Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Tư tưởng đất nước của nhân dân được biểu hiện như thế nào trong đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm_bài 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.96 KB, 2 trang )

I – Mở bài\\\\r\\\\n1971, chiến trường Bình Trị Thiên hừng hực
bão lửa của bom đạn, chiến tranh báo hiệu của một mùa hè 1972
đỏ lửa. Trong không khí sôi sục của thời đại đánh Mỹ trường ca
Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm đã nung nấu và ra
đời nó thểhiện những suy ngẫm, những nhận thức vừa rất mới mẻ
vừa rất thực tiễn đối với đất nước, nhân dân mình
Chương V – ta quen gọi nó là bài thơ Đất Nước – có lẽ là chương hay nhất. Nó là nhận thức chín mùi của
thế hệ trẻ Việt Nam về “Đất nước”. Nó là điểm tựa để họ xây dựng vai trò vị trí của mình trong cuộc đấu
tranh vĩ đại chung của dân tộc
II – Thân bàiĐiều dễ nhận thấy đầu tiên là tác giả nhìn đất nước ở tầm gần vậy mà khuôn mặt đất nước rất
gần gũi thân quen. Nó bình dân, lam lũ nhưng không kém phần cao cả. Cả nhà thơ đâu đó nói về Đất
Nước dường như đồng nhất cảm xúc nói tới quê hương mình, Hoàng Cầm bao lần thốt lên trìu mến :
“Quê hương ta lúa nếp thơm nồng; ruộng ta khô; nhà ta cháy; quê hương ta từ ngày khủng khiếp”.
Nguyễn Đình Thi và Tố Hữu nhìn đất nước trong không gian Việt Bắc. Có những câu thơ quan tâm đến
nét hoành tráng, kì vĩ của đất nước:Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi !Rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt(Tố
Hữu)Hoặc Nguyễn Đình Thi:Nước Việt Nam từ máu lửaRũ bùn đứng dậy sáng loà.Thế nhưng Nguyễn
Khoa Điềm lại nói chuyện với người yêu của mình bằng giọng tâm tình thủ thỉ:Khi ta lớn lên….đánh
giặc.Nhà thơ đã nhìn Đất nước theo quan hệ ruộ rà thân thiết ta gặp mẹ cha ta, bà mình, dân mình, ta gặp
những câu chuyệ cổ tích, nhìn phong tục ăn trầu của bà, nhìn những bờ tre và sự yêu thương nhau bằng
“gừng cay muối mặn”, thậm chí: “cái cột, cái kèo, hạt gạo…” tất cả đó là Đất nước. Vậy là, những giá trị
truyền thống về văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần đã có từ ngày xửa ngày xưa khởi đầu của nó vẫn duy
trì đến bây giờ.“Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”, nghe qua rất vô lí nhưng ngẫm suy thì
nó lại nói lên được đặc trưng văn hoá nước Việt có thể nói là văn hoá trầu cau. Nó đã có một câu chuyện
cổ tích, là phong tục được vị vua tổ Hùng Vương ban truyền, nó là vật để người ta giao đãi tình cảm…
Miếng trầu là biểu tượng đặc trưng nhất của văn hoá trọng nghĩa, trọng tình của người Việt. Có cách nhìn
về Đất nước như vậy nên tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến tình cảm, ân nghĩa, thuỷ chung. Hình ảnh “cha
mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, câu thơ biết quí công “cầm vàng lặn lội” muốn nói chính là
chữ tình sâu thẳm của người Việt.Sau khi trả lời câu hỏi Đất nước có tự bao giờ Nguyễn Khoa Điềm
muốn giả quyết câu hỏi thứ hai Đất nước là gì? Bằng cách đưa ra định nghĩa với mẫu câu: “Đất nước là
nơi” – tác giả quan tâm đến cái bình dị không gian Đất nước, người đọc rất ngỡ ngàng và cảm thấy rất thi
vị khi Nguyễn Khoa Điềm không ngần ngại nói Đất nước là những chuyện thầm kín, riêng tư bài ca Đất


nước là của chúng mình.Đất là nơi… em tắm.Thành tố âm dương ấy hợp lại đã trở thành:Đất nước… hò
hẹn.Và một áng văn tương tự đã bay qua nỗi nhớ để dịnh nghĩa Đất nước đầy e ấp và tình tứ:Đất nước…
nhớ thầm.Chỉ có hai thành tố là đất và nước thế nhưng mỗi lúc tháo rời nó ra, nó dẫn ta vào mê cung
huyền bí, vừa thân thuộc, vừa lạ lẫm vô tận y như một đứa trẻ cứ tháo ra rồi lắp lại mà vẫn chưa hết nỗi
đam mê, nhà thơ của chúng ta cũng hồn nhiên làm cái điều ngộ nghĩnh ấy để cho thoả cái điều mình
muốn nói. Càng suy ngẫm đầy trách nhiệm đầy tư duy sắc sảo, đầy khám phá mới mẻ gây hứng thú cho
người đọc. Định nghĩa Đất nước tác giả quan tâm đến không gian văn hóa nhưng cũng không quên cái
thời gian văn háo đã làm nên một lịch sử dài đằng đẵng của cha ông. Lịch sử ấy gắn bó với địa danh, địa
lí cụ thể những chi tiết rất đời thường bình dị đã cát lên thành lời thơ đầy xao xuyến tâm linh con người
Việt Nam.Những ai đã khuất…Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.Hai tiấng “cúi đầu” đã gợi lên ấn tượng
sâu đậm trong văn hoá tâm linh người Việt, đó là sự thầm kín, ngưỡng vọng thiêng liêng đối với cội
nguồn, đối với sức mạnh tinh thần cưu mang và chở che con cháu của Tổ: Chính là cộng đồng từ bọc
trứng Âu Cơ, là dân tộc là đất nước, nó là dòng họ gia đình, sợi khói nhang trên bàn thờ gia tiên có năng
lực đánh thức tâm linh người Việt hơn tất cả. Nói về 4.000 năm lịch sử của cha ông chúng ta Chế Lan
Viên rất tự hào với nữhng anh hùng, với những người con ưu tú của dân tộc.Hỡi dân tộc tiếng hát 4.000
nămTổ quốc bao giừo đẹp thế này chăng? (…)Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặcNguyễn Du viết
Kiều đất nước hoá thành vănKhi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa BắcHưng Đạo diệt quân Nguyên trên
sóng Bạch Đằng.Riêng Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ muốn nói nhiều hơn về:Có biết bao người con gái
con trai…..Nhưng họ đã làm ra đất nước.Vậy là sau khi giải đáp hai câu hỏi: Đất nước bắt nguồn từ đâu?


Đất nước là gì? Nguyễn Khoa Điềm đã đi vào phần hạt nhân của bài thơ: Ai đã làm ra Đất nước? tương tự
như nói về địa danh, địa lí, nàh thưo không ca ngợi cái đẹp, cái trù phú như Hoàng Cầm:Quê hương ta lúa
nếp thơm nồng…ở Nguyễn Đình Thi:Những cánh đồng thơm mát…Nguyễn Khao Điềm chú ý nhiều đen
snhững miền đất, những thắng cảnh mà tên gọi của chúng rát nôm na đậm đà chúng nói với ta nhiều điều
vê cuộc sống cần lao:Những người vợ nhớ chồng…Ông Trang, bà Đen, bà Điểm.Tiếp theo là những câu
thơ có tầm khái quát:Và ở đâu… núi sông ta.Với cách dẫn dắt câu chuyện như vậy, nhà thơ đã phát biểu
trực tiếp tư tưởng “Đất nước của Nhân dân”.Nhân dân đông đảo, nhân dân bao dung làm nên dáng vẻ,
tầm vóc của đất nước. Họ là những người chân đất sáng suốt đã đúc kết những triết lý cao cả mà ta hằng
tâm niệm mà ta thuộc về nhân dân nên ca ngợi dất nước có quyền nói về đời riêng của mình. Hàng loại

các đại từ họ đã nói lên vai trò của nhân dân. Những người sáng tạo văn hoá vật chất và tinh thần : “Họ
giữ, họ truyền lửa, họ truyền giọng điệu, họ gánh theo, họ đắp đập”. Hàng loạt những từ “giữ” và
“truyền” rồi “gánh, đắp đập, be bờ” đã tạo nên độ dày của bề mặt văn hoá , đã nổi lên hình tượng nhân
dân sáng tạo ra đất nước bằng cuộc lao động lớn, một cuộc chạy tiếp sức để lưu truyền mãi ngọn lửa văn
hoá qua các thế hệ. Các nhà thơ khác nhau thời kháng chiến chống Mỹ có khuynh hướng ca tụng đất nước
ở tầm vóc quốc tếTa vì ta ba chục triệu ngườiCũng vì ba ngàn triệu trên đờiVui gì hơn làm người lính đi
đầuTrong đêm tối ta làm ngọn lửa(Tố Hữu)Tư tưởng đất nước của nhân dân được rất nhiều nhà thơ nói
tới. Tuy nhiên các tư tưởng không phải lạ lẫm gì này được Nguyễn Khoa Điềm nói bằng tất cả sự trải
nghiệm và xúc động thật sự của chính mình. Ông đã đưa vốn trí thức về văn hoá dân gian cộng với suy
ngẫm nghiêm túc tạo cho bài thơ vừa thuyết phục lí trí lại da diết trữ tình. Đất nước này chính là của nhân
dân, trong nhân dân có anh và em vì thế tác giả nghiêm trang đề nghị:Em ơi em…muôn đờiRất tự nhiên
không hề bị lên gân giả tạo, văn hoá trọng chữ tình sẽ là lối cư xử uống nước nhớ nguồn
III – KẾT LUẬNChưa bao giờ thơ ca Việt Nam lại nở rộ những vần thơ đất nước như thời chống MỹĐất
nước của những người con gái con traiĐẹp như hoa hồng, cứng hơn sắt thépKhi xa nhau không hề rơi
nước mắtNước mắt dành cho ngày gặp mặt(Nam Hà)Đó là đất nước của những đoàn quân:Quân đến,
quân đi cỏ tranh ùa giá rétDãy Trường Sơn trùng điệp những sư đoàn(Bằng Việt)Và :Đất nước tôi thon
thả giọt đàn bầuNghe nặng nỗi đau của mẹBa lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ(Tạ Hữu Yên)Do
có đóng góp riêng rất độc đáo, Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm đã chinh phục được lòng độc giả từ khi
nó ra đời. Và nó có lẽ sẽ chịu đựng được những thử thách của thời gian. Chúng ta ai chẳng có một tình
yêu Tổ Quốc và có lúc ta phải thốt lên lời của Nguyễn Khoa ĐiểmMọi tin yêu ngay thẳng gọi ta vàoTa
ngã vào người đất nước Việt Nam ơi !
loigiaihay.com
Xem thêm: Video bài giảng môn Văn học
>>>>> Luyện thi ĐH-THPT Quốc Gia 2016 bám sát cấu trúc Bộ GD&ĐT bởi các Thầy Cô uy tín,
nổi tiếng đến từ các trung tâm Luyện thi ĐH hàng đầu Hà Nội, các Trường THPT Chuyên và Trường Đại
học.




×