Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Qua hai nhân vật Mị và A Phủ, hãy nêu giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ (Bài 1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (76.09 KB, 3 trang )

Giá trị hiện thực của truyện ngoài việc tái hiện đoạn đời khô ải
của những người nô lệ còn nói lên một sự thật xót xa: người dân
bị áp bức, đè nén quá lâu sẽ bị tê liệt tinh thần phản kháng, sẽ bị
đầu độc bởi tâm lí nô lệ.
Vợ chồng A Phủ là một trong ba tập trong Truyện Tây Bắc (in năm 1954) của nhà văn Tô Hoài. Tác
phẩm kể về cuộc đời của đôi vợ chồng trẻ người Mèo là Mị và A Phủ. Mị bị bắt về làm con dâu trừ nợ
cho nhà thông lí. A Phủ vì dám đánh A Sử, con trai thống lí nên phải làm đày tớ đế trừ tiền phạt vạ. Cùng
cảnh ngộ đau khổ, Mị đã cứu A Phủ. Hai người trốn khỏi nhà Pá Tra, tìm đến tận Phiềng Sa, thành vợ,
thành chồng, cùng nhau xây dựng cuộc đời mới. Được cán bộ cách mạng giác ngộ, Mị cùng A Phủ trở
thành du kích bảo vệ khu giải phóng.
Đây là tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể. Thông qua số phận Mị và A Phủ, nhà văn đã
dựng lại quãng đời đau khổ, tối tăm của người dân miền núi trước cách mạng và phản ánh quá trình đến
với cách mạng của họ.
Dưới thời thực dân phong kiến, bọn lang bạo chúa đất ở vùng cao mặc sức làm mưa làm gió. Chúng nắm
trong tay quyền lực của hành chính, tập tục và thần linh. Chúng có quyền sinh, quyền sát. Bởi thế tính
mạng người dân bị coi như cỏ rác. Điển hình cho tầng lớp thống trị miền núi được miêu tả trong truyện là
cha con tên thông lí Pá Tra với tính cách bạo ngược và lối sống phè phỡn trên mồ hôi nước mắt người
nghèo.
Cũng như bao tên chúa đất khác, thông lí Pá Tra có đủ mọi thủ đoạn hiểm độc trong việc áp bức, bóc lột
dân chúng, đẩy họ vào cảnh bần cùng để rồi mặc nhiên trở thành nô lệ của hắn. Mị và A Phủ là nạn nhân
trong bao nạn nhân khác của cha con hắn.
Mị vốn là một cô gái mang đầy đủ phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ vùng cao. Đẹp người , đẹp nết, Mị được
nhiều trai bản yêu mến. Cuộc sống, tuổi thanh xuân, hứa hẹn với cô bao điều tốt lành. Nhưng chi vì món
nợ của cha mẹ cô vay thống lí từ ngày cưới cho đến lúc mẹ cô chết vẫn chưa trả được nên Mị phải đem
thân làm con dâu trừ nợ cho nhà thống lí. Là người nhưng cô bị coi như một thứ đồ vật vô tri, vô giác đế
tính ra tiền trừ vào số nợ.
Những ngày Mị sống với cha con tên thông lí là chuỗi dài đau thương vất vả. Danh nghĩa là dâu nhà quan
nhưng thực chất cô là đầy tớ không công, bị coi rẻ hơn cả con trâu, con ngựa. Suốt ngày nai lưng ra làm
quần quật, đêm đến cô lại phải thức hầu hạ thằng chồng tàn ác.
Đau khổ, cực nhọc đã cướp mất tuổi xuân của Mị, biến cô thành kẻ nhẫn nhục, cam chịu. Cô gái Mèo
xinh đẹp, hồn nhiên, đa tình, đa cảm thuở nào đã chết. Chi còn lại người đàn bà “lúc nào cũng vậy... cũng


cúi mặt buồn rười rượi… ngồi ngay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa...”. Mị âm thầm “lùi lũi
như con rùa nuôi trong xó cửa".
Mị không những bị đọa đày về thể xác mà còn bị đè nén về tinh thần, Mị chán sống nhưng không được
chết. Vì có chết thì món nợ truyền kiếp kia vẫn còn là người cha già càng đau khổ hơn. Cuộc đời Mị bị
ràng cột bằng quyền lực, bị trói buộc bằng tập tục mê tín lâu đời của người dân miền núi.
Cách đối xử bất công, tàn bạc của cha con tên thống lí làm cho Mị ngập chìm trong đau khổ triền miên.
Cô lặng lẽ ra vào như một cái bóng, không một người bạn chia sẻ tâm tình. Cô chi còn biết làm bạn với


ngọn lửa “trong những đêm đông dài và buồn”. Thân xác Mị, tâm hồn Mị lạnh lẽo, trống vắng, “nếu
không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết kéo".
Ngọn lửa là người bạn duy nhất giúp cô xua bớt phần nào bóng tối u ám đang vây phủ cuộc đời cô.
Không có bạn bè cảm thương với nỗi khổ của mình, phải tìm đến ngọn lửa, coi nó là bạn. Khổ biết chừng
nào!.
Bao năm qua, Mị bị đọa đày trong nhà thông lí, mọi cảm xúc của cô hầu như tê liệt. Tinh thần phản kháng
cũng vậy. Bây giờ Mị đã nghĩ rằng minh là con trâu, con ngựa của nhà giàu, chỉ biết ăn cỏ và đi làm thôi.
Con trâu, con ngựa nhà giàu đêm còn được nghi, còn cô không lúc nào ngớt việc. Trước kia. cô phản
kháng dữ dội bằng cách định ăn lá ngón tự tử, giờ cô không nghĩ đến chuyện chết nữa vì quá quen với cái
khổ rồi, vì cho rằng sống mà như chết. Đời Mị cứ thế lặng lẽ trôi đi. Với Mị, cuộc sống chẳng còn nghĩa
lí, không còn gợi cho cô ý thức gì về quá khứ, hiện tại, tương lai. Cái ác cùa bọn thống lí là đã giết chết
phần tốt đẹp của con người.
Cuộc đời A Phủ, người con trai Mèo cũng không kém phần chua xót. Khỏe mạnh, ngang tàng, phóng
khoáng, làm nương giỏi, săn thú tài, A Phủ được bao cô gái say mê, ao ước. Nhưng hạnh phúc không dến
với chàng trai nghèo khổ mồ côi ấy. Vì dám đánh bại trăm đồng bạc trắng, phải đi ở trừ nợ làm ngựa cho
nhà thống lí: "Đời mày, đời con, đời cháu mày tao củng bắt thể, giờ hết nợ tao mới thôi”.
Ngày này qua tháng khác, A Phủ phải làm việc cật lực, chăn dắt bầy bò đông máy chục con. Không may
một con bò bị hổ ăn thịt. A Phủ bị trói đứng vào cột chờ chết, không được ăn, không được uống.
Con người khi phách ngang tàng như A Phủ mà phổi lặng lẽ khóc cho thân phận tủi nhục cua mình: "hai
mắt A Phủ cũng vừa mở. Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Chút ý thức
phản kháng trong anh đã bị hiện thực phũ phàng dập tắt.

Ngòi bút nhà văn tỏ ra sắc sảo trong việc miêu tả con người và cuộc sống vùng cao. Cha con tên thống lí
và lũ tay sai là hiện thân của giai cấp thống trị tàn ác, vô nhân đạo. Bọn lý dịch, quan làng, thống quản...
lợi dụng chuyện A Phủ đánh A Sử để kéo đến nhà thống lí xử kiện và ăn cỗ “suốt từ trưa cho đến hết
đêm". Mấy chục người “hút thuốc phiện rào rào”. Cứ mỗi đợt chúng hút xong A Phủ lại phải quỳ ra giữa
nhà để người nhà thống lí xô đến đánh: “cứ như thế suốt chiều, suốt đêm, càng hút càng tỉnh, càng đánh
càng chửi, càng hút..".
Giá trị hiện thực của truyện ngoài việc tái hiện đoạn đời khô ải của những người nô lệ còn nói lên một sự
thật xót xa: người dân bị áp bức, đè nén quá lâu sẽ bị tê liệt tinh thần phản kháng, sẽ bị đầu độc bởi tâm lí
nô lệ. Bạo lực cấu kết với thần quyền, với mê tín dị đoan làm cho họ không cất đầu dậy nổi.
Nhưng trong cuộc đời, mọi cái đều có giới hạn. Có áp bức, có đấu tranh Mị và A Phủ cũng như bao người
khác sẽ vùng lên tự giải phóng, giành quyền làm người tự do. Đoạn đời sau cùa vợ chồng A Phủ chứng
minh qua luật muôn đời ấy.
Trong giá trị hiện thực của tác phẩm đã ẩn chứa giá trị nhân đạo sâu xa. Có căm thù giai cấp thông trị và
xã hội bất công, tác giả mới lên tiếng tố cáo mãnh liệt. Có cảm thương số phận đau khổ của con người,
tác giả mới viết nên những trang sách gây xúc động mạnh mẽ như vậy.
Nhưng nhà văn không để nhân vật của mình bị dồn vào thế tuyệt vọng. Điều kì diệu là dẫu trong cùng cực
thế nào chăng nữa thì mọi thế lực tội ác cũng không hủy diệt được sức sống con người. Cách nhìn nhận
của Tô Hoài trong tác phẩm này hết sức nhân bản. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống âm thầm, tiềm
tàng, mãnh liệt. Từ trong sâu thẳm tâm hồn người con gái bị đọa đày kia vẫn âm ỉ, le lói một ngọn lửa yêu
đời, ham sống. Mùa xuân về, Mị lén uống rượu và “lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Tai Mị văng
vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng... Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những
đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ,Mị muốn đi chơi.. ”. Nhưng rồi thực tại đen tối đã cố tình
dập tắt tiếng sáo thiết tha và hình ảnh mùa xuân rực rỡ. Phản ứng tự phát ban đẩu của Mị không thể giải
phóng được cuộc đời có nhưng những giây phút trỗi dậy ấy có ý nghĩa thức tỉnh. Giống như đốm lửa âm ỉ
trong đám tro than, có ngày sẽ bùng cháy dữ dội.


Ngày ấy đã đến với Mị trước cảnh A Phú bị trói, “Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm
trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống
cổ, không lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trời

đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này... Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết
đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi
ngày rũ xương ở đây thôi, người kia việc gì mà phải chết thế.. ".
Mị không cầm lòng được trước cảnh con người sắp bị hủy diệt. Mị động lòng thương, thương người,
thương thân, Mị nhớ đến những khổ sở, hãi hung mà mình đã phải chịu đựng suốt mấy năm qua. Giọt
nước mắt đau khổ của A Phủ như giọt nước làm tràn bình nước đã đầy. Nó thức tỉnh nỗi đau lắng chìm
trong lòng Mị. Cảm thương số phận A Phủ, lòng căm thù cha con tên thống lí độc ác bùng lên, lấn át nỗi
sợ hãi, dẫn Mị đến hành động táo bạo ngoài ý thức: Cắt dây trói cứu A Phủ.
Đây là hành động bộc phát song nó là kết quả tất yếu của một quá trình dồn nén, bức xúc về mặt tinh
thần, bây giờ đã đến lúc giải thoát. Mị cắt dây trói cho A Phủ cũng là cắt đứt những dây trói vô hình đã
cột chặt cô vào quãng đời tủi nhục bấy lâu nay. Cô vụt chạy theo A Phủ bởi cô ý thức được sự sống còn
của minh: “Ở đây thì chết mất". Mị đã chạy theo tiếng gọi mãnh liệt của tự do, giải phóng mình ra khỏi
nanh vuốt cha con tên thống lí.
Hai con người cùng cảnh ngộ đã “lẳng lặng díu nhau lao chạy xuống núi” bỏ thật xa cái địa ngục giam
cầm, đày đọa họ mấy năm trời. Từ trong chết, họ vùng dậy tìm lẽ sống, làm lại cuộc đời.
Chạy trốn khỏi Hồng Ngài, thoát khỏi ách áp bức của thống lí Pá Tra. Vợ chồng A Phủ lại gặp phải kẻ thù
mới không kém phần nguy hiểm là giặc Pháp. Chúng là lũ cướp nước đồng thời cướp cả mọi thứ và
quyền tự do sống làm người, chẳng khác gì bọn cường hào ác bá miền núi.
Chúng càn lên núi cao, đốt nhà, cướp của, bắt người. A Phủ bị chúng cướp mất đôi heo, bị đánh, bị đi phu
khiêng đá xây đồng... A Phủ căm thù, chửi bới giặc Pháp và đã nhận thức được rằng mình là người tự do,
của cải bị chúng cướp đi là mồ hôi, nước mắt cùa mình. Phải nhớ lấy để mà trả thù.
Sống ở Phiềng Sa, vợ chồng A Phủ mới thực sự được làm người. Họ được cán bộ A Châu giác ngộ cách
mạng, từ một chàng trai nghèo khổ, nô lệ, A Phủ đã trở thành một du kích dũng cảm, tự tin. Anh thực sự
trở thành chỗ dựa tinh thần của Mị. Sống bên A Phủ, Mị dần dần hết lo sợ, cô vững tin vào cuộc sống mới
vào kháng chiến. Được đứng lên đánh lại kẻ thù áp bức mình trong tư cách mình là con người, ý thức ấy
mới thực sự có ý nghĩa nhân đạo.
Quá trình giác ngộ cách mạng cùa vợ chồng A Phủ tiêu biểu cho con đường đến với Đảng, với cách mạng
của đồng bào các dân tộc ít người ở miền núi ta. Qua tác phẩm, nhà văn gián tiếp khẳng định chỉ có cách
mạng mới phóng con người ra khói ách áp bức, bất công, giúp con người vươn tới cuộc tự do, hạnh phúc,
cuộc sống làm người. Tô Hoài khi tái hiện bức tranh hiện thực với những bản chất của nó không thể

không miêu tả quá trình vận động, quy luật của cuộc sống. Đấy là giá trị nhân đạo sâu xa của tác phẩm.
Qua việc miêu tả sô phận của hai nhân vật Mị và A Phủ, nhà văn đã sống lại trước mắt người đọc cả
quãng đời tăm tối, cơ cực của người dân miền núi dưới ách thống trị dã man của bọn quan lại, chúa đất
phong kiến. Đồng thời khẳng định chỉ có sự vùng dậy của bản thân theo dẫn dắt của cách mạng giải
phóng được con người ra khỏi kiếp ngựa trâu, nô lệ. Đó chính là giá trị hiện thực và nhân đạo to lớn của
tác phẩm. Giá trị này giúp truyện đứng vững trước thử thách của thời gian và vẫn được nhiều thế hệ bạn
đọc yêu thích.
Xem thêm: Video bài giảng môn Văn học
>>>>> Luyện thi ĐH-THPT Quốc Gia 2016 bám sát cấu trúc Bộ GD&ĐT bởi các Thầy Cô uy tín,
nổi tiếng đến từ các trung tâm Luyện thi ĐH hàng đầu Hà Nội, các Trường THPT Chuyên và Trường Đại
học.



×