Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Khảo sát hệ thống biểu tượng, điển tích trong dân ca quan họ bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (729.91 KB, 59 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA: NGỮ VĂN

----  ----

ĐỖ THỊ BÍCH PHƢỢNG

KHẢO SÁT HỆ THỐNG BIỂU TƢỢNG,
ĐIỂN TÍCH TRONG DÂN CA QUAN HỌ
BẮC NINH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành: Văn học dân gian

HÀ NỘI – 2015


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA: NGỮ VĂN

----  ----

ĐỖ THỊ BÍCH PHƢỢNG

KHẢO SÁT HỆ THỐNG
BIỂU TƢỢNG, ĐIỂN TÍCH TRONG
DÂN CA QUAN HỌ BẮC NINH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học dân gian
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. Nguyễn Thị Ngọc Lan



HÀ NỘI – 2015


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình triển khai thực hiện khóa luận, tôi đã thường xuyên nhận
được sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn và
các thầy cô trong tổ Văn học Việt Nam, đặc biệt là TS. Nguyễn Thị Ngọc Lan –
người trực tiếp hướng dẫn.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo, các bạn sinh
viên đã giúp đỡ, chỉ bảo tận tình cũng như tạo mọi điều kiện để người viết hoàn
thành khóa luận tốt nghiệp này.
Hà Nội, ngày10 tháng 4 năm 2015
Tác giả khóa luận

Đỗ Thị Bích Phƣợng


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung mà tôi trình bày trong khóa luận tốt
nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn, chỉ bảo tận
tình của TS.Nguyễn Thị Ngọc Lan.
Tôi xin chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu của tôi trong khóa luận
này.
Hà Nội, ngày10 tháng 4 năm 2015
Tác giả khóa luận

Đỗ Thị Bích Phƣợng



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU: ............................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................... 1
3. Mục đích nghiên cứu .......................................................................................... 2
4. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................ 3
5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 3
6. Đóng góp của khóa luận ..................................................................................... 3
7. Cấu trúc khóa luận.............................................................................................. 4
NỘI DUNG: ........................................................................................................... 5
Chương 1: GIỚI THUYẾT CHUNG VỀ DÂN CA QUAN HỌ VÀ HỆ THỐNG
BIỂU TƯỢNG, ĐIỂN TÍCH TRONG DÂN CA QUAN HỌ BẮC NINH .......... 5
1.1. Dân ca Quan họ Bắc Ninh ............................................................................... 5
1.1.1. Hoàn cảnh nảy sinh ...................................................................................... 5
1.1.2. Làng Quan họ và Lối chơi Quan họ ............................................................. 8
1.1.3. Đặc sắc ngôn từ dân ca Quan họ ................................................................ 13
1.2. Biểu tượng và điển tích trong dân ca Quan họ Bắc Ninh ............................. 20
1.2.1. Khái niệm biểu tượng, điển tích ................................................................. 20
1.2.2. Khảo sát sự xuất hiện của biểu tượng và điển tích trong dân ca Quan họ
Bắc Ninh………………………………………………………………………..24
Chương 2: HỆ THỐNG BIỂU TƯỢNG VÀ Ý NGHĨA CỦA BIỂU TƯỢNG
TRONG DÂN CA QUAN HỌ BẮC NINH ........................................................ 25
2.1. Hệ thống biểu tượng ...................................................................................... 25
2.1.1. Khảo sát tư liệu .......................................................................................... 25
2.1.2. Phân loại biểu tượng................................................................................... 26
2.2. Ý nghĩa của biểu tượng ................................................................................. 32
Chương 3: HỆ THỐNG ĐIỂN TÍCH VÀ Ý NGHĨA CỦA ĐIỂN TÍCH TRONG
DÂN CA QUAN HỌ BẮC NINH ....................................................................... 39



3.1. Hệ thống điển tích ......................................................................................... 39
3.1.1. Khảo sát tư liệu .......................................................................................... 39
3.1.2. Phân loại điển tích ...................................................................................... 42
3.2. Ý nghĩa của điển tích..................................................................................... 43
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Dân ca Quan họ (còn được gọi là dân ca Quan họ Bắc Ninh) đã được hình
thành khá lâu đời, do cộng đồng người Việt (Kinh) ở 49 làng Quan họ và một số
vùng lân cận thuộc hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang ngày nay của Việt Nam sáng tạo
ra. Dân ca Quan họ là lối hát đối đáp nam, nữ. Trước đây, dân ca Quan họ thường
được hát vào mùa xuân, mùa thu, những dịp lễ hội, hay khi có bạn bè. Ngày nay, dân
ca Quan họ đã trở nên rất phổ biến. Người ta hát khi vui, thậm chí họ cũng giấu giếm
nỗi niềm vào trong lời ca, tiếng hát ấy. Dân ca Quan họ như người bạn thân thiết của
các liền anh, liền chị, các “bọn Quan họ” hay cả những người mê Quan họ.
Sự nổi tiếng của dân ca Quan họ Bắc Ninh đã vượt ra ngoài biên giới quốc
gia. Ngày 30/9/2009, dân ca Quan họ Bắc Ninh đã được UNESCO công nhận là
di sản văn hóa thế giới phi vật thể. Dân ca Quan họ đằm thắm duyên quê, mỗi
khi chợt thoáng nghe đều chạnh lòng nhớ về quê hương, cội nguồn. Vì vậy, từ xa
xưa, dân ca Quan họ đã được coi là nét văn hóa đặc sắc của người Kinh Bắc –
Bắc Ninh. Dân ca Quan họ có hệ thống lời ca rất giàu chất văn chương. Thủ
pháp quan trọng nhất để cấu thành lời ca là người Quan họ bao giờ cũng dùng
biểu tượng nghệ thuật nhằm diễn tả tâm tư, tình cảm của mình một cách tế nhị và
kín đáo. Nhiều điển cố, điển tích mang tính khái quát cao xuất hiện trong lời ca y
như các tác phẩm văn học cổ điển. Có thể nói, tuy Quan họ là loại hình dân ca
nhưng mang tính bác học rất cao.

Với tất cả những lí do trên, tôi lựa chọn đề tài “Khảo sát hệ thống biểu
tượng, điển tích trong dân ca Quan họ Bắc Ninh” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp
của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Dân ca Quan họ Bắc Ninh từ xưa đã thu hút được sự quan tâm của nhiều
người, nhiều nhà nghiên cứu. Đã có không ít công trình qui mô nghiên cứu về
Dân ca Quan họ Bắc Ninh như:

1


- Một số vấn đề về dân ca Quan họ, (1972), Ty văn hóa Hà Bắc xuất bản.
- Đặng Văn Lung, (1978), Quan họ, nguồn gốc và quá trình phát triển,
Nxb Khoa học xã hội.
- Trần Linh Quý, Hồng Thao, (1997), Tìm hiểu dân ca Quan họ, Nxb văn
hóa dân tộc, Hà Nội.

Các công trình trên chủ yếu tìm hiểu về dân ca Quan họ một cách tổng
quát về nguồn gốc, quá trình phát triển, lề lối, giới thiệu về trang phục và cách
ứng xử của người Quan họ, một số lời ca Quan họ…
Ngoài ra, có thể kể đến bài viết của “Câu Lạc Bộ Văn Hóa” trong
vietnamnet.vn/vnn3/vhvietnam, đề cập đến việc xây dựng những hình tượng
trong lời ca Quan họ, song chỉ dừng lại ở mức độ điểm qua, sơ lược.
Đáng kể nhất là cuốn “Dân ca Quan họ - lời ca và bình giải” của Lê
Danh Khiêm, tái bản lần thứ nhất, năm 2010 đã cung cấp cho độc giả một số
lượng lời ca Quan họ tương đối phong phú. Bên cạnh đó, tác giả còn đi vào
“bình giải các điển cố, điển tích, các khái niệm trong hệ thống lời ca” song rõ
ràng là, sự quan tâm ấy còn chưa thỏa đáng, nhiều vấn đề còn có thể đào sâu và
khai tác cụ thể, kỹ lưỡng và có hệ thống hơn nữa.
Trên cơ sở những hiểu biết hết sức khiêm tốn của mình về dân ca Quan họ

Bắc Ninh, đồng thời kế thừa thành tựu của những người đi trước, tôi tiến hành
khảo sát hệ thống biểu tượng, điển tích trong dân ca Quan họ Bắc Ninh và bước
đầu tìm ra nội dung, ý nghĩa biểu đạt của nó. Hi vọng đề tài sẽ là một bông hoa
nhỏ góp phần làm phong phú thêm vườn hoa đầy hương sắc khi tiếp cận với di
sản văn hóa phi vật thể này.
3. Mục đích nghiên cứu
+ Khảo sát hệ thống biểu tượng, điển tích trong dân ca Quan họ Bắc Ninh nhằm
phát hiện nội dung biểu đạt cũng như ý nghĩa hàm ẩn sâu xa của nó.

2


+ Đi sâu nghiên cứu một phương diện độc đáo về ngôn từ và hình ảnh của dân ca
Quan họ Bắc Ninh để phần nào góp phần giới thiệu và quảng bá về loại hình
nghệ thuật truyền thống này, cho mọi người, nhất là giới trẻ ngày nay thêm hiểu
và yêu thích làn điệu dân ca Quan họ.
+ Cung cấp cho những người quan tâm, yêu mến dân ca Quan họ Bắc Ninh một
nguồn tài liệu đáng tin cậy.
+ Góp phần phát huy những giá trị quý báu của di sản này.
4. Phạm vi nghiên cứu
4.1. Tư liệu nghiên cứu
Khóa luận khảo sát 390 lời ca trong cuốn “Dân ca Quan họ - Lời ca và
bình giải” của Lê Danh Khiêm, tái bản lần thứ nhất, năm 2010. Ngoài ra còn có
một số lời ca, chúng tôi sưu tầm được trong quá trình điền dã thực tế.
4.2. Nội dung nghiên cứu
Nội dung khóa luận tập trung vào các vấn đề chính:
- Khảo sát và nhận diện hệ thống biểu tượng, điển tích – một trong những
yếu tố tạo nên sự đặc sắc về phương diện ngôn từ của dân ca Quan họ Bắc Ninh.
- Tìm hiểu ý nghĩa biểu đạt của biểu tượng, điển tích trong lớp ngôn từ
vừa bình dân vừa bác học của dân ca Quan họ Bắc Ninh.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp tiếp cận hệ thống
- Phương pháp điền dã
- Phương pháp phân tích – tổng hợp
6. Đóng góp của khóa luận
6.1. Những đóng góp về mặt khoa học
+ Cung cấp một cách hệ thống lý thuyết và thực tiễn về các biểu tượng, điển tích
trong dân ca Quan họ Bắc Ninh và những ý nghĩa của nó.
+ Cung cấp nguồn tài liệu chi tiết, hấp dẫn và đáng tin cậy về dân ca Quan họ
Bắc Ninh.

3


6.2. Những đóng góp về mặt thực tiễn
+ Góp phần giới thiệu, quảng bá về dân ca Quan họ Bắc Ninh.
+ Góp phần nâng cao ý thức giữ gìn vốn văn hóa cổ truyền của dân tộc.
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung chính của khóa luận được bố cục làm 3 chương:
Chương 1: Giới thuyết chung về dân ca Quan họ và hệ thống biểu tượng, điển
tích trong dân ca Quan họ Bắc Ninh
Chương 2: Hệ thống biểu tượng và ý nghĩa của biểu tượng trong dân ca Quan họ
Bắc Ninh
Chương 3: Hệ thống điển tích và ý nghĩa của điển tích trong dân ca Quan họ Bắc
Ninh

4



NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: GIỚI THUYẾT CHUNG VỀ DÂN CA QUAN HỌ
VÀ HỆ THỐNG BIỂU TƢỢNG, ĐIỂN TÍCH TRONG DÂN CA
QUAN HỌ BẮC NINH
1.1. Dân ca Quan họ Bắc Ninh
1.1.1. Hoàn cảnh nảy sinh
Từ trước đến nay, khi nghiên cứu dân ca Quan họ, đã có rất nhiều ý kiến
khác nhau về sự hình thành của loại hình âm nhạc này. Có trường hợp đó là sự
khác nhau về nội dung vấn đề, có trường hợp, đó chỉ là sự khác nhau về hình
thức diễn đạt.
Theo truyền thuyết của những nghệ nhân Quan họ làng Diềm (xã Hòa
Long, Tp. Bắc Ninh): Hùng Vương thứ sáu có một người con gái rất xinh đẹp đã
đến tuổi lấy chồng. Nhà vua đã tổ chức nhiều cuộc thi tài để kén chọn phò mã
nhưng nàng đều không đồng ý. Một hôm, nàng xin phép nhà vua cho đi du
thuyền trên sông, khi trở về sẽ đồng ý lấy phò mã do nhà vua tuyển chọn. Nhà
vua đã đồng ý và cấp cho nàng lương thực cùng với một đoàn tùy tùng gồm 49
nữ và 49 nam đi theo hầu hạ. Khi chiếc thuyền của công chúa đi đến Ngã ba
sông (khoảng đoạn Việt Trì ngày nay), bỗng xuất hiện một cơn lốc xoáy cuốn cả
chiếc thuyền cùng toàn bộ mọi người xuống đáy sông. Chiếc thuyền bị cơn lốc
cuốn đến một vùng đất (thuộc làng Diềm ngày nay) thì dừng lại. Sau đó, công
chúa đã cùng người hầu lên bờ khai hoang đất đai và ở lại luôn tại đó.
Công chúa còn cho phép 49 cặp trai gái tự do lựa chọn người mình thích
trong đoàn tùy tùng để kết làm vợ chồng và phong cho họ các chức quan khác
nhau, dạy họ trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải, cấy lúa….Đồng thời, cho mỗi gia đình
tự đi khai hoang một vùng đất mới, lập thành các dòng họ tại các làng. Trong
quá trình lao động, công chúa đã dạy mọi người ca hát để giảm bớt mệt nhọc và
không khí làm việc thêm vui vẻ. Những câu hát đó được gọi là Quan họ. Và

5



công chúa đã được mọi người tôn làm Vua Bà – Thủy tổ Quan họ. Những ngôi
làng mà họ thành lập được gọi là làng Quan họ. Do đó mới có 49 làng Quan họ
gốc, và làng Diềm được coi là nơi phát tích dân ca Quan họ. Hiện nay, tại làng
Diềm vẫn còn ngôi đền thờ Vua Bà gọi là Nghè Vua Bà và ngày 06 tháng 02 âm
lịch hàng năm được coi là ngày hóa của Vua Bà, nó trở thành ngày hội truyền
thống của làng Diềm để tưởng nhớ công lao của Vua Bà. Ngày nay, người dân
làng Diềm vẫn còn truyền tụng bài ca:
“Vốn xưa Quan họ Bắc Ninh
Muốn tìm tích cũ đến làng Diềm thôn
Thủy tổ Quan họ làng ta
Những lời ca xướng Vua bà sinh ra
Xưa nay nam nữ trẻ già
Ai mà ca được ắt là hiển vinh”

Theo đó, dân ca Quan họ có nguồn gốc từ những câu hát do Vua Bà sáng
tạo ra và nơi phát tích Quan họ chính là làng Diềm ngày nay.
Lại có truyền thuyết kể rằng: làng Viêm Xá (làng Diềm) kết nghĩa với
làng Hoài Bão. Viêm Xá mở hội thờ thần vào mồng bốn tháng giêng và mồng
mười tháng tám. Mỗi lần có hội, Viêm Xá mời một đoàn trai Hoài Bão sang. Sau
khi tế lễ xong thì tổ chức ca hát. Bên Viêm Xá toàn nữ, bên Hoài Bão toàn nam.
Trai gái hai làng hát đối đáp với nhau. Dân làng Viêm Xá quan niệm rằng năm
nào làng không cử hành như vậy thì trong làng sẽ xảy ra nhiều sự bất an: người,
vật bị ốm, mùa màng thất bát, buôn bán thua lỗ, dân làng cãi cọ nhau, trai gái
sinh ra tật hư nết xấu. Vì vậy mà có hát Quan họ.
Cũng có truyền thuyết kể rằng: Cách đây mười hai đời, có hai người làm
quan thị vệ ở trong triều, một người quê ở Diềm, một người quê ở Bịu (Bịu
Sim). Hồi làm quan, hai người có chơi với nhau, đến khi về nghỉ thì giao ước kết
bạn đi lại, nếu ở làng ai có chuyện vui như cưới xin, khao lão thì mời cả hai họ


6


về dự. Thời đó, nhân dân vẫn có hát Đúm, từ khi hai họ này kết bạn thì người ta
đem những câu hát Đúm vào để ca hát trong những ngày vui đó. Từ ấy, lưu
truyền thành tục lệ này, cứ hội Diềm tháng tám, hội Bịu tháng một, người ta lại
tụ họp, ngồi xung quanh một ngọn đèn lớn để ca hát và Quan họ do đó sinh tên
(hai họ nhà quan hát với nhau) và từ đấy gọi Quan họ thay cho hát Đúm.
Một nghệ nhân ở làng Châm Khê cho biết: trước đây, thời chúa Trịnh,
người ta dùng Tuồng, Chèo để hát mừng đám cưới, đám khao, sau thấy nội dung
và hình thức không phù hợp nên lấy một số điệu hát trữ tình trong dân ca và sáng
tác một số điệu nữa để hai họ hát khi cưới xin, do đó thành tên “Quan họ”, nghĩa
là quan viên hai họ.
Lại có truyền thuyết như sau: Có một cô gái đẹp cắt cỏ ở núi Quả Cảm
ven sông Cầu. Cô cất tiếng hát:
“Tay cầm bán nguyệt xênh xang
Bao nhiêu thảo mộc lại hàng chị đây”
Lúc ấy, chúa Trịnh đang đi kinh lý ven sông Cầu, dừng lại nghe hát và
cảm phục người đẹp hát hay lại có khí phách anh hùng, bèn vời vào triều lấy làm
vợ. Câu hát hay làm cho quan phải dừng lại, “họ” lại nên gọi là Quan họ.
Còn rất nhiều truyền thuyết nói về nguồn gốc của dân ca Quan họ, nhưng
hầu như chúng đều có nội dung tương tự nhau. Những truyền thuyết trên hình
như đều có pha trộn chất truyền kỳ, khó có thể tin được.
Bên cạnh những truyền thuyết thì có rất nhiều ý kiến khác nhau của các
nhà nghiên cứu về sự hình thành dân ca Quan họ.
Theo bà Lê Thị Nhâm Tuyết (Viện Dân tộc học) thì “nguồn gốc Quan họ
đầu tiên là hình thức đối đáp giao duyên nam nữ đã có từ hàng nghìn năm
trước”.
Các tác giả trong cuốn Dân ca Quan họ Bắc Ninh cho rằng: Quan họ có
chung một nguồn gốc lâu đời với hát Lượn của người Tày, hát Đang của người

Mường. hát Xoan Ghẹo ở Phú Thọ.

7


Ông Lê Văn Hảo cho rằng: “hát Quan họ thoát thai từ hát Đúm”. Vũ Ngọc
Phan lý giải Quan họ có từ đời Lý. Có người lại cho rằng Quan họ có từ thời
Trần, xuất thân tục hát giỗ các vua nhà Lý của nhân dân khoảng đầu thế kỷ XIII.
Lại có người nghĩ rằng thứ hát dân ca này chỉ vừa mới ra đời đầu thế kỷ XV.
Như vậy, để đi đến một kết luận cụ thể về hoàn cảnh này sinh của dân ca
Quan họ thật không đơn giản. Và khi đã lý giải được nó rồi thì mọi lý thuyết,
truyền thuyết, sự tích và mọi thứ liên quan sẽ được sáng tỏ. Nhưng có thể khẳng
định rằng dân ca Quan họ đã được hình thành trên vùng đất mà từ lâu đời đã là
một vùng kinh tế mạnh của đất nước, một vùng đất lịch sử rất mực anh hùng,
một vùng văn hóa là nền tảng của văn hóa, văn minh Đại Việt – Thăng Long,
một địa bàn giao lưu với nhiều nền văn hóa, văn minh các nước lân bang và luôn
chứng tỏ một bản lĩnh văn hóa vững vàng, mang bản sắc riêng độc đáo.
1.1.2. Các làng Quan họ và lối chơi Quan họ
1.1.2.1. Các làng Quan họ
Chủ nhân của dân ca Quan họ Bắc Ninh là người Việt cư trú ở hai tỉnh
Bắc Ninh và Bắc Giang hiện nay, sinh sống bằng nghề trồng lúa nước và nghề
thủ công. Các làng Quan họ nằm ở hai bên bờ sông Cầu, cách thủ đô Hà Nội về
phía Bắc khoảng 30km.
Những năm đầu thế kỉ XX, nếu lấy hai tiêu chuẩn để định làng Quan họ:
“các bọn Quan họ đi kết bạn với các bọn Quan họ khác giới, khác làng liên tục
từ hai, ba thế hệ trở lên; được Quan họ các làng thừa nhận” thì theo các nghệ
nhân còn sống vào những năm đầu thập niên 70 cho biết có 49 làng Quan họ. Về
sau, không còn đủ các làng như vậy. 49 làng Quan họ hiện nay phân bố ở hai
tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang, trong đó có 44 làng thuộc tỉnh Bắc Ninh, bao gồm:
Huyện Tiên Du (8 làng): Duệ Đông, Lũng Giang (Lim), Lũng Sơn, Ngang

Nội, Hoài Thị (Bịu Sim), Hoài Trung (Bịu Trung), Vân Khám (Khám), Bái Uyên
(Bưởi).
Thị xã Từ Sơn (3 làng): Tiêu, Tam Sơn, Hạ Giang

8


Huyện Yên Phong (2 làng): Đông Mơi, Đông Yên.
Thành phố Bắc Ninh (31 làng): Ném Đoài, Ném Sơn, Ném Tiền, Cổ Mễ,
Phúc Sơn, Y Na (Nưa), Thị Cầu, Thanh Sơn, Niềm Xá (Niềm), Yên Mẫn (Yên
Giữa), Yên Thị Trung (Yên Chợ), Vệ An, Đỗ Xá (Đọ), Xuân Ổ (Ó), Hòa Đình
(Nhồi), Khả Lễ (Sẻ), Bồ Sơn (Bò), Hữu Chấp (Chắp), Viêm Xá (Diềm), Đẩu
Hàn (Hàn), Xuân Ái (Sói), Xuân Đồng, Xuân Viên (Vườn Hồng), Thượng Đồng
(Lẫm), Thụ Ninh, Đặng Xá (Đặng), Khúc Toại (Chọi), Trà Xuyên ( Trà), Châm
Khê, Đào Xá (Điều thôn), Dương Ổ (Đống Cao).
Và 5 làng thuộc huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang: Hữu Nghi, Giá Sơn,
Mai Vũ, Nội Ninh, Sen Hồ.
Các làng trên, đại bộ phận đều có cả những bọn Quan họ nam và bọn
Quan họ nữ, thực hiện phong tục kết bạn Quan họ khác giới, khác làng và tiến
hành giao du, ca hát Quan họ với làng khác.
Hội làng gắn bó đặc biệt với ca hát Quan họ. Cho nên mùa xuân và mùa
thu là mùa hội cũng là mùa ca hát Quan họ rộn rịp, tưng bừng làng trên, thôn
dưới. Những ngày nông nhàn, ở các làng Quan họ, việc luyện tập ca hát và việc
"đặt câu, bẻ giọng" (sáng tác lời ca và phổ nhạc cho lời ca) diễn ra sôi nổi nhiều
nơi, nhất là vào ban đêm. Một đặc điểm tâm lý được hình thành lâu đời ở các
làng Quan họ là niềm tự hào, quí mến, trân trọng đối với tiếng hát và hoạt động
ca hát Quan họ. Nhiều người không hát được Quan họ và rất nhiều người không
có thể trở thành liền anh, liền chị Quan họ, nhưng hầu như ai cũng quí mến, vun
xới, đồng tình, hỗ trợ cho hoạt động ca hát Quan họ. Ai cũng nghĩ tiếng hát
Quan họ là tiếng hát cầu duyên, cầu phúc, cầu lộc, cầu tài, cầu may và có thể là

cái cầu nối với đất trời, thần, phật để thỉnh cầu: cầu mưa, giải hạn, tiêu trùng...
Chính tâm lý này đã tạo nên những thói quen, phong tục đẹp của làng xã, gia
đình đối với những người ca hát Quan họ, đối với hoạt động ca Quan họ, do đó,
góp phần quan trọng vào việc giữ gìn, phát triển Quan họ bền vững, lâu dài.

9


1.1.2.2. Lối chơi Quan họ
Xa xưa ít người nói: “Đi hát Quan họ” mà thường dùng: “Đi chơi Quan
họ”; cũng có người kiêng chữ “hát” thì nói: “Chúng em đi “ca” Quan họ”. Ca
Quan họ mới chỉ là công việc “bày tỏ nỗi lòng bằng ca hát”, còn “chơi Quan họ”
bao gồm tất cả những việc như: giao tiếp, ứng xử, ăn mặc, phong tục lễ nghĩa, ca
hát, lối sống…mà ngày nay, các nhà nghiên cứu nói gộp lại bằng cụm từ: Văn
hóa Quan họ.
Xưa nay, Quan họ thường có chung một quan niệm: không phải ai hát
Quan họ giỏi mà đã biết chơi Quan họ, chính vì vậy có khi người đi chơi Quan
họ thì đông nhưng không phải ai cũng biết hát, và ngược lại nhiều người hát
Quan họ nhưng chưa hẳn đã biết chơi. Ngày xưa, người ta thường dặn dò nhau:
“chơi Quan họ phải đúng lề lối”.
“Lề lối hát Quan họ”: Đó là hát đối, hát canh, hát hội, hát thờ, hát cầu
đảo, hát giải hạn, hát mừng và hát kết chạ.
Hát đối gồm đối đáp nam-nữ, đối giọng, đối lời và hát đối giữa đôi namđôi nữ. Đối nam-nữ bao giờ nữ cũng được hát trước một bài, sau đó bên nam đối
lại, cứ thế kéo dài hết canh hát (nếu là canh thi thì bên nào không đối được tức là
bên ấy bị thua). Khi đối phải tuân thủ trước tiên là đối giọng, tức là bên nữ hát có
làn điệu âm nhạc nào, thì bên nam phải đối giọng theo làn điệu âm nhạc ấy.
Còn đối lời, khác với đối giọng ở chỗ, đối giọng thuộc lĩnh vực âm nhạc, còn đối
lời thuộc lĩnh vực đối thơ ca. Ví dụ: nếu bên hát trước ra một lời ca nào (một bài
hay một đoạn thơ) thì bên đối sau cũng phải sử dụng cả làn điệu âm nhạc phải
thế nhưng lời ca như khác, nhưng phải thể hiện được việc đối có tình, có ý để đối

lại với bên vừa đối.
Người Quan họ hát canh thường tổ chức vào mùa lễ hội (xuân, thu nhị kỳ)
tức là khi làng mở hội, đình vào đám. Giữa Quan họ nam và nữ ở các làng khác
nhau họ mời nhau đến nhà ca một canh để chúc phúc nhau và cho vui làng, vui

10


xóm, tình nghĩa bầu bạn gần gũi nhau hơn. Như xưa một canh hát thường kéo
dài từ 19-20h tối đến 2-3h sáng.
Khi bắt đầu vào hát, nếu một bên là Quan họ khách là nam hoặc nữ thì
bên Quan họ chủ phải là nữ hoặc nam, có nghĩa khách là nam thì chủ phải là nữ
và ngược lại. Đầu tiên là họ hát những bài “lề lối” giọng cổ. Đó là các giọng
thường gặp như: la rằng, hừ la, đường bạn, tình tang, cái ả, cây gạo…các giọng
này theo lời cổ thường hát chậm rãi, vang, rền, nền, nẩy, đặc trưng cho lối hát
Quan họ truyền thống. Đây là chặng hát bắt buộc với lề luật rất nghiêm ngặt.
Khác với hát canh, Hát hội là sinh hoạt văn nghệ bằng lời hát Quan họ ở
các hội làng, với không phải chỉ một, hai bọn Quan họ mà nhiều bọn Quan họ
nam nữ đến hội và tham gia hội hát. Hát hội thường kéo dài từ đầu tháng giêng
cho đến hết tháng 2 âm lịch ở tất cả các hội trong vùng. Họ rủ nhau đi hội làng
(như hát sli, lượn của người Tày, Nùng), họ đi hát để gặp bầu, gặp bạn, vui xuân,
vui hội, cầu may, cầu phúc. Ở hát hội cũng có các điệu hát như hát vui, hát thi.
Hát vui có ở hội Lim, hội Nếnh, hội Thổ Hà… Trong hội, có thể là đôi bọn Quan
họ đã kết bạn mời một nhóm khác để giao lưu, mở rộng đường đi lại và học hỏi
nhau. Cũng có khi là Quan họ nhớn (anh nhớn, chị nhớn) dẫn bọn Quan họ bé
của mình đến hội và tìm bạn Quan họ bé ở làng khác để các em được gặp nhau,
giao lưu học hỏi cho bằng anh, bằng chị. Người Quan họ gọi những cuộc hát
giao lưu ấy là hát vui, mà ca vui chưa cần đến lề luật như hát thi, hát canh.
Những cuộc hát này không cần phải đối giọng, đối lời như hát canh, mà thường
chỉ cần đối ý, đối lời để khi ca mọi người đều thấy được cái tình, cái ý giao hoà

cùng nhau. Và như vậy khi hát vui người ta không bắt buộc phải có chặng “lề
lối” mà đi ngay vào giọng vặt. Khi tan hội bọn Quan họ cũng dùng dằng giã bạn
và ca những câu thể hiện tình nghĩa gắn bó, nỗi buồn man mác khi phải chia ly.
Còn Quan họ hát lễ thờ, hội thường sắm giầu, cau, hương, nến, hoa quả để
ra đình làm lễ thánh. Nhóm này thường có cả nam và nữ. Khi họ dâng lễ ở đình
làng có hội thường được các bậc cao niên, bô lão… của làng tiếp đón rất trân

11


trọng. Mặc dù xưa kia, con gái không được lễ đình nhưng đối với bọn Quan họ
thì dân làng đồng ý và rất tôn trọng họ. Sau lễ họ thường hát một số bài để chúc
thánh, chúc dân “người an, vật thịnh, lộc, thọ, khang, ninh”, rồi mới ra hát vui ở
hội và hát canh ở nhà.
Cũng như hát lễ thờ, Quan họ giống người dân vùng lúa nước, họ tin rằng
có thánh, có trời phù hộ để âm dương hoà hợp giữa đất trời và con người vì vậy
họ tổ chức hát cầu đảo để cầu mong thánh thần, đất trời phù hộ. Hát cầu đảo
thường chỉ có Quan họ nữ. Khi hát cầu đảo Quan họ phải giữ chay tịnh, họ đến
ăn ngủ ở đền trước 2-3 ngày đêm. Những bài hát cầu đảo thường là có nội dung
cầu cho mưa thuận, gió hoà, cho mùa màng tươi tốt, người an, vật thịnh.
Hát giải hạn là do người xưa thường tin vào số mệnh, nếu gặp điều gì
không may thì phải giải hạn. Khi cúng lễ giải hạn người dân vùng Quan họ
thường mời một số bạn Quan họ ( cả nam và nữ) đến nhà ca một đêm, và cho
rằng như vậy, thì cái hạn sẽ qua đi và niềm vui sẽ đến. Hát giải hạn thường theo
với điệu la rằng. Họ cũng hát đối, bên trước hát bài nào thì bên sau hát làn điệu
ấy nhưng phải khác lời để đối lại, thường là những bài có nội dung vui vẻ, gắn
bó, ước hẹn, thề nguyền…Khi giã bạn, họ chúc cho chủ nhà may mắn, bình yên,
phúc đến nhà, hoạ ra đi… và gia chủ thường biếu lộc thánh nhóm Quan họ.
Ngược lại với hát giải hạn là hát mừng. Ngày trước khi khánh thành nhà,
mừng con đỗ đạt, khao lão, mừng thọ…. họ thường tổ chức ăn mừng. Trong

ngày này gia chủ có tổ chức hát Quan họ. Khi hát mừng cũng như hát giải hạn họ
không cần hát theo lề lối, nghi thức nhưng phải có Quan họ nam và Quan họ nữ,
có hát đối đáp nhưng chỉ ca giọng vặt. Bài ca có nội dung chúc mừng, ca ngợi ân
sâu, nghĩa nặng, tình cảm gắn bó keo sơn. Không khí hát phải vui nhộn nhiều
tiếng cười, tiếng hát vui mừng để chúc cho gia chủ…
Hát kết Chạ là hát khi hai làng kết nghĩa “chạ anh, chạ em”. Trước khi
đến chạ anh (hoặc chạ em) dự hội thì các cuộc tiếp chạ anh (hoặc chạ em) được
diễn ra ở đình. Cùng với việc tiến hành các nghi lễ đón tiếp, tế lễ thường sẽ có

12


cuộc hát giữa Quan họ nam, nữ giữa 2 chạ ở đình trước sự chứng kiến của dân
làng. Khi hát ở đình thường là hát điệu la rằng sau đó là cuộc hát đối đáp (giọng
vặt). Cuộc hát này thường chạ anh, chạ em trổ hết tài nghệ thuật trình diễn của
mình song không có sự phân định thắng thua. Sau cuộc hát này, họ mới ra hát
hội.
Phong tục, lề lối trong hát Quan họ là một hệ thống qui ước không thành
văn, không do một ai ban bố, nhưng, từ đời này qua đời khác, những quy ước ấy
lần lượt ra đời và được mọi người tuân thủ, tuy có những chi tiết khác nhau
nhưng mang tính thống nhất cao trong toàn vùng Quan họ.
Hệ thống qui ước ấy được hình thành do những yêu cầu tồn tại, duy trì,
phát triển hoạt động ca hát Quan họ, nhưng cũng chịu sự chi phối trực tiếp của
toàn bộ phong tục tập quán của cộng đồng dân cư vùng Quan họ, trở thành một
bộ phận gắn bó khăng khít với toàn bộ phong tục tập quán của một vùng văn
hoá.
Như vậy, trong thời gian tới việc chỉ đạo phục hồi lề lối hát Quan họ ở các
làng là việc làm vô cùng quan trọng, nhất là đối với các nghệ nhân phải tích cực
truyền dạy cho thế hệ tiếp theo không chỉ lề lối và phong tục mà phải bảo tồn và
phát huy tổng thể văn hoá Quan họ… đã được UNESCO giao trọng trách lớn lao

này.
1.1.3. Đặc sắc ngôn từ dân ca Quan họ
1.1.3.1.Ðôi nét về văn bản lời ca
Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Lê Danh Khiêm cùng đồng nghiệp là
nhà nghiên cứu Hoắc Công Huỳnh (nay thuộc Ban Sưu tầm, nghiên cứu và bảo
tồn di sản văn hóa Quan họ, Trung tâm Văn hóa tỉnh Bắc Ninh) đã đi tới tất cả
các làng Quan họ gốc, gặp gỡ tất cả các nghệ nhân nổi tiếng, đồng thời khai thác
bài bản Quan họ từ các nghệ sĩ là lớp diễn viên đầu tiên của Đoàn Dân ca Quan
họ Bắc Ninh, các nhà nghiên cứu trước đó. Kết quả là đã sưu tầm, ghi trên băng
từ tính hơn 500 bài ca Quan họ, phân định thành 213 giọng (làn điệu) khác nhau.

13


Đó chính là số lượng giọng cao nhất so với tất cả các công trình sưu tầm trước đã
công bố. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, người viết đã khảo sát 390 lời ca
trong cuốn “Dân ca Quan họ - Lời ca và bình giải” của Lê Danh Khiêm, tái bản
lần thứ nhất, năm 2010.
Lời ca cho một bài nào đấy, nhìn chung thống nhất trong cả vùng, nhưng
cũng có những dị bản, và nhất là khác đi một số từ ngữ. Trong trường hợp có
những chữ khác nhau trong lời ca, cũng như khác nhau về giai điệu bài ca (chi
tiết) cũng thường gây nên tranh cãi nhiều khi gay gắt trong giới Quan họ mà
không phải bao giờ cũng tiến tới thống nhất được.
Ví dụ có làng hát:
“Rủ nhau đi gánh nước thuyền
Ðứt quang vỡ sải nước liền xuống sông.”
Nhưng làng khác nhất định hát :
“Rủ nhau đi gánh nước thuyền
Ðứt quang vỡ sải nước liền xuôi đông.”
Có một ví dụ nữa, các cụ hát:

“Ðêm qua gió mát giăng thanh
Bỗng đâu thấy khách bên thành sang chơi.”
Câu ca này gần như câu thơ trong Truyện Kiều :
“Lần thâu gió mát trăng thanh
Bỗng đâu thấy khách bên đình sang chơi.”
Thấy sự khác nhau ấy đừng vội níu kéo lời hát kia trở về nguyên văn lời
thơ Truyện Kiều, vì, sự sửa chữa một số chữ là có dụng ý hợp cảnh, hợp tình,
hợp người... mà nhiều khi ta chưa hiểu được.
Quan họ có hệ thống lời ca riêng, đạt tới một trình độ riêng, đáp ứng
những nhu cầu văn hóa, nghệ thuật có nhiều nét riêng của sinh hoạt văn hóa
Quan họ. Nhưng cũng như âm nhạc Quan họ, lời ca Quan họ đã du nhập, thu hút
tinh hoa của kho tàng thơ ca dân gian, dân tộc như: ca dao,tục ngữ, hệ thống

14


truyện thơ Nôm, lời ca của hát chèo, tuồng, ả đào, ví, trống quân, vv... Chính vì
vậy, khi tìm hiều lời ca Quan họ cũng cần có những tri thức về thơ ca dân gian,
dân tộc để nhiều khi phải so sánh, đối chiếu, liên tưởng... mới hiểu đúng hoặc
hiểu sâu một từ ngữ, một hình ảnh, hình tượng... một lời ca.
1.1.3.2. Đặc sắc ngôn từ dân ca Quan họ
Từ lâu, dân ca Quan họ đã được đánh giá là là một loại hình nghệ thuật
đạt tới trình độ cao về nghệ thuật diễn xướng, nghệ thuật lời ca và nghệ thuật âm
nhạc. Dân ca Quan họ chính là vẻ đẹp hiện hữu, được kết tinh từ những nét đẹp
ngàn đời của quê hương Kinh Bắc. Nhưng trên hết, Quan họ mang “khí chất”
của chính Quan họ, là hồn của xứ sở Quan họ, là “đặc sản” tinh thần của Kinh
Bắc - Bắc Ninh. Ngày xưa, người các vùng không có Quan họ đến với vùng
Quan họ thường có nhận xét: “Người Quan họ nói như có văn có sách”, “giọng
văn lai láng – trong sáng diệu kì”.
Ngôn từ dân ca Quan họ là thứ ngôn từ giàu chất thi ca của ca dao, tục

ngữ, truyện Nôm, nhất là truyện Kiều.
Ví dụ nói: “Bây giờ gặp mặt nhau đây mà cứ ngỡ như là chuyện chiêm
bao...” Câu nói này khiến ta liên tưởng đến những chữ đã dùng trong 2 câu thơ
truyện Kiều:
“Bây giờ gặp mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao.”
Ví dụ nói để khen bạn: “Thưa anh Hai, anh Ba... thật là thơm cây, thơm
rễ, người giồng (trồng) cũng thơm, đấy ạ!”. Câu nói này khiến ta nghĩ ngay đến
câu ca dao:
“Người như hoa quế thơm lừng
Thơm cây, thơm rễ, người giồng (trồng) cũng thơm.”
Lời ca Quan họ là kết tinh của sự mộc mạc và sự trau chuốt. Có một số lời
ca, nếu tách riêng thành văn bản, thì bước đầu tiếp xúc, có khi ta chưa thấy hết

15


cái đẹp, cái hay của lời ca đó, nhất là cảm thụ theo góc độ thi ca thuần tuý.Ví dụ,
lời bài ca “Trên rừng 36 thứ chim”:
“Trên rừng ba mươi sáu thứ chim
Thứ chim chèo bẻo, thứ chim chích choè
Trong Quan họ có người trồng tre…”
Nhưng khi tiếng hát rộn ràng bài hát đó lên, ta bị cuốn hút dần vào bài ca,
và, trong nhiều xúc cảm, thì một xúc cảm gây ấn tượng sâu sắc trong ta là: sự
mộc mạc của ngôn từ lời ca đã đưa ta đến bắt gặp một dáng dấp, một phong
cách, một dạng hình, một tâm hồn... cũng hết sức mộc mạc nhưng rất đáng yêu
của con người lao động một thời, con người ấy phải được miêu tả bằng ngôn từ
ấy.
Ở một bài ca khác, bài “Ngồi tựa mạn thuyền” và “Ngồi tựa song đào”
thì lại chiếm lĩnh tâm hồn người nghe không phải bằng một ngôn từ mộc mạc

như lời nói mà lại chiếm lĩnh người nghe bằng một lời ca có ngôn từ rất trau
chuốt, một nghệ thuật vần, điệu công phu, những hình ảnh nên thơ, nên nhạc:
“Ngồi tựa mạn thuyền
Giăng (trăng) in mặt nước, càng nhìn non nước càng xinh
Sơn thuỷ hữu tình
Thơ ngâm ngoài lái, rượu bình giải trí trong khoang
Tay dạo cung đàn
Tiếng tơ, tiếng trúc, bổng trầm, non nỉ, thiết tha.”
(Ngồi tựa mạn thuyền)
Hoặc:
“Ngồi tựa song đào
Hỏi người tri kỷ ra vào có thấy vấn vương
Gió lạnh đêm trường
Nửa chăn, nửa chiếu, nửa giường để đấy đợi ai...”
(Ngồi tựa song đào)

16


Ngôn từ dân ca Quan họ tuy mềm mại, khéo léo, tinh thế, nhiều khi bóng
bẩy, lững lờ... nhưng không gợn lên những ẩn ý dối trá, lừa lọc mà đậm đà tình
người, sự tôn trọng giữa người và người luôn hướng tới sự giàu đẹp, của ngôn
ngữ. Vì vậy, người Quan họ không thích, không chấp nhận sự thô kệch, vụng về
trong ngôn ngữ. Chẳng hạn, hầu như chưa bao giờ người Quan họ dùng từ “ăn”
mà thường dùng từ “xơi” :
“Mấy khi khách đến chơi nhà
Đốt than quạt nước pha trà mời người xơi…”
(Khách đến chơi nhà)
Hoặc:
“Vào chùa mượn đĩa bày trầu,

Tôi đàn người lý nâng trầu người xơi”
(Vào chùa)
Người Quan họ đã ý nhị mà giải thích rằng: Vì Quan họ xưa có mối quan
hệ rất lịch sự, tuy văn hoa một chút, nhưng là để xứng với khăn vuông mỏ quạ,
áo khăn nhiễu điều nhiều tía, hoa lý hoa đào, xà tích khuyên vàng rộn ràng ý tứ:
… “Em đi khắp bốn phương trời,
Không đâu lịch sự bằng người ở đây…”
Ngôn ngữ trong lời ca Quan họ cũng giàu tính hình tượng như ngôn ngữ
thơ ca dân gian nói riêng và ngôn ngữ thơ ca nói chung. Ta có thể tìm hiểu một
số thành tựu về thủ pháp xây dựng hình tượng trong lời ca Quan họ. Hình tượng
cây trúc ta thường gặp ấy đã trở nên biểu tượng cốt cách, phẩm chất của người
quân tử: cứng rắn, vươn thẳng, sức sống dẻo dai, bền vững trước mọi thử thách;
ý chí kiên định; nhân cách thanh cao... Nhưng hình tượng cây trúc trong lời ca
Quan họ lại mang những biểu tượng gần gũi với phong độ, cốt cách, phẩm chất
đẹp đẽ của người bình dân:
“Hôm nay xum họp trúc mai
Tình trong một khắc, nghĩa dài trăm năm...”
(La Rằng)

17


Hoặc
“Trúc xinh trúc mọc sân đình
Anh (Hai) xinh anh (Hai) đứng một mình cũng xinh
Trúc xinh trúc mọc bờ ao
Anh (Ba) xinh anh (Ba) đứng nơi nào cũng xinh
Trúc xinh trúc mọc đầu chùa.
Không yêu em lấy đạo bùa phải yêu.”
(Trúc xinh)

Hình tượng con đò, con thuyền được biểu hiện khá thành công trong nhiều
bài ca Quan họ. Có khi thuyền như người bạn tri âm trong những đêm “trăng in
mặt nước” để cùng người bồng bềnh trên sông nước quê hương, thưởng thức
những thú vui tao nhã:
“Ngồi tựa mạn thuyền
Trăng in mặt nước càng nhìn non nước càng xinh.”
(Ngồi tựa mạn thuyền)
Có khi thuyền, đò, bè mảng là biểu tượng của một thân phận, một cuộc
đời, một tình duyên... đi trong cuộc đời như đi trong một dòng sông nhiều ghềnh
thác:
“Có ai xuôi về
Cho tôi nhắn lời về
Cho tôi nhủ lời về
Nhắn cùng bầu bạn xuống bè xuôi đông
Lên thác (thì ai ơi) xuống ghềnh
Lên thác đã vậy, xuống ghềnh thì sao?
Có yêu nhau (thì) ngỏ cửa ra vào...”
(Ai xuôi về)
Ngôn từ Quan họ gần gũi đơn giản như lời ăn tiếng nói hằng ngày nhưng
chứa đựng bao ý nghĩa như mọi câu thơ, ý nhạc hàm súc nhất. Người Quan họ

18


không nỡ hát “Bạn ơi”, họ thể hiện sự tôn vinh, trân trọng bạn, nên người Quan
họ tự hào hát rằng: Bạn tình ơi, duyên tình ơi, má hồng ơi, đôi người ơi, lúng
liếng ơi, Quan họ ơi… Khái niệm tình bạn trong Quan họ được thể hiện qua
những bài ca – là thứ bạn …tình. Tình ở đây là tình người chứ không phải là thứ
tình …dẫn đến hôn nhân, vì “Quan họ có bao giờ được lấy nhau đâu.” Nhà
nghiên cứu văn hóa Trần Linh Quý từng cho rằng: Tình bạn Quan họ được hiểu

là thứ tình không phải là một đời mà truyền đời.
Nhắc đến ngôn từ dân ca Quan họ, ta không thể không nhắc đến tiếng đệm
(phụ) trong mỗi lời ca. Nhìn vào nhiều bài ca Quan họ, ta thấy có rất nhiều tiếng
đệm độc đáo. Chẳng hạn: Bạn tình ơi, song bên í a, ù xang ù cái lưu phàn xê –
qua lới nọ, duyên tình ơi, tình tang tính, tính tình tang, tình chung rằng là…ư hội
ừ, a hợi à…Không phải tiếng đệm ấy mang vào lời ca một cách ngẫu nhiên mà
còn có nhiều tác dụng khác nhau. Trước hết, nó có tác dụng nối đoạn này với
đoạn kia, câu trên câu dưới hoặc ý nọ với ý kia… Một tác dụng quan trọng là
chính những tiếng đệm này làm cho giai điệu bài ca uyển chuyển, thiết tha, mượt
mà trong sáng, thậm chí, nhiều bài ca hay, một phần nhờ tiếng đệm. Một tác
dụng nữa không kém phần quan trọng là vì tiếng đệm trong Quan họ có đặc điểm
riêng nên nhiều người tỉnh ngoài khi hát khó bắt chước, ta quen gọi là: “Giọng
Quan họ giả cầy”, có nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến yếu tố tiếng đệm.
Một thứ ngôn ngữ đầy hình tượng, âm thanh: có cảnh, có tình, cảnh tình
hoà quyện và “bổng trầm, non nỉ...” âm thanh. Từ cảnh ấy, tình ấy, nổi bật lên
con người “tài trai” và “thục nữ”, con người khao khát, đắm say vẻ đẹp của
thiên nhiên, của tình người. Cho nên, dù ngôn từ lời ca Quan họ được thể hiện
trong dạng mộc mạc, hoặc trau chuốt, bóng bảy, đều đạt tới hiệu quả nghệ thuật
cao. Ðược như vậy chính vì người sáng tạo lời ca biết gạn lọc, lựa chọn ngôn từ
ở trình độ cao, có một trình độ tích luỹ, am hiểu sâu rộng về thơ ca dân gian và
cao hơn hết là sự rung cảm nghệ thuật tinh tế, chân thành.

19


×