Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.1 KB, 2 trang )
Bài thơ tự khắc họa diện mạo tinh thần tướng sĩ đời Trần, những
người chiến thắng quân Mông - Nguyên, bảo vệ trọn vẹn giang
sơn Đại Việt
Phạm Ngũ Lão (1255-1320) trước là môn khách, sau là con rể của Trần Hưng Đạo, quê làng Phù ủng,
huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Ông là vị tướng đã lập nhiều chiến công trong cuộc kháng chiến chống
quân Mông - Nguyên, trong việc mở mang biên giới phía Nam, được phong chức Điện súy, được phong
tước Quan nội hầu. Ông là người văn võ toàn tài đã để lại một số thơ văn, trong đó có bài Thuật hoài viết
bằng chữ Hán.
Mở đầu bài thơ ông vẽ ra một tư thế hiên ngang, kiêu dũng.
“Múa giáo non sông trải mấy thu”
Đây là câu thơ dịch từ câu thơ “Hoành sóc giang sơn khắp kỉ thu”. Hai chữ “múa giáo” không hay
bằng “Cầm ngang ngọn giáo” bởi cầm ngang ngọn giáo là một tư thế hiên ngang, vững chãi như một bức
tượng. Còn “múa giáo” gợi một động tác múa may rộn ràng. “Cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông”
gợi một hình ảnh khổng lồ cùa con người mang tầm cỡ vũ trụ, nổi lên trên giang sơn, sông núi và hình
ảnh đó kéo dài mới mấy năm, chỉ một câu đã phác họa được bức tượng đài bất hủ về vị tướng anh hùng
bảo vệ Tổ quôc. Vừa mấy thu ý nói thời gian chưa bao nhiêu.
“Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”.
Nguyên văn ‘‘Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”. Ba quân là hình ảnh chung chung cho quân đội, binh sĩ.
Tì hổ là những loài thú dũng mãnh, đem ví với quân đội rất hợp. Mấy chữ “khí thôn nguu” lâu nay dịch
chưa ổn. Có người dịch “hùng khí nuốt trôi trâu” thì cụ thể quá. Thực ra ở đây tác giả sử dụng thành ngữ
“khí thôn Ngưu Đẩu” là chỉ khí thế chực nuốt cả sao Khiêu Ngưu và sao Bắc Đẩu, tức chỉ chung cái khí
thế nuốt cả sao trời, bầu trời ở trên cao, chứ không riêng gì sao Ngưu. Chúng tôi nghĩ rằng chuyển thành
“khí mạnh nuốt trôi trâu” thì thích hợp và thi vị hơn là “nuốt sao Ngưu” như bản dịch hiện hành.
Nếu hai câu trên nặng về miêu tả vị tướng và quân đội thì hai câu dưới là câu luận:
“Công danh nam tử còn vương nợ.
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu”.
Câu thơ nói lên ý thức nghĩa vụ phụng sự đất nước cao cả của tác giả. Công danh đây là công lao và
danh vọng, xưa thường chỉ việc đỗ đạt, làm quan, lập công, tên tuổi được ghi vào bia đá bảng vàng.
Nhưng chế độ khoa cử ở Trung Quốc mới có từ đời nhà Đường, đời nhà Hán tất nhiên chưa có. Do đó
công danh đây thuần túy do công lao mà nổi tiếng. Ở đây Phạm Ngũ Lảo nói tới công danh gắn với danh
tiếng của Vũ Hầu Gia Cát Lượng đời Hán thì không dính dáng tới khoa cử đỗ đạt.