình", gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ",
"nhân quyền" hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta".
Trong bối cảnh, thời cơ và thách thức đan xen như hiện nay, vai trò lãnh
đạo sáng suốt của Đảng càng cực kỳ quan trọng và luôn là nhân tố hàng đầu
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta. Để đảm đương được vai trò


lãnh đạo, Đảng phải tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, tăng cường bản chất
giai cấp công nhân và tính tiền phong để xây dựng Đảng thật sự trong sạch,
vững mạnh, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học... Muốn vậy,
cần tập trung vào một số vấn đề trọng tâm sau:
Một là, để đảm bảo vai trò lãnh đạo của mình, Đảng luôn quan tâm tới
việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng có phẩm chất, đạo đức cách
mạng và năng lực công tác, thật sự là những chiến sĩ cách mạng trong đội
tiên phong của giai cấp công nhân. Đảng ta cần tiếp tục nâng tầm trí tuệ và
đổi mới tư duy để lãnh đạo toàn diện đất nước phù hợp với diễn biến nhanh
chóng, mau lẹ của thực tế; phù hợp với đường lối đổi mới của cách mạng Việt
Nam. Mỗi đảng viên phải nhận thức đúng, đầy đủ trách nhiệm của mình khi
tự nguyện đứng trong hàng ngũ của Đảng và tuyên thệ dưới cờ Đảng để cố
gắng phấn đấu thực hiện tốt các nhiệm vụ của người đảng viên và mọi nhiệm
vụ được giao. Đảng lãnh đạo thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên của mình
hoạt động trong mọi lĩnh vực. Do đó, cần xây dựng đội ngũ đảng viên có bản
lĩnh chính trị vững vàng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và
đường lối đổi mới của Đảng; có phẩm chất đạo đức trong sáng, lối sống lành
mạnh, "cần kiệm liêm chính, chí công vô tư"; có trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao và có khả năng tổng kết, giải đáp
những vấn đề thực tiễn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta;
đồng thời mỗi đảng viên phải xây dựng cho mình phương pháp và tác phong

công tác, làm cho mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm thuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta
thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân như căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc đi xa.


Thực tế vừa qua, một số đảng viên chưa xứng đáng là người lãnh đạo và lại
càng chưa xứng đáng là người đầy tớ của nhân dân mà có người lại tìm cách
"xâm hại quyền lợi của dân", làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng;
tình trạng suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, cơ hội, thực dụng
và quan liêu, tham nhũng, lãng phí của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên vẫn diễn ra với tính chất và mức độ nghiêm trọng... Trước tình trạng này,
Đảng muốn giữ được vai trò và uy tín để lãnh đạo, cần tập trung vào phòng,
chống suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống, tham nhũng, lãng phí,
trước hết là trong nội bộ Đảng, xác định rõ trách nhiệm của đảng viên trong
cuộc đấu tranh quyết liệt này. Đây là cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp ngay
trong nội bộ, đảng viên phải có quyết tâm chính trị cao, thường xuyên tự phê
bình và phê bình, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, học tập và làm
theo tấm gương đạo đức, tác phong, phong cách Hồ Chí Minh, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống và các tệ tham nhũng, tiêu cực. Cùng với việc tiếp tục đẩy
mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, cần thực hiện
sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng về trách nhiệm của người đảng
viên, để mọi đảng viên đều gương mẫu, tiên phong. Chỉ khi đó, Đảng mới thật
sự lãnh đạo hệ thống chính trị và xã hội thông qua đội ngũ đảng viên của
mình, như vậy mới thực hiện được phương thức Đảng lãnh đạo cách mạng
thông qua tính tiền phong, gương mẫu của đảng viên.
Hai là, nêu cao vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, nhất là người
đứng đầu cấp ủy. Điều lệ Đảng đã quy định rõ, cấp ủy là cơ quan lãnh đạo của
Đảng giữa hai kỳ đại hội. Như vậy, cấp ủy, nhất là người đứng đầu cấp ủy có

vai trò, trách nhiệm quyết định đối với hoạt động và hiệu quả lãnh đạo của
Đảng và cũng là biểu hiện tập trung Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức Đảng.
Thực tế cho thấy vai trò của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng là cực kỳ
quan trọng. Họ có quyền và trách nhiệm thay mặt cấp ủy, tổ chức đảng. Trình


độ, năng lực, sự trong sạch, gương mẫu của các cấp ủy viên, nhất là người
đứng đầu cấp ủy là nhân tố hàng đầu bảo đảm hiệu quả lãnh đạo của Đảng.
Sự gương mẫu, tiên phong của cấp ủy viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, ở
cấp càng cao thì sự lan tỏa, sức thuyết phục đối với đội ngũ đảng viên, nhân
dân càng rộng lớn và còn có giá trị thuyết phục cao hơn nhiều những bài
thuyết giáo chung chung. Nhưng nếu người đứng đầu cấp ủy suy thoái đạo
đức hoặc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của
Đảng nhất là ở cấp vĩ mô "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" thì điều đó là nguy
hiểm khôn lường đối với Đảng và chế độ mà sự tan rã của Đảng Cộng sản Liên
Xô và các nước XHCN ở Đông Âu đã cho ta bài học đắt giá. Cần quy định rõ
trách nhiệm thông qua các tiêu chí cụ thể đánh giá người đứng đầu cấp ủy
trong lãnh đạo thực hiện công tác xây dựng Đảng và nhiệm vụ chính trị,
chuyên môn của cơ quan, đơn vị mình, đặc biệt cần tập trung vào trách nhiệm
trong công tác tổ chức cán bộ và phát triển đội ngũ kế cận. Đảng ta thống
nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, mà thực chất công
tác cán bộ là của cấp ủy và trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy. Nếu coi
việc đề bạt, bổ nhiệm cán bộ là một đặc ân, đặc quyền của Đảng thì sẽ là nguy
cơ lớn đối với Đảng. Do đó, việc lựa chọn đúng người, xếp đúng việc là việc
quan trọng hàng đầu trong tổ chức cán bộ.
Thực tế vừa qua, công tác cán bộ còn nhiều tồn tại và hạn chế, tình trạng một
số cấp ủy còn mất đoàn kết, một số đảng viên còn chạy chức, chạy quyền,...
vẫn chưa được khắc phục; việc đánh giá đúng năng lực của cán bộ để sử dụng
và bố trí đúng người, đúng việc vẫn còn bất cập. Cần nhận thức rằng yếu kém,
khuyết điểm này, trước hết thuộc trách nhiệm của cấp ủy và người đứng đầu

cấp ủy để từ đó có biện pháp đổi mới thật sự công tác cán bộ của Đảng. Chỉ có
như vậy chất lượng lãnh đạo, uy tín của Đảng mới được nâng cao; niềm tin
của dân với Đảng mới thật sự được củng cố; Đảng mới bảo đảm được vai trò
lãnh đạo thông qua đội ngũ cán bộ của mình.


Ba là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã
hội một cách toàn diện trên các mặt phong cách, nội dung, phương pháp. Về
phong cách lãnh đạo phải gần dân, nghe dân, học dân và trọng dân theo đúng
tư tưởng "lấy dân làm gốc" và "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra,
giám sát"; học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh bằng các
hành động thiết thực, cụ thể trong công việc, trong quan hệ với nhân dân,
đồng chí, đồng nghiệp, gia đình... nhằm khắc phục triệt để tình trạng quan
liêu, xa dân, ngại tiếp xúc với dân, không nghe ý kiến phê bình, phản biện của
dân, thậm chí còn chèn ép dân của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Điều đó
làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Cần phân định rõ chủ thể lãnh
đạo với chủ thể quản lý để không có sự "lấn sân", bao biện làm thay của chủ
thể lãnh đạo, hoặc ngược lại, buông lỏng lãnh đạo và quản lý, xác định rõ
nguyên tắc, nội dung, phương pháp, hình thức và thẩm quyền, trách nhiệm
của chủ thể lãnh đạo và của đối tượng chịu sự lãnh đạo bằng các nguyên tắc,
quy định, quy chế, quy trình,... cụ thể. Về nội dung lãnh đạo phải đổi mới cách
ra nghị quyết,... trước mắt cần rà soát lại, sơ kết, tổng kết các nghị quyết của
Đảng đã ban hành, xem những nghị quyết nào còn nguyên giá trị phải tiếp tục
đẩy mạnh thực hiện, nhằm khắc phục hiện tượng nghị quyết này chồng lên
nghị quyết kia hoặc nhắc lại nội dung của các nghị quyết đã có trước. Tập
trung lãnh đạo việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa; cải cách hành chính, tạo môi trường thông thoáng, bình đẳng cho
các thành phần kinh tế hoạt động theo luật pháp, cùng cạnh tranh bình đẳng
và phát triển lành mạnh; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới quan
hệ phân phối, điều tiết kinh tế phù hợp để thực hiện công bằng trong từng

chính sách và từng bước phát triển; bảo vệ vững chắc chủ quyền, lãnh thổ
quốc gia... Đồng thời với việc đổi mới cách ra nghị quyết, phải đổi mới việc
quán triệt, học tập, tuyên truyền nghị quyết để mọi đảng viên và nhân dân
nhận thức đúng, đầy đủ và thực hiện tốt các nghị quyết đã đề ra. Về phương


pháp lãnh đạo phải tuân thủ triệt để nguyên tắc tập trung dân chủ và tự phê
bình, phê bình trong Đảng. Nhưng để thực hiện được các nguyên tắc này
trong thực tiễn không phải dễ. Tình trạng khi kiểm điểm hằng năm, mọi cấp
ủy viên, đảng viên đều viết rằng mình đã thực hiện đúng và tốt việc tập trung
dân chủ, tự phê bình và phê bình, nhưng thực tế có nhiều nơi, nhiều đảng viên
vẫn độc đoán, chuyên quyền, thậm chí có khi, có lúc người đứng đầu cấp ủy
lấy ý kiến cá nhân mình áp đặt cho tập thể cấp ủy.
Bốn là, mở rộng dân chủ ngoài xã hội; thực hành dân chủ thật sự trong
Đảng. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân, biết kế thừa những tinh hoa dân chủ của các Nhà
nước pháp quyền trong lịch sử và đã, đang phát triển lên tầm cao mới, khác
hẳn về bản chất và cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản, nhưng chưa
tuyên truyền, giáo dục cho người dân hiểu đúng về dân chủ đi liền với kỷ
cương nên một số người đã cố tình lợi dụng dân chủ để gây rối, chia rẽ làm
tác động xấu đến trật tự, an toàn xã hội.
Việc thực hành dân chủ trong nội bộ Đảng rất quan trọng. Trong Đảng có
thật sự dân chủ thì mới có điều kiện mở rộng và phát huy dân chủ của nhân
dân. Điều 3, Điều lệ Đảng đã quy định rõ quyền của đảng viên, trong đó thể
hiện cụ thể quyền dân chủ của đảng viên. Do vậy, cần phải xây dựng và ban
hành Quy chế dân chủ trong Đảng để có cơ sở thực hiện dân chủ trong thực
tiễn. Quy chế chất vấn trong Đảng hiện nay mới quy định chất vấn trong sinh
hoạt cấp ủy, như vậy chủ thể, đối tượng và phạm vi chất vấn rất hẹp, cần sửa
đổi bổ sung Quy chế chất vấn trong Đảng theo hướng mở rộng chủ thể, đối
tượng, phạm vi và hình thức chất vấn.

Năm là, tăng cường giữ gìn kỷ luật, tạo sự đoàn kết nhất trí của Đảng
là sức mạnh vô địch của Đảng. Đảng điều chỉnh hành vi của các tổ chức đảng,


đảng viên bằng kỷ luật của mình. Buông lỏng kỷ luật, sớm hay muộn Đảng sẽ
bị suy yếu, tan rã.
Sáu là, để giữ vững vai trò lãnh đạo, phải xây dựng Đảng vững mạnh
về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên đổi mới, tự chỉnh đốn, lấy tự
phê bình và phê bình làm vũ khí đấu tranh để làm cho Đảng ngày càng vững
mạnh. Đồng thời, luôn củng cố, giữ vững và tăng cường sự đoàn kết trong
Đảng, đảm bảo sự nhất trí cao về mục tiêu lí tưởng của Đảng, để làm cho
Đảng ngày càng vững mạnh, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Thứ nhất, tăng cường xây dựng Đảng về chính trị
Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và
phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của toàn
Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết của cán bộ lãnh đạo chủ chốt
các cấp; không dao động trong bất cứ tình huống nào. Kiên định đường lối đổi
mới, chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vô
nguyên tắc.
Khẩn trương triển khai cụ thể hoá, thể chế hoá và tổ chức thực hiện có hiệu
quả Nghị quyết Đại hội XI. Gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn các nhiệm vụ phát
triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hoá nền tảng tinh thần của xã hội.
Thứ hai, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận
Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề
về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta và những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới, không ngừng
phát triển lý luận, đề ra đường lối và chủ trương đáp ứng yêu cầu phát triển
đất nước; khắc phục một số mặt lạc hậu, yếu kém của công tác nghiên cứu lý
luận. Tạo môi trường dân chủ thảo luận, tranh luận khoa học, khuyến khích



tìm tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ của cá nhân và tập thể trong nghiên cứu lý
luận. Khẩn trương ban hành quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính
trị. Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan nghiên cứu lý luận, cải
tiến tổ chức nghiên cứu lý luận phù hợp hơn với nhu cầu thực tiễn. Tổng kết
30 năm đổi mới đất nước.
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu,
tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng, tuyên truyền, học tập chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền, cổ vũ động viên các nhân
tố mới, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt, giáo dục truyền thống
yêu nước, cách mạng. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục lý luận
chính trị, giáo dục công dân trong hệ thống các trường chính trị, các trường
thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Mỗi cán bộ, đảng viên đều phải học tập,
nâng cao trình độ lý luận chính trị. Xây dựng và thực hiện quy định mọi đảng
viên có trách nhiệm trực tiếp làm công tác tư tưởng. Cán bộ chủ chốt cấp uỷ
đảng phải thường xuyên tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân, chủ động
nắm bắt, đánh giá, dự báo diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và có
biện pháp giải quyết kịp thời. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu
và hoạt động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phòng
ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện“tự diễn biến”, “tự chuyển
hoá” trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Giữ gìn sự đoàn kết,
thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận xã hội. Đổi mới hoạt động kỷ niệm các
ngày lễ lớn theo hướng thiết thực, hiệu quả.
Thứ ba, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá
nhân.
Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan
trọng thường xuyên, lâu dài của cán bộ, đảng viên, của các chi bộ, tổ chức



đảng và các tầng lớp nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên không ngừng tu dưỡng,
rèn luyện đạo đức cách mạng, thực sự là một tấm gương về phẩm chất đạo
đức, lối sống. Cán bộ cấp trên phải gương mẫu trước cán bộ cấp dưới, đảng
viên và nhân dân.
Cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Tổ quốc, trước
Đảng và nhân dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Các
tổ chức đảng tạo điều kiện để đảng viên công tác, lao động có năng suất, chất
lượng, hiệu quả, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước. Đẩy mạnh
tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng.
Triển khai thực hiện tốt Quy chế dân vận trong hệ thống chính trị; đổi mới và
nâng cao chất lượng công tác vận động nhân dân. Định kỳ lấy ý kiến nhận xét
của nhân dân về tư cách, đạo đức của cán bộ, đảng viên. Xử lý nghiêm mọi cán
bộ, đảng viên vi phạm về trách nhiệm, phẩm chất đạo đức, lối sống.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ
thống chính trị.
Tiếp tục xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và mô hình tổ chức của các tổ chức
trong hệ thống chính trị. Sớm tổng kết việc thực hiện sáp nhập một số ban, bộ,
ngành trung ương để có chủ trương phù hợp. Kiện toàn, nâng cao chất lượng
các cơ quan tham mưu, đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu, nhất là ở cấp
chiến lược.
Tổng kết, đánh giá đúng thực trạng, đề ra các giải pháp củng cố và đổi mới
mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của các tổ chức đảng, nhất là của
đảng đoàn, ban cán sự đảng. Tập trung chỉ đạo, củng cố những tổ chức đảng
yếu kém; kịp thời kiện toàn cấp uỷ và tăng cường cán bộ ở nơi có nhiều khó
khăn, nội bộ mất đoàn kết. Coi trọng đổi mới và nâng cao chất lượng sinh
hoạt cấp uỷ, tổ chức đảng, chất lượng tự phê bình, phê bình trong sinh hoạt
đảng.



×