Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của công ty tài chính.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (771.85 KB, 64 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT THƢƠNG MẠI


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 36 ( 2010 – 2014 )
Đề tài
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CẤP TÍN DỤNG
CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH.

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

Th.s. Lê Huỳnh Phƣơng Chinh

Huỳnh Thị Thùy Trang

Bộ môn: Luật Thƣơng mại

MSSV: 5106199
Lớp: Luật Thƣơng mại 2 - K36

Cần thơ, 12/2013


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của công ty tài chính
LỜI NÓI ĐẦU



1. Lý do chọn đề tài
Hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) của Việt Nam đã phát triển rất mạnh
kể từ đầu thập niên 90 thế kỷ XX đến nay và đã có những đóng góp rất lớn vào sự
phát triển của đất nước. Bên cạnh những đóng góp to lớn của các TCTD là ngân
hàng thì không thể nào không kể đến tầm quan trọng của các tổ chức tín dụng phi
ngân hàng. Tuy hoạt động của các TCTD phi ngân hàng trong đó có công ty tài
chính ( CTTC ) còn nhều hạn chế hơn so với TCTD là ngân hàng nhưng với chức
năng là trung gian tín dụng thì CTTC đã góp phần điều hòa lượng vốn luân chuyển
trở thành cầu nối giữa những người thừa vốn với những người thiếu vốn. Nhờ vào
những hoạt động có hiệu quả của mình mà các CTTC ngày càng giữ vai trò quan
trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Thực tế cho thấy hoạt động của CTTC
bao gồm hoạt động huy động vốn và hoạt động cấp tín dụng, với mỗi hoạt động đều
mang lại lợi ích cho nền kinh tế nói chung và cho CTTC nói riêng. Tuy nhiên hoạt
động cấp tín dụng là hoạt động chủ yếu và mang lại nhiều lợi nhuận cho CTTC giúp
CTTC có một vị trí đặc biệt trên thị trường tài chính mà không TCTD nào thay thế
được. Tuy nhiên hoạt động cấp tín dụng của các CTTC ở Việt Nam còn mới mẻ sơ
khai và chưa có môi trường pháp lý và định hướng rõ ràng, thiếu những văn bản
pháp quy hoàn chỉnh và đồng bộ, có một số văn bản pháp quy đã không còn phù
hợp và cần có một hành lang pháp lý rộng rãi sát với thực tiễn hiện nay. Do vậy để
CTTC thực hiện tốt hơn chức năng, vai trò của mình một cách thuận tiện và có hiệu
quả, người viết đã chọn đề tài “ Pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của công ty
tài chính ” để tìm hiểu rõ hơn các quy định của pháp luật về hoạt động cấp tín dụng
của CTTC thông qua các hình thức cho vay, chiết khấu công cụ chuyển nhượng và
bảo lãnh ngân hàng.
2. Mục đích nghiên cứu .
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài “ Pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của
công ty tài chính ” là để tìm hiểu các quy định của pháp luật hiện hành về hoạt
động cấp tín dụng bằng hình thức cho vay, chiết khấu công cụ chuyển nhượng và
bảo lảnh ngân hàng của CTTC. Qua đó việc tìm hiểu đề tài sẽ làm rõ thêm những

mặt tích cực và đồng thời cho thấy những vấn đề tồn tại khi áp dụng pháp luật vào
GVHD: Th.s. Lê Huỳnh Phương Chinh

1

SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của công ty tài chính

hoạt động này. Từ đó người viết xin đóng góp một số ý kiến của mình nhằm góp
phần hoàn thiện các quy định về hoạt động cấp tín dụng của CTTC.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một khóa luận văn tốt nghiệp, đề tài được người viết
nghiên cứu trong phạm vi quy định của pháp luật về các vấn đề sau:
Những vấn đề chung về CTTC như khái niệm, đặc điểm, các loại hình tồn tại
của CTTC, các hoạt động CTTC được tham gia và so sánh CTTC với ngân hàng
thương mại .
Quy định pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của CTTC bao gồm quy định
của pháp luật về hoạt động cấp tín dụng bằng hình thức cho vay, quy định pháp luật
về hoạt động cấp tín dụng bằng hình thức chiết khấu, quy định pháp luật về hoạt
động cấp tín dụng bằng hình thức bảo lãnh.
Thực tiễn về hoạt động cấp tín dụng của CTTC, để thấy được nhựng thuận
lợi và bất lợi trong áp dụng pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của CTTC và đưa
ra những kiến nghị nhằm giúp cho hoạt động này được hoàn thiện hơn.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Nhằm giúp cho nội dung nghiên cứu phong phú, sát với thực tiễn người viết
kết hợp nhiều phương pháp như phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu trong quá

trình thực hiện luận văn, nhằm đưa ra những thành tựu và tồn tại trong việc áp dụng
quy định pháp luật trong hoạt động cấp tín dụng của CTTC để có những đóng góp
giúp cho hoạt động này ngày càng hoàn thiện hơn.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo đề tài “ pháp luật về hoạt
động cấp tín dụng của công ty tài chính ” Người viết trình bài cấu trúc luận văn
thành ba chương như sau:
Chƣơng 1 : Khái quát chung về Công ty tài chính.
Ở nội dung chương này người viết đã nêu một cách khái quát về khái niệm
và hoạt động của CTTC. Ngoài ra người viết còn so sánh CTTC với ngân hàng
thương mại.
Chƣơng 2: Quy định pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của công ty tài
chính.

GVHD: Th.s. Lê Huỳnh Phương Chinh

2

SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của công ty tài chính

Ở chương này, người viết tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hoạt
động cấp tín dụng của CTTC đối với khách hàng trên cơ sở những quy định của
pháp luật. Bao gồm các quy định của pháp luật về các hoạt động cho vay, chiết
khấu, bảo lảnh. Những điều kiện cần thiết để các cho các chủ thể khi tham gia vào
các hoạt động này và những quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các

bên nhằm làm giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra bảo vệ quyền và lợi ích cho các bên.
Chƣơng 3: Thực tiễn hoạt động cấp tín dụng của công ty tài chính - Một
số kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng của công ty tài chính.
Từ những thưc trạng về hoạt động cấp tín dụng của CTTC như những bất cập
trong hoạt động cho vay, hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá, hoạt động bảo lãnh
ngân hàng của CTTC, người viết đã đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện những
quy định của pháp luật về hoạt động này dựa trên sự bất hợp lý trong những quy
định của pháp luật.
Trong quá trình thực hiện luận văn, người viết đã có nhiều cố gắn trong thực
hiện đề tài tốt nghiệp của mình. Tuy nhiên do nguồn tài liệu còn nhiều hạn chế cũng
như hạn chế về mặt kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn cho nên những phân tích,
đánh giá của người viết còn mang tính lý thuyết đơn thuần, nên đề tài sẽ không
tránh khỏi thiếu sót, khuyết điểm nhất định. Người viết rất mong nhận được ý kiến
đóng góp của quý thầy cô và các bạn để giúp người viết sửa chửa, khắc phục những
hạn chế để làm cho đề tài được hoàn thiện hơn.

GVHD: Th.s. Lê Huỳnh Phương Chinh

3

SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của công ty tài chính

CHƢƠNG I : KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY TÀI CHÍNH.
Những vấn đề chung về công ty tài chính ( CTTC ) là nội dung chính mà
người viết tập chung vào tìm hiểu, đây là phần cơ bản nhất của luận văn. Ở đây

người viết chỉ tập trung đưa ra những vấn đề cơ bản về CTTC như khái niệm, đặc
điểm, loại hình hoạt động của CTTC và các hoạt động mà CTTC được tham gia.
Ngoài ra người viết còn so sánh CTTC với Ngân hàng Thương mại ( NHTM ) để từ
đó đưa ra những điểm khác biệt giữa CTTC với NHTM.
1.1. Giới thiệu chung về công ty tài chính.
1.1.1. Khái niệm công ty tài chính.
Công ty tài chính (CTTC) được hình thành từ rất sớm từ cuối thập niên 80
của thế kỷ XX. Để mô hình công ty này ngày càng hoàn thiện thì yêu cầu đặt ra là
phải có pháp luật điều chỉnh. Đáp ứng nhu cầu tất yếu này, vào thập niên 90 pháp
lệnh1 của Hội đồng nhà nước ra đời ngày 23 tháng 5 năm 2005 về Ngân hàng, hợp
tác xã tín dụng và công ty tài chính. Trong pháp lệnh này định nghĩa về CTTC được
xác định:
“ Công ty tài chính là công ty quốc doanh hoặc cổ phần, hoạt động chủ yếu
là cho vay để mua bán hàng hóa dịch vụ bằng nguồn vốn của mình hoặc vay của
dân cư”2.
Theo quy định trên thì CTTC chỉ có thể là công ty quốc doanh hoặc cổ phần
thực hiện hoạt động kinh doanh của mình bằng hình thức chủ yếu là cho vay ( ngắn
hạn và trung hạn ) để phục vụ cho các hoạt động mua bán hàng hóa, dịch vụ đối với
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Về vốn huy động và hoạt động kinh doanh CTTC không thực hiện các dịch
vụ thanh toán và tiền mặt, không huy động tiền gửi tiết kiệm của dân và không sử
dụng tiền gửi của dân làm phương tiện thanh toán. Các CTTC hoạt động bằng
nguồn vốn của mình hoặc đi vay bằng cách phát hành tín phiếu trái phiếu.
Đến Luật các tổ chức tín dụng 1997 ( được sửa đổi bổ sung năm 2004) :
“ CTTC là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng, chức năng là sử dụng
vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu tư, cung ứng các
dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ và thực hiện một số dịch vụ khác theo quy định
1
2


Pháp lệnh về Ngân hàng,hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ngày 23 tháng 5 năm 1990.
Khoản 4 điều 1 pháp lệnh về ngân hàng,hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ngày 23 tháng 5 năm 1990.

GVHD: Th.s. Lê Huỳnh Phương Chinh

4

SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của công ty tài chính

của pháp luật nhưng không được làm dịch vụ thanh toán, không được nhận tiền gửi
dưới 1 năm ”.
So với quy định trong pháp lệnh năm 1990 về hoạt động của CTTC thì luật
các tổ chức tín dụng năm 1997 ( sửa đổi bổ sung năm 2004 ) quy định cụ thể và chi
tiết hơn. Chẳng hạn như trong pháp lệnh hoạt động chủ yếu của CTTC là cho vay để
mua bán hàng hóa, dịch vụ. Trong khi đó luật 1997 ( sửa đổi bổ sung năm 2004 ) thì
hoạt động của CTTC được mở rộng hơn ngoài hoạt động cho vay CTTC được tham
gia các hoạt động khác như đầu tư, cung ứng các dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền
tệ…Tuy nhiên CTTC không được làm dịch vụ thanh toán, không được nhận tiền
gửi dưới 1 năm ( vì đây là những hoạt động chỉ có ngân hàng thương mại mới có
quyền thực hiện ).
Theo quy định của pháp luật hiện hành, CTTC được định nghĩa như sau:
“ Công ty Tài chính là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng, với chức
năng là sử dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu tư;
cung ứng các dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ và thực hiện một số dịch vụ khác
theo quy định của pháp luật, nhưng không được làm dịch vụ thanh toán, không

được nhận tiền gửi dưới 01 năm ”3
Như vậy pháp luật hiện hành quy định rõ về hoạt động của CTTC tạo nên sự
khác biệt giữa hoạt động của CTTC với hoạt động của các loại hình hoạt động của
công ty khác.
Như đã nêu trên, CTTC là một là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng, cho
nên CTTC chỉ được thực hiện một số hoạt động của ngân hàng trừ hoạt động nhận
tiền gửi của cá nhân và cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng.
Chẳng hạn như CTTC không được cung ứng phương tiện thanh toán; thực hiện dịch
vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư
tín dụng. Trong khi đó ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn
bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan, cụ thể là
hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là
nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán.

3

Khoản 1 điều 1 Nghị định 81/2008/NĐ-CP sửa đổi,bổ sung một số điều của Nghị định 79/2002/NĐ-CP
ngày 04 tháng 10 năm 2002 về tổ chức và hoạt động của công ty tài chính

GVHD: Th.s. Lê Huỳnh Phương Chinh

5

SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của công ty tài chính


Cũng theo quy định của pháp luật hiện hành CTTC được sử dụng vốn điều
lệ, quỹ dự trữ, dự phòng, lợi nhuận không chia, một số tài sản nợ khác theo quy
định của Ngân hàng nhà nước Việt Nam ( hay còn gọi là Ngân hàng Nhà nước) hay
nguồn vốn huy động từ vốn nhàn rỗi trong nhân dân và các nguồn vốn từ hoạt đông
kinh doanh để cho vay, đầu tư, cung ứng các dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ.
Ngoài ra CTTC được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần.
Nhưng CTTC chỉ được góp vốn mua cổ phần của doanh nghiệp, quỹ đầu tư và chỉ
được mua lại công ty con, công ty liên kết hoạt động trong các lĩnh vực bảo hiểm,
chứng khoán quản lý tài sản bảo đảm sau khi được Ngân hàng Nhà nước (NHNN)
chấp thuận bằng văn bản.
Bên cạnh những hoạt động chính của mình CTTC còn thực hiện các hoạt
động kinh doanh khác theo quy định của pháp luật như: Tiếp nhận vốn ủy thác
Chính phủ, tổ chức cá nhân để thực hiện các hoạt động đầu tư vào các dự án sản
xuất, kinh doanh, cấp tín dụng được phép; Ủy thác vốn cho tổ chức tín dụng thực
hiện cấp tín dụng; việc tiếp nhận vốn ủy thác của cá nhân và ủy thác vốn cho các tổ
chức tín dụng cấp tín dụng thực hiện theo quy định của NHNN; tham gia thị trường
tiền tệ; mua, bán trái phiếu Chính phủ , trái phiếu doanh nghiệp; bảo lãnh phát hành
trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp; đại lý phát hành trái phiếu, cổ phiếu
và các loại giấy tờ có giá khác…
Theo định nghĩa về CTTC thì CTTC không được nhận tiền gửi dưới 1 năm.
CTTC là tổ chức tín dụng phi ngân hàng cho nên CTTC không được nhận tiền gửi
của cá nhân4 và cũng không được cung ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản
của khách hàng. Như vậy có thể thấy CTTC không huy động được nguồn vốn từ
những khu vực đông dân cư và cũng không thu được lãi suất từ các tài khoản thanh
toán. CTTC chỉ huy động vốn chủ yếu từ nội bộ tập đoàn hoặc từ các doanh nghiệp
có quan hệ kinh doanh. Mặc dù những hoạt động này tạo ra lợi ích luân chuyển
dòng vốn của CTTC nhưng CTTC vẫn có thể chiụ sự ràng buộc của các hoạt động
cho vay hay đầu tư. Nhận tiền gửi dưới 1 năm là hình thức tiền gửi mà khách hàng
có quyền rút tiền bất cứ lúc nào cũng có thể rút ở cuối năm cũng có thể rút trong
tháng đầu tiên, khi khách hàng có nhu cầu rút vốn thì đòi hỏi CTTC phải hoàn trả

gốc lẫn lãi cho khách hàng. Nếu chỉ có một hay hai khách hàng trong tổng số khách
4

Khoản 1 điều 108 Luật các tổ chức tín dụng

GVHD: Th.s. Lê Huỳnh Phương Chinh

6

SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của công ty tài chính

hàng của CTTC rút vốn thì dòng vốn của CTTC có thể luân chuyển để chi trả.
Nhưng nếu toàn bộ khách hàng yêu cầu rút vốn thì khả năng thanh toán của CTTC
không có và như vậy CTTC sẽ không còn khả năng hoạt động cho nên CTTC chỉ
được nhận tiền gửi từ 1 năm trở lên.
1.1.2. Đặc điểm của công ty tài chính.
Thứ nhất CTTC là một doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật
các tổ chức tín dụng và những quy định của pháp luật và là doanh nghiệp chịu sự
quản lý của NHNN Việt Nam. Do vậy CTTC có đủ các điều kiện của một doanh
nghiệp chẳng hạn như có tên riêng, có tài sản, trụ sở giao dịch, đăng ký kinh
doanh… Hơn nữa loại hình doanh nghiệp là CTTC phải đảm bảo tư cách pháp
nhân. Nói cách khác, CTTC phải hội đủ các dấu hiệu của một pháp nhân theo quy
định tại điều 94 Bộ luật Dân sự Việt Nam như : Được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cấp giấy phép thành lập; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc lập; nhân
danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Tuy nhiên CTTC có sự

khác biệt hơn so với doanh nghiệp khác là cơ quan cấp giấy phép thành lập, sửa đổi,
bổ sung hay thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của CTTC là NHNN Việt
Nam. Còn doanh nghiệp được thành lập theo Luật doanh nghiệp chịu sự quản lý của
Bộ kế hoạch và đầu tư.
Thứ hai CTTC là một tổ chức tài chính trung gian5. Tuy nhiên hoạt động
trung gian của CTTC có phạm vi hẹp hơn so với các các tổ chức tín dụng là ngân
hàng. CTTC chỉ được thực hiện một số hoạt động ngân hàng mà pháp luật quy định
trong khi đó tổ chức tín dụng là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân
hàng.
Tính chất trung gian của CTTC thể hiện ở hai góc độ :
- CTTC giữ vai trò trung gian giữa chủ thể cho vay và đi vay. Thông qua các
hoạt động ngân hàng và những nghiệp vụ kinh doanh khác được pháp luật cho phép,
CTTC thực hiện việc điều chuyển nguồn vốn trong nền kinh tế. Điều này được tiến
hành trên cơ sở CTTC vừa thu hút các khoản tiền nhàn rỗi của xã hội, từ các tổ chức
đồng thời CTTC vừa sử dụng chính số tiền đã huy động được để cho vay lại đối với
những chủ thể có nhu cầu về vốn. Hoạt động điều hòa, trung gian tài chính của

5

Tập bài giảng Luật ngân hàng. Ths. Lê Huỳnh Phương Chinh.Khoa luật trường Đại học Cần thơ năm 2010 .

GVHD: Th.s. Lê Huỳnh Phương Chinh

7

SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang


Luận văn tốt nghiệp


Pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của công ty tài chính

CTTC đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, ổn
định sức mua và cung cấp vốn – điều kiện để nền kinh tế ổn định, phát triển.
- CTTC là chế định tài chính trung gian giữa NHNN với kinh tế. Những công
cụ, biện pháp của chính sách tiền tệ quốc gia mà ngân hàng trung ương thực hiện
đều thông qua việc tác động đến nguồn vốn, hoạt động của CTTC cùng với các tổ
chức tín dụng (TCTD) khác. Việc CTTC tiến hành hoạt động của mình trong khuôn
khổ chủa chính sách tiền tệ quốc gia đều có những tác động nhất định đối với nền
kinh tế, có thể làm tăng, giảm lượng tiền trong lưu thông, hướng đến mục tiêu ổn
định giá trị đồng tiền. Chẳng hạn như các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc
gia bao gồm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở…sẽ tác động và
điều chỉnh đến định chế trung gian là CTTC. Hoạt động của các CTTC thúc đẩy nền
kinh tế phát triển. Các CTTC này sử dụng triệt để nguồn vốn mà các mình đang
nắm giữ. Đồng thời còn huy động thêm một lượng vốn quan trọng trong nền kinh tế
vào quá trình lưu thông hàng hóa, dịch vụ của nền kinh tế, cùng với các định chế
khác hoạt động kinh doanh tiền tệ của các định chế phi tài chính này làm phong phú
thêm thị trường tài chính, làm sôi động thị trường tài chính tạo ra nguồn vốn lớn
cho các doanh nghiệp để mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh. Ngược lại các
CTTC hoạt động không có hiệu quả nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế làm
cho dòng vốn không thể luân chuyển được từ nơi thừa đến nơi thiếu vốn. Trên cơ sở
đó những chính sách của NHNN Việt Nam sẽ tạo ra những tác động nhất định đến
hoạt động của CTTC đồng thời cũng sẽ tác động đến nền kinh tế. Do vậy CTTC
được xem như một chế định tài chính trung gian giữa NHNN Việt Nam đối với nền
kinh tế.
1.1.3. Giới thiệu các loại hình công ty tài chính.
Như định nghĩa CTTC là tổ chức tín dụng phi ngân hàng cho nên CTTC
được thành lập và, tổ chức dưới các hình thức sau: “ CTTC trách nhiệm hữu hạn
hai thành viên trở lên, CTTC trách nhiệm một thành viên, CTTC cổ phần ”6.
1.1.3.1. CTTC ở dạng công ty trách nhiệm hữu hạn ( TNHH ) hai thành

viên trở lên.
CTTC trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là một trong những hình
thức của CTTC do vậy CTTC trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là một
6

Khoản 3 điều 6 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010.

GVHD: Th.s. Lê Huỳnh Phương Chinh

8

SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của công ty tài chính

doanh nghiệp và được thành lập theo luật doanh nghiệp năm 2005. Theo quy định
của Luật doanh nghiệp năm 2005: “ công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở
lên là doanh nghiệp trong đó: Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng
thành viên không vượt quá năm mươi; Thành viên chịu tất cả các khoản nợ và
nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn cam kết góp vào
doanh nghiệp; công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân kể từ ngày được
cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Công ty TNHH không được quyền phát
hành cổ phần”7.
Ngoài đáp ứng những điều kiện thành lập theo luật doanh nghiệp thì CTTC ở
dạng tổ chức trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên cần đáp ứng một số điều
kiện :
Có vốn điều lệ tối thiểu bằng mức vốn pháp định8. Theo quy định của Nghị

định 10/2011/NĐ-CP ngày 26 tháng 01 năm 2011 về việc sửa đổi, bổ sung một số
điều của nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 11 năm 2006 về ban hành
Danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng thì vốn điều lệ tối thiểu
bằng mức vốn pháp định của CTTC ở dạng tổ chức trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên là 500 tỷ đồng.
Người quản lý, người điều hành, thành viên ban kiểm soát phải có đủ các
điều kiện: có đạo đức nghề nghiệp; là cá nhân sở hữu hoặc người được ủy quyền đại
diện sở hữu ít nhất 5% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng, trừ trường hợp là thành
viên Hội đồng thành viên, thành viên độc lập của Hội đồng quản trị hoặc có bằng
đại học trở lên về một trong các ngành kinh tế, quản trị kinh doanh, luật hoặc có ít
nhất 03 năm là người quản lý của tổ chức tín dụng hoặc doanh nghiệp hoạt động
trong ngành bảo hiểm, chứng khoán, kế toán, kiểm toán hoặc có ít nhất 05 năm làm
việc trực tiếp tại các bộ phận nghiệp vụ trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính, kiểm
toán hoặc kế toán.9
Có điều lệ phù hợp với quy định của pháp luật10. theo quy định tại điều 22
luật doanh nghiệp năm 2005 điều lệ CTTC tổ chức dưới dạng TNHH hai thành viên
trở lên bao gồm: Tên, địa chỉ trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện.Ngành,
7

Điều 38 Luật doanh nghiệp năm 2005
Điểm a khoản 1 điều 20 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010
9
Điểm c khoản 1 điều 50 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010
10
Điểm d khoản 1 điều 20 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010
8

GVHD: Th.s. Lê Huỳnh Phương Chinh

9


SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của công ty tài chính

nghề kinh doanh.Vốn điều lệ; cách thức tăng và giảm vốn điều lệ. Họ, tên, địa chỉ,
quốc tịch và các đặc điểm cơ bản khác của chủ sở hữu công ty, thành viên đối với
công ty trách nhiệm hữu hạn. Phần vốn góp và giá trị vốn góp của mỗi thành viên
đối với công ty trách nhiệm hữu hạn. Quyền và nghĩa vụ của thành viên đối với
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh; của cổ đông đối với công ty cổ
phần. Cơ cấu tổ chức quản lý. Người đại diện theo pháp luật đối với công ty trách
nhiệm hữu hạn. Thể thức thông qua quyết định của công ty; nguyên tắc giải quyết
tranh chấp nội bộ. Căn cứ và phương pháp xác định thù lao, tiền lương và thưởng
cho người quản lý và thành viên Ban kiểm soát hoặc Kiểm soát viên. Những trường
hợp thành viên có thể yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp đối với công ty trách
nhiệm hữu hạn.Nguyên tắc phân chia lợi nhuận sau thuế và xử lý lỗ trong kinh
doanh. Các trường hợp giải thể, trình tự giải thể và thủ tục thanh lý tài sản công ty.
Thể thức sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty. Họ, tên, chữ ký của người đại diện theo
pháp luật, của chủ sở hữu công ty, của các thành viên hoặc người đại diện theo uỷ
quyền đối với công ty trách nhiệm hữu hạn.
Có Đề án thành lập, phương án kinh doanh khả thi, không gây ảnh hưởng
đến sự an toàn, ổn định của hệ thống tổ chức tín dụng; không tạo ra sự độc quyền
hoặc hạn chế cạnh tranh hoặc cạnh tranh không lành mạnh trong hệ thống tổ chức
tín dụng11.
Phải được sự chấp thuận của NHNN Việt Nam. NHNN Việt Nam là cơ quan
duy nhất có thẩm quyền cấp giấy phép thành lập,sửa đổi, bổ sung giấy phép của
CTTC dưới dạng tổ chức TNHH hai thành viên trở lên.

So với một doanh nghiệp là công ty TNHH hai thành viên trở lên thì CTTC ở
dạng tổ chức TNHH hai thành viên trở lên có sự khác biệt. Nếu doanh nghiệp là
công ty TNHH hai thành viên trở lên thì phải đăng ký kinh doanh tại phòng đăng ký
kinh doanh thuộc sở kế hoạch và đầu tư. Còn CTTC ở dạng tổ chức TNHH hai
thành viên trở lên là một doanh nghiệp nhưng chịu sự quản lý của NHNN. NHNN là
cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép thành lập cho doanh nghiệp thuộc hình thức
này.
1.1.3.2. CTTC ở dạng công ty TNHH một thành viên.

11

Điểm đ khoản 1 điều 20 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010

GVHD: Th.s. Lê Huỳnh Phương Chinh

10

SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của công ty tài chính

Hình thức CTTC trách nhiệm một thành viên là loại hình công ty phổ biến ở
Việt Nam. Theo quy định của pháp luật “ Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu ( sau đây
gọi là chủ sở hữu công ty ); chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ
và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty;
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có tư cách pháp nhân kể từ ngày được

cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên không được quyền phát hành cổ phần ”12.
Cũng tương tự như CTTC ở dạng tổ chức TNHH hai thành viên trở lên cả hai
loại hình này vẫn phải đáp ứng các điều kiện thành lập chung và chịu sự quản lý
của NHNN Việt nam. Tuy nhiên hai loại hình tổ chức này có điểm khác nhau: Chủ
sở hữu của CTTC ở dạng tổ chức TNHH hai thành viên trở lên có thể là tổ chức, cá
nhân còn CTTC ở dạng tổ chức TNHH một thành viên do một tổ chức hoặc một cá
nhân làm chủ. Những tổ chức, cá nhân sau đây không được thành lập CTTC ở dạng
TNHH một thành viên13:
Thứ nhất đối với tổ chức là Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang
nhân dân Việt Nam sử dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh
thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình.
Thứ hai đối với cá nhân là cán bộ, công chức; Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội
nhân dân Việt Nam; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị
thuộc Công an nhân dân Việt Nam; Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các
doanh nghiệp 100% vốn sở hữu nhà nước, trừ những người được cử làm đại diện
theo uỷ quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác; Người
chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất năng lực
hành vi dân sự; Người đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị Toà án cấm hành
nghề kinh doanh.
Ngoài những tổ chức, cá nhân nêu trên thì tổ chức, cá nhân đáp ứng đủ các
điều kiện theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 và được NHNN

12
13

Điều 63 Luật doanh nghiệp năm 2005
Khoản 2 điều 13 Luật doanh nghiệp năm 2005


GVHD: Th.s. Lê Huỳnh Phương Chinh

11

SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của công ty tài chính

cấp giấy phép thì đều có quyền thành lập CTTC ở dạng công ty TNHH một thành
viên.
1.1.3.3. CTTC ở dạng cổ phần.
Theo quy định tại khoản 2.2 điều 2 Thông tư 06/2002/ TT-NHNN ngày
23 tháng 12 năm 2002 Hướng dẫn thực hiện Nghị định 79/2002/NĐ-CP ngày
04/10/2002 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Công ty tài chính thì CTTC
cổ phần được định nghĩa: “ CTTC cổ phần là CTTC do các tổ chức và cá nhân
cùng góp vốn theo quy định của pháp luật, được thành lập dưới hình thức Công ty
cổ phần ”.
Theo định nghĩa thì CTTC cổ phần được thành lập theo hình thức công ty cổ
phần. Như vậy theo luật doanh nghiệp năm 2005: “ Công ty cổ phần là doanh
nghiệp, trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn
chế số lượng tối đa; Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài
sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp; Cổ
đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác; Công ty cổ
phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh; Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn
”.

Như vậy CTTC cổ phần là doanh nghiệp có sự tham gia góp vốn của nhiều
thành viên có thể là tổ chức, cá nhân và lợi nhuận giữa các thành viên được chia
theo phần vốn đã góp vào và chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn góp của
mình.Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người
khác…Tuy nhiên không phải mọi tổ chức, cá nhân đều có thể góp vốn vào CTTC.
Đối với tổ chức là cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam
sử dụng tài sản nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan,
đơn vị mình14, và đối với cá nhân là cán bộ, công chức, viên chức thì không được
tham gia góp vốn vào CTTC cổ phần15.

14
15

Điểm a khoản 4 điều 13 Luật doanh nghiệp năm 2005
Điểm b khoản 1 điều 37 Luật phòng chống tham nhũng 2005

GVHD: Th.s. Lê Huỳnh Phương Chinh

12

SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của công ty tài chính

Cũng như hình thức CTTC ở dạng tổ chức TNHH hai thành viên trở lên và
CTTC ở dạng tổ chức TNHH một thành viên thì CTTC cổ phần cũng phải chịu sự
quản lý của NHNN Việt Nam.

1.1.4. Phân biệt CTTC với ngân hàng thƣơng mại ( NHTM ).
1.1.4.1. Về bản chất và phạm vi hoạt động.
Công ty tài chính là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng, với chức năng
là sử dụng vốn tự có vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu tư; cung
ứng các dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ và thực hiện một số dịch vụ khác theo
quy định của pháp luật, nhưng không được làm dịch vụ thanh toán, không được
nhận tiền gửi dưới một năm.
Trong khi đó “ Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực
hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy
định của Luật các tổ chức tín dụng nhằm mục tiêu lợi nhuận”16. Như vậy ngân hàng
là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các
hoạt động kinh doanh khác có liên quan, cụ thể là hoạt động kinh doanh tiền tệ và
dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này
để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Xét về bản chất và phạm vi hoạt giữa CTTC và NHTM ta thấy có sự khác
biệt, CTTC là TCTD phi ngân hàng chỉ được thực hiện một số hoạt động ngân hàng
và không được nhận tiền gửi của cá nhân và không thực hiện việc cung ứng các
dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng. Còn NHTM có phạm vi hoạt động
rộng hơn CTTC bởi vì NHTM được thực hiện toàn bộ hoạt đông ngân hàng bao
gồm hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán cho khách hàng.
1.1.4.2. Mức vốn pháp định
Công ty tài chính và ngân hàng đều phải có vốn pháp định. Vốn pháp định là
số vốn tối thiểu của các doanh nghiệp buộc phải đáp ứng đủ thì mới được cấp phép
thành lập và hoạt động. Song vốn pháp định của công ty tài chính thấp hơn ngân
hàng.

16

Khoản 3 điều 4 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010


GVHD: Th.s. Lê Huỳnh Phương Chinh

13

SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của công ty tài chính

Theo nghị định 141/2006/NĐ-CP17 được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định
10/2011/NĐ-CP ngày 26 tháng 01 năm 2011 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều
của nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 11 năm 2006 về ban hành danh
mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng. CTTC được cấp giấy phép thành
lập và hoạt động sau ngày Nghị định 141/2006/NĐ-CP của Chính phủ có hiệu lực
và trước ngày 31 tháng 12 năm 2008 thì phải có mức vốn pháp định là 300 tỷ đồng;
CTTC được cấp phép thành lập và hoạt động sau ngày 31 tháng 12 năm 2008 thì
phải có mức vốn pháp định là 500 tỷ đồng.
Nhưng vốn pháp định đối với một Ngân hàng Thương mại áp dụng cho đến
năm 2008 không thấp hơn 1.000 tỷ đồng, tùy theo loại hình ngân hàng và áp dụng
cho đến năm 2010 trở đi không thấp hơn 3.000 tỷ đồng18.
Mức vốn pháp định của CTTC luôn thấp hơn mức vốn pháp định của
NHTM. Sở dĩ pháp luật quy định như vậy là nhằm giúp cho mô hình công ty này
ngày càng phát triển vì khi tổ chức, cá nhân muốn thành lập một TCTD và chọn loại
hình TCTD là NHTM nhưng vốn pháp định của họ không đủ để được cấp giấy phép
thành lập thì họ vẫn có thể thành lập một TCTD khác và có thể chọn loại hình
CTTC vì mức vốn pháp định của loại hình này không quá cao. Như vậy CTTC là
loại hình được tổ chức, cá nhân ưu tiên lựa chọn thì vị thế của các CTTC trên thị
trường ngày càng được nâng cao.

1.1.4.3. Loại hình tổ chức và thời gian hoạt động.
 Loại hình tổ chức hoạt động
Theo khoản 3 điều 6 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 thì CTTC chỉ được
thành lập theo một trong ba hình thức sau: CTTC trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên, CTTC trách nhiệm một thành viên, CTTC cổ phần. Xét ở khía cạnh
nào đó thì ngân hàng hoạt động như một doanh nghiệp.
Trong khi đó Ngân hàng thương mại chia thành: Ngân hàng thương mại cổ
phần; Ngân hàng 100% vốn nước ngoài được thành lập, tổ chức dưới hình thức
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có chủ sở hữu là một ngân hàng nước
ngoài hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên trong đó phải có một
17

Nghị định 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006 về ban hành danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức
tín dụng
18
Theo nghị định 141/2006/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 10/2011/NĐ-CP ngày 26 tháng 01
năm 2011 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 11 năm
2006 về ban hành danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng

GVHD: Th.s. Lê Huỳnh Phương Chinh

14

SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của công ty tài chính


ngân hàng nước ngoài sở hữu 50% vốn điều lệ; Ngân hàng liên doanh được thành
lập, tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
nhưng không quá 05 thành viên, trong đó một thành viên và người có liên quan
không được sở hữu vượt quá 50% vốn điều lệ.19
Về loại hình hoạt động có thể thấy NHTM cũng được thành lập theo các hình
thức mà CTTC được phép thành lập. Tuy nhiên đối với NHTM thì việc thành lập
dưới dạng công ty TNHH ( bao gồm TNHH một thành viên và TNHH hai thành
viên trở lên ) đều có những quy định riêng biệt khác với hình thức của CTTC.
 Thời hạn hoạt động
Theo điều 5 Nghị định 79/2002/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định
81/2008/NĐ-CP, thời hạn hoạt động của công ty tài chính tối đa là 50 năm. Trường
hợp cần gia hạn thời hạn hoạt động, phải được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ( sau
đây gọi tắt là ngân hàng nhà nước) chấp thuận, nhưng mỗi lần gia hạn không quá 50
năm.
Trong khi đó, thời hạn hoạt động của Ngân hàng thương mại được ghi trong
giấy phép tối đa không quá 99 năm; thời hạn hoạt động của văn phòng đại diện tối
đa không quá 5 năm20. Từ đó cho thấy thời hạn hoạt động của Ngân hàng thương
mại cao hơn so với CTTC điều đó có nghĩa ngân hàng vẫn giữ vị thế quan trọng của
mình trong nền kinh tế.
1.1.4.4. Cơ hội cạnh tranh và lợi ích mang lại.
Trong khi ngân hàng hoạt động rộng và huy động vốn chủ yếu từ công chúng
thì công ty tài chính huy động vốn chủ yếu từ nội bộ tập đoàn và nhóm công ty. Vì
thế, rủi ro xảy ra đối với các công ty tài chính chủ yếu là do nội bộ tập đoàn hay
nhóm công ty gánh chịu, rất ít ảnh hưởng tới cộng đồng. Khi các quan hệ kinh tế
trong tập đoàn là minh bạch và tuân thủ đúng pháp luật thì khả năng xảy ra rủi ro là
không lớn.
Một trong những hạn chế của các CTTC so với các tổ chức ngân hàng là
không được làm dịch vụ thanh toán và nhận tiền gửi dưới 1 năm. Tuy vậy, các
19


Điều 2 thông tư 40/2011/ TT-NHNN ngày 15 tháng 12 năm 2011 quy định về việc cấp Giấy phép và tổ
chức, hoạt động của ngân hàng thương mại,chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức
tín dụng nước ngoài,tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng tại Vệt Nam.
20

Theo quy định tại điều 22 Thông tư 40/2011/TT-NHNN ngày 15 tháng 12 năm 2011 quy định về việc cấp
Giấy phép và tổ chức, hoạt động của ngân hàng thương mại,chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại
diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng tại Vệt Nam

GVHD: Th.s. Lê Huỳnh Phương Chinh

15

SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của công ty tài chính

CTTC hiện nay đã khắc phục bằng việc phát triển thêm nhiều sản phẩm dịch vụ mới
như dịch vụ nhận ủy thác vốn, nhận ủy thác đầu tư bao thanh toán, thu xếp
vốn,...v.v. cho cả ngắn hạn, trung và dài hạn. Những dịch vụ này đã giúp CTTC
thực hiện được các dịch vụ khác tương tự như một ngân hàng thương mại.
Như vậy, có thể thấy lợi ích của CTTC mang lại cho các doanh nghiệp là rất
lớn. CTTC sử dụng nguồn vốn huy động được của mình cho các doanh nghiệp vay
và đòi hỏi các doanh nghiệp phải hoàn trả gốc và lãi, nếu các doanh nghiệp muốn
tồn tại thì phải không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động, như thế thì doanh nghiệp
sẽ thu lại nguồn lợi lớn trong hoạt động kinh doanh của mình. Không phải ngẫu
nhiên mà trên thế giới, các tập đoàn lớn thường có ít nhất một CTTC. CTTC là công

cụ để tập đoàn điều tiết vốn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả và thuận lợi nhất.
Trong phạm vi nội bộ tập đoàn hoặc nhóm công ty có quan hệ lợi ích gắn bó, CTTC
có thể dễ dàng huy động các nguồn vốn nhàn rỗi từ các công ty thành viên để tập
trung vốn đầu tư. Với tính nội bộ cao trong hoạt động nghiệp vụ công ty tài chính
có thể kiểm soát rủi ro và tập trung vốn lớn cho các dự án quan trọng trong nội bộ
tập đoàn.
1.2. Giới thiệu sơ lƣ c các hoạt động của công ty tài chính.
1.2.1. Giới thiệu sơ lƣ c về hoạt động huy động vốn của công ty tài
chính.
CTTC có các hình thức huy động vốn được quy định tại mục 3 chương IV
luật các tổ chức tín dụng năm 2010 bao gồm hoạt động nhận tiền gửi, phát hành
giấy tờ có giá (chỉ được phát hành những giấy tờ có giá như: chứng chỉ tiền gửi, kỳ
phiếu, tín phiếu, trái phiếu )
1.2.1.1. Huy động vốn từ nhận tiền gửi
Theo khoản 13 điều 4 luật các tổ chức tín dụng năm 2010: “ Nhận tiền gửi là
hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền
gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và
các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi
cho người gửi tiền theo thỏa thuận ”.
Trong các hình thức huy động vốn của các TCTD thì huy động vốn từ nhận
tiền gửi là phương thức huy động vốn ban đầu và cho đến hiện nay nó vẫn là hình
thức huy động vốn quan trọng về mặt kinh tế và chiếm tỷ lể lớn nhất trong tổng
GVHD: Th.s. Lê Huỳnh Phương Chinh

16

SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang


Luận văn tốt nghiệp


Pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của công ty tài chính

nguồn vốn huy động của mỗi tổ chức tín dụng. Việc huy động vốn bằng hình thức
nhận tiền gửi là một hình thức huy động vốn đặc trưng riêng của các tổ chức tín
dụng và của các tổ chức khác được nhà nước cho phép hoạt động ngân hàng.
Theo định nghĩa thì CTTC thuộc loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng do
đó CTTC chỉ được phép nhận tiền gửi có kỳ hạn từ 1 năm trở lên của tổ chức.
Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền mà người gửi cam kết chỉ rút khỏi tài khoản
khi đến hạn. Đây là loại tiền gửi mang tính ổn định hơn so với tiền gửi không kỳ
hạn nên CTTC có thể sử dụng chúng vào hoạt động kinh doanh của mình hiệu quả
hơn. Tiền gửi có kỳ hạn đươc chia thành: Tiền gửi ngắn hạn ( dưới 1 năm ), tiền gửi
trung hạn ( từ 01 đến 05 năm ), tiền gửi dài hạn ( 05 năm trở lên). Như đã nêu,
phạm vi nhận tiền gửi mà CTTC có thể thực hiện hoạt động vốn không bao gồm
tiền gửi ngắn hạn.
1.2.1.2. Huy động vốn bằng cách phát hành giấy tờ có giá
Theo khoản 8 điều 6 Luật ngân hàng Nhà nước Việt năm năm 2010 quy
định: “Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát
hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định
,điều kiện trả lãi và các điều kiện khác ”.
Về phương diện kinh tế giao dịch phát hành giấy tờ có giá được hiểu là một
nghiệp vụ huy động vốn của TCTD.
Về phương diện pháp lý giao dịch phát hành giấy tờ có giá của TCTD được
hiểu là hành vi pháp lý theo đó TCTD cam kết vay tiền của khách hàng là tổ chức,
cá nhân trong một thời hạn nhất định với điều kiện sẽ hoàn trả cho khác hàng số tiền
ghi trên chứng thư nhận nợ do tổ chức tín dụng phát hành.
Theo nghị định số 81/2008/NĐ-CP ngày 29/07/2008 về sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 79/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 về tổ chức và hoạt động
của công ty tài chính quy định: CTTC chỉ được phát hành trái phiếu, chứng chỉ tiền
gửi và giấy tờ có giá khác có kỳ hạn từ 1 năm trở lên để huy động vốn của tổ chức,

cá nhân trong nước và ngoài nước theo quy định của NHNN Việt nam21. Tuy nhiên
tại điểm b khoản 1 điều 108 luật các tổ chức tín dụng năm 2010 quy định CTTC chỉ
được phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu để huy động vốn
21

Khoản 6 điều 1 Nghị định số 81/2008/ NĐ-CP ngày 29/07/2008 về sửa đổi,bổ sung một số điều của Nghị
định số 79/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 về tổ chức và hoạt động của công ty tài chính

GVHD: Th.s. Lê Huỳnh Phương Chinh

17

SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của công ty tài chính

của tổ chức. So với những quy định trước đây thì quy định của luật các tổ chức tín
dụng năm 2010 có những khác biệt nhất định. Theo quy định của pháp luật hiện
hành thì CTTC chỉ được phát hành những giấy tờ có giá như : chứng chỉ tiền gửi, kỳ
phiếu, tín phiếu, trái phiếu để huy động vốn của tổ chức.
1.2.1.3 Vai trò của hoạt động huy động vốn.
Huy động vốn góp phần mang lại nguồn vốn cho CTTC thực hiện các nghiệp
kinh doanh như cho vay, bảo lãnh…Vốn là cơ sở hoạt động của CTTC. CTTC
muốn hoạt động kinh doanh được thì phải có vốn, vốn phản ánh năng lực chủ yếu
để quyết định khả năng kinh doanh của CTTC. Nếu không có hoạt động huy động
vốn,CTTC sẽ không đủ nguồn vốn cho hoạt của mình.
Hoạt động huy động vốn của CTTC quyết định tới khả năng cạnh tranh của

CTTC trên thị trường. Nếu có nguồn vốn lớn các CTTC sẽ có ưu thế hơn trong cạnh
tranh chẳng hạn như: nguồn vốn lớn giúp các CTTC có điều kiện đa dạng hóa sản
phẩm, dịch vụ, ứng dụng những công nghệ mới, giúp CTTC giảm thiểu rủi ro trong
kinh doanh…
1.2.2. Giới thiệu sơ lƣ c về hoạt động cấp tín dụng của công ty tài chính.
Hiện nay theo quy định của pháp luật hiện hành-Luật các tổ chức tín dụng
năm 2010, cấp tín dụng được định nghĩa:
“ Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản
tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả
bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính ,bao thanh toán, bảo lãnh
ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác ”22.
Theo định nghĩa thì hoạt động cấp tín dụng bao gồm hoạt động cho vay,
chiết khấu , cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng. Theo quy định
tại khoản 1 điều 108 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 thì CTTC được cấp tín
dụng dưới các hình thức sau: cho vay, chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển
nhượng, các giấy tờ có giá, bảo lãnh ngân hàng , phát hành thẻ tín dụng, bao thanh
toán, cho thuê tài chính và các hình thức cấp tín dụng khác sau khi được NHNN
chấp thuận. Tuy nhiên hoạt động cấp tín dụng thường xuyên và chủ yếu của CTTC
khi đăng ký hoạt động là: cho vay, chiết khấu, tái chiết khấu, bảo lãnh còn các hoạt
động khác phải được sự chấp thuận của NHNN thì CTTC mới được thực hiện.
22

Khoản 14 điều 4 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010.

GVHD: Th.s. Lê Huỳnh Phương Chinh

18

SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang



Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của công ty tài chính

So với hoạt động cấp tín dụng của Ngân hàng Thương mại thì hoạt động cấp
tín dụng của CTTC hạn chế hơn. Chẳng hạn như CTTC không được tham gia hoạt
động phát hành thẻ và bao thanh toán từ khi đăng ký thành lập và không được thực
hiện hoạt động cấp tín dụng cho khách hàng là cá nhân.
1.2.2.1. Giới thiệu sơ lươc về hoạt động cho vay
Cho vay là một trong những hoạt động cấp tín dụng của CTTC nhờ vào lãi từ
hoạt động này mà CTTC có thể huy động được nguồn vốn để đảm bảo hoạt động
kinh doanh diễn ra bình thường. “ Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên
cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục
đích xác định trong một thời gian nhất định với nguyên tắc có hoàn trả gốc và lãi
”23.
Theo quy định của pháp luật hiện hành CTTC được cho vay bao gồm cả cho
vay trả góp và cho vay tiêu dùng24.
Cho vay trả góp là hình thức công ty cho phép người vay trả nợ gốc và lãi
suất theo từng thời kỳ theo sự thỏa thuận giữa các bên.
Cho vay tiêu dùng là loại cho vay mà nguồn vốn vay được bên vay sử dụng
vào mục đích tiêu dùng. Cho vay tiêu dùng thông thường là những món vay nhỏ
nhằm tạo thu nhập cho người vay.
1.2.2.2. Giới thiệu sơ lươc về hoạt động chiết khấu.
Chiết khấu là một hình thức cấp tín dụng ra đời sau so với các nghiệp vụ
khác nhưng với một số ưu điểm như: Không cần phải bảo quản tài sản đảm bảo, quy
trình đơn giản và nhanh chóng, tính thanh khoản cao. Vì vậy phương thức chiết
khấu giấy tờ có giá được CTTC cũng như các đối tượng có nhu cầu về vốn ưu tiên
lựa chọn. Ngoài ra có thể thấy rằng chiết khấu là một nghiệp vụ cấp tín dụng hiệu
quả để các CTTC hỗ trợ vốn cho các thương nhân trong hoạt động kinh doanh.

“ Chiết khấu là việc mua có kỳ hạn hoặc mua có bảo lưu quyền truy đòi các
công cụ chuyển nhượng,giấy tờ có giá khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn
thanh toán”25.
“ Tái chiết khấu là việc chiết khấu các công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có
giá khác đã được chiết khấu trước khi đến hạn thanh toán”26
23

Khoản 16 điều 4 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010
Điểm d khoản 1 điều 108 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010
25
Khoản 19 điều 4 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010.
24

GVHD: Th.s. Lê Huỳnh Phương Chinh

19

SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của công ty tài chính

Như vậy Chiết khấu tái, chiết khấu công cụ chuyển nhượng là sự thỏa thuận
giữa CTTC với khách hàng. Theo đó, CTTC sẽ cấp tín dụng bằng cách mua công cụ
chuyển nhượng chưa đến hạn thanh toán thuộc sở hữu của khách hàng.
Loại công cụ chuyển nhượng được chiết khấu, tái chiết khấu phải còn thời
hạn thanh toán. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì công cụ chuyển nhượng
bao gồm27: Hối phiếu đòi nợ , hối phiếu nhận nợ, séc.

1.2.2.3. Giới thiệu sơ lươc về họat động bảo lãnh.
CTTC được bảo lãnh bằng uy tín và khả năng tài chính của mình đối với
người nhận bảo lãnh. Theo khoản 18 điều 4 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010
quy định: “Bão lãnh ngân hàng là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng
cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài
chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không
đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín
dụng theo thỏa thuận”.
Theo định nghĩa thì ta thấy rằng CTTC sẽ cam kết với người nhận bảo lãnh
về việc CTTC sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho khách hàng khi người này không thực
hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của họ đối với bên có quyền. Ngược lại
khách hàng phải ghi nợ cho CTTC và có nghĩa vụ phải hoàn trả nợ cho CTTC số
tiền đã được trả thay theo thỏa thuận.
Theo điểm d khoản 1 điều 108 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 chỉ quy
định ngắn gọn CTTC được phép thực hiện hoạt động bảo lãnh ngân hàng và theo
quy định của Thông tư số 28/2012/TT-NHNN ngày 03 tháng 10 năm 2012 quy định
các loại hình bảo lãnh Ngân hàng của CTTC:
Bảo lãnh vay vốn: Là cam kết của tổ chức tín dụng với bên nhận bảo lãnh, về
việc sẽ trả nợ thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không trả hoặc
không trả đầy đủ, đúng hạn nợ vay đối với bên nhận bảo lãnh.
Bảo lãnh thanh toán: Là cam kết của tổ chức tín dụng với bên nhận bảo lãnh,
về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán thay cho khách hàng trong trường hợp

26

Khoản 20 điều 4 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010
Khoản 1 điều 6 Thông tư 04/2013/TT-NHNN ngày 01 tháng 03 năm 2013 quy định về hoạt động chiết
khấu công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối
với khách hàng
27


GVHD: Th.s. Lê Huỳnh Phương Chinh

20

SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của công ty tài chính

khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ thanh toán của
mình khi đến hạn.
Bảo lãnh dự thầu: Là cam kết của của tổ chức tín dụng với bên mời thầu, để
bảo đảm nghĩa vụ tham gia dự thầu của khách hàng. Trường hợp, khách hàng phải
nộp phạt do vi phạm quy định đấu thầu mà không nộp hoặc không nộp đầy đủ tiền
phạt cho bên mời thầu thì tổ chức tín dụng sẽ thực hiện thay.
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: Là cam kết của tổ chức tín dụng với bên nhận
bảo lãnh, bảo đảm việc thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ của khách hàng theo
hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm hợp
đồng và phải bồi thường cho bên nhận bảo lãnh mà không thực hiện hoặc thực hiện
không đầy đủ thì tổ chức tín dụng sẽ thực hiện thay.
Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm: Là cam kết của của tổ chức tín
dụng với bên nhận bảo lãnh, bảo đảm việc khách hàng thực hiện đúng các thoả
thuận về chất lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh.
Trường hợp khách hàng vi phạm chất lượng sản phẩm và phải bồi thường cho bên
nhận bảo lãnh mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì tổ chức tín dụng
sẽ thực hiện thay.
Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước: Là cam kết của tổ chức tín dụng với bên

nhận bảo lãnh về việc bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng trước của khách hàng
theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm
hợp đồng và phải hoàn trả tiền ứng trước mà không hoàn trả hoặc hoàn trả không
đầy đủ thì tổ chức tín dụng sẽ thực hiện thay.
Bảo lãnh đối ứng: Là cam kết của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh đối ứng)
với bên bảo lãnh về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính cho bên bảo lãnh, trong
trường hợp bên bảo lãnh thực hiện bảo lãnh và phải trả thay cho khách hàng của bên
bảo lãnh đối ứng với bên nhận bảo lãnh.
Xác nhận bảo lãnh: Là cam kết bảo lãnh của tổ chức tín dụng (bên xác nhận
bảo lãnh) đối với bên nhận bảo lãnh, về việc bảo đảm khả năng thực hiện nghĩa vụ
bảo lãnh của bên bảo lãnh đối với khách hàng.
1.2.2.4. Vai trò của hoạt động cấp tín dụng của công ty tài chính
Hoạt động cấp tín dụng là hoạt động chủ yếu của CTTC, nó quyết định sự
tồn tại và phát triển của CTTC trong nền kinh tế thị trường. Hoạt động cấp tín dụng
GVHD: Th.s. Lê Huỳnh Phương Chinh

21

SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của công ty tài chính

mang lại lợi ích nhiều nhất cho CTTC. Trong nền kinh tế thị trường CTTC đóng
phần quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội, là trung gian chuyển vốn từ
người có vốn tạm thời nhàn rỗi sang người có vốn để đầu tư. Trong quá trình phát
triển, mặc dù môi trường kinh doanh có nhiều thay đổi, nhiều phương pháp, công cụ
kinh doanh mới xuất hiện và được ứng dụng vào kinh doanh song hoạt động cấp tín

dụng vẫn luôn là hoạt động cơ bản, chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ các hoạt động
của CTTC.
Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng ngày càng
phát triển một cách đa dạng với sự tham gia của nhiều chủ thể kinh tế, theo đó quan
hệ tín dụng cũng được mở rộng cả về đối tượng và quy mô làm cho hoạt động cấp
tín dụng của CTTC ngày càng đa dạng và phức tạp hơn. Trong môi trường cạnh
tranh gay gắt hiện nay các CTTC muốn đứng vững phải đa dạng hóa hoạt động kinh
doanh của mình, mở rộng phạm vi hoạt động và đặc biệt là nâng cao chất lượng cấp
tín dụng của CTTC thích ứng tốt với tình hình hiện tại.
Hoạt động cấp tín dụng của CTTC huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn
rỗi trong tất cả các thành phần kinh tế để cho các doanh nghiệp,cá nhân vay góp
phần mở rộng sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đồng thời là
công cụ hỗ trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển. Trên thế giới có sự phát triển
khác nhau giữa các ngành kinh tế, có ngành phát triển có ngành kém phát triển. Các
ngành kinh tế kém phát triển muốn duy trì hoạt động của mình thì vốn là yêu cầu tất
yếu đặt ra. Hoạt động cấp tín dụng của CTTC góp phần đáp ứng điều đó. CTTC cấp
tín dụng cho các dự án,chương trình phát triển để khuyến khích đẩy nhanh tốc độ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Cấp tín dụng của CTTC tác động có hiệu quả tới sản xuất, thúc đẩy cạnh
tranh trong nền kinh tế thị trường. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa
dịch vụ, doanh nghiệp cần vốn đầu tư máy mốc thiết bị và luôn đổi mới công
nghệ…Tín dụng ngân hàng đáp ứng được yêu cầu đó vì thông qua các hoạt động
cấp tín dụng như cho vay vốn hay chiết khấu công cụ chuyển nhượng…thì khách
hàng sẽ có vốn thực hiện dự án của mình nhưng với điều kiện hoàn trả cả vốn vay
và lãi.

GVHD: Th.s. Lê Huỳnh Phương Chinh

22


SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của công ty tài chính
*
*

*

Ở nội dung chương 1 người viết đã nêu một cách khái quát về khái niệm và
hoạt động của CTTC. Như đã định nghĩa thì CTTC là một tổ chức tín dụng phi ngân
hàng được tham gia một số hoạt động ngân hàng nhưng không được nhận tiền gửi
của cá nhân và không được cung ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản của
khách hàng. CTTC là một tổ chức trung gian còn mới nhưng có vai trò quan trong
trong việc tạo ra nguồn vốn cho nền kinh tế. CTTC là một doanh nghiệp được thành
lập theo quy định của pháp luật và chịu sự quản lý của NHNN Việt nam và được
thành lập ở dạng công ty TNHH hai thành viên trở lên, công ty TNHH một thành
viên và công ty cổ phần.

GVHD: Th.s. Lê Huỳnh Phương Chinh

23

SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang


Luận văn tốt nghiệp


Pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của công ty tài chính

CHƢƠNG II: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CẤP TÍN DỤNG
CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH.
Ở chương này, người viết tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hoạt
động cấp tín dụng của CTTC đối với khách hàng trên cơ sở những quy định của
pháp luật. Bao gồm các quy định của pháp luật về các hoạt động cho vay,chiết khấu,
bảo lảnh. Những điều kiện cần thiết để các cho các chủ thể khi tham gia vào các
hoạt động này và những quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các bên
nhằm làm giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra bảo vệ quyền và lợi ích cho các bên.
2.1. Sự cần thiết pháp luật điều chỉnh về hoạt động cấp tín dụng của công ty tài
chính.
Thứ nhất, thông qua các quy định của pháp luật về hoạt động cấp tín dụng
của CTTC nhà nước có thể thực hiện những chính sách quốc gia cho phù hợp với
từng giai đoạn phat triển kinh tế-xã hội. Với việc đưa ra những quy định về điều
kiện chủ thể,và những quy định cụ thể cho từng hoạt động cấp tín dụng của CTTC.
Nhà nước sẽ tác động trực tiếp đến hoạt động cấp tín dụng của CTTC bằng cách tạo
ra các điều kiện thực hiện việc cấp tín dụng của CTTC sao cho phù hợp với mục
tiêu phát triển của nhà nước.
Thứ hai, hoạt động cấp tín dụng của CTTC là hoạt động chứa đựng nguy cơ
rủi ro cao, sự tác động tích cực hoặc tiêu cực của hoạt động cấp tín dụng của CTTC
sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hệ thống tín dụng nói chung và của nền kinh tế nói riêng.
Chẳng hạn, hoạt động cấp tín dụng bằng hình thức cho vay của CTTC không được
pháp luật điều chỉnh thì có thể khách hàng đi vay không trả, hay hoạt động bảo lãnh
nếu CTTC đứng ra thực hiện nghĩa vụ thay cho khách hàng nhưng đến khi thực hiện
nghĩa vụ của mình mà khách hàng không hoàn trả lại số tiền bảo lãnh của CTTC thì
nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của CTTC. Nguồn vốn của CTTC sẽ không
đủ để thực hiện các hoạt động khác và có thể dẫn đến tình trạng mất khả năng chi
trả. Khi CTTC rơi vào tình trạng mất khả năng chi trả thì đòi hỏi cần có sự hổ trợ
của tổ chức tín dụng khác và của NHNN. Cho nên nếu CTTC cứ tiếp tục tình trạng

này sẽ làm cho hệ thống tín dụng sụp đổ từ đó kéo theo sự mất ổn định của nền kinh
tế. Bởi vậy, hoạt động cấp tín dụng của CTTC cần phải được nhà nước quản lý chặt
chẽ thông qua quy định của pháp luật.

GVHD: Th.s. Lê Huỳnh Phương Chinh

24

SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang


×