Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

ảnh hưởng của mật độ sạ đến năng suất giống lúa om 5451 vụ thu đông năm 2012 tại xã mỹ long bắc, huyện cầu ngang tỉnh trà vinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 51 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
-oOo-

LÊ THỊ TƯỜNG VY

ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN NĂNG SUẤT
GIỐNG LÚA OM 5451 VỤ THU ĐÔNG NĂM 2012
TẠI XÃ MỸ LONG BẮC, HUYỆN CẦU NGANG
TỈNH TRÀ VINH

Luận văn tốt nghiệp
Ngành: NÔNG HỌC

Cần Thơ, 2013


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
-oOo-

Luận văn tốt nghiệp
Ngành: NÔNG HỌC

ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN NĂNG SUẤT
GIỐNG LÚA OM 5451 VỤ THU ĐÔNG NĂM 2012
TẠI XÃ MỸ LONG BẮC, HUYỆN CẦU NGANG
TỈNH TRÀ VINH

CÁN BỘ HƯỚNG DẪN:


SINH VIÊN THỰC HIỆN:

GS. TS. NGUYỄN BẢO VỆ

LÊ THỊ TƯỜNG VY

ThS. TRẦN THỊ BÍCH VÂN

MSSV: 3108394
LỚP: NÔNG HỌC K36

Cần Thơ, 2013


TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
------ O  ------

Luận văn tốt nghiệp kỹ sƣ ngành Nông học
ĐỀ TÀI:

“ẢNH HƢỞNG MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN NĂNG SUẤT
GIỐNG LÚA OM 5451 VỤ THU ĐÔNG 2012
TẠI XÃ MỸ LONG BẮC, HUYỆN CẦU NGANG
TỈNH TRÀ VINH”

Sinh viên thực hiện: LÊ THỊ TƢỜNG VY
Kính trình lên Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp.

Cần Thơ, ngày……tháng…… năm 2013

Cán bộ hƣớng dẫn

GS.TS. Nguyễn Bảo Vệ

ThS. Trần Thị Bích Vân

i


TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN DI TRUYỀN GIỐNG NÔNG NGHIỆP
------ O  ------

Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp đã chấp nhận luận văn tốt nghiệp Kỹ sƣ ngành
Nông học với đề tài:

“ẢNH HƢỞNG MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN NĂNG SUẤT
GIỐNG LÚA OM5451 VỤ THU ĐÔNG 2012
TẠI XÃ MỸ LONG BẮC, HUYỆN CẦU NGANG
TỈNH TRÀ VINH”

Do sinh viện LÊ THỊ TƢỜNG VY thực hiện và bảo vệ trƣớc Hội đồng
Ý kiến của Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp ................................... ………………
............................................................................................................................. ….
Luận văn tốt nghiệp đƣợc Hội đồng đánh giá ở mức: ..............................……………

Cần Thơ, ngày……. tháng ……năm 2013
Thành viên hội đồng


..................................

.................................
DUYỆT KHOA

Trƣởng khoa Nông Nghiệp & SHƢD

ii

............................


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Các số liệu, kết
quả đƣợc trình bày trong luận văn tốt nghiệp là trung thực và chƣa từng đƣợc ai
công bố trong bất kỳ công trình luận văn nào trƣớc đây.

Tác giả luận văn

Lê Thị Tƣờng Vy

iii


LỜI CẢM TẠ

Xin kính dâng lòng biết ơn sâu sắc đến cha mẹ đã có công ân sinh thành,
nuôi dƣỡng, suốt đời tận tụy, lo lắng cho con ăn học nên ngƣời.
Thành kính biết ơn thầy Nguyễn Bảo Vệ và cô Trần Thị Bích Vân đã tận tình
hƣớng dẫn, truyền đạt kinh nghiệm quý báu, giúp đỡ chỉ bảo tôi nhiều điều trong

suốt thời gian thực hiện thí nghiệm và hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp.
Xin chân thành biết ơn cố vấn học tập cô Trần Thị Thanh Thủy cùng với quí
thầy cô bộ môn Di Truyền Giống Nông Nghiệp, bộ môn Khoa Học Cây Trồng cũng
nhƣ thầy cô Khoa Nông Nghiệp & Sinh Học Ứng Dụng đã truyền đạt kiến thức, tận
tâm hƣớng dẫn, dìu dắt, rèn luyện tôi trong suốt những năm học tại trƣờng Đại Học
Cần Thơ.
Xin cám ơn toàn thể các bạn trong và ngoài lớp Nông học K36 đã giúp đỡ tôi
hoàn thành luận văn này.

iv


TIỂU SỬ CÁ NHÂN

1. LÝ LỊCH
Họ và tên:Lê Thị Tƣờng Vy
Giới tính: Nữ
Ngày, tháng, năm sinh: 06/07/1992
Nơi sinh: Cầu Ngang – Trà Vinh
Dân tộc: Kinh
Tôn giáo: Không
Họ tên cha: Lê Văn Đực
Họ tên mẹ: Nguyễn Thị Mỹ Linh
Quê quán: Ấp Nhứt A, Xã Mỹ Long Bắc, Huyện Cầu Ngang, Tỉnh Trà
Vinh.
2. QUÁ TRÌNH HỌC TẬP
Năm 1998-2002: Trƣờng Tiểu Học Mỹ Long Bắc B.
Năm 2003-2007: Trƣờng THCS Mỹ Long Bắc.
Năm 2008-2010: Trƣờng THPT Cầu Ngang A.
Năm 2010-2014: Trƣờng Đại Học Cần Thơ, ngành Nông Học, khóa 36,

khoa Nông Nghiệp và Sinh Học Ứng Dụng.

v


LÊ THỊ TƢỜNG VY. 2013. "Ảnh hưởng của mật độ sạ đến năng suất giống lúa
OM 5451 vụ Thu Đông năm 2012 tại xã Mỹ Long Bắc, huyện Cầu Ngang, tỉnh
Trà Vinh”. Luận văn tốt nghiệp kỹ sƣ ngành Nông Học, Khoa Nông Nghiệp & Sinh
Học Ứng Dụng, Trƣờng Đại Học Cần Thơ. Cán bộ hƣớng dẫn: GS.TS. Nguyễn Bảo
Vệ và ThS. Trần Thị Bích Vân.

TÓM LƢỢC
Đề tài: "Ảnh hưởng của mật độ sạ đến năng suất giống lúa OM 5451 vụ
Thu Đông năm 2012 tại xã Mỹ Long Bắc, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh”
đƣợc thực hiện nhằm mục tiêu xác định mật độ sạ thích hợp cho năng suất và hiệu
quả kinh tế cao nhất trong sản suất lúa ở vùng nghiên cứu. Thí nghiệm đƣợc bố trí
theo thể thức khối hoàn toàn ngẫu nhiên, 3 lần lặp lại với 3 nghiệm thức 1 (đối
chứng: sạ mật độ 200 kg giống/ha theo nông dân), nghiệm thức 2 (sạ mật độ 150 kg
giống/ha) và nghiệm thức 3 (sạ mật độ 100 kg giống/ha). Kết quả thí nghiệm cho
thấy khi sạ với mật độ 200 kg giống/ha có số chồi/m2, số bông/m2 cao hơn nghiệm
thức sạ 150 kg/ha và 100 kg/ha. Sạ 100 kg/ha có số hạt/bông, số hạt chắc/bông, tỷ lệ
hạt chắc cao hơn sạ 200 kg/ha. Nghiệm thức sạ với mật độ 100 kg/ha có năng suất
cao tƣơng đƣơng sạ 150 kg/ha và 200 kg/ha. Mặt khác sạ 100 kg/ha có lợi nhuận
tăng thêm 2.100.000 đồng/ha với nghiệm thức sạ mật độ 200 kg/ha.

vi


MỤC LỤC
Chƣơng


Chƣơng 1

Nội dung
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm tạ
Tiểu sử cá nhân
Tóm lƣợc
Mục lục
Danh sách bảng
Danh sách hình
Danh sách chữ viết tắt
MỞ ĐẦU
LƢỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1 Đặc điểm sinh thái cây lúa
1.1.1 Nhiệt độ
1.1.2 Ánh sáng
1.1.3 Lƣợng mƣa
1.1.4 Gió
1.1.5 Thủy văn
1.2 Đặc điểm thực vật cây lúa
1.2.1 Rễ
1.2.2 Thân
1.2.3 Lá
1.2.4 Bông lúa
1.2.5 Hoa lúa
1.3 Thời kỳ sinh trƣởng của cây lúa
1.3.1 Giai đoạn tăng trƣởng
1.3.2 Giai đoạn sinh sản

1.3.3 Giai đoạn chín
1.4 Các thành phần năng suất
1.4.1 Số bông trên mét vuông
1.4.2 Số hạt trên bông
1.4.3 Tỷ lệ hạt chắc
1.4.4 Trọng lƣợng 1000 hạt
1.5 Mật độ sạ
1.5.1 Phƣơng pháp gieo sạ

vii

Trang
i
iii
iv
v
vi
viii
xi
xii
xiii

2
2
2
2
3
3
3
3

4
4
5
5
5
5
6
6
7
7
8
9
9
10
11


Chƣơng 2

Chƣơng 3

1.5.2 Ảnh hƣởng của mật độ gieo sạ đến sinh trƣởng và
năng suất lúa
PHƢƠNG TIỆN VÀ PHƢƠNG PHÁP
2.1 Phƣơng tiện
2.1.1 Thời gian và địa điểm thí nghiệm
2.1.2 Vật liệu thí nghiệm
2.2 Phƣơng pháp
2.2.1 Bố trí thí nghiệm
2.2.2 Kỹ thuật canh tác

2.2.3 Các chỉ tiêu theo dõi
2.2.4 Đánh giá khả năng phản ứng với một số sâu bệnh
chính
2.3 Phƣơng pháp phân tích số liệu
KẾT QUẢ THẢO LUẬN
3.1 Ghi nhận tổng quát
3.2 Ảnh hƣởng của mật độ gieo sạ đến sự sinh trƣởng và
phát triển cây lúa
3.2.1 Chiều cao cây
3.2.2 Số chồi trên mét vuông

Chƣơng 4

3.2.3 Chiều dài bông
3.3 Ảnh hƣởng của mật độ gieo sạ đến thành phần năng
suất và năng suất
3.3.1 Các thành phần năng suất
3.3.2 Năng suất
3.4 Ảnh hƣởng của mật độ gieo sạ đến hiệu quả kinh tế
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1 Kết luận
4.2 Đề nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ CHƢƠNG

viii

12
16
16

16
16
17
17
18
18
19
20
21
21
21
21
22
24
25
25
28
29
31
31
31
32


DANH SÁCH BẢNG
Bảng
3.1
3.2
3.3
3.4

3.5

3.6
3.7

Tựa bảng
Tình hình sâu bệnh của giống lúa OM 5451 tại xã Mỹ Long
Bắc, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh, vụ Thu Đông 2012.
Ảnh hƣởng của mật độ gieo sạ đến chiều cao cây qua các giai
đoạn sinh trƣởng của giống lúa OM 5451 vụ Thu Đông 2012.
Ảnh hƣởng của mật độ gieo sạ đến số chồi qua các giai đoạn
sinh trƣởng của giống lúa OM 5451 vụ Thu Đông.
Ảnh hƣởng của mật độ gieo sạ đến chiều dài bông qua các giai
đoạn sinh trƣởng của giống lúa OM 5451 vụ Thu Đông 2012.
Ảnh hƣởng của mật độ sạ đến số bông/m2, Số hạt/ bông, Số
hạt chắc/bông, tỷ lệ hạt chắc(%) của giống lúa OM 5451 vụ
Thu Đông 2012 .
Ảnh hƣởng của mật độ gieo sạ đến trọng lƣợng 1000 hạt(g),
năng suất (tấn/ha) của giống lúa OM 5451 vụ Thu Đông 2012.
Ảnh hƣởng của mật độ gieo sạ đến hiệu quả kinh tế của giống
OM 5451 vụ Thu Đông 2012.

ix

Trang
21
22
23
24


24
27
30


DANH SÁCH HÌNH
Tên hình

Hình
2.1

Bản đồ hành chính huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh.

2.2

Sơ đồ bố trí thí nghiệm.

x

Trang
16
17


DANH SÁCH CHỮ VIẾT TẮT

BVTV

:


Bảo vệ thực vật

ĐBSCL

:

Đồng bằng sông Cửu Long

ha

:

hecta

NSS

:

Ngày sau sạ

ctv

:

Cộng tác viên

Rep

:


Replication (lần lặp lại)

xi


MỞ ĐẦU
Cây Lúa (Oryza Satival L.) là cây lương thực chính của Việt Nam, hằng năm
tiêu thụ khoảng 120kg/người (Nguyễn Ngọc Đệ, 2009), nó còn là cây lương thực của
một số nước trên thế giới. Ở Việt Nam, cây lúa chiếm 80% tổng sản lượng lương thực,
trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng sản xuất lúa gạo trọng
điểm, chiếm khoảng 48% diện tích sản xuất lúa, 50% sản lượng lúa cả nước và chiếm
khoảng 90% lượng gạo xuất khẩu hằng năm (Nguyễn Thành Hối, 2011). Tuy nhiên
dân số thế giới ngày càng tăng nhanh, diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp.
Do đó, yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải tăng sản lượng lúa để đảm bảo an ninh lương
thực quốc gia cũng như an ninh lương thực của thế giới.
Trong những kỹ thuật để tăng năng suất cây trồng, ngoài phân bón và cách bón
phân thì mật độ quần thể cũng ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây trồng. Tuy nhiên,
người dân có tập quán truyền thống gieo sạ với mật độ cao khoảng 200 kg/ha, nhưng
trong thực tế lúa là loại cây có khả năng tự điều chỉnh trong quần thể, nếu sạ với mật
độ quá cao cây lúa sẽ đẻ nhánh ít hoặc không đẻ nhánh, tỷ lệ chồi vô hiệu cao, thậm
chí cây bị chết do cạnh tranh sinh tồn, cùng với đó là việc bón nhiều phân đạm dẫn đến
sâu bệnh phát triển mạnh và làm giảm năng suất (Nguyễn Trường Giang, 2010).
Trên thế giới có nhiều nghiên cứu chứng minh sự tương quan giữa mật độ gieo
trồng và năng suất lúa, kết luận rằng năng suất lúa thực sự không thay đổi giữa 2
khoảng cách trồng 10 và 100 bụi/m2. Các kết quả này cũng chứng minh rằng cây lúa có
khả năng thích ứng rộng với mật độ gieo trồng bằng cách tự điều chỉnh số bông, số
nhánh bông/bông và tỷ lệ hạt chắc tùy thuộc vào điều kiện môi trường (Takeda và
Hirota, 1971; trích dẫn bởi Nguyễn Hữu Huân, 2011). Vì vậy, gieo sạ với mật độ hợp
lý sẽ rất có ý nghĩa trong việc tăng năng suất, giảm được sự phát triển của dịch hại
cũng như giá thành trong sản xuất. Do đó, đề tài “Ảnh hƣởng mật độ sạ đến năng

suất giống lúa OM 5451 vụ Thu Đông 2012 tại xã Mỹ Long Bắc, huyện Cầu
Ngang, tỉnh Trà Vinh” được thực hiện nhằm xác định mật độ sạ thích hợp làm cơ sở
khuyến cáo cho nông dân trong sản xuất lúa.

1


CHƢƠNG 1
LƢỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1 ĐẶC ĐIỂM SINH THÁI CÂY LÚA
1.1.1 Nhiệt độ
Nhiệt độ là yếu tố có tác động quyết định lên tốc độ sinh trưởng của cây lúa
nhanh hay chậm, tốt hay xấu. Ở nhiệt độ 200C-300C cây lúa phát triển mạnh. Ở 400C
hoặc trên 400C cây lúa tăng trưởng chậm lại. Nhiệt độ dưới 130C cây lúa ngừng sinh
trưởng và nếu kéo dài khoảng một tuần thì cây lúa sẽ chết. Tuy nhiên, mỗi giống lúa có
thể chịu đựng được một khoảng nhiệt độ nhất định và nhiệt độ tối hảo khác nhau.
Cây lúa ôn đới chịu đựng nhiệt độ thấp giỏi hơn các giống lúa nhiệt đới. Khi mà
thời gian ảnh hưởng của nhiệt độ càng dài, cây lúa sẽ càng suy yếu và khả năng chịu
đựng càng kém. Nguyễn Ngọc Đệ (2009) cho rằng nếu nhiệt độ quá thấp sẽ làm giảm
hoặc ngưng sự nảy mầm của hạt, làm mạ chậm phát triển, cây ốm yếu, lùn lại, lá bị mất
màu, sự thụ phấn bị đình trệ, khả năng bất thụ cao, hạt lép nhiều và thời gian chín kéo
dài bất thường. Bên cạnh đó, nếu nhiệt độ quá cao sẽ làm cho chót lá bị khô trắng, trên
lá có những dãy và đốm bị mất màu, nở bụi kém, giảm chiều cao, số hạt trên bông
giảm, số hạt chắc giảm.
1.1.2 Ánh sáng
Yếu tố ánh sáng ảnh hưởng lớn đến sự sinh trưởng và phát triển của cây lúa trên
hai phương diện chủ yếu là cường độ ánh sáng và độ dài chiếu sáng (quang kỳ). Quang
kỳ là khoảng thời gian chiếu sáng trong ngày tính từ lúc bình minh đến lúc hoàng hôn.
Cường độ ánh sáng ảnh hưởng trực tiếp đến sự quang hợp của cây lúa. Nguyễn Ngọc
Đệ (2009) cho rằng trong giai đoạn non, khi thiếu ánh sáng cây lúa sẽ ốm yếu màu lá

từ xanh nhạt chuyển sang vàng, lúa không nở bụi. Trong thời kỳ phân hóa đòng nếu
thiếu ánh sáng bông lúa sẽ ngắn, dễ bị sâu bệnh phá hoại, ít hạt, hạt nhỏ và hạt thoái
hóa nhiều. Trong thời kỳ thụ phấn nếu thiếu ánh sáng sự thụ phấn bị trở ngại làm tăng
số hạt lép, giảm hạt chắc, tăng hạt lững, cây vươn lóng dài, dễ đổ ngã. Trong giai đoạn
chín nếu ruộng khô, nhiệt độ không khí cao, ánh sáng yếu thì lúa chín chậm lại và
không tập trung.
1.1.3 Lƣợng mƣa
Lượng mưa cần thiết cho cây lúa trung bình là 6-7 mm/ngày vào mùa mưa và 89mm/ngày vào mùa khô. Nguyễn Ngọc Đệ (2009) cho rằng khi công tác thủy lợi thực

2


hiện tốt, ruộng lúa chủ động được nước thì mưa không có ảnh hưởng lên sự gia tăng
năng suất lúa. Ngược lại, nếu mưa nhiều, gió to, trời âm u, ít nắng, cây lúa phát triển
không thuận lợi. Đồng thời, nó còn tạo điều kiện thích hợp để sâu bệnh phát triển.
1.1.4 Gió
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có 2 loại gió chính trong năm là gió mùa
Đông-Bắc và Tây-Nam. Nguyễn Ngọc Đệ (2009) cho rằng ở giai đoạn làm đòng và trổ
gió mạnh ảnh hưởng đến sự hình thành, phát triển của đòng lúa, sự trổ bông, thụ phấn,
thụ tinh, tích lũy chất khô trong hạt bị trở ngại làm tăng tỷ lệ hạt lép, hạt lững từ đó làm
giảm năng suất lúa. Tuy nhiên, gió nhẹ giúp cho quá trình trao đổi không khí trong
ruộng lúa tốt hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình quang hợp và hô hấp của cây
lúa.
1.1.5 Thủy văn
Ở ĐBSCL điều kiện thủy văn quyết định chế độ nước, mùa vụ, tập quán canh
tác và góp phần hình thành các vùng trồng lúa khác nhau. Tùy theo địa hình cao hay
thấp, gần hay xa sông, thời gian ngập nước và độ nông sâu khác nhau. Từ đó hình
thành nên các vùng trồng lúa, kiểu canh tác và mùa vụ khác nhau. Bên cạnh đó, tùy vào
điều kiện canh tác và đặc biệt là chế độ lũ mà nông dân ĐBSCL đã chọn lọc và sử
dụng các giống lúa khác nhau.

Vùng lúa nổi: nước lũ từ thượng nguồn sông Mê Kông tràn về ngập ruộng sớm
(tháng 7 dương lịch) và tiếp tục dâng lên cao thêm 1 m, có nơi lên từ 2-3 m vào khoảng
tháng 9-10 dương lịch. Do đó, nông dân sử dụng các giống lúa có đặc tính vươn lóng
nhanh để có thể ngoi theo mực nước và sạ vào đầu mùa mưa hàng năm.
Vùng lúa cấy 2 lần: đây là vùng trũng, nước rút chậm, nằm ở khu vực trung tâm
của đồng bằng. Các giống lúa được trồng thường là những giống lúa mùa muộn, cao
cây, dài ngày, gieo mạ, cấy lần 1, một thời gian lúa nở bụi rồi nhổ lên cấy lần 2 trên
diện tích rộng.
Vùng lúa cấy 1 lần: vùng cao và trung bình, nước rút nhanh hoặc bị nhiễm phèn,
nhiễm mặn ven biển. Các giống lúa thường được sử dụng là các giống lúa mùa lỡ và
chỉ làm một vụ lúa trong năm.
1.2 ĐẶC ĐIỂM THƢ̣C VẬT CÂY LÚA
1.2.1 Rễ
Rễ lúa thuộc loại rễ chùm, có chức năng giữ vững cây trong đất và hút nước,
dinh dưỡng để nuôi cây. Rễ lúa có hai loại: rễ mầm và rễ phụ. Khi hạt nảy mầm, rễ
xuất hiện đầu tiên là rễ mầm thường mỗi hạt lúa chỉ có một rễ mầm. Rễ mầm không ăn
3


sâu, ít phân nhánh, thường dài khoảng 10-15 cm. Rễ mầm giữ nhiệm vụ chủ yếu là hút
nước cung cấp cho phôi phát triển và chết sau 10-15 ngày, lúc cây mạ được 3-4 lá. Tiếp
theo là các rễ khác mọc ra từ các đốt thân (rễ phụ) với 2 vòng rễ với vòng trên khoẻ
mạnh và vòng dưới kém phát triển hơn, mỗi đốt có từ 5-25 rễ mọc thành chùm với
nhiều rễ nhánh và lông hút (Nguyễn Ngọc Đệ, 2009). Thời kỳ mạ nếu gieo thưa rễ mạ
có thể dài từ 5-6 cm. Thời kỳ sau cấy bộ rễ tăng dần về số lượng và chiều dài ở thời kỳ
đẻ nhánh và làm đòng. Bộ rễ lúa thường có khoảng 500-800 rễ với tổng chiều dài 168
cm. Số rễ đạt tối đa ở giai đoạn trổ bông và giảm khi vào thời kỳ chín (Đinh Thế Lộc,
2006).
1.2.2 Thân
Thân lúa gồm hai loại: thân giả và thân thật. Thân giả do bẹ lá kết hợp lại với

nhau. Thân thật được tạo nên bởi các đốt lóng kế tiếp nhau. Nó được hình thành kể từ
khi cây lúa phân hóa đốt và là kết quả của sự vươn dài của các đốt. Số đốt của thân
nhiều hay ít tùy giống và ít thay đổi do điều kiện của môi trường. Tại mỗi đốt trên thân
có một mầm chồi, khi cung cấp đầy đủ các điều kiện cho sinh trưởng và phát triển các
mầm chồi này sẽ phát triển thành chồi hoàn thiện cấp 1 (chồi sơ cấp), và có thể từ đây
sẽ hình thành ra chồi cấp 2 (chồi thứ cấp) rồi cấp 3 (chồi tam cấp); nếu chăm sóc tốt,
các chồi này sẽ mang bông với rất nhiều hạt (Đinh Thế Lộc, 2006).
1.2.3 Lá
- Cây lúa là cây một lá mầm (đơn tử diệp) nên lá lúa có dạng hình thon dài với
nhiều gân lá chạy dọc trên phiến lá, các lá mọc liên tiếp đối diện nhau trên thân lúa.
Cấu tạo một lá lúa bao gồm phiến lá, cổ lá và bẹ lá.
- Phiến lá là phần hướng ra ngoài ánh sáng , có một gân chính ở giữa và nhiều
gân phụ chạy song song từ cổ đến chót lá, phiến lá càng đứng và chứa nhiều diệp lục
thì quang hợp càng mạnh để tạo chất khô nuôi cây và bông lúa về sau.
- Bẹ lá là phần tiếp theo phiến lá ôm sát thân cây lúa giúp cây càng đứng vững
và ít bị đổ ngã, bẹ lá có nhiều khoảng trống nối liền tới các khí khổng ở phiến lá thông
với thân, rễ, dẫn khí từ trên lá xuống rễ, giúp rễ có thể hô hấp trong điều kiện ngập
nước. Là nơi trung gian tích trữ, vận chuyển không khí, dinh dưỡng và sản phẩm quang
hợp cho các bộ phận khác của cây lúa.
- Cổ lá là nơi tiếp giáp giữa phiến lá và bẹ lá , có hai bộ phận đặc biệt cần chú ý
ở đây là tai lá và thìa lá, đủ hai bộ phận này là đặc điểm để phân biệt cây lúa và các cây
cỏ khác cùng họ tương tự cây lúa (Đinh Thế Lộc, 2006).

4


1.2.4 Bông lúa
Cả một phát hoa bao gồm nhiều nhánh mang gié có mang hoa. Bông lúa có
nhiều dạng: bông túm hoặc xòe, đóng hạt thưa hoặc dày, cổ hở hay cổ kín là tùy giống
và điều kiện môi trường.

1.2.5 Hoa lúa
Hạt lúa chưa thụ phấn và thụ tinh gọi là hoa lúa. Hoa lúa thuộc loại dĩnh hoa,
gồm trấu lớn, trấu nhỏ tương ứng với dĩnh dưới và dĩnh trên, một bộ nhụy cái và một
bộ nhị đực. Bầu nhị đực gồm 6 chỉ mang 6 bao phấn, bên trong chứa nhiều hạt phấn.
Bầu nhụy cái gồm một bầu noãn và vòi nhụy chẻ đôi với 2 nướm ở tận cùng để hứng
phấn.
1.3 THỜI KỲ SINH TRƢỞNG CỦA CÂY LÚA
Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2009) đời sống cây lúa bắt đầu từ khi hạt nảy mầm cho
đến khi lúa chín. Có thể chia ra làm ba giai đoạn chính: giai đoạn tăng trưởng (sinh
trưởng dinh dưỡng), giai đoạn sinh sản (sinh dục) và giai đoạn chín.
Với giống có thời gian sinh trưởng 120 ngày, trong điều kiện nhiệt đới, thời kỳ
sinh trưởng dinh dưỡng là 60 ngày, làm đòng 30 ngày và chín 30 ngày. Thời kỳ sinh
trưởng dinh dưỡng biến động mạnh nhất, thời kỳ làm đòng thường biến động trong
khoảng 30-40 ngày tùy theo giống ngắn ngày hay dài ngày. Thời kỳ chín chủ yếu biến
động theo nhiệt độ. Sự khác nhau và biến động về thời lượng trong các thời kỳ sinh
trưởng dinh dưỡng phụ thuộc vào giống và điều kiện ngoại cảnh. Những giống chín
sớm có thời kỳ sinh trưởng ngắn, chúng có thể làm đòng trước khi đạt số nhánh tối đa.
Ngược lại, ở giống dài ngày thường đạt số nhánh tối đa trước khi làm đòng và làm đốt
trước làm đòng (Nguyễn Đình Giao và ctv.,1997).
1.3.1 Giai đoạn tăng trƣởng
Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2009) bắt đầu từ khi hạt nảy mầm đến khi cây phân hóa
đòng. Trong thời kỳ này, cây lúa chủ yếu hình thành và phát triển cơ quan dinh dưỡng
như ra lá, phát triển rễ, đẻ nhánh và một phần thân (Vũ Văn Hiền và Nguyễn Văn
Hoan, 1999). Giai đoạn dinh dưỡng biểu hiện bởi sự đâm chồi tích cực, sự tăng dần
chiều cao cây và sự ra lá đều đặn. Sự đâm chồi có thể bắt đầu từ khi thân chính phát
triển lá thứ 5 hoặc lá thứ 6 trong điều kiện dinh dưỡng, ánh sáng và thời tiết thuận lợi
(Yoshida, 1981; Nguyễn Ngọc Đệ, 2009). Những nhánh đẻ sớm thường cho bông hay
nhánh hữu hiệu còn các nhánh đẻ muộn thì có thể cho bông hoặc không (Yoshida,
1981). Số nhánh hữu hiệu thường thấp hơn số chồi tối đa và ổn định khoảng 10 ngày
trước khi đạt số chồi tối đa. Các nhánh ra muộn thường không có khả năng chuyển

5


sang thời kỳ sinh dục và trở thành nhánh vô hiệu (Vũ Văn Hiền và Nguyễn Văn Hoan,
1999). Những nhánh vô hiệu hình thành sau số chồi tối đa sẽ chết đi do nhánh nhỏ và
yếu không đủ khả năng cạnh tranh dinh dưỡng và ánh sáng (Nguyễn Ngọc Đệ, 2009).
Việc đẻ nhánh của cây lúa phụ thuộc vào nhiều yếu tố: giống, thời vụ, thời tiết,
kỹ thuật canh tác. Cây lúa kết thúc quá trình đẻ nhánh khi bước vào quá trình làm đốt
(lóng) để phát triển thân lúc này cây lúa đạt số chồi tối đa trên một đơn vị diện tích
(Đinh Thế Lộc, 2006).
Giai đoạn tăng trưởng là thời kỳ quyết định đến sự phát triển của quá trình đẻ
nhánh từ đó quyết định số bông trên mét vuông. Do đó, cần chú ý đến các biện pháp kỹ
thuật nhằm làm tăng số bông là yếu tố quan trọng để tăng năng suất lúa (Nguyễn Đình
Giao và ctv., 1997).
1.3.2 Giai đoạn sinh sản
Giai đoạn này của cây lúa bắt đầu từ lúc phân hóa đòng đến khi lúa trổ bông.
Giai đoạn này kéo dài khoảng 27-35 ngày và trung bình là 30 ngày, giống lúa dài ngày
hay ngắn ngày thường không khác nhau nhiều. Lúc này số chồi vô hiệu giảm nhanh,
chiều cao tăng lên rõ rệt do sự vươn dài của 5 lóng trên cùng. Đòng lúa hình thành và
phát triển qua nhiều giai đoạn, cuối cùng thoát ra khỏi bẹ của lá cờ và trổ bông
(Nguyễn Ngọc Đệ, 2009).
Theo Yoshida (1981) thời kỳ trổ bông được xác định vào lúc 50% số bông thoát ra
ngoài lá đòng. Vũ Văn Hiển và Nguyễn Văn Hoan (1999) cho rằng, cây lúa hình thành
hoa, tập hợp nhiều hoa thành bông lúa. Sau khi hoàn thành việc trổ bông, các hoa lúa
sẽ bắt đầu nở trong khoảng thời gian từ 8 giờ sáng đến 13 giờ chiều và sự thụ tinh cũng
kết thúc trong vòng từ 5-6 giờ sau khi nở hoa. Trên cùng một bông các hoa lúa phải
mất từ 7-10 ngày mới nở hết và hầu hết các hoa nở trong vòng 5 ngày.
1.3.3 Giai đoạn chín
Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2009) giai đoạn chín bắt đầu từ lúc trổ bông đến lúc thu
hoạch. Giai đoạn chín được đặc trưng bởi sự sinh trưởng hạt, sự tăng kích thước và

trọng lượng, sự đổi màu của hạt và sự thoái hóa của lá già. Ở giai đoạn sớm của sự chín
hạt có màu lục, chúng chuyển sang màu vàng khi trưởng thành. Cơ cấu của hạt thay đổi
từ trạng thái sữa, sáp sang chắc cứng. Dựa vào các thay đổi về hình dạng, màu sắc và
trọng lượng hạt giai đoạn chín được chia nhỏ thành chín sữa, chín sáp, chín vàng và
chín hoàn toàn. Trong lúc hạt sinh trưởng mạnh, cả trọng lượng tươi và khô của hạt đều
tăng. Tuy nhiên, gần trưởng thành trọng lượng khô tăng chậm nhưng trọng lượng tươi
giảm do sự mất nước (Yoshida, 1981).

6


Ở các hoa lúa được thụ tinh sẽ xảy ra quá trình tích lũy tinh bột và sự phát triển
hoàn thiện của phôi. Nếu thuận lợi thì các hoa đã thụ tinh sẽ phát triển thành hạt chắc,
sản phẩm chủ yếu của cây lúa (Vũ Văn Hiển và Nguyễn Văn Hoan, 1999). Tuy nhiên,
nếu ruộng đất có nhiều nước, thiếu lân, thừa đạm, trời mưa ẩm ít nắng trong thời gian
này thì giai đoạn chín sẽ kéo dài hơn và ngược lại (Nguyễn Ngọc Đệ, 2009).
Như vậy, trong giai đoạn chín thì thời kỳ quan trọng nhất là chín sữa các chất dự
trữ trong lá và sản phẩm quang hợp chuyển vào trong hạt. Hơn 80% lượng vật chất khô
tích lũy trong hạt do quá trình quang hợp sau khi trổ cung cấp. Do đó, quá trình này
quyết định rất lớn đến trọng lượng 1000 hạt.
1.4 CÁC THÀNH PHẦN NĂNG SUẤT
Các yếu tố cấu thành năng suất có liên quan với nhau. Số bông trên mét vuông
phụ thuộc vào tỷ lệ đẻ nhánh và mật độ cấy. Khi cây đẻ nhánh mạnh thì số bông trên
mét vuông sẽ tăng. Khi số bông trên mét vuông tăng quá cao thì bông lúa sẽ bé đi, số
hạt trên bông giảm, tỷ lệ hạt chắc trên bông giảm. Tỷ lệ hạt chắc và trọng lượng hạt
phụ thuộc vào số hạt trên bông (Vũ Văn Hiển và Nguyễn Văn Hoan, 1999).
Số hạt trên bông quá cao thì tỷ lệ hạt chắc, trọng lượng hạt sẽ giảm. Để đảm bảo
năng suất cao cần điều khiển sao cho ruộng lúa có số bông trên mét vuông tối ưu, bảo
đảm số hạt trên bông nhiều, tỷ lệ hạt chắc cao và trọng lượng hạt lớn (Vũ Văn Hiển và
Nguyễn Văn Hoan, 1999).

Vũ Văn Hiển và Nguyễn Văn Hoan (1999) cho rằng, năng suất lúa trên đơn vị
diện tích là kết quả tương tác giữa nhiều yếu tố. Do đó, căn cứ vào điều kiện khí hậu
đất đai, phân bón, giống lúa mà quyết định mật độ cấy, tỷ lệ đẻ nhánh vì hai yếu tố này
ảnh hưởng đến số bông, tỷ lệ hạt chắc, trọng lượng hạt và cuối cùng là năng suất hạt.
Theo Nguyễn Đình Giao và ctv. (1997) cho rằng, muốn nâng cao năng suất lúa
cần hiểu được quá trình hình thành các yếu tố năng suất, trước hết là thời gian, các điều
kiện ảnh hưởng lên yếu tố đó. Trên cơ sở đó mới có thể áp dụng các biện pháp kỹ thuật
đúng lúc, đúng cách.
1.4.1 Số bông trên mét vuông
Trong bốn yếu tố tạo thành năng suất lúa thì số bông có yếu tố quyết định sớm
nhất. Số bông có thể đóng góp 74% năng suất, trong khi số hạt và trọng lượng hạt đóng
góp 26% (Nguyễn Đình Giao và ctv., 1997).
Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2009), số bông trên đơn vị diện tích được quyết định
vào giai đoạn sinh trưởng ban đầu của cây lúa (giai đoạn tăng trưởng), nhưng chủ yếu
là giai đoạn từ khi cấy đến khoảng 10 ngày trước khi cho chồi tối đa. Số bông trên đơn
vị diện tích tùy thuộc và mật độ sạ và khả năng nở bụi thay đổi tùy thuộc vào giống
7


lúa, điều kiện thời tiết, thổ nhưỡng, lượng phân bón và chế độ nước. Trong phạm vi
nhất định, cấy dày cây lúa đẻ nhánh ít, cấy thưa cây lúa đẻ nhánh nhiều nhưng cuối
cùng số bông trên đơn vị diện tích là như nhau.
Bùi Chí Bửu và ctv. (1998) cho rằng các giống lúa hiện tại có thể đẻ nhánh lên
đến 20-25 nhánh trong điều kiện đầy đủ dinh dưỡng, nhưng khoảng 14-15 nhánh cho
bông hữu hiệu, còn lại là nhánh vô hiệu hoặc cho bông rất nhỏ. Cây lúa chỉ cần cho
bông vừa phải, gia tăng số hạt chắc trên bông thì tốt hơn tăng số bông trên đơn vị diện
tích.
Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2009) cần lưu ý các biện pháp kỹ thuật để tăng số bông
trên đơn vị diện tích:
- Chọn giống thích hợp với đất đai và mùa vụ.

- Cấy mạ đúng tuổi, đúng khoảng cách thích hợp cho từng giống để lúa nở bụi
khỏe. Đối với lúa sạ thì ngâm ủ đúng kỹ thuật và sạ với mật độ thích hợp.
- Bón phân lót đầy đủ, bón thúc sớm để lúa nở bụi sớm mau đạt số chồi tối đa và
chồi khỏe cho bông và bông to sau này.
- Làm cỏ, giữ nước vừa phải và liên tục để điều hòa nhiệt độ và khống chế cỏ
dại.
- Phòng trị sâu bệnh kịp thời
1.4.2 Số hạt trên bông
Số hạt trên bông nhiều hay ít tùy thuộc vào số gié, hoa phân hóa cũng như số
gié, hoa thoái hóa. Các quá trình này nằm trong thời kỳ sinh trưởng sinh dục từ lúc làm
đòng đến lúc trổ bông (Nguyễn Đình Giao và ctv., 1997).
Số hạt trên bông được quyết định từ lúc tượng cổ bông đến 5 ngày trước khi trổ,
nhưng quan trọng nhất là thời kỳ phân hóa hoa và giảm nhiễm tích cực. Ở giai đoạn
này số hạt trên bông có ảnh hưởng thuận đối với năng suất lúa do ảnh hưởng đến số
hoa được phân hóa. Sau giai đoạn này, số hạt trên bông đã hình thành có thể bị thoái
hóa có ảnh hưởng âm (Nguyễn Ngọc Đệ, 2009).
Theo Vũ Văn Hiển và Nguyễn Văn Hoan (1999) số hạt trên bông là số lượng
hoa phân hóa và hình thành trên bông, số hạt trên bông do tổng số hoa phân hóa và số
hoa thoái hóa quyết định, số hoa phân hóa càng nhiều, số hoa thoái hóa càng ít thì số
hạt trên bông sẽ nhiều. Nguyễn Ngọc Đệ (2009) cho rằng, số hạt trên bông tùy thuộc
vào số hoa được phân hóa và số hoa bị thoái hóa. Hai yếu tố này bị ảnh hưởng bởi
giống lúa, kỹ thuật canh tác và điều kiện thời tiết. Đối với những giống lúa bông to, kỹ
thuật canh tác tốt, bón phân đầy đủ, chăm sóc đúng mức, thời tiết thuận lợi thì số hoa
phân hóa càng nhiều, số hoa thoái hóa càng ít. Nên số hạt cuối cùng trên bông cao. Ở

8


các giống lúa cải thiện, số hạt trên bông từ 80-100 hạt đối với lúa sạ hoặc 100-120 hạt
đối với lúa cấy là tốt trong điều kiện Đồng bằng sông Cửu Long.

Người ta thấy rằng, bón đón đòng cho lúa vào giai đoạn phân hóa đòng đến giai
đoạn phân hóa hoa có tác dụng làm tăng số lượng hoa phân hóa một cách rõ rệt. Bón
phân vào giai đoạn phân hóa hoa còn có tác dụng phòng ngừa hoa thoái hóa. Bón thúc
vào giai đoạn bắt đầu phân hóa đòng còn có tác dụng làm tăng quá trình phân hóa gié.
Số gié cấp 1, đặc biệt là số gié cấp 2 nhiều thì số hoa trên bông cũng nhiều. Số hoa trên
bông nhiều là điều kiện cần thiết để đảm bảo cho số hạt trên bông lớn (Vũ Văn Hiển và
Nguyễn Văn Hoan, 1999).
1.4.3 Tỷ lệ hạt chắc
Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2009) cho rằng hạt chắc là những hạt nặng, tỷ lệ hạt
chắc được quyết định từ thời kỳ phân hóa đòng đến khi lúa vào chắc nhưng quan trọng
nhất là các thời kỳ phân bào giảm nhiễm, trổ bông, phơi màu, thụ phấn, thụ tinh và vào
chắc.
Ngoài ra, tỷ lệ hạt chắc tùy thuộc vào số hoa trên bông, đặc tính sinh lý của cây
lúa và chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện ngoại cảnh mà tỷ lệ hạt chắc cao hay thấp. Các
giống lúa có khả năng quang hợp, tính lũy và chuyển vị các chất mạnh, cộng với cấu
tạo mô cơ giới vững chắc không đổ ngã sớm, lại trổ và tạo hạt trong điều kiện thời tiết
tốt, dinh dưỡng đầy đủ thì tỷ lệ hạt chắc sẽ cao và ngược lại. Số hoa trên bông quá
nhiều dẫn đến tỷ lệ hạt chắc thấp. Vì vậy, muốn đạt năng suất cao thì tỷ lệ hạt chắc
phải trên 80% (Nguyễn Ngọc Đệ, 2009).
Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2009), các biện pháp để gia tăng tỷ lệ hạt chắc:
- Chọn giống tốt, trổ gọn, khả năng thụ phấn cao và số hạt trên bông vừa phải.
- Sạ đúng thời vụ để lúa trổ và chín trong lúc thời tiết tốt, với mật độ sạ vừa
phải.
- Bón phân nuôi dòng (18-20 ngày trước khi trổ) và nuôi hạt (khi lúa trổ đều)
đầy đủ và cân đối để lúa trổ bông, thụ phấn, thụ tinh và tạo hạt đầy đủ.
- Chăm sóc chu đáo, tránh cho lúa bị khô hạn hoặc bị sâu bệnh trong thời gian
này.
1.4.4 Trọng lƣợng 1000 hạt
Trọng lượng 1000 hạt là yếu tố cuối cùng tạo nên năng suất lúa. So với các yếu
tố khác thì trọng lượng 1000 hạt tương đối ít biến động. Nó phụ thuộc chủ yếu vào

giống. Trọng lượng 1000 hạt do hai bộ phận cấu thành, trọng lượng vỏ trấu và trọng
lượng hạt gạo. Trọng vỏ trấu thường chiếm 20% và trọng lượng hạt gạo chiếm 80%
trọng lượng toàn hạt. Muốn có trọng lượng hạt gạo cao phải tác động vào cả hai yếu tố
9


này (Nguyễn Đình Giao và ctv., 1997). Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2009) trọng lượng hạt
được quyết định ngay từ kì phân hóa hoa đến khi lúa chín, nhưng quan trọng nhất là
thời kỳ giảm nhiễm tính cực và vào chắc rộ.
Trọng lượng hạt tùy thuộc cở hạt và độ mẩy của hạt lúa. đối với lúa người ta
thường biểu thị trọng lượng hạt bằng trọng lượng của 1000 hạt đối với đơn vị là gram
(g). Ở phần lớn các giống lúa, trọng lượng 1000 hạt thường biến thiên tập trung trong
khoảng 20-30 g. Trọng lượng 1000 hạt của cây lúa trong ruộng là một đặc tính ổn định
(Yoshiha, 1981), chủ yếu do đặc tính di truyền của giống quyết định vì kích thước hạt
bị kiểm tra chặt chẽ bởi kích thước vỏ trấu, cỡ hạt; cho đến khi vào chắc rộ (15-20
ngày sau khi chắc rộ) trên độ mẩy của hạt (Nguyễn Ngọc Đệ, 2009).
Vũ Văn Hiển và Nguyễn Văn Hoan (1999) cho rằng, vào giai đoạn phân bào
giảm nhiễm nếu điều kiện ngoại cảnh và điều kiện dinh dưỡng thuận lợi thì hạt được
hình thành với kích thước lớn. Sau khi trổ bông nếu dinh dưỡng kém, thiếu ánh sáng
ảnh hưởng đến quang hợp, quá trình vận chuyển các chất về hạt bị cản trở sẽ làm giảm
trọng lượng của hạt. Để tăng trọng lượng hạt, trước khi trổ bông nên bón thúc đòng để
làm tăng kích thước vỏ trấu. Sau khi trổ bông cần tạo điều kiện cho cây sinh trưởng tốt
để quang hợp được tiến hành mạnh mẽ, tích lũy được nhiều tinh bột thì trọng lượng hạt
sẽ cao.
Theo Nguyễn Đình Giao và ctv. (1997) ngoài ánh sáng, yếu tố nhiệt độ nhất là
biên độ chênh lệch ngày-đêm, có ảnh hưởng rõ rệt đến quá trình quang hợp, tích lũy,
vận chuyển vật chất về hạt. Vì vậy, giữ cho lá lúa xanh lâu, quang hợp vận chuyển tốt
là yếu tố quan trọng tác động lên trọng lượng hạt.
1.5 MẬT ĐỘ SẠ
Theo Bùi Huy Giáp (1980) cho rằng việc bố trí mật độ cây trồng cũng tùy thuộc

vào giống:
+ Đối với giống dài ngày cao cây với mực nước ruộng thích hợp và điều kiện
nhiệt đới ở nước ta thì cấy với mật độ dầy là hợp lý, mỗi bụi nên cấy ít tép, bụi lúa cấy
ít tép sẽ đẻ nhánh thuận xòe ra 4 phía, bụi lúa tròn khỏe. Nếu cấy với mật độ quá dầy
với số tép cao trên bụi dễ đưa đến tình trạng lốp, đổ non và có thể không thu hoạch
được năng suất do quần thể giảm nhiều.
+ Đối với giống lúa thấp cây, ngắn ngày có những đặc tính với giống cây cao
dài ngày nhất là kiểu lá, số lá trên cây (ít hơn), độ dầy lá, kích thước lá, góc lá hẹp….
Tất cả các ưu điểm trên cho phép cây lúa có thể chịu được những mật độ dầy hơn
những giống cao cây. Đối với giống này sạ với mật độ càng dầy thì số chồi hữu hiệu
càng giảm thấp.

10


Theo Đào Thế Tuấn (1984) để cải thiện một thành phần năng suất lại đưa đến
giảm thành phần năng suất khác, chẳng hạn như tăng số bông trên đơn vị diện tích thì
số hạt trên bông giảm. Theo tác giả, để cải thiện năng suất cây trồng thì dựa vào mật độ
cây trồng, diện tích lá, điều kiện đất đai để đạt năng suất cao nhất.
1.5.1 Phƣơng pháp gieo sạ
Trong sản xuất hiện nay có rất nhiều hình thức sạ khác nhau, điều này là do điều
kiện đất đai và nước tưới của từng vùng, vụ khác nhau mà chọn lựa phương pháp sạ
thích hợp. Những vùng chủ động được nước tưới và đất tương đối bằng phẳng thường
áp dụng phương pháp sạ ướt. Hiện nay, hầu hết diện tích trồng lúa ở Đồng bằng sông
Cửu Long là lúa cao sản và phương pháp sạ ướt được sử dụng nhiều nhất (Nguyễn
Thành Hối, 2010). Đối với phương pháp sạ ướt cũng có hai phương pháp được áp dụng
là sạ lan theo tập quán và sạ theo hàng đang được khuyến cáo áp dụng.
+ Phương pháp sạ lan
Phương pháp sạ lan đã được nông dân áp dụng từ khi bắt đầu canh tác lúa cao
sản ngắn ngày thay thế dần cho cây lúa mùa năng suất thấp. Phương pháp này có

những ưu điểm nổi trội so với phương pháp sạ và cấy lúa mùa về khả năng gia tăng số
bông/m2, tính đồng đều về chiều cao và khả năng nhận ánh sáng (Nguyễn Đình Giao và
ctv., 1997). Đặc điểm của phương pháp này là cây lúa đẻ nhánh sớm, số bông nhiều,
năng suất quan hệ chặt chẽ với số bông. Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp này
là mật độ thường không đều, bộ rễ ăn nông, dễ bị chim chuột phá hại và lúa thường bị
đổ ngã vào mùa có mưa gió nhiều (Nguyễn Đình Giao và ctv., 1997). Ở ĐBSCL, vụ Hè
Thu thường có mưa nhiều nên sạ lan vào mùa này thường xuyên xảy ra sự đổ ngã làm
giảm năng suất và phẩm chất hạt lúa rất lớn.
Hiện nay, lượng giống lúa cao sản ngắn ngày sạ lan được khuyến cáo là 150 kg
giống/ha (Nguyễn Thành Hối, 2010). Tuy nhiên, trong thực tế sản xuất người trồng lúa
thường theo tập quán sạ với mật độ cao, lượng giống gieo sạ từ 200-300 kg giống/ha
(Nguyễn Văn Luật, 2001). Với lượng giống gieo sạ nhiều như thế thì sẽ ảnh hưởng rất
lớn đến sự tiếp nhận ánh sáng của từng cây lúa trong quần thể ruộng lúa, nhu cầu dinh
dưỡng từ đất trồng và tạo điều kiện vi khí hậu dưới tán lá thích hợp cho sâu bệnh phát
triển. Các nhà khoa học đã chứng minh được những yếu tố gây dịch bệnh tích cực nhất
là khi cây trồng phải sống trong quần thể chật hẹp thiếu ánh sáng cho các lá dưới, làm
cho cây lúa trở nên yếu ớt sâu bệnh dễ tấn công (Nguyễn Kim Chung và Nguyễn Ngọc
Đệ, 2005). Kết quả nghiên cứu gần đây của Lê Hữu Toàn (2009) cho thấy, sâu bệnh hại
làm năng suất biến động đến 92,43% khi áp dụng phương pháp sạ lan truyền thống. Do

11


đó, năng suất lúa sẽ được cải thiện và giữ ổn định khi làm cho sự phát sinh và gây hại
của sâu bệnh ở ngưỡng thấp bằng cách sử dụng lượng giống gieo sạ hợp lý.
+ Phương pháp sạ hàng
Có thể nhận thấy rằng, sạ hàng là một bước cải tiến về kỹ thuật gieo hạt giống
của phương pháp sạ lan. Sạ hàng hạt giống tuy được theo hàng nhưng vẫn phải sạ theo
phương pháp sạ ướt giống như sạ lan. Hiện nay, phương pháp sạ hàng ở Đồng bằng
sông Cửu Long đã thể hiện nhiều ưu điểm so với sạ lan như: tiết kiệm vật tư mà chủ

yếu là giống và phân bón; tạo điều kiện thuận lợi để thâm canh; giảm thiệt hại cho sâu
bệnh; tăng năng suất so với phương pháp sạ lan và kết hợp nuôi cá hay nuôi vịt chóng
lớn (Nguyễn Văn Luật, 2001).
Tuy nhiên, việc áp dụng phương pháp này cũng gặp một số trở ngại đó là: đất
trên nông hộ nhỏ khó áp dụng và đất thiếu bằng phẳng; do chim, chuột và đặc biệt là ốc
bươu vàng; Kỹ thuật ngâm giống của nông dân còn chưa đúng quy trình, dẫn đến khi
sạ mật độ không đều; tập quán sạ ở mật độ dầy của nông dân áp dụng từ lâu nên khi
chuyển sang kỹ thuật sạ hàng cần có một thời gian để thay đổi nhận thức (Lê Trường
Giang, 2005; Trịnh Quang Khương, 2010).
Dưới điều kiện quản lý đồng ruộng tốt, mật độ sạ 100 kg giống/ha được khuyến
cáo để nhận năng suất lúa có chất lượng tốt, cũng như đáp ứng đủ số bông/m2 cho việc
chín đồng bộ trong hệ thống canh tác lúa sạ ướt (Trần Thị Ngọc Huân và ctv.,1999).
Trong kỹ thuật này, cây lúa có sự phân bổ quần thể ruộng lúa thích hợp nên đã tận
dụng được năng lượng mặt trời cho quá trình quang hợp tạo năng suất và làm giảm
thiệt hại do tác động của ngoại cảnh (Nguyễn Văn Luật, 2001).
Những nghiện cứu về ảnh hưởng của phương pháp sạ hàng đến năng suất cho
thấy, áp dụng phương pháp này năng suất lúa có thể tăng so với phương pháp sạ lan từ
0,5-1,5 tấn/ha (Nguyễn Văn Luật, 2001). Theo Nguyễn Ngọc Đệ và Phạm Thị Phấn
(2004) cho rằng sạ thưa có ưu thế hơn trong việc tăng năng suất.
So với phương pháp sạ lan thì phương pháp sạ hàng có thể làm giảm được lượng
giống sử dụng từ 50-75%. Lượng giống giảm được tương ứng khoảng từ 100-150 kg
giống/ha (Nguyễn Văn Luật và ctv., 1999). Nguyễn Kim Chung và Nguyễn Ngọc Đệ
(2005) cho rằng về mật độ sạ thì phương pháp sạ hàng có ưu thế hơn sạ lan vì gieo
hàng ít hao giống, ít sâu bệnh và cho năng suất tương đương với sạ lan ở mật độ 200 kg
giống/ha.
Ngoài ra còn có một số phương pháp sạ khác như:
+ Sạ chay
Sạ chay là hình thức sạ không làm đất thường áp dụng trong vụ Xuân Hè và Hè
Thu. Khi vừa thu hoạch xong thì tiến hành sạ ngay trên đất đó mà không phải làm đất.
12



×