Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu để thấy sự tươi trẻ trong tình yêu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (76.4 KB, 4 trang )

Vẻ đẹp của thiên đường trần thế, nhất là con người trên mặt đất
trong tuổi trẻ và trong tình yêu...
Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu để thấy sự tươi trẻ trong tình yêu.
Bố cục:.
Vẻ đẹp của thiên đường trần thế.
Đẹp nhất là con người trên mặt đất trong tuổi trẻ và trong tình yêu.
Phải sống có chất lượng với cái tuổi thanh xuân của mình.
Phân tích quan niệm nhân sinh và quan niệm thẩm mĩ tiến bộ tích cực của Xuân Diệu thể hiện trong bài
thơ Vội vàng.
BÀI LÀM
A- MỞ BÀI
Thơ Xuân Diệu bao giờ cũng “say đắm” tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, cụống quýt”. Cái
động thái này đã biểu hiện ở trong Đây mùa thu tới, như một phần đề, như một phiến âm bản thì bài thơ
Vội vàng là dương bản, hết sức đặc trưng, là một bản tự bạch của Xuân Diệu. Bài thơ này cho thấy thi sĩ
rất hiểu mình, cho thấy một quan niệm nhân sinh và thẩm mĩ rất tiến bộ và tích cực.
B- THÂN BÀI
Vẻ đẹp thiên đường trần thế
Trước hết, bài thơ Vội vàng qua đôi mắt của Xuân Diệu cho ta thấy cõi đời trên trần thế có vẻ đẹp thiền
đường. Hoài Thanh thật tinh tế khi nhận xét “Với Thế Lữ, thi nhân còn nuôi giấc mộng lên tiên, một giấc
mộng rất xưa. Xuân Diệu đổi cảnh bồng lai và xua ai nấy vẻ hạ giới"
Từ xưa, trí tưởng tượng của con người đã tạo nên một xứ bồng lai tiên cảnh.Đó là những giấc mơ để xoa
dịu, để an ủi cuộc sống hiện tại của mình. Ngay cùng thời ,Xuân Diệu, Thế Lữ đã có những giấc mộng
tiên như thế. Cảnh sắc ở đây thật
hụyền áo.
Trời cao xanh ngất ở kia
Hai con hạc trắng bay về bồng lai
Xuân Diệu thì không thể! Ông nhìn thấy và muốn cho mọi người :thậm chí lôi kéo chúng ta vào một thiên
đường trần thế. Thiên đường ấy của những người bình thường. Nó mang vẻ dẹp ngồn ngộn sức sống Chỉ
cần một bí quyết nhỏ thôi thì chúng ta sẽ lĩnh hội được thiên đường ấy, bí quyết ấy chính là “sống toàn
tăm, toàn ý, toàn hồn“ và hãy đánh thức dậy tất cả những giác quan của mình.
Đọc đoạn thơ sau:


Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì


Này dãy lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh nay đây khúc tình sì
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa.
Tháng giếng ngon như một cặp môi gần
Ta cứ ngỡ ngàng như đang lạc vào vườn địa đàng. Trong khu vườn ấy, người thi sĩ đang dâng hiến một
cách hào phóng tất cả những báu vật đem đến cho ta chuếnh choáng say mê cuộc sống. Điệp từ “Này
dây" không chỉ là mời, không chỉ là dâng hiến, không chỉ liệt kê tài sản vô giá của thiên nhiên mà có lẽ nó
đã ngấm vào người đọc một nhịp điệu thúc giục vội vàng. Nó khuyên người ta đừng quá mất thời gian khi
ngắm nhìn vườn địa đàng trần thế. Mỗi bước đi khi ta lạc vào trong đó đều như ùn ùn nở ra những điều
mới lạ khiến ta càng say mê đắm đuối. Những hình ảnh ở trong vườn địa đàng này nó có sắc “hoa của
đồng nội xanh rì” có vị trí dành cho “ong bướm tuần tháng mật”. Nó có hình có khối như những sợi tơ
duyên “lá của cành tơ phơ phất”. Dường như ở đây xuất hiện khúc nhạc vui khiến người ta đi vào cõi si
mê của tình ái “Của yến anh này đây khúc tình si”. Thiên nhiên rất rộng rãi nhưng không rối. Nó là cái
nền để cho con người thực sự tạo nên thiên đường
Và này đây...
Tháng giêng...
Hóa ra vẻ đẹp của thiên đường trần thế là do chính con người tạo ra. Ánh sáng từ rèm mi đã làm cho hoa
lá, chim chóc tưng bừng, làm cho bình minh ló rạng để- cho “mỗi buổi sáng thần Vui hằng gõ cửa", để
cho người ta cảm nhận tháng đầu tiên của mùa xuân “ngon như một cặp môi gần ”, Một cảm giác khó nói
thành lời Nó nồng nàn say đắm nhưng rất thanh tân.
Thực ra cái thời gian tươi trẻ, cái vườn xuân địa đàng tuyệt vời của Xuân Diệu miêu tả không phải bây
giờ mới có. Nó có trước khi con người xuất hiện. Nó tồn tại khách quan ngoài ý chủ quan của con ngươi.
Tuy nhiên, người nghệ sĩ hơn người thường ở chỗ đã cho ta nhìn được cái đẹp đen hai lần trong thời gian
quanh ta. Chính đôi mắt xanh non của Xuản Diệu đã cung cấp một thời gian vốn già nua thành trẻ lại.
Một đôi mắt với cái nhìn trẻ trung yêu đời. Nó ngơ ngác và vui sướng như lần đầu tiên trông thấy trời

xanh hoa lá cỏ cây. Với Xuân Diệu cái gì cũng mới lạ đẹp đẽ. Trần thế là cái thiên đường hương, là mảnh
vườn tình ái, là mảnh tiệc với những thực đơn quyến rũ tinh thần Nó như một người tình đây khêu gợi.
Xuân Diệu yêu thiên nhiên thực ra là tình tự với thiên nhiên.Ông hướng thụ thiên nhiên như hưởng thụ ái
tình.
Và Tố Hửu trong Từ ấy cũng bắt gặp vườn thiên nhiên nhờ ông phát hiện lí tưởng cộng sản.
Đời tôi là một vườn hoa lá
Đẹp nhất là con người trên mặt đất trong tuổi trẻ và trong tình yêu.
Khi xác định chuẩn mực thẩm mĩ, Xuân Diệu cho rầng cái đẹp nhất là con trụ trên mặt đất. Và con người
chỉ có thể đẹp nhất, có ý nghĩa nhất khi sống với tình yêu. Các nhà thơ xưa thường lấy khuôn mẫu, vẻ đẹp
thiên nhiên làm chuẩn mực cho cái đẹp. Vì thế con người chỉ có thể đẹp như thiên nhiên. Khi Nguyễn Du
tả đôi mắt nàng Kiều “làn thu thủy nét xuân sơn” thì “thu thủy”và "xuân sơn” là chuẩn mực. Nhưng mắt
giai nhân chỉ đẹp đến mức như vậy. Với Xuân Diệu, định lí đã đảo ngược: con người là chuẩn mực. Thế
gian này đẹp nhất diệu kì nhất là con người. Đẹp gấp bội phần lại là sức sống tuổi thanh xuân, ở đây, con
người rạng rỡ trong tình yêu và vì thế nó là tác phẩm tuyệt vời nhất của tạo hóa.
Từ một quan niệm như thế trong bài thơ Vội vàng Xuân Diệu đã sáng tạo được hình ảnh thật độc đáo:


Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tòi không chờ nắng hạ mới hoài xuân
Khi hàng mi chớp mắt thì ánh sáng của một buổi bình minh gọi thần Vui đến. Cả bình minh rực rỡ của vũ
trụ được tỏa ra từ đôi mắt người thiếu nữ.
Câu thơ “Tháng giêng...” là một so sánh táo bạo. “Tháng giêng” là một khái niệm thời gian và chứa cả
không gian mùa xuân. Nó chỉ có thế đầy khêu gợi khi so sánh với chuẩn mực con người. Đây là cặp môi
gần. Dĩ nhiên, con người cũng vô cùng đẹp đẽ trong tuổi tình yêu. Một năm đẹp nhất là mùa xuân. Mùa
xuân đẹp nhất là tháng giêng, mọi vật bừng lên sức sống tươi mới trẻ trung. Đặc biệt, thiên nhiên ấy lại
được so sánh với chuẩn mực là vẻ đẹp của tình yêu.
Phải sống có chất lượng với tuổi thanh xuân của mình.

Trần thế là thiên đường. Trong thiên đường đẹp nhất là con người. Vì thế Xuân Diệu khuyên nhủ chúng
ta phải sống vội vàng, sống đã đầy, sống có chất lượng nhất với tuổi thanh xuân của mình. Đây là giải
pháp để hưởng thụ chính đáng hạnh phúc vốn ngắn ngủi của con người trên mặt đất. Xuân Diệu cho rằng
cuộc sống tươi đẹp, nhưng tạo hóa sinh ra con người không để cho họ mãi mãi được hưởng niềm vui với
trần thế. Câu thơ bị hẫng hụt chuyển sang một âm điệu bi thương bởi dấu chấm giữa dòng. Tôi sung
sướng. Nhưng vội vàng một nửa”. Thực ra niệm cuộc đời ngắn ngủi, tuổi xuân có hạn thời gian trôi đi
không bao giờ trở lại. Dĩ nhiên những giá trị của hạnh phúc, của cái đẹp sẽ tàn phai, sẽ chết là tất yếu.
Đây là cảm thức có tính nhân loại. Lí Bạch nói:- “Người xưa cầm đuốc chơi đùm”. Tô Thức tâm sự:
Cảnh khuya nhưng sợ rồi hoa ngủ
Khêu ngọn đèn cao ngắm vẻ hồng
Nguyễn Trãi băn khoăn :
Cầm đuốc chơi đêm bởi tiếc xuân
Nguyễn Gia Thiều thì thở dài tuyệt vọng :
Trăm năm còn có gì đâu
Chẳng qua một hổm cỏ khâu xanh ri
Ngay cả bài thơ Vãn cảnh của Hồ Chí Minh cũng chuyên vận trong quỹ đạo ấy. Tuy nhiên khi cá nhân
chưa tách khỏi cộng đồng, con người còn hỏi trong vũ trụ,
thuyết luân hồi thì cái chết chỉ là một sự bắt đầu của một quá trình. Văn học trung đại có thở than nhưng không phải ngậm
ngùi. Nó vẫn có cái thích tháng ung dung tự tại.

Xuân Diệu ý thức mãnh liệt về cá nhân nên bao giờ ông cũng vội vàng cuống quýt. Ông nhìn thấy thời
gian trôi chảy không ngừng cũng không là vĩnh viễn cho nên lần đầu tiên trong thơ ca Việt Nam mới có
quan niệm này.
Xuân đương tới , nghĩa là xuân đương qua


Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Xuân Diệu xác định xuân của vũ trụ có thể tuần hoàn nhưng xuân của đời người chỉ có một lần mà thôi.
Ông đã nồng nhiệt phủ định.
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn

Nếu tuổi trẻ chỉ hai lần thắm lại.
Nghĩ về tình hữu hạn của kiếp người, Xuân Diệu đã để lại một nỗi ngậm ngùi.
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi.
Như vậy, trong nhận thức lí tính, Xuân Diệu cho ta thấy không có cách gì để tuần hoàn lại tuổi trẻ của đất
trời. Vì thế ông khao khát tước đoạt quyền uy của tạo hóa. Tức là níu giữ thời gian, vô hiệu hóa sự vận
động của thời gian.
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Nhưng đó lại là ảo giác cho nên chỉ còn một cách là sống vội vàng, tính sổ với cuộc đời mình từng giây
từng phut
Nhưng từ câu
Mau đi thôi!(...)
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Cảm xúc đã trào lên mãnh liệt, vồ vập, giọng điệu trở nên sôi nổi, bồng bột. Ta nghe tiếng dập gấp gáp
của trái tim Xuân Diệu, những đợt sóng tình cảm như vồ chụp lấy người đọc, rủ rê người đọc cùng hành
động. Động từ “ta muốn " được lặp lại một cách rống riết và đích đáng. Các đợt yêu thương mỗi lúc thêm
mạnh mẽ, nồng nàn “ốm, riết, say, thâu, cấn ".
Có thế diễn đạt bài thơ ngắn gọn như sau “Tôi muốn tắt nắng, buộc gió bởi vì thiên đường trần thế rất
hạnh phúc. Thế nhưng tôi thấy đời người, tuổi trẻ sẽ trôi qua. Vì thế tôi cùng các bạn (ta) hãy sống chất
lượng nhất cho cuộc sống. “yêu thì phải vội vàng" Tuy nhiên cái lí luận khô khan ấy rất dễ giết chết người
đọc bởi nhịp sống rất dồi dào mãnh liệt. Người đọc mê cái thiên đường trần thế mà Xuân Diệu miêu tả,
trôi vào dòng chảy của triết lí sống gấp để tận hưởng những hạnh phúc mà mình đáng hưởng. Đó là triết lí
sống lành mạnh.
- KẾT LUẬN
Cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi người ta được hạnh phúc. Tuổi trẻ là trái xuân hạnh phúc trăng tròn. Hãy tận
hường nhừng gì ngọt ngào nhất của nó... Triết lý nhân bản sống vội vàng là con đường cũng như sự trả
giá cho hạnh phúc. Triết lí ấy được nói bằng trái tim tuổi trẻ và ta hiểu vì sao ngay khi xuất hiện, Xuân
Diệu đã được tuổi trẻ nồng nhiệt đón nhận..

loigiaihay.com
Xem thêm: Video bài giảng môn Văn học



×