Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Đề cương đường lối CM của Đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.87 KB, 32 trang )

ĐỀ CƯƠNG ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Câu 1: Những nội dung cơ bản trong Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng Công sản Việt Nam
Tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành lập một chính đảng
duy nhất của Việt Nam - Đảng Cộng sản Việt Nam tại Cửu Long Hương Cảng (Trung Quốc) được tiến hành trong thời gian từ ngày 6-11930 đến ngày 7-2-1930 (sau này tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
III của Đảng ngày 10-9-1960 quyết nghị "từ nay trở đi sẽ lấy ngày 3
tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng".
Thành phần dự Hội nghị gồm 2 đại biểu của Đông Dương cộng sản
Đảng (Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh), 2 đại biểu của An Nam
cộng sản Đảng (Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu), dưới sự chủ trì của
Nguyễn ái Quốc-đại diện của Quốc tế Cộng sản. Đại diện của Đông
Dương Cộng sản liên đoàn không đến kịp, do vậy đến ngày 24-2-1930
xin gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Nội dung Hội nghị: Thông qua các văn kiện do lãnh tụ Nguyễn ái Quốc
soạn thảo. Đó là Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của
Đảng, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt
Nam . Lấy tên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sau này Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng
được xem là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Trong đó, đã phản ánh những nội dung cơ bản nhất của sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người
trên đất nước Việt Nam.


Những nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
được Hội nghị thống nhất thông qua là:
1- Khẳng định phươnghướng chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đó
là: "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội cộng sản".(Sau này gọi là cách mạng dân tộc dân chủ và
cách mạng xã hội chủ nghĩa). Tính chất giai đoạn và lý luận cách mạng


không ngừng đã được thể hiện trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng:
cách mạng tư sản dân quyền là thời kỳ dự bị để tiên lên cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Đây là con đường cứu nước mới, khác với những chủ
trương, những con đường cứu nước của những nhà yêu nước đương
thời đã đi vào bê tắc và thất bại. Như vậy, ngay từ đầu Đảng ta đã tiếp
thu và vận dụng sáng tạo lý luận MÁC-LÊNIN vào hoàn cảnh cụ thể của
đất nước. Đường lối cơ bản của cách mạng Việt Nam được phản ánh
trong Cương lĩnh đã thiện được tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghiã xã hội. Việc xác định đúng đắn phương hướng, con đường
của cách mạng Việt Nam ngay từ đầu có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Đó là ngọn cờ tập hợp lực lượng cách mạng, là cơ sở để giải quyết
đứng đắn các vấn đề cơ bản của cách mạng việt Nam.
2- Nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản của cách mạng Việt Nam, Cương lĩnh chỉ
rõ: ''Đánh đố đế quốc chủ nghĩa và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam
được hoàn toàn độc lập". Tức là nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân
quyền (sau này gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân) là chống
đế quốc giành độc lập cho dân tộc và chống phong kiến để giành ruộng
đất cho dân cày. Trong đó nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc
là nhiệm vụ được đặt lên hàng đầu.


Xuất phát từ đặc điếm của chế độ thuộc địa nửa phong kiến, đây là hai
nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam. Sự kết hợp hai nhiệm vụ
chống đế quốc và chống phong kiến đã khẳng định tính toàn diện, triệt
để của đường lối cách mạng Việt Nam. Những nhiệm vụ đó là biểu hiện
sinh động của việc kết hợp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội và giải phóng con người trong đường lối của Đảng Cộng
sản Việt Nam và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.
3- Về lực lượng của cách mạng Việt Nam, phải đoàn kết công nhân,
nông dân-đây là lực lượng cơ bản trong đó giai cấp công nhân lãnh

đạo; đồng thời Cương lĩnh nêu rõ: "Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu
tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. đế kéo họ đi vào
phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư
bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu
mới làm cho họ đứng trung lập''. Đây là tư tưởng tập hợp lực lượng
cách mạng trên cơ sở đánh giá thái độ các giai cấp phù hợp với đặc
điểm xã hội Việt Nam.
Để thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc, Cương lĩnh chỉ ra rằng, phải
đoàn kết với tất cả các giai cấp, các tầng lớp nhân dân yêu nước. Đó là
sự thể hiện quan điểm: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân
dân là người làm nên lịch sử. Đồng thời, Cương lĩnh cũng đã chỉ ra lực
lượng chính, động lực chủ yếu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam là
công nhân và nông dân. Đây là sự thể hiện tính nguyên tắc trong chính
sách đại đoàn kết dân tộc và sự sắp xếp, tổ chức lực lượng cách mạng
của Đảng ta. Việc tập hợp lực lượng rộng rãi cũng như xác định được
động lực chủ yếu, cơ bản của sự nghiệp cách mạng phản ánh sự mềm
dẻo và linh hoạt trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Đảng ta.


4- Về phương pháp cách mạng Việt Nam, Cương lĩnh đã khẳng định:
phương pháp cách mạng cơ bản của Việt Nam là dùng sức mạnh tổng
hợp của quần chúng nhân dân để đánh đổ đế quốc phong kiến, đó là
bạo lực cách mạng. Phương pháp bạo lực cách mạng được nêu lên với
những biểu hiện cụ thể: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong
kiến, đánh đổ các đảng phản cách mạng như Đảng Lập hiến, đánh trúc
bọn đại địa chủ và phong kiến. Chính sự thất bại của khuynh hướng cải
lương hoà bình ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX đã cho thấy cách
mạng muốn giành thắng lợi, không có con đường nào khác là phải sử
dụng bạo lực cách mạng. Việc nêu lên phương pháp cách mạng bạo lực
trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đã thể hiện sự thấm nhuần

và tiếp thu tư tưởng cách mạng bạo lực của chủ nghĩa MÁC-LÊNIN.
5- Xác định vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của
giai cấp công nhân, phải thu phục và lãnh đạo được dân chúng.
Để thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng, Cương lĩnh đã khẳng
định vai trò quyết định của Đảng: Đảng là đội tiên phong của vô sản
giai cấp. Để lám tròn sứ mệnh lịch sử là nhân tố tiên phong quyết đinh
thắng lơi của cách mạng Việt Nam, Đảng phải: "thu phục cho được đại
bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân
chúng". Khẳng định bản chất giai cấp của Đảng, vai trò lãnh đạo của
giai cấp công nhân và chiến lược đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên
minh công - nông là những vấn đế then chốt bảo đảm cho Đảng ta trở
thành nhân tố duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh
cũng nêu lên sự gắn bó, quan hệ máu thịt giữa Đảng với quần chúng.
Đây là điều kiện tạo cho Đảng có nguồn súc mạnh vĩ đại và trở thành
lãnh tụ chính trị cho cả dân tộc. Sự lãnh đạo của.Đảng là yếu tố quyết
định nhất cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.


6- Phát huy tinh thần tự lực tự cường, đồng thời tranh thủ sự đoàn kết,
ủng hộ của các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là
giai cấp vô sản Pháp.
Vấn đề đoàn kết quốc tế cũng là một nội dung quan trọng của Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Đoàn kết quốc tế là một vấn đề có tính
nguyên tắc của cách mạng Việt Nam: "Trong khi tuyên truyền cái khấu
hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên
lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai
cấp Pháp". Đồng thời, Cương lĩnh cũng đã xác định cách mạng Việt
Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Gắn cách mạng Việt Nam
với cách mạng thế giới, đề cao vấn đoàn kết quốc tế chính là sự thể
hiện việc kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô

sản, lợi ích dân tộc và lợi ích toàn nhân loại tiến bộ đang đấu tranh để
giải phóng khỏi ách áp bức, bất công trên thế giới. Vấn đề đoàn kêt
quốc tế cũng đồng thời là một động lực quan trọng của cách mạng Việt
Nam.
7- Xây dựng Đảng cách mạng vững mạnh, kêu gọi mọi người ủng hộ và
gia nhập Đảng, phải có tổ chức chặt chẽ.
Lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có một bản cương lĩnh chính trị
phản ánh được quy luật khách quan của xã hội Việt Nam, đáp ứng
những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu
thế của thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Cương lĩnh ấy
rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta... Vì
vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung
quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc
bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng


của giai cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng cường". Câu 2:
ý nghĩa ra đời đảng cộng sản việt nam:
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã
mở ra thời kì mới cho cách mạng Việt Nam: thời kì đấu tranh giành
độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng
đã xác định được những nội dung cơ bản nhất của con đường cách
mạng Việt Nam. Cương lĩnh ra đời đã đáp ứng được những nhu cầu
bức thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, thống nhất các tổ
chức cộng sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc trong sự
nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng Việt Nam từ đây có đường lối cách mạng đúng đắn và tổ
chức cách mạng tiên phong lãnh đạo, chấm dứt sự khủng hoảng và bế
tắc về con đường cứu nước: "Từ cuối thế kỷ XIX đến những thập niên
đầu thế kỷ XX, nhân dân ta liên tiếp nổi dậy chống chủ nghĩa thực dân.

Tiếp nối các phong trào Văn Thân và Cần Vương, phong trào yêu nớc
ba mươi năm đầu thế kỷ XX diễn ra vô cùng anh dũng, từ khởi nghĩa
Yên Thế và các phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân
đến khởi nghĩa Yên Bái... nhưng không thành công vì thiếu một đường
lối đúng". "Năm 1930, kế thừa "Hội Việt Nam cách mạng thanh niên"
và các tổ chức cộng sản tiền thân, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời,
đánh dấu bước ngoặt của cách mạng Việt Nam".
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam. Điều đó nói lên quy luật ra đời của Đảng và cũng chứng tỏ giai
cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam đã
trưởng thành và có đủ những yếu tố cơ bản nhất để khẳng định sự đảm


nhiệm vai trò lãnh đạo đối với cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng đánh dấu bước phát triển vế chất của cách mạng
Việt Nam
- Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập khẳng định dứt khoát con đường
đi lên của dân tộc Việt Nam từ 1930 là con đường cách mạng vô sản.
Đó là sự lựa chọn của chính nhân dân Việt Nam, chính lịch sử dân tộc
Việt Nam trong quá trình tìm con đường giải phóng dân tộc.
Sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh được thông qua ở
Hội nghị thành lập Đảng, từ năm 1930 cách mạng Việt Nam có được
đường lối chính trị toàn diện đề ra mục tiêu và phương pháp đấu tranh
thích hợp, giải quyết triệt để những mâu thuẫn cơ bản của xã hội, đồng
thời có được tổ chức Đảng cách mạng để lãnh đạo và tổ chức phong
trào cách mạng. Sự ra đời của Đảng đã tạo những tiền đề và điều kiện
để đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trên
con đường giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và xây dựng đất
nước .

Sự đúng đắn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã được khẳng định bởi
quá trình khảo nghiệm của lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và xây
dựng đất nước quá độ đi lên CNXH của dân tộc ta từ khi Đảng ra đời và
đến nay vẫn là ngọn cờ dẫn dắt nhân dân ta trong công cuộc đổi mới
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu "dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ văn minh".
Câu 3: trình bày nội dung cơ bản cương lĩnh chính trị của đảng:
Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Đảng "thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình,


phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng... phải thu phục
cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm
thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến", đồng thời
phải liên minh với các giai cấp cách mạng và tầng lớp yêu nước khác,
đoàn kết họ, tổ chức họ đấu tranh cho giai phóng dân tộc và để đi tới
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
- Cương lĩnh đâu tiên là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo
học thuyết Mác - Lênin, đường lối của Quốc tế cộng sản và kinh nghiệm
cách mạng thế giới vào hoàn cảnh cụ thể nước ta, là sự thể hiện tập
trung tư tưởng cơ bản của đồng chí Nguyễn ái Quốc về cách mạng dân
tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước thuộc địa nửa
phong kiến.
Nhưng không phải những giá trị tư tưởng, đường lối đúng đắn trên đã
được mọi người nhận thức, quán triệt. Hội nghị Ban chấp hành trung
ương Đảng tháng 10 nǎm 1930 đã phê phán những "sai lầm" của Hội
nghị hợp nhất và quyết định "thủ tiêu Chính cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt và Điều lệ" của Đảng, thông qua Luận cương chính trị theo tinh
thần chỉ thị củaQuốc tế cộng sản, đổi tên đảng là "Đảng cộng sản Đông
Dương ".

Sở dĩ có vấn đề chưa thống nhất giữa Cương lĩnh đầu tiên do Hội nghị
thành lập Đảng vạch ra với Luận cương chính trị và các vǎn kiện của
Hội nghị trung ương Đảng tháng l0-1930 là vì không chỉ do kết hợp
hay tách rời yếu tố giai cấp với yếu tố dân tộc, mà còn do xác định đúng
hay chưa đúng vị trí của mỗi yếu tố đó trong điều kiện cụ thể của nước
ta. Đồng chí Nguyễn ái Quốc đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -


Lênin, đánh giá đúng hơn và đầy đủ hơn yếu tố dân tộc trong cách
mạng Việt Nam.
Tuy bị phê phán, nhưng thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh
cho sự đúng đắn, sáng tạo của Cương lĩnh đầu tiên.
Sau 30 nǎm đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch
Hồ Chí Minh; (tức đồng chí Nguyễn ái Quốc) đã viết: "Cương lĩnh ấy rất
phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta... Vì vậy,
Đảng ta đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung
quanh giai cấp mình.
Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô
lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân
không ngừng củng cố và tǎng cường".
Câu 4 : Kết quả ,ý nghĩa và nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh
nghiệm cách mạng 8-1945? Phân tích thời cơ bùng nổ cuộc cách
mạng tháng 8 năm 1945? Những nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa
lịch sử và những bài học kinh nghiệm?
1. Nguyên nhân thắng lợi :
* Nguyên nhân khách quan: Cách mạnh tháng 8 nổ ra trong hoàn cảnh
quốc tế vô cùng thuận lợi. Đó là lúc phe phát xít đã bại trận. Kẻ thù
trực tiếp của nhân dân Việt Nam là phát xít Nhật đã phải đầu hàng
đồng minh. Quân đội Nhật ở Đông Dương mất hết tinh thần chiến đấu.
Chính phủ thân Nhật Trần Trọng Kim hoang mang, rệu rã.

* Nguyên nhân chủ quan:


- Đó là kết quả của 15 năm đấu tranh gian khổ, đầy hy sinh của nhân
dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, là kết quả tổng hợp của 3 cao trào
cách mạng.
- Đó là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Đông Dương. Sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng là điều kiện cơ bản, quyết định thắng lợi của
cách mạng Tháng Tám năm 1945.
2. Ý nghĩa lịch sử:
* Đối với dân tộc:
- Cách mạng Tháng Tám đã đập tan ách thống trị của đế quốc và
phong kiến, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
- Cách mạng tháng 8 năm 1945 đã đánh dấu một trang sử vẻ vang của
dân tộc ta, đánh dấu sự đổi đời của một dân tộc. Cách mạng Tháng
Tám đã đưa nước ta từ một nước thuộc địa trở thành một nước độc
lập dân chủ, đưa Đảng ta từ một Đảng không hợp pháp trở thành một
Đảng nắm chính quyền, đưa dân tộc ta lên hàng các dân tộc tiên phong
trên thế giới.
- Cách mạng Tháng Tám đã mở ra một kỷ nguyên mới cho cách mạng
nước ta- kỷ nguyên của độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.
- Cách mạng tháng Tám là minh chứng hùng hồn cho vai trò lãnh đạo
của giai cấp công nhân Việt Nam với đội tiên phong của mình là Đảng
Cộng sản. Đây là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình do
Đảng Cộng sản lãnh đạo, là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa MácLênin ở một nước thuộc địa.
* Đối với quốc tế:


- Cách mạng Tháng Tám đã nâng cao vị thế quốc tế của dân tộc Việt
Nam. Lần đầu tiên một dân tộc nhược tiểu đã tự giải phóng khỏi ách đế

quốc thực dân.
-Cách mạng Tháng Tám đã phá tan một mắt xích quan trọng của chủ
nghĩa đế quốc, mở đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ.
- Thắng lợi của cách mạng tháng Tám đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trong cuộc đấu tranh giành
độc lập.
3. Những bài học kinh nghiệm:
Cách mạng tháng Tám thành công đã để lại cho Đảng ta và nhân dân
Việt nam nhiều bài học quý báu, góp phần làm phong phú thêm kho
tàng lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và khởi nghĩa dân tộc. Đó
là những bài học chính sau đây:
- Một là: Gương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai
nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Tuy 2 nhiệm vụ không
tách rời nhau nhưng chống đế quốc phải là nhiệm vụ hàng đầu, chống
phong kiến phải phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc và phải thực hiện
từng bước với những khẩu hiệu thích hợp. Đường lối này đã được
khẳng định trong đường lối cứu nước của Nguyễn Ái Quốc và trở thành
cương lĩnh của Đảng ta.
- Hai là: Toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh Công - Nông.
- Ba là: Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù.
- Bốn là: Kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực
cách mạng một cách


thích hợp để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước của
nhân dân.
- Năm là: Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chớp đúng thời
cơ.
-Sáu là: Xây dựng một Đảng Mác-Lênin đủ sức lãnh đạo tổng khởi
nghĩa giành chính quyền

Tóm lại: Thắng lợi của cách mạng tháng 8-1945 là kết quả tất yếu của
15 năm chuẩn bị chu đáo của Đảng ta, là kết quả của cuộc đấu tranh
yêu nước rộng lớn của dân tộc, sự hy sinh anh dũng của đồng bào,
đồng chí cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Câu 5: trình bày đường lối kháng chiến chống thực dân pháp
- Năm 1858 thực dân Pháp xâm luợc nước ta. Ngày 6-6-1884 triều đình
Nguyễn ký hiệp ước Patơnốt thừa nhận sự thống trị của thực dân
Pháp, chia nước ta thành 3 kỳ với 3 chế độ chính trị khác nhau, vừa xây
dựng hệ thống chính quyền thuộc địa, vừa duy trì chính quyền phong
kiến và tay sai làm chổ dựa. Mọi quyền hành đều trong tay người Pháp,
với âm mưu thâm độc thực hiện chính sách chia để trị, chính sách ngu
dân, chính sách độc quyền về kinh tế, ra sức vơ vét tài nguyêm bóc lột
sức lao động rẻ mạt của người bản xứ, cừng nhiều hình thức thuế khoá
năng nề, vô lý.
- Trước những áp bức bóc lột dã man của thực dân Pháp, nhân dân ta
đã liên tiếp nổi dậy cầm vũ khí chống bọn cướp nước. Nhưng tất cả
những cuộc đấu tranh đó đều không giành được thắng lơi. Giai cấp địa
chủ phong kiên mà tiêu biểu là triều đình nhà Nguyễn đã bất lực và hèn


nhát nhanh chóng đầu hàng thực dân Pháp và trở thành phản động,
phản bội lại lợi ích của dân tộc.
Phong trào chống Pháp theo ý thức hệ phong kiến: phong trào Cần
Vương đã thất bại khi cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng chấm dứt
năm 1896; phong trào khởi nghĩa nông dân Yên Thế của Hoàng Hoa
Thám kéo dài 30 năm cũng không giành được thắng lợi. Nguyên nhân
là do thiếu đường lối đúng, thiếu một tổ chức cách mạng có khả năng
dẫn dắt dân tộc đến thắng lợi. Điều này chứng tỏ rằng, thời kỳ đấu
tranh chống ngoại xâm trong khuôn khổ ý thức hệ tư tưởng phong kiến
đã chấm dứt. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta rơi vào tình trạng khủng

hoảng về đường lối cứu nước, về giai cấp lãnh đạo cách mạng.
- Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Việt Nam cũng như một số nước
phương Đông khác đã ít nhiều chịu sự chi phối của ý thức hệ tư sản.
Đặc biệt cách mạng Minh Trị ở Nhật Bản (l868), cuộc cách mạng Tân
Hợi ở Trung Quốc (1911) đã có tác động nhất định tới phong trào yêu
nước ở Việt Nam, làm dấy lên ở nước ta một phong trào yêu nước rộng
rãi theo khuynh hướng tu sản nhưng đều thất bại. Tiêu biểu là phong
trào của cụ Phan Bội Châu, cụ Phan Chu Trinh, phong trào Duy Tân của
vua Duy Tân. Điều này chứng tỏ sự bất lực của giai cấp tư sản Việt
Nam, rằng giai cấp tư sản Việt Nam không đủ khả năng giương cao
ngọn cờ lãnh đạo đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi.
Tình hình khủng hoảng, bế tắc về con đường cứu nước giải phóng dân
tộc, yêu cầu lịch sử đòi hỏi phải có một tổ chức cách mạng tiên phong,
có đường lối cách mạng đúng đắn dẫn đường, mới có khả năng đưa
phong trào cứu nước đi đến thắng lợi.


Câu 6: nội dung cơ bản và ý nghĩa đường lối kháng chiến của mỹ
cứu nước 1965-1975
1. Làm cho toàn Đảng, toàn dân hiểu rõ những vấn đề sau:
- Sự chuyển biến của tình hình, miền Bắc không còn ở trong thời kỳ xây
dựng hoà bình nữa, mà đã bắt đầu ở vào thời chiến.
- So sánh lực lượng giữa ta và địch. Nhấn mạnh những thuận lợi của ta
và thất bại nghiêm trọng của Mỹ, cho nên ta nhất định sẽ thắng, Mỹ
nhất định sẽ thất bại hoàn toàn.
- Giải phóng miền Nam là trách nhiệm chung của nhân dân cả nước và
cả nước đều phải tham gia đánh giặc. Cần phải xác định rõ "Miền Bắc
dù có bị ném bom bắn phá đến đâu cũng phải vì giải phóng miền Nam
mà không chút nao núng, nâng cao chí khí căm thù và quyết tâm thắng
địch"(3). Phải đẩy mạnh phong trào "ba sẵn sàng" với nội dung và yêu

cầu mới. Cần phải xây dựng tác phong tích cực, khẩn trương của thời
chiến.
2. Phải ra sức xây dựng tư tưởng phấn khởi và tin tưởng, quyết chiến
quyết thắng đế quốc Mỹ và tay sai, tư tưởng sẵn sàng chiến đấu và
công tác ở bất cứ nơi nào theo tiếng gọi của Đảng và của Tổ quốc; tư
tưởng sẵn sàng đánh bại bất cứ loại chiến tranh nào của địch, sẵn sàng
khắc phục mọi khó khăn gian khổ, sẵn sàng chiến đấu lâu dài chống Mỹ
với tinh thần tự lực cánh sinh cao; chống tư tưởng sợ Mỹ, đánh giá
địch quá cao, hoặc chủ quan khinh địch; tư tưởng hoang mang, dao
động, cầu an; tư tưởng muốn đàm phán khi chưa có điều kiện có lợi,
muốn kết thúc chiến tranh với bất cứ giá nào; tư tưởng ỷ lại vào sự
giúp đỡ của nước ngoài và không tin vào sức mình.


Như vậy, "chuyển hướng tư tưởng" ở đây có thể hiểu một cách ngắn
gọn là: chuyển từ nội dung và phương pháp tư tưởng ở thời bình sang
nội dung và phương pháp tư tưởng ở thời chiến, trong đó bao gồm
những nội dung cụ thể là đế quốc Mỹ dù có mạnh đến mấy chúng ta
cũng nhất định thắng; miền Bắc dù có bị bắn phá đến đâu cũng phải
quyết tâm cùng miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Cốt lõi của
vấn đề chuyển hướng tư tưởng là làm cho nhân dân miền Bắc thấy rõ
tình hình mới của đất nước, từ đó có sự đồng thuận tuyệt đối với Đảng,
quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược trong bất kỳ tình huống nào.
Chủ trương "chuyển hướng tư tưởng" của Hội nghị Trung ương 11
được tiếp tục khẳng định và bổ sung ở Hội nghị Trung ương Đảng lần
thứ 12 (12-1965). Và Hội nghị xác định nhiệm vụ của công tác tư
tưởng là:
- Giáo dục cho toàn Đảng, toàn dân nhận rõ nhiệm vụ lịch sử vô cùng vẻ
vang của nhân dân ta là chiến đấu chống một kẻ thù mạnh nhất và
nguy hiểm nhất của loài người là đế quốc Mỹ, làm cho mọi người tin

tưởng vững chắc rằng với đường lối đúng đắn của Đảng, với tinh thần
dũng cảm chiến đấu của quân và dân ta, chúng ta có thể đánh bại bất
cứ loại chiến tranh nào của đế quốc Mỹ.
- Giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho nhân dân, nhất là cho bộ
đội và thế hệ thanh niên, làm cho mọi người sẵn sàng chịu đựng mọi
gian khổ, hy sinh, khắc phục mọi khó khăn để hoàn thành bất cứ nhiệm
vụ nào, chiến đấu anh dũng với bất cứ kẻ thù nào, đánh bại bất cứ loại
chiến tranh nào của địch.
- Làm cho mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng hiểu rõ trách nhiệm
của toàn Đảng, toàn dân ta ở miền Bắc là phải tích cực tham gia sự


nghiệp giải phóng miền Nam, phục vụ không điều kiện cho tiền tuyến
miền Nam và hết sức giúp đỡ cách mạng Lào, làm cho mọi người hăng
hái dốc sức ra làm tròn bất cứ nhiệm vụ nào của Đảng và chính phủ
giao phó.
Như vậy, chủ trương "chuyển hướng tư tưởng" ở miền Bắc được Đảng
ta xác định từ Hội nghị Trung ương lần thứ 11 (3-1965) và tiếp tục
được khẳng định, bổ sung, cụ thể hoá ở Hội nghị Trung ương lần thứ
12 (12-1965) cùng các chỉ thị, nghị quyết sau đó của Trung ương về
công tác tư tưởng. Nội dung cơ bản của chủ trương là chuyển hướng
công tác tư tưởng của Đảng theo hướng: Làm cho toàn thể nhân dân
miền Bắc hiểu rõ tình hình miền Bắc không còn ở trong thời bình nữa
mà đã chuyển sang thời chiến; nhiệm vụ thiêng liêng nhất của toàn
Đảng toàn quân và toàn dân ta lúc này là nhiệm vụ chống Mỹ, cứu
nước; toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải quyết tâm đánh Mỹ và
thắng Mỹ trong bất kể tình huống nào. Nhiệm vụ quan trọng, cấp bách
nhất được Trung ương nhấn mạnh nhiều lần, đó là công tác tuyên
truyền của Đảng phải tập trung khơi dậy và phát huy mạnh mẽ tinh
thần yêu nước của nhân dân; giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng

và tư tưởng quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược trong toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân, dù phải hy sinh, gian khổ đến mấy.
Đó là một chủ trương đúng đắn và có ý nghĩa to lớn trong việc chỉ đạo
công tác tuyên truyền, cổ động của Đảng ở miền Bắc thời gian này. Từ
chủ trương này, những vấn đề căn bản nhất của công tác tư tưởng nói
chung, công tác tuyên truyền, cổ động nói riêng được xác định kịp thời
và chính xác. Nhờ đó, công tác tuyên truyền, cổ động chính trị của Đảng
ở miền Bắc được triển khai mạnh mẽ, rầm rộ và liên tục trong suốt
những năm ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, góp


phần to lớn vào việc động viên, cổ vũ tinh thần chiến đấu và sản xuất
của nhân dân miền Bắc, biến sức mạnh tinh thần đó thành sức mạnh
vật chất vượt qua mọi gian nan, thử thách, giành thắng lợi cuối cùng
trong cuộc chiến đấu không cân sức giữa dân tộc ta và đế quốc Mỹ.
Chuyển hướng tư tưởng của Đảng ở miền Bắc những năm 65-75 là
một bài học vô cùng quý giá, thiết nghĩ chúng ta cần nghiên cứu sâu
sắc và vận dụng trong giai đoạn hiện nay - giai đoạn hội nhập và phát
triển đất nước vì "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh"./.
Câu 7: quá trình đổi mới tư duy của đảng về công nghiệp hóa đất
nước từ 1986 đến nay:
Đại hội VI của Đảng diễn ra trong bối cảnh sai lầm của đợt tổng cải
cách giá - lương - tiền cuối năm 1985 làm cho kinh tế nước ta càng trở
nên khó khăn (tháng 12-1986, giá bán lẻ hàng hoá tăng 845,3%).
Chúng ta không thực hiện được mục tiêu đề ra là cơ bản ổn định tình
hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Số người bị thiếu đói
tăng, bội chi lớn. Nền kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng.
Tình hình này làm cho trong Đảng và ngoài xã hội có nhiều ý kiến
tranh luận sôi nổi, xoay quanh thực trạng của ba vấn đề lớn: cơ cấu

sản xuất; cải tạo xã hội chủ nghĩa; cơ chế quản lý kinh tế. Thực tế tình
hình đặt ra một yêu cầu khách quan có tính sống còn đối với sự nghiệp
cách mạng là phải xoay chuyển được tình thế, tạo ra sự chuyển biến có
ý nghĩa quyết định trên con đường đi lên và như vậy phải đổi mới tư
duy.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thực, nói rõ sự
thật, Đại hội đã đánh giá đúng mức những thành tựu đạt được sau 10


năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đi sâu phân tích những tồn tại và
nghiêm khắc tự phê bình những sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo và
chỉ đạo của Đảng trong 10 năm (1976-1986).
Đại hội khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo
tinh thần cách mạng và khoa học và đánh giá cao quá trình dân chủ
hóa sinh hoạt chính trị của Đảng và nhân dân ta trong thời gian chuẩn
bị và tiến hành Đại hội.
Đại hội đã đánh giá những thành tựu, những khó khăn của đất nước
do cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội tạo ra, những sai lầm kéo dài của
Đảng về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức
thực hiện khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm đó, đặc
biệt là sai lầm về kinh tế là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ về
hành động đơn giản, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan, là
khuynh hướng buông lỏng trong quản lý kinh tế, xã hội, không chấp
hành nghiêm chỉnh đường lối và nguyên tắc của Đảng đó là tư tưởng
vừa tả khuynh vừa hữu khuynh. Báo cáo chính trị tổng kết thành bốn
bài học kinh nghiệm lớn:
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư
tưởng "lấy dân làm gốc".
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành
động theo quy luật khách quan.

Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong
điều kiện mới.
Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền
lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.


Báo cáo xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những
năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình
kinh tế- xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy
mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo.
Mục tiêu cụ thể về kinh tế - xã hội cho những năm còn lại của chặng
đường đầu tiên là:
- Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích luỹ.
- Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó đặc biệt chú
trọng ba ch-ương trình kinh tế lớn là lương thực - thực phẩm, hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu, coi đó là sự cụ thể hóa nội dung công
nghiệp hoá trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ. Làm cho thành
phần kinh tế xã hội chủ nghĩa giữ vai trò chi phối, sử dụng mọi khả
năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ, dưới
sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tiến hành cải tạo
xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc phát triển sản xuất, nâng cao hiệu
quả kinh tế và tăng thu nhập cho người lao động.
- Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Tạo ra chuyển biến về mặt xã hội, việc làm, công bằng xã hội, chống
tiêu cực, mở rộng dân chủ, giữ kỷ cương phép nước.
- Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh.
Đại hội đã nêu ra năm phương hướng cơ bản của chính sách kinh tế xã hội và đề ra hệ thống các giải pháp để thực hiện mục tiêu: Bố trí lại
cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư; xây dựng và củng cố



quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các
thành phần kinh tế. Coi nền kinh tế có nhiều thành phần là một đặc
trưng của thời kỳ quá độ; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, dứt khoát xoá
bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển sang cơ chế kế
hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa;
phát huy động lực của khoa học - kỹ thuật; mở rộng và nâng cao hiệu
quả kinh tế đối ngoại.
Câu 8: Kinh tế tri thức :
"Là nền kinh tế sử dụng một cách hiệu quả tri thức cho sự phát triển
KT-XH. Điều này bao gồm việc chuyển giao, cải tiến công nghệ nước
ngoài cũng như sự thích hợp hoá và sáng tạo hoá các tri thức cho
những nhu cầu riêng biệt". Theo Giáo sư, Viện sĩ Đặng Hữu - Trưởng
ban Công nghệ thông tin thì "Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự
sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với
sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống".
Theo định nghĩa của WBI - là "nền kinh tế dựa vào tri thức như động
lực chính cho tăng trưởng kinh tế. Đó là nền kinh tế trong đó kiến thức
được lĩnh hội, sáng tạo, phổ biến và vận dụng để thúc đẩy phát triển".
Tại hội thảo, Jean-Eric Aubert, chuyên gia hàng đầu của WBI, nói cụ thể
hơn: "Phải phân biệt đó không phải là nền kinh tế dựa vào công nghệ
và viễn thông! Kinh tế tri thức là đặt tri thức, sáng tạo và các chính
sách liên quan đến chúng vào trọng tâm của chiến lược phát triển cho
tất cả các nước ở nhiều mức độ phát triển khác nhau"
Như vậy, kinh tế tri thức là lực lượng sản xuất của thế kỷ 21. Đặc trưng
của nền kinh tế tri thức là thị trường chất xám. Trong đó, con người là
vốn quý nhất. Tri thức là yếu tố quyết định của sản xuất, sáng tạo đổi


mới là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển. Công nghệ mới trở thành

nhân tố quan trọng hàng đầu trong việc nâng cao năng suất, chất
lượng, công nghệ thông tin được ứng dụng một cách rộng rãi. Muốn
nâng cao năng suất lao động xã hội, nâng cao chất lượng sản phẩm
phải có tri thức, phải làm chủ được tri thức, phải biết vận dụng, quản lý
tri thức mới có thể cạnh tranh và đồng thời đảm bảo phát triển bền
vững.
Có người còn cho rằng: Kinh tế tri thức là hình thái phát triển cao nhất
hiện nay của nền kinh tế hàng hóa, trong đó công thức hoạt động cơ
bản Tiền-Hàng-Tiền được thay thế bằng Tiền- Tri Thức- Tiền và vai trò
quyết định của Tri thức.
Vậy kinh tế tri thức là gì? Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản
sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với
sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Câu 9 : Chủ trương của đảng hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
Kinh tế thị trường định hướng XHCN trên địa bàn tỉnh từng bước được
hình thành và phát triển. Đã khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực đầu tư, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm sau luôn cao hơn năm
trước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng công nghiệp,
dịch vụ ngày càng cao. Văn hóa, xã hội có nhiều tiến bộ, công tác giải
quyết việc làm, kéo giảm tỷ lệ hộ nghèo đạt nhiều kết quả. An ninh,
quốc phòng được giữ vững. Đời sống người dân không ngừng được
nâng lên.


Việc cụ thể hóa, triển khai thực hiện thể chế kinh tế thị trường ngày
càng chặt chẽ, bảo đảm cơ chế pháp lý, phù hợp với yêu cầu phát triển
mới. Chế độ sở hữu và cơ cấu các thành phần kinh tế được đổi mới cơ
bản từ sở hữu toàn dân, tập thể, kinh tế quốc doanh là chủ yếu sang
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đan xen hỗn hợp.

Kinh tế Nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động
theo hướng cổ phần hóa và chi phối một số ngành, lĩnh vực quan trọng.
Thị trường hàng hóa, lao động, tài chính, tiền tệ, khoa học công nghệ,
bất động sản... được hình thành và từng bước phát triển. Quản lý Nhà
nước về kinh tế được chuyển sang quản lý bằng pháp luật, chính sách,
quy hoạch, kế hoạch, thuế, tài chính... Các doanh nghiệp và doanh nhân
được tự chủ, cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, việc vận dụng, cụ thể hóa các chính sách, pháp luật của Nhà
nước về phát triển kinh tế thị trường còn chậm. Công tác quản lý Nhà
nước về kinh tế thị trường còn nhiều bất cập, nhất là quản lý đất đai,
nhà đất công chưa chặt chẽ. Định giá trị doanh nghiệp nhà nước khi
giải thể, phá sản, cổ phần hóa còn nhiều sơ hở, làm thất thoát tài sản
nhà nước. Phát triển kinh tế tập thể còn nhiều khó khăn, còn phân biệt
đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế khác. Các yếu tố thị trường, các loại thị trường hình
thành, phát triển chậm, thiếu đồng bộ. Xã hội hóa các lĩnh vực giáo dục,
y tế, văn hóa, thể thao... còn hạn chế. Nhiều vấn đề xã hội bức xúc, xử lý
gây ô nhiễm môi trường chưa được giải quyết tốt. Đó là do nhận thức
về kinh tế thị trường định hướng XHCN ở cấp ủy Đảng, chính quyền,
mặt trận, đoàn thể các cấp còn nhiều hạn chế. Cán bộ, đảng viên chưa
được học tập, bồi dưỡng những kiến thức cơ bản, nên việc cụ thể hóa
vận dụng, phối hợp tổ chức triển khai thực hiện còn gặp nhiều khó
khăn, chưa đáp ứng được các yêu cầu đổi mới.


Cần phải làm những gì?
Phát triển đa dạng hóa các loại thị trường hàng hóa, dịch vụ. Nâng cao
chất lượng thị trường dịch vụ trên cơ sở đẩy mạnh thương mại nội địa,
hoạt động du lịch, xuất khẩu hàng hóa, thực hiện xã hội hóa đầu tư cơ
sở hạ tầng, phục vụ phát triển các loại thị trường và tăng cường kiểm

tra chất lượng hàng hóa dịch vụ, nhất là những hàng hóa, dịch vụ có
liên quan trực tiếp đến sức khỏe của nhân dân.
Gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, công
bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác
giảm nghèo theo hướng vững chắc. Quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng,
phát triển kinh tế xã hội ở những vùng khó khăn, có tỷ lệ hộ nghèo cao.
Tăng cường sự hỗ trợ của Nhà nước, cộng đồng cho người nghèo. Hỗ
trợ vốn, kỹ thuật, bảo hiểm, đào tạo nghề, giới thiệu việc làm... giúp
người nghèo vươn lên, nhất là các đối tượng thuộc diện chính sách,
khắc phục tư tưởng ỷ lại, trong chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Tuyên
truyền về bảo vệ môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội. Xử lý rác ở
các chợ, khu dân cư, bệnh viện, chăn nuôi gia súc, gia cầm... Kiên quyết
xử lý các hành vi vi phạm về gây ô nhiễm môi trường. Di dời các cơ sở
sản xuất gây ô nhiễm ra khỏi nội thị.
Nâng cao vai trò, đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy Đảng
và hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về kinh tế, nhằm đáp ứng
yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Bên cạnh
việc tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng về công tác tuyên
truyền, giáo dục cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân
dân về phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, thì Đảng ủy
Liên cơ có kế hoạch tập trung củng cố, phát triển và nâng cao hiệu quả


hoạt động của tổ chức Đảng trong các doanh nghiệp, nhưng đồng thời
Ban Tổ chức Tỉnh ủy cũng nghiên cứu đề xuất việc thành lập Đảng ủy
khối doanh nghiệp trực thuộc Tỉnh ủy.
Điều kiện dẫn đến thắng lợi trọn vẹn là các cấp ủy Đảng, Ban cán sự
Đảng UBND tỉnh, sở, ngành, huyện, thị tiếp tục cụ thể hóa Nghị quyết
của Trung ương và chương trình hành động của Tỉnh ủy thành chương
trình, kế hoạch cụ thể. Tổ chức triển khai quán triệt và thực hiện đồng

thời theo dõi, kiểm tra đôn đốc từng lúc thì công việc sẽ đạt kết quả
cao.
Câu 10: chỉ đạo và chủ chương xây dựng và phát triển nền văn
hóa trong thời ký đổi mới:
Dân chủ hoá xã hội
Xã hội ta là xã hội dân chủ: "Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu
quyền hạn đều của dân", "quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân".
Cuộc vận động xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở xã,
phường, ở cơ quan, ở doanh nghiệp đã được triển khai rộng rãi, thực
hiện tích cực đã mang lại những kết quả tốt bước đầu. Nhưng còn cần
phải làm nhiều hơn, mạnh hơn nữa.
Điều nhức nhối hiện nay là tệ nạn quan liêu, tham nhũng phát triển.
Trên thực tế không phải tất cả các lợi ích đều vì dân. Số không nhỏ
người có chức, có quyền đang chiếm đoạt tài sản quốc gia và tài sản
nhân dân. Tham nhũng đã thành quốc nạn.
Thực tế chưa phải tất cả quyền hạn đều của dân, một mặt, cuộc đấu
tranh chống quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, quấy nhiễu, ức hiếp


nhân dân chưa kiên quyết, triệt để, mặt khác, còn thiếu cơ chế, thiếu
những quy định để đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân.
Hợp lý hoá bộ máy Nhà nước
Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, Hội đồng nhân dân
các cấp là cơ quan quyền lực Nhà nước ở các địa phương đã có những
đổi mới về tổ chức và hoạt động có hiệu quả và thiết thực, thể hiện dân
chủ đại diện ngày càng cô thực chất. Nhưng đây cũng chỉ là bước đầu,
còn nhiều mặt phải đẩy mạnh hơn nữa...
Bộ máy hành chính Nhà nước đã cô những đổi mới về tổ chức và hoạt
động, cải cách hành chính bước đầu có kết quả, nhưng phải tiến hành
mạnh mẽ hơn theo hướng xác định rõ chức năng nhiệm vụ không

chồng chéo nhưng không bỏ sót nhiệm vụ, đẩy mạnh việc phân cấp
giữa Trung ương và địa phương.
Bộ máy xét xử còn ít đổi mới tổ chức và hoạt động, còn nhiều vi phạm.
Nạn tiêu cực, tham nhũng trong các cơ quan xét xử cũng đáng báo
động.
Xã hội hóa một số lĩnh vực hoạt động của Nhà nước (dịch vụ công)
Luật khoa học và công nghệ ra đời phát huy khả năng đầu tư không chỉ
của Nhà nước mà của các thành phần kinh tế, tạo thuận lợi cho sự
đóng góp của trí thức, của nhà đầu tư vào khoa học và công nghệ.
Cần mở rộng cơ hội đầu tư của dân, xã hội hóa một số lĩnh vực hoạt
động từ trước tới nay thuộc Nhà nước, nay cần tạo điều kiện và khuyến
khích kinh tế dân doanh phát triển không chỉ trong các ngành sản xuất
và dịch vụ thông thường mà cả trong một số lĩnh vực dịch vụ công cộng


×