TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
(NIÊN KHÓA: 2010 - 2014)
Đề tài:
CHẾ ĐỊNH
MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Giảng viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
TS. Phạm Văn Beo
Võ Thị Hồng Ngân
Bộ môn Luật Tư pháp
MSSV: 5106071
Lớp: Luật Thương mại 2 - K36
Cần Thơ, tháng 11 năm 2013
LVTN: Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam
Lời cảm ơn
Lời đầu tiên người viết xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến quý
thầy cô Khoa Luật - Trường Đại học Cần Thơ đã tận tình truyền đạt
những nền tảng kiến thức quý báu góp phần để người viết hoàn thành
luận văn này. Và hơn hết, người viết xin gửi lời cảm ơn chân thành
đến thầy Phạm Văn Beo, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ người
viết trong suốt quá trình làm luận văn. Bên cạnh đó, người viết cũng
xin cảm ơn các tác giả của những bài viết, giáo trình, sách, báo, tạp chí
chuyên ngành mà người viết đã sử dụng làm tài liệu trong quá trình
nghiên cứu.
Với điều kiện thời gian cho phép, khả năng nghiên cứu và
kinh nghiệm thực tế còn hạn chế, mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng
cuốn luận văn sẽ không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tuy
nhiên, với sự nghiên cứu nghiêm túc, lòng đam mê tìm tòi, người viết
hy vọng luận văn sẽ đóng góp một phần nhỏ vào sự phát triển chung
của nền khoa học pháp lý. Rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo tận
tình của quý thầy cô và đọc giả quan tâm đến đề tài này để người viết
có thể hoàn thiện hơn luận văn tốt nghiệp của mình.
Người viết xin chân thành cảm ơn!
Cần Thơ, ngày 25 tháng 11 năm 2013
Tác giả
Võ Thị Hồng Ngân
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
SVTH: Võ Thị Hồng Ngân
LVTN: Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
Cần Thơ, ngày …… tháng …… năm 2013
LVTN: Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG PHẢN BIỆN
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
Cần Thơ, ngày …… tháng …… năm 2013
LVTN: Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật Hình sự
BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự
CQĐT: Cơ quan điều tra
MTNHS: Miễn trách nhiệm hình sự
NCTN: Người chưa thành niên
TAND: Tòa án nhân dân
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
TNHS: Trách nhiệm hình sự
VKS: Viện kiểm sát
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
LVTN: Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................. 1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ....................................................................... 2
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài ........................................................................ 3
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài ...................................................................... 3
5. Kết cấu của đề tài ............................................................................................. 4
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ MIỄN TRÁCH
NHIỆM HÌNH SỰ ................................................................................................ 5
1.1. Khái quát về miễn trách nhiệm hình sự ..................................................... 5
1.1.1. Khái niệm về trách nhiệm hình sự ......................................................... 5
1.1.2. Khái niệm về miễn trách nhiệm hình sự ................................................ 6
1.1.3. Bản chất pháp lý của miễn trách nhiệm hình sự ................................... 8
1.1.4. Các đặc điểm cơ bản của miễn trách nhiệm hình sự ............................. 9
1.2. Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự với miễn hình phạt ........................ 11
1.2.1. Vài nét về miễn hình phạt .................................................................... 11
1.2.2. Những điểm giống nhau giữa miễn trách nhiệm hình sự với miễn hình
phạt ................................................................................................................ 13
1.2.3. Những điểm khác nhau giữa miễn trách nhiệm hình sự với miễn hình
phạt ................................................................................................................ 14
1.3. Lược sử về miễn trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam
.................................................................................. Error! Bookmark not defined.
1.3.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 ............................. 16
1.3.2. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến khi ban hành
Bộ luật Hình sự năm 1985 ............................................................................. 17
1.3.3. Giai đoạn từ sau năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự
năm 1999 ....................................................................................................... 23
1.3.4. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999 đến nay .......... 25
1.4. Ý nghĩa của việc quy định những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự
trong Luật hình sự Việt Nam ............................................................................ 26
LVTN: Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam
1.4.1. Trên phương diện chính trị - xã hội..................................................... 27
1.4.2. Trên phương diện pháp lý .................................................................... 27
1.4.3. Trên phương diện nhân đạo và bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực
tư pháp hình sự .............................................................................................. 28
1.4.4. Trên phương diện kỹ thuật lập pháp.................................................... 28
CHƯƠNG 2: MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM HIỆN HÀNH ................................................................................. 29
2.1. Những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của phần
chung Bộ luật Hình sự hiện hành ..................................................................... 29
2.1.1. Miễn trách nhiệm hình sự cho người tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội ......................................................................................................... 29
2.1.2. Miễn trách nhiệm hình sự do sự chuyển biến của tình hình mà hành vi
phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa ........... 34
2.1.3. Miễn trách nhiệm hình sự do sự ăn năn hối cải của người phạm tội .. 37
2.1.4. Miễn trách nhiệm hình sự khi có quyết định đại xá............................. 40
2.1.5. Miễn trách nhiệm hình sự cho người chưa thành niên phạm tội ........ 43
2.2. Những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của phần
các tội phạm Bộ luật Hình sự hiện hành .......................................................... 47
2.2.1. Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội gián điệp.................... 47
2.2.2. Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội đưa hối lộ .................. 49
2.2.3. Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội làm môi giới hối lộ .... 51
2.2.4. Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội không tố giác tội phạm
....................................................................................................................... 53
CHƯƠNG 3: NHỮNG BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CỦA CHẾ ĐỊNH MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH ........................................................................... 57
3.1. Một số bất cập về miễn trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt
Nam hiện hành.................................................................................................... 57
3.2. Một số bất cập trong thực tiễn áp dụng chế định miễn trách nhiệm hình
sự .......................................................................................................................... 61
3.3. Những giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng chế định
miễn trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam hiện hành ............. 75
LVTN: Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam
3.3.1. Những giải pháp nhằm hoàn thiện quy định về miễn trách nhiệm hình
sự trong Luật hình sự Việt Nam hiện hành .................................................... 75
3.3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng chế định miễn
trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam hiện hành ....................... 79
3.3.2.1. Giải pháp tăng cường hướng dẫn, giải thích những quy định của
Bộ luật Hình sự hiện hành về chế định miễn trách nhiệm hình sự ......... 79
3.3.2.2. Giải pháp nâng cao ý thức pháp luật, trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ và ý thức trách nhiệm của người có thẩm quyền quyết định
việc áp dụng miễn trách nhiệm hình sự .................................................. 80
3.3.2.3. Giải pháp tăng cường vai trò của Viện kiểm sát trong việc kiểm
tra, giám sát án đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án do miễn trách nhiệm
hình sự ..................................................................................................... 80
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO
LVTN: Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật hình sự là công cụ hữu hiệu của Nhà nước trong việc quản lý xã
hội, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, góp phần quan trọng trong việc
giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
của các tổ chức và công dân. Theo quy định của Luật hình sự, một người chỉ có
thể phải chịu TNHS khi có đầy đủ cơ sở và những điều kiện của TNHS đối với
tội phạm được thực hiện. Tuy nhiên, việc truy cứu TNHS và xử phạt mặc dù rất
quan trọng trong việc bảo vệ pháp chế, củng cố trật tự pháp luật, song không phải
là biện pháp duy nhất mà đòi hỏi ngày càng mở rộng các biện pháp tác động khác
để đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm1. Bởi lẽ, trong bất kỳ một Nhà nước
pháp quyền đích thực nào, các quy định của pháp luật hình sự bên cạnh mục đích
đấu tranh phòng và chống tội phạm còn phải thực hiện tốt nguyên tắc nhân đạo.
Vì thế, trong một số trường hợp, khi có đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện
nhất định hoặc nếu xét thấy không cần thiết phải truy cứu TNHS thì một người
đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Luật hình sự cấm vẫn có thể
không phải chịu TNHS hoặc được MTNHS2. Có thể nói, MTNHS là một trong
những chế định không chỉ thể hiện chính sách phân hóa TNHS mà còn phản ánh
rõ nét nhất nguyên tắc nhân đạo của Nhà nước ta đối với người phạm tội, thể
hiện sự kết hợp hài hòa giữa “nghiêm trị kết hợp với khoan hồng”, “trừng trị kết
hợp với giáo dục, thuyết phục, cải tạo”, nhằm động viên, khuyến khích người
phạm tội lập công chuộc tội, nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng và trở thành
người có ích cho xã hội.
BLHS năm 1999 đã kế thừa và phát triển BLHS năm 1985, là bước phát
triển mới trong việc giải quyết vấn đề MTNHS. Nhiều quy phạm của chế định
MTNHS đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Thời gian qua cũng
đã có nhiều công trình nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến chế định
MTNHS. Điển hình là một số công trình như: Lê Thị Sơn: Trách nhiệm hình sự
và miễn trách nhiệm hình sự, Tạp chí luật học, số 5, 1997; Nguyễn Ngọc Chí:
Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Khoa
học, số 4, 1997; Lê Cảm: Về các dạng miễn trách nhiệm hình sự được quy định
tại Điều 25 Bộ luật Hình sự năm 1999, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1, 2001;
Lê Thị Sơn: Trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự, Tạp chí luật học, số 5, 1997, tr.19.
Lê Cảm – Trịnh Tiến Việt: Về trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự, Tạp chí Khoa học Đại
học quốc gia Hà Nội, số 02, 2005, truy cập ngày 15/6/2013.
1
2
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
1
SVTH: Võ Thị Hồng Ngân
LVTN: Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam
Phạm Hồng Hải: Về chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự
năm 1999, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 12, 2001; Trịnh Tiến Việt: Một số
vấn đề lý luận - thực tiễn về miễn trách nhiệm hình sự, Tạp chí Nhà nước và pháp
luật, số 6, 2004; Lê Cảm - Trịnh Tiến Việt: Về trách nhiệm hình sự và miễn trách
nhiệm hình sự, Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà Nội, số 02, 3/2005; Trịnh
Tiến Việt: Miễn trách nhiệm hình sự theo Luật hình sự Việt Nam: Những vấn đề
lý luận và thực tiễn, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 11, 6/2006; Trịnh Tiến Việt: Về
những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự trong phần chung Bộ luật Hình sự
Việt Nam năm 1999, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1, năm 2007… Ngoài ra, chế
định này còn được đề cập trong một số giáo trình và sách tham khảo như: Võ
Khánh Vinh: Chương XVIII – Miễn trách nhiệm hình sự, Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam (Phần chung), Nxb. Giáo dục, 2001; Phạm Văn Beo: Giáo trình Luật
hình sự Việt Nam, Quyển 1 (Phần chung), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2010; Lê Cảm: Bình luận Khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2008; Nguyễn Đức Mai: Bình luận Khoa học Bộ luật Hình sự
năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 (Phần chung), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, năm 2012; v.v,... Tuy nhiên, cho đến nay, một số nội dung của chế định này
vẫn còn có nhiều quan điểm khác nhau cũng như còn nhiều vấn đề chưa được
làm sáng tỏ. Trong xu thế hội nhập cùng với sự phát triển trên các lĩnh vực kinh
tế, chính trị - xã hội của đất nước, nhiều vấn đề của luật hình sự nói chung và chế
định MTNHS nói riêng luôn vận động và phát triển đòi hỏi phải được tiếp tục
nghiên cứu, giải quyết. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cho thấy những quy
phạm của chế định này còn nhiều bất cập, một số quy định chưa chặt chẽ và
thống nhất về nội dung. Đặc biệt, trong thực tiễn đời sống xã hội và thực tiễn
pháp lý đang tồn tại một số trường hợp có thể áp dụng chế định MTNHS nhưng
lại chưa được các nhà làm luật Việt Nam ghi nhận và quy định trong BLHS.
Chính vì vậy, trước những đòi hỏi của công cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống
tội phạm, việc nghiên cứu về chế định MTNHS trong pháp luật hình sự Việt Nam
là vấn đề mang tính cấp thiết, có ý nghĩa về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp
dụng pháp luật. Từ những lý do trên, người viết đã quyết định chọn đề tài “Chế
định miễn trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam” cho luận văn tốt
nghiệp của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
2
SVTH: Võ Thị Hồng Ngân
LVTN: Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam
Trên cơ sở kế thừa những công trình nghiên cứu của các tác giả trên, cùng
với một số kiến thức nhất định đã được tích lũy trong quá trình học tập, cũng như
từ cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, người viết muốn làm sáng tỏ các quy
định của pháp luật về MTNHS, đồng thời cũng làm rõ những hạn chế, bất cập đã
gặp phải trong quá trình áp dụng chế định này. Từ đó, có thể đưa ra một số giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật đối với
chế định quan trọng này trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự, đảm bảo xử
lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan
người vô tội.
Với mục tiêu nghiên cứu như đã đề cập ở trên, luận văn tập trung vào việc
giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề về MTNHS, luận
văn đi sâu vào khai thác lịch sử hình thành và phát triển của chế định MTNHS
trong pháp hình sự Việt Nam; làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, bản chất pháp lý;
phân biệt MTNHS với miễn hình phạt; ý nghĩa của chế định MTNHS; phân tích
những quy định pháp luật về những trường hợp MTNHS trong BLHS hiện hành.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn nghiên cứu việc áp dụng các quy phạm pháp
luật của chế định MTNHS trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự ở nước ta.
Trên cơ sở đó, người viết đưa ra những thiếu sót, khuyết điểm và những vướng
mắc của việc áp dụng pháp luật hình sự liên quan đến chế định MTNHS. Qua đó,
đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm góp phần tạo sự nhận thức đúng đắn, toàn
diện khi áp dụng chế định này vào thực tiễn.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn nghiên cứu chế định MTNHS trong Luật hình sự Việt Nam. Cụ
thể nghiên cứu các vấn đề như: Khái niệm; đặc điểm; bản chất pháp lý; phân biệt
MTNHS với miễn hình phạt; lịch sử hình thành và phát triển của chế định
MTNHS; ý nghĩa của chế định MTNHS; phân tích những quy định pháp luật về
những trường hợp MTNHS trong BLHS hiện hành. Luận văn cũng đi vào đánh
giá, nhận xét về thực tiễn việc áp dụng pháp luật về MTNHS. Thông qua đó,
người viết có những giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng
cao hiệu quả việc áp dụng các quy định pháp luật về chế định này.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong luận văn, người viết đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
như: phương pháp lịch sử, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê,
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
3
SVTH: Võ Thị Hồng Ngân
LVTN: Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam
phương pháp so sánh; phương pháp sắp xếp, chọn lọc các nguồn tài liệu có liên
quan đến đề tài từ giáo trình, sách, báo, tạp chí, internet,... Bên cạnh đó, người
viết còn sử dụng phương pháp phân tích luật viết, phương pháp đối chiếu giữa
quy định của luật thực định và thực tiễn áp dụng các quy định đó. Thông qua đó
làm sáng tỏ những hạn chế, thiếu sót của luật thực định, cũng như những vướng
mắc, bất cập khi áp dụng các quy định đó vào thực tiễn. Từ đó đề ra một số kiến
nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng chế định MTNHS trong thời
gian tới.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về miễn trách nhiệm hình sự.
Chương 2: Miễn trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam
hiện hành.
Chương 3: Những bất cập và giải pháp nâng cao hiệu quả của chế
định miễn trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam hiện hành.
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
4
SVTH: Võ Thị Hồng Ngân
LVTN: Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
1.1. Khái quát về miễn trách nhiệm hình sự
1.1.1. Khái niệm về trách nhiệm hình sự
Là một trong những chế định cơ bản của Luật hình sự, TNHS có quan hệ
chặt chẽ và gắn liền với chế định MTNHS. Bởi lẽ, khái niệm, cơ sở và nội dung
của MTNHS xuất phát từ khái niệm, cơ sở và nội dung của TNHS. Vì vậy, để tìm
hiểu khái niệm, bản chất pháp lý và những đặc điểm cơ bản của MTNHS, thì
trước hết phải xem xét khái niệm TNHS và những nội dung liên quan đến vấn đề
này.
TNHS là một trong những vấn đề lý luận phức tạp trong khoa học Luật
hình sự. Việc nghiên cứu và giải quyết vấn đề TNHS có ý nghĩa rất quan trọng về
chính trị - xã hội cũng như pháp lý, về lý luận cũng như thực tiễn. Bởi vì, nhiều
vấn đề như cơ sở và điều kiện của TNHS, thời hiệu truy cứu TNHS, MTNHS,
v.v.... có liên quan chặt chẽ đến TNHS. Tuy nhiên, trong các BLHS Việt Nam
đều không quy định khái niệm TNHS. Còn dưới góc độ khoa học Luật hình sự
thì giữa các nhà luật học Việt Nam vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Theo
GS. TSKH Lê Cảm: “Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện
tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng đối với người phạm tội một hoặc
nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Luật hình sự quy định”3. Theo GS.
TSKH Đào Trí Úc: “Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc phạm tội,
thể hiện ở chỗ người đã gây ra tội phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình
trước Nhà nước”4. GS. TS Đỗ Ngọc Quang thì định nghĩa: “Trách nhiệm hình sự
là một dạng trách nhiệm pháp lý, là trách nhiệm của người khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội được quy định trong pháp luật hình sự bằng một hậu quả
bất lợi do Tòa án áp dụng tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành
vi mà người đó đã thực hiện”5. Còn PGS. TS Nguyễn Ngọc Hòa và TS. Lê Thị
Sơn định nghĩa: “Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý bao
gồm nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự,
Lê Cảm: Những vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm hình sự (Chuyên khảo thứ hai), Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội, 2000, tr.122.
4
Đào Trí Úc (Chủ biên): Mô hình lý luận về BLHS Việt Nam (Phần chung), Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1993, tr.41.
5
Đỗ Ngọc Quang: Tìm hiểu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về tham nhũng trong Luật hình sự
Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,1997, tr.14.
3
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
5
SVTH: Võ Thị Hồng Ngân
LVTN: Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam
chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt,
biện pháp tư pháp) và chịu mang án tích”6.
Từ cơ sở nghiên cứu khái niệm và một số quan điểm khác nhau về TNHS,
dưới góc độ khoa học Luật hình sự, có thể định nghĩa khái niệm TNHS như sau:
Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý, buộc người phạm tội
phải gánh chịu những hậu quả bất lợi về hành vi phạm tội của mình, được thể
hiện bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của
Nhà nước do luật hình sự quy định đối với người phạm tội.
Nói tóm lại, TNHS là một dạng của trách nhiệm pháp lý, là biện pháp
cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước được áp dụng đối với người đã thực hiện
hành vi phạm tội do pháp luật hình sự quy định. Một người có hành vi bị pháp
luật hình sự cấm hoặc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng những gì pháp
luật yêu cầu, gây ra hoặc đe dọa gây ra cho xã hội bị cho là tội phạm thì phải
gánh chịu hậu quả, đó chính là trách nhiệm pháp lý bất kỳ trước Nhà nước và xã
hội7. Việc quy định như vậy nhằm giúp Nhà nước bảo vệ các quan hệ xã hội
trước những hành vi nguy hiểm, đồng thời thể hiện sự lên án của Nhà nước đối
với các hành vi phạm tội. Mức độ lên án của Nhà nước đối với người phạm tội
thể hiện ở mức độ khác nhau của TNHS mà Tòa án quyết định đối với người
phạm tội.
1.1.2. Khái niệm về miễn trách nhiệm hình sự
TNHS là hậu quả pháp lý mà bản thân người phạm tội phải gánh chịu
trước Nhà nước do việc thực hiện hành vi phạm tội. Nhà nước có quyền áp dụng
chế tài hình sự đối với người phạm tội. Hậu quả là người phạm tội bị áp dụng các
biện pháp cưỡng chế như hình phạt, biện pháp tư pháp, v.v… của Luật hình sự.
Tuy nhiên, trên thực tế, không phải tất cả các tội phạm và các trường hợp phạm
tội đều giống nhau. Theo quy định của Luật hình sự, một người chỉ có
thể phải chịu TNHS khi có đầy đủ cơ sở và những điều kiện của TNHS đối với
tội phạm được thực hiện. Để công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm đạt
hiệu quả cao, cùng với việc phân loại tội phạm, Luật hình sự Việt Nam cũng
đồng thời phân hóa các trường hợp phạm tội, các đối tượng phạm tội khác nhau
để có đường lối xử lý phù hợp, nhanh chóng, chính xác và công bằng. Đặc biệt,
sự phân hóa các trường hợp phạm tội và người phạm tội còn thể hiện ở chỗ
Nguyễn Ngọc Hòa và Lê Thị Sơn (1999): “Thuật ngữ Luật hình sự”, Trong sách: Từ điển giải thích thuật
ngữ Luật học, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.126.
7
Phạm Văn Beo: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Quyển 1 (Phần chung), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2010, tr.316.
6
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
6
SVTH: Võ Thị Hồng Ngân
LVTN: Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam
không phải tất cả các trường hợp phạm tội hay tất cả những người phạm tội đều
bị truy cứu TNHS. Và trên thực tế vẫn có một số trường hợp mặc dù có đầy đủ
cơ sở và những điều kiện của TNHS nhưng khi có căn cứ và những điều kiện
nhất định, thì một người đã phạm tội có thể bị truy cứu TNHS, có thể không phải
chịu TNHS hoặc cũng có thể được MTNHS. Đó là một số trường hợp mà khi có
đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện nhất định, nếu xét thấy không cần thiết
phải truy cứu TNHS, thì một người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
mà Luật hình sự cấm vẫn có thể không phải chịu TNHS hoặc cũng có thể được
MTNHS8.
MTNHS là một trong những chế định quan trọng của Luật hình sự Việt
Nam, thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước ta đối với người phạm tội và
hành vi do họ thực hiện, đồng thời nhằm động viên, khuyến khích họ lập công
chuộc tội, chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo nhanh chóng, hòa nhập với cộng
đồng và trở thành người có ích cho xã hội9. Tuy nhiên, cũng giống như chế định
TNHS, các nhà làm luật vẫn chưa ghi nhận khái niệm MTNHS. Vì thế, xoay
quanh vấn đề này cũng tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Qua tìm hiểu pháp
luật hình sự, dưới góc độ khoa học Luật hình sự Việt Nam, các nhà luật học Việt
Nam có các quan điểm như sau:
Theo GS. TSKH Lê Cảm: “Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định
nhân đạo của Luật hình sự Việt Nam và được thể hiện bằng việc xóa bỏ hậu quả
pháp lý của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị Luật hình sự cấm đối
với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó”10.
Theo GS. TSKH Đào Trí Úc: “Miễn trách nhiệm hình sự có nghĩa là miễn
những hậu quả pháp lý đối với một tội phạm do pháp luật quy định”11.
PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí định nghĩa: “Miễn trách nhiệm hình sự là
miễn kết tội cũng như áp dụng hình phạt đối với người thực hiện tội phạm và do
vậy họ không bị coi là có tội. Nói cách khác, miễn trách nhiệm hình sự là miễn
những hậu quả pháp lý đối với người phạm tội do pháp luật hình sự quy định”12.
Lê Cảm - Trịnh Tiến Việt: Về trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự, Tạp chí Khoa học Đại
học quốc gia Hà Nội, số 02, 3/2005.
9
Trịnh Tiến Việt: Về những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự trong phần chung BLHS Việt Nam năm
1999, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1, 1/2007, tr.9.
10
Lê Cảm: Về các dạng miễn trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 25 BLHS năm 1999, Tạp chí
Tòa án nhân dân, số 1, 2001, tr.7.
11
Đào Trí Úc (Chủ biên): Mô hình lý luận về BLHS Việt Nam (Phần chung), Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1993, tr.269.
12
Nguyễn Ngọc Chí: Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Khoa học,
số 4, 1997, tr.14.
8
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
7
SVTH: Võ Thị Hồng Ngân
LVTN: Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam
Theo TS. Lê Thị Sơn: “Miễn trách nhiệm hình sự là miễn truy cứu và
đương nhiên kéo theo cả miễn phải chịu các hậu quả tiếp theo do việc thực hiện
trách nhiệm hình sự từ phía Nhà nước đem lại như: miễn bị kết tội, miễn phải
chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự và miễn bị mang án tích. Trên
thực tế có thể có trường hợp người phạm tội được Tòa án miễn trách nhiệm hình
sự trong giai đoạn xét xử. Trong trường hợp này miễn trách nhiệm hình sự chỉ
bao gồm miễn chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự và miễn mang
án tích”13.
Một số quan điểm khác định nghĩa rằng: “Miễn trách nhiệm hình sự là
không buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mà người đó đã
phạm”14; “Miễn trách nhiệm hình sự là không truy cứu trách nhiệm hình sự một
người về việc đã thực hiện một tội phạm được quy định trong luật hình sự, thể
hiện trong một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”15; hay “Miễn
trách nhiệm hình sự là không buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội mà người đó đã thực hiện”16.
Như vậy, trên cơ sở thống nhất các quan điểm đã nêu trên, cùng với việc
phân tích những quy định của pháp luật có liên quan, dưới góc độ khoa học Luật
hình sự có thể đưa ra khái niệm MTNHS như sau: Miễn trách nhiệm hình sự là
việc cơ quan tiến hành tố tụng không buộc một người phải gánh chịu hậu quả
pháp lý bất lợi do việc người đó đã thực hiện hành vi phạm tội.
1.1.3. Bản chất pháp lý của miễn trách nhiệm hình sự
Trên cơ sở phân tích khái niệm của chế định MTNHS có thể rút ra bản
chất pháp lý của chế định này như sau: MTNHS là một chế định nhân đạo của
Luật hình sự Việt Nam và thể hiện ở chỗ - tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng hình
sự tương ứng cụ thể, cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền hủy bỏ hậu quả
pháp lý của việc thực hiện tội phạm cho người phạm tội khi có căn cứ và những
điều kiện nhất định được ghi nhận trong pháp luật hình sự17. Tức là, các cơ quan
tư pháp hình sự có thẩm quyền, căn cứ vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng
để không áp dụng đối với người phạm tội biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc về
Lê Thị Sơn: Trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự, Tạp chí Luật học, số 5, 1997, tr.19.
Trương Quang Vinh: Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (tập I), Trường Đại hoc Luật Hà Nội, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội, 2006, tr.213.
15
Kiều Đình Thụ: Tìm hiểu Luật hình sự Việt Nam, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1996, tr.238.
16
Võ Khánh Vinh: Chương XVIII – Miễn trách nhiệm hình sự, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần
chung), Nxb. Giáo dục, 2001, tr.389.
17
Lê Cảm: Về bản chất pháp lý của các khái niệm: Miễn trách nhiệm hình sự, truy cứu trách nhiệm hình
sự, không phải chịu trách nhiệm hình sự và loại trừ trách nhiệm hình sự, Tạp chí Kiểm sát, Số Xuân,
1/2002, tr.17.
13
14
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
8
SVTH: Võ Thị Hồng Ngân
LVTN: Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam
hình sự khi có đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện được quy định trong
pháp luật hình sự (hay nói khác hơn là MTNHS cho người phạm tội).
Căn cứ và những điều kiện nói trên đều được BLHS hiện hành quy định cụ
thể trong chín trường hợp tương ứng sau đây: 1) MTNHS cho người tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội (Điều 19 BLHS); 2) MTNHS sự do sự chuyển
biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy
hiểm cho xã hội nữa (khoản 1 Điều 25 BLHS); 3) MTNHS do sự ăn năn hối cải
của người phạm tội (khoản 2 Điều 25 BLHS); 4) MTNHS khi có quyết định đại
xá (khoản 3 Điều 25 BLHS); 5) MTNHS cho người chưa thành niên phạm tội
(khoản 2 Điều 69 BLHS); 6) MTNHS cho người phạm tội gián điệp (khoản 3
Điều 80 BLHS); 7) MTNHS cho người phạm tội đưa hối lộ (đoạn 2 khoản 6
Điều 289 BLHS); 8) MTNHS cho người phạm tội làm môi giới hối lộ (khoản 6
Điều 290 BLHS); 9) MTNHS cho người phạm tội không tố giác tội phạm (khoản
3 Điều 314 BLHS).
1.1.4. Các đặc điểm cơ bản của miễn trách nhiệm hình sự
Trên cơ sở nghiên cứu khái niệm, bản chất pháp lý của chế định MTNHS
cũng như những quy định pháp luật có liên quan, có thể đút kết được một số đặc
điểm cơ bản của chế định này như sau:
Thứ nhất, MTNHS là một chế định quan trọng thể hiện nguyên tắc nhân
đạo trong chính sách hình sự nói chung, trong Luật hình sự Việt Nam nói riêng.
Bởi lẽ, việc áp dụng chế định này tạo cơ hội cho người phạm tội ăn năn, hối cải,
không buộc họ phải cách li khỏi cộng đồng, đảm bảo được yêu cầu giáo dục
người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội.
Thứ hai, người được MTNHS không phải chịu các hậu quả pháp lý bất lợi
như: có thể không bị truy cứu TNHS, không chịu hình phạt hoặc các biện pháp
cưỡng chế về hình sự, không bị kết tội, v.v… Tuy nhiên, cần chú ý rằng không
phải MTNHS là đương nhiên miễn truy cứu TNHS. Bởi vì, nếu một người được
MTNHS ở giai đoạn truy tố thì trong trường hợp này người được MTNHS đã
phải trải qua giai đoạn khởi tố và điều tra. Điều đó cho thấy người này không
hoàn toàn được miễn truy cứu TNHS mặc dù đã được MTNHS. Một vấn đề nữa
cần lưu ý là tuy rằng pháp luật hình sự chưa quy định nhưng khi căn cứ vào tình
tiết vụ án cũng như thực tiễn xét xử cho thấy khi được MTNHS người phạm tội
không phải chịu các hậu quả pháp lý hình sự nhưng họ vẫn có thể chịu sự tác
động về mặt pháp lý thuộc các ngành luật khác như: dân sự (buộc bồi thường
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
9
SVTH: Võ Thị Hồng Ngân
LVTN: Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam
thiệt hại, buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu,…); hành chính (phạt tiền, cảnh
cáo); tố tụng hình sự (bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn); lao động; tố tụng
hành chính hoặc kỷ luật; v.v… Ví dụ: Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 5/01/1986 về
việc Hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS ghi nhận: “Khi đã miễn
trách nhiệm hình sự thì Tòa án không được quyết định bất kỳ loại hình phạt nào
nhưng vẫn có thể quyết định việc bồi thường cho người bị hại và giải quyết tang
vật”. Ngoài ra, Công văn số 24/1999/KHXX ngày 17/3/1999 của TANDTC về
việc bổ sung một số vấn đề áp dụng pháp luật cũng có quy định: “Tùy từng
trường hợp cụ thể, người được miễn trách nhiệm hình sự có thể bị xử lý hành
chính”.
Thứ ba, chế định MTNHS chỉ được áp dụng đối với người mà trong hành
vi của họ thỏa mãn những dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể nhưng họ lại
có những điều kiện nhất định để được MTNHS. Có nghĩa là, không thể MTNHS
đối với người không phạm tội hoặc không đủ căn cứ để xác định được hành vi của
người đó là hành vi phạm tội. Và khi đã cấu thành tội phạm cụ thể được quy định
trong BLHS, nếu không có đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện nhất định để
được MTNHS, thì người đó phải chịu TNHS theo quy định của pháp luật hình sự.
Thứ tư, MTNHS luôn gắn liền và quan hệ chặt chẽ với chế định TNHS
trong Luật hình sự Việt Nam. Bởi vì, khái niệm và cơ sở của MTNHS cũng xuất
phát từ khái niệm và cơ sở của TNHS. Theo đó, nếu TNHS là hậu quả pháp lý
bất lợi mà người phạm tội phải chịu do đã thực hiện hành vi phạm tội và được thể
hiện bằng việc áp dụng đối với họ một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế nghiêm
khắc của Nhà nước do Luật hình sự quy định, thì MTNHS có nghĩa là không
buộc người phạm tội phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi của việc phạm tội đó mà lẽ
ra nếu không có căn cứ pháp lý và những điều kiện do luật định để được
MTNHS, thì người đó phải chịu TNHS theo quy định của pháp luật hình sự trên
những cơ sở chung. Hiểu đúng và áp dụng một cách chính xác hai chế định này
sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình đấu tranh, phòng chống tội phạm cũng
như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và toàn xã hội 18. Mặt khác,
chủ thể trong hai trường hợp này đều là người phạm tội, nghĩa là họ đã thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Luật hình sự quy định là tội phạm. Nói cách
Trịnh Tiến Việt: Về chế định miễn trách nhiệm hình sự trong BLHS Việt Nam năm 1999,
truy cập ngày 26/6/2013.
18
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
10
SVTH: Võ Thị Hồng Ngân
LVTN: Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam
khác, chủ thể trong hai trường hợp đều đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội, có lỗi và trái pháp luật hình sự.
Thứ năm, phụ thuộc và từng giai đoạn tố tụng hình sự cụ thể, MTNHS chỉ
được thực hiện bởi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và quyết định phải được thể
hiện bằng văn bản19. Đó là, CQĐT với sự phê chuẩn của VKS, VKS và Tòa án.
Theo quy định của BLTTHS năm 2003: CQĐT ra quyết định đình chỉ điều tra
khi có căn cứ MTNHS theo Điều 19, 25 và khoản 2 Điều 69 BLHS (điểm a
khoản 2 Điều 164 BLTTHS năm 2003); VKS ra quyết định đình chỉ vụ án khi có
căn cứ MTNHS theo Điều 25 và khoản 2 Điều 69 BLHS (khoản 1 Điều 169
BLTTHS năm 2003) hoặc rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa và đề
nghị Tòa án đình chỉ vụ án khi có căn cứ để MTNHS cho bị can, bị cáo theo Điều
19, 25 và khoản 2 Điều 69 BLHS (Điều 181 BLTTHS năm 2003); Tòa án cấp
phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm khi MTNHS cho bị cáo (điểm a khoản 1
Điều 249 BLTTHS năm 2003).
Thứ sáu, trong trường hợp tội phạm thực hiện dưới hình thức đồng phạm
thì việc MTNHS chỉ đặt ra đối với người nào thỏa mãn những điều kiện nhất
định để được MTNHS, những người đồng phạm còn lại vẫn phải chịu TNHS
theo quy định của pháp luật.
Thứ bảy, chế định MTNHS là một trong những công cụ hữu hiệu để Nhà
nước lên án, tác động vào tâm lý người phạm tội. Qua đó cải tạo, giáo dục, động
viên, khuyến khích người phạm tội trở thành người có ích, đồng thời Nhà nước
cũng tiết kiệm việc áp dụng các chế tài hình sự trong những trường hợp nhất
định.
1.2. Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự với miễn hình phạt
1.2.1. Vài nét về miễn hình phạt
Song song với chế định MTNHS, miễn hình phạt cũng là một trong những
chế định quan trọng của Luật hình sự Việt Nam thể hiện chính sách nhân đạo của
pháp luật hình sự nói chung và Luật hình sự Việt Nam nói riêng.
Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc
nghiên cứu chế định MTNHS và chế định miễn hình phạt để phân biệt sự giống
và khác nhau giữa hai chế định này trong pháp luật hình sự thực định cũng như
Trịnh Tiến Việt: Miễn trách nhiệm hình sự theo Luật hình sự Việt Nam: Những vấn đề lý luận và thực
tiễn, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 11, 6/2006.
19
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
11
SVTH: Võ Thị Hồng Ngân
LVTN: Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam
trong thực tiễn có ý nghĩa rất quan trọng. Tuy nhiên, trước khi đi vào phân biệt
hai chế định này cần phải làm rõ thế nào là miễn hình phạt.
Mặc dù chế định miễn hình phạt đã được ghi nhận tại Điều 54 BLHS hiện
hành nhưng cho đến nay, vẫn chưa có khái niệm pháp lý cụ thể nào về miễn hình
phạt. Cũng giống như chế định MTNHS, trong khoa học Luật hình sự vẫn tồn tại
nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm miễn hình phạt. Tuy nhiên, dưới góc độ
nghiên cứu khoa học Luật hình sự, có thể đưa ra khái niệm sau: Miễn hình phạt
là hủy bỏ biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất cho người bị kết án mà lẽ ra
Tòa án phải tuyên trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật đối với người này 20.
Từ đó, có thể thấy, mặc dù vẫn bị truy cứu TNHS nhưng người phạm tội sẽ
không phải chịu hậu quả pháp lý tất yếu của tội phạm là hình phạt. Như vậy, với
chế định miễn hình phạt Nhà nước ta đã mở ra một lối đi nhân đạo cho người
phạm tội, tạo cơ hội để họ hoàn lương, hòa nhập trở lại với cộng đồng.
Từ khái niệm trên, có thể thấy, miễn hình phạt có những đặc điểm cơ bản
sau đây:
- Đặc điểm thứ nhất: Miễn hình phạt là một trong những chế định nhân
đạo của pháp luật hình sự Việt Nam.
- Đặc điểm thứ hai: Người được miễn hình phạt được đương nhiên xóa án
tích ngay tại thời điểm bản án có hiệu lực pháp luật hoặc sau khi đã chấp hành
xong các nghĩa vụ khác trong bản án như nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, nộp án
phí… Ngoài ra, người được miễn hình phạt vẫn có thể bị áp dụng một số biện
pháp tư pháp được quy định trong BLHS như: tịch thu tang vật, tiền trực tiếp liên
quan tới tội phạm, trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, buộc công
khai xin lỗi hoặc bắt buộc chữa bệnh.
- Đặc điểm thứ ba: Miễn hình phạt chỉ được áp dụng đối với cá nhân
người bị kết án – người phạm tội đã bị tuyên bố là có tội bằng một bản án có hiệu
lực pháp luật.
- Đặc điểm thứ tư: Miễn hình phạt chỉ do Tòa án áp dụng ở giai đoạn xét
xử khi người bị kết án có đầy đủ căn cứ và điều kiện do pháp luật hình sự quy
định.
Lê Cảm - Trịnh Tiến Việt: Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt, Tạp chí Khoa học
pháp lý, số 2, 2004,
/>&id=450:tc2004so2pbtnhs&Itemid=107, truy cập ngày 4/7/2013.
20
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
12
SVTH: Võ Thị Hồng Ngân
LVTN: Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam
1.2.2. Những điểm giống nhau giữa miễn trách nhiệm hình sự với miễn
hình phạt
Trên cơ sở phân tích khái niệm, đặc điểm và những quy định pháp luật có
liên quan về MTNHS và miễn hình phạt, có thể nói hai chế định này có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau và có những đặc điểm giống nhau cơ bản như sau:
- MTNHS và miễn hình phạt đều là những chế định thuộc hệ thống các
biện pháp tha miễn trong Luật hình sự Việt Nam, phản ánh chính sách khoan
hồng, nhân đạo của Luật hình sự nước ta. Cả hai chế định này luôn hướng tới
việc cải tạo, giáo dục người phạm tội, Nhà nước đã không buộc người phạm tội
phải cách ly khỏi xã hội và tạo điều kiện cho họ được nhanh chóng hòa nhập với
cộng đồng, trở thành người có ích cho xã hội. Đồng thời thể hiện chính sách phân
hóa tội phạm cũng như các nguyên tắc “nghiêm trị kết hợp với khoan hồng”,
“trừng trị kết hợp với giáo dục, thuyết phục, cải tạo”;
- Khi áp dụng chế định MTNHS hoặc miễn hình phạt thì phải đáp ứng đầy
đủ các căn cứ pháp lý và điều kiện nhất định trong từng trường hợp cụ thể theo
quy định của pháp luật hình sự;
- Cơ sở của chế định MTNHS và miễn hình phạt đều xuất phát từ cơ sở
của TNHS;
- MTNHS và miễn hình phạt chỉ có thể áp dụng đối với người nào bị coi
là có lỗi trong việc thực hiện chính tội phạm đó. Nói cách khác, hành vi nguy
hiểm cho xã hội do người đó thực hiện bị pháp luật hình sự cấm (BLHS quy định
là tội phạm)21;
- Người được MTNHS hay miễn hình phạt đều không phải chịu hậu quả
pháp lý bất lợi của việc phạm tội. Theo đó, Nhà nước không phải dùng các biện
pháp mang tính trấn áp về mặt hình sự nên sẽ loại trừ được việc áp dụng hình
phạt đối với người phạm tội;
- Việc quyết định MTNHS hay miễn hình phạt đều phải do cơ quan tư
pháp hình sự có thẩm quyền áp dụng đối với người phạm tội. Ngoài ra, việc áp
dụng hai chế định này cũng phải tuân theo những trình tự, thủ tục tố tụng chặt
chẽ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Lê Cảm - Trịnh Tiến Việt: Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt, Tạp chí Khoa học
pháp lý, số 2, 2004,
/>&id=450:tc2004so2pbtnhs&Itemid=107, truy cập ngày 4/7/2013.
21
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
13
SVTH: Võ Thị Hồng Ngân
LVTN: Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam
1.2.3. Những điểm khác nhau giữa miễn trách nhiệm hình sự với miễn
hình phạt
Bên cạnh một số điểm giống nhau như đã trình bày, giữa chế định
MTNHS và chế định miễn hình phạt cũng có một số điểm khác biệt cơ bản sau
đây:
Thứ nhất, về căn cứ pháp lý áp dụng, theo BLHS hiện hành có đến chín
trường hợp được MTNHS quy định tại các điều luật sau: Điều 19; khoản 1, 2 và
3 Điều 25; khoản 2 Điều 69; khoản 3 Điều 80; khoản 6 Điều 289; khoản 6 Điều
290 và khoản 3 Điều 314. Trong khi đó, đối với chế định miễn hình phạt thì
BLHS hiện hành chỉ mới ghi nhận tại hai điều luật mà thôi. Đó là, miễn hình phạt
theo Điều 54 và khoản 3 Điều 314.
Thứ hai, TNHS có thể được thực hiện bằng hình phạt (nếu người phạm tội
không được MTNHS, mà bị Tòa án áp dụng hình phạt), nhưng cũng có thể bằng
biện pháp có tính cưỡng chế về hình sự khác (nếu người phạm tội được miễn
hình phạt). Còn MTNHS thì đương nhiên là không áp dụng hình phạt với người
phạm tội, tức là không áp dụng biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà
nước đối với họ, nhưng miễn hình phạt thì không có nghĩa là không có TNHS.
Nói một cách khác, người được miễn hình phạt khi họ chưa đến mức được
MTNHS, còn người được MTNHS lại đương nhiên được miễn hình phạt22.
Thứ ba, chủ thể có quyền áp dụng chế định MTNHS rộng hơn chủ thể có
quyền áp dụng chế định miễn hình phạt. Bởi vì, việc áp dụng chế định miễn hình
phạt đối với người bị kết án chỉ có thể do một cơ quan duy nhất áp dụng, đó là
Tòa án. Trong khi đó, khi áp dụng chế định MTNHS đối với người phạm tội,
ngoài Tòa án ra còn có thể có các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền khác
như: CQĐT với sự phê chuẩn của VKS, VKS.
Thứ tư, điều kiện được miễn hình phạt áp dụng đối với từng trường hợp cụ
thể không được quy định rõ ràng như MTNHS. Ngoài ra, dưới góc độ pháp luật
hình sự thực định và thực tiễn áp dụng nó, chúng ta có thể nhận thấy hành vi
phạm tội và nhân thân người được MTNHS thông thường đều ít nguy hiểm hơn
so với hành vi phạm tội và nhân thân của người được miễn hình phạt. Có nghĩa
Lê Cảm - Trịnh Tiến Việt: Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt, Tạp chí Khoa học
pháp lý, số 2, 2004,
/>&id=450:tc2004so2pbtnhs&Itemid=107, truy cập ngày 4/7/2013.
22
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
14
SVTH: Võ Thị Hồng Ngân
LVTN: Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam
là, hành vi phạm tội và nhân thân người được miễn hình phạt nguy hiểm hơn so
với hành vi phạm tội và nhân thân người được MTNHS23.
Thứ năm, về án tích, nếu người được MTNHS không phải chịu hậu quả
pháp lý hình sự bất lợi của việc thực hiện tội phạm và người phạm tội không phải
chịu án tích, thì người được miễn hình phạt chỉ được coi là không có án tích sau
khi bản án về miễn hình phạt có hiệu lực pháp luật và người bị kết án đã chấp
hành xong mọi quyết định khác của Tòa án24.
Thứ sáu, người được MTNHS không phải chịu hậu quả pháp lý hình sự
bất lợi của việc phạm tội do mình thực hiện như: có thể không bị truy cứu TNHS,
không chịu hình phạt hoặc các biện pháp cưỡng chế về hình sự, không bị kết tội,
v.v… Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy, người được MTNHS vẫn có thể phải
chịu một hoặc nhiều biện pháp tác động về mặt pháp lý thuộc các ngành luật
tương ứng khác. Cụ thể là: các biện pháp ngăn chặn theo quy định của pháp luật
tố tụng hình sự; buộc phải hồi phục lại tình trạng ban đầu, buộc bồi thường thiệt
hại… theo quy định của pháp luật dân sự; phạt tiền, cảnh cáo hoặc buộc thôi việc
theo quy định của pháp luật hành chính; đình chỉ hợp đồng lao động theo quy
định của pháp luật lao động; hoặc biện pháp kỷ luật. Điều này được thể hiện tại
Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 5/01/1986 về việc Hướng dẫn áp dụng một số quy
định của BLHS: “Khi đã miễn trách nhiệm hình sự thì Tòa án không được quyết
định bất kỳ loại hình phạt nào nhưng vẫn có thể quyết định việc bồi thường cho
người bị hại và giải quyết tang vật”. Ngoài ra, Công văn số 24/1999/KHXX
ngày 17/3/1999 của TANDTC về việc bổ sung một số vấn đề áp dụng pháp luật
cũng có quy định: “Tùy từng trường hợp cụ thể, người được miễn trách nhiệm
hình sự có thể bị xử lý hành chính”. Trong khi đó, người được miễn hình phạt
tuy đương nhiên được xóa án tích (theo khoản 1 Điều 64 BLHS năm 1999 thì
người được miễn hình phạt đương nhiên được xóa án tích) nhưng họ vẫn có thể
bị áp dụng các biện pháp tư pháp (chung) được quy định trong pháp luật hình sự
thực định.
Thứ bảy, xét về mức độ nhân đạo thì chế định MTNHS có mức độ khoan
hồng cao hơn miễn hình phạt. Bởi vì, người được miễn hình phạt khi họ chưa đến
mức được MTNHS, còn người được MTNHS lại đương nhiên được miễn hình
phạt.
Trịnh Tiến Việt: Một số vấn đề lý luận – thực tiễn về miễn trách nhiệm hình sự, Tạp chí nhà nước và
pháp luật, số 6, 2004. tr.61.
24
Trịnh Tiến Việt: Một số vấn đề lý luận – thực tiễn về miễn trách nhiệm hình sự, Tạp chí nhà nước và
pháp luật, số 6, 2004. tr.61.
23
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
15
SVTH: Võ Thị Hồng Ngân
LVTN: Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam
Trên cơ sở phân biệt chế định MTNHS với chế định miễn hình phạt, có
thể thấy rằng, MTNHS và miễn hình phạt là hai chế định quan trọng trong Luật
hình sự Việt Nam thể hiện nguyên tắc nhân đạo, khoan hồng của Đảng và Nhà
nước ta. Việc quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam hai chế định này tạo
nên đường lối xử lý về hình sự đúng đắn, đảm bảo sự kết hợp hài hòa giữa các
biện pháp cưỡng chế hình sự nghiêm khắc của nhà nước với các biện pháp tác
động xã hội khác để cải tạo, giáo dục người phạm tội, giúp hạn chế việc áp dụng
các biện pháp mang tính trấn áp về mặt hình sự. Qua đó, nhằm động viên,
khuyến khích người phạm tội tích cực học tập, cải tạo, sớm hòa nhập với cộng
đồng. Vì thế, có thể nói, việc tiếp tục nghiên cứu về mặt lý luận chế định
MTNHS và miễn hình phạt để phân biệt chúng có ý nghĩa quan trọng trong việc
hoàn thiện pháp luật hình sự, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
giúp cho công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm ngày càng hiệu quả.
1.3. Lược sử về miễn trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt
Nam
1.3.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
Từ thời kỳ phong kiến, vấn đề MTNHS ở nước ta đã được đề cập ở các
mức độ khác nhau nhưng còn rãi rác và dàn trải trong một số Bộ luật cổ, tiêu
biểu là những quy định trong bộ Quốc triều Hình luật năm 1483 (hay còn gọi là
Bộ luật Hồng Đức), Hoàng Việt luật lệ năm 1812 (hay còn gọi là Bộ luật Gia
Long) với nhiều tên gọi khác nhau như: “miễn tội”, “tha tội”, “giảm tội”, “miễn
trừ tội”, “xử nhẹ”, v.v…
Trong Bộ luật Hồng Đức năm 1483 có nhiều điều luật thể hiện sự tôn
trọng, tính nhân đạo và tiến bộ trong đường lối xử lý tội phạm liên quan đến
MTNHS. Cụ thể:
- Điều 3 quy định về tám trường hợp được xét giảm tội (bát nghị): 1)
Nghị thân; 2) Nghị cố; 3) Nghị hiền; 4) Nghị năng; 5) Nghị công; 6) Nghị quí; 7)
Nghị cần; 8) Nghị tân25.
- Điều 18 Bộ luật Hồng Đức ghi nhận tự thú, thành thật khai báo là
những tình tiết giảm nhẹ đặc biệt: “Ai phạm tội chưa bị phát hiện mà tự thú
trước thì được tha tội. Ai phạm tội thập ác và giết người thì không áp dụng luật
này. Phạm tội nhẹ đã bị bắt mà nhân đó thú tội nặng hay nhân sự việc đang
Xem them Điều 3 – Lê triều hình luật (Luật Hồng Đức), Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 1998,
tr.35-37.
25
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
16
SVTH: Võ Thị Hồng Ngân
LVTN: Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam
phạm mà kể thêm tội khác nữa, thì đều được tha hết. Phạm tội thập ác và giết
người thì không theo luật này. Nhờ kẻ khác thú tội giùm mình thì không được tha
tội. Nếu không kể hết số tang vật thì xử tội theo chỗ không khai hết ấy. Biết sắp
bị kẻ khác đi thưa mình, nên tự thú trước thì cũng cho giảm một bực tội. Phạm
tội cùng nhau trốn mà biết rồi bắt (lại nhau) kẻ phạm tội ấy đem nộp thì cũng
được tha tội”.
- Điều 140 Bộ luật Hồng Đức cũng đề cập đến việc giảm tội đối với
người phạm tội đưa hối lộ: “Những kẻ đưa hối lộ bởi việc của họ trái lẽ thì căn
cứ theo đó định tội. Còn người chịu oan khổ thiệt, muốn khỏi tội mà đưa hối lộ
thì được giảm tội. Không phải việc mình mà đưa hối lộ dùm kẻ khác thì xử tội
nhẹ hơn ăn hối lộ hai bực”.
- Một số tội, nếu người phạm tội là phụ nữ thì được giảm tội, như việc xử
lý tội ăn trộm, ăn cướp: “Ăn trộm có cầm khí giới thì xử tội ăn cướp và có giết
người thì xử tội giết người. Đàn bà được giảm tội” (Điều 429 Bộ luật Hồng
Đức), hoặc trường hợp đầy tớ ăn trộm đồ của chủ, nếu là “tớ gái thì được giảm
tội” (Điều 441 Bộ luật Hồng Đức).
- Ngoài ra, người phạm tội còn được miễn tội trong những trường hợp
như: trường hợp để hư mất đồ đạc của công: “Nếu gặp lụt lội, lửa cháy, trộm
cướp không chống nổi thì miễn tội” (Điều 634 Bộ luật Hồng Đức); hoặc “Bị bắt,
tội nhân chống cự bị người đi bắt đánh chết, hay tội nhân sẩy chạy, rượt theo
đánh chết nó, hay là tội nhân cùng quẩn tự sát thì người đi bắt đều được miễn
tội” (Điều 646 Bộ luật Hồng Đức).
Đến triều đại nhà Nguyễn, bộ Hoàng Việt luật (Bộ luật Gia Long) năm
1812 được ban hành. Trong Bộ luật này cũng đề cập đến vấn đề MTNHS. Cụ thể
tại Điều 24 – Người phạm tội tự thú: “Phàm người phạm tội, tội chưa bị phát
giác mà biết tự thú, thì miễn buộc tội”.
1.3.2. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến khi ban
hành Bộ luật Hình sự năm 1985
Trong pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn này, MTNHS chưa được ghi
nhận như một chế định độc lập. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử và một số văn
bản pháp quy hình sự đơn hành như: Sắc lệnh, Pháp lệnh, Thông tư,… đã thừa
nhận và áp dụng chế định này với nhiều tên gọi khác nhau như: xá miễn, tha
MTNHS, miễn tố, tha bổng bị cáo, miễn nghị cho bị cáo, miễn hết cả tội, v.v…
Có thể điểm qua một số văn bản trong giai đoạn trước khi ban hành BLHS năm
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
17
SVTH: Võ Thị Hồng Ngân