Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Vai trò của trần hưng đạo trong ba lần kháng chiến chống quân xâm lược mông – nguyên ở thế kỷ XIII

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (827.13 KB, 74 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lịch sử Dân tộc Việt Nam có hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Đó là những
trang sử vẻ vang đầy tự hào của dân tộc, là sự kết tinh tuyệt vời của truyền thống, con người
và trí tuệ Việt Nam. Ngay từ thời các vua Hùng dựng nước, với một vị trí địa lý thuận lợi,
nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, đất nước ta luôn luôn là đối tượng nhòm ngó của các
đế chế phong kiến phương Bắc. Luôn có tư tưởng bành trướng xuống phía Nam, phong kiến
Trung Hoa đã không ít lần tấn công xâm lược nhằm thôn tính Bách Việt, trong đó có nước
ta. Nhưng mỗi lần quân xâm lược tiến vào nước ta là chúng phải chuốc lấy thất bại. Bởi với
tinh thần đoàn kết một lòng, với quyết tâm giữ nước và lòng tự hào dân tộc, chúng ta đã viết
nên những thắng lợi huy hoàng, những chiến công hiển hách đập tan mọi âm mưu xâm lược
của kẻ thù. Những trận Bạch Đằng, Chi Lăng - Xương Giang, Ngọc Hồi - Đống Đa…đi vào
lịch sử là niềm tự hào của bao thế hệ người Việt Nam. Làm nên những thắng lợi ấy là công
lao của toàn thể dân tộc sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn gian khổ, hi sinh để chiến đấu
chống kẻ thù hung bạo.
Trong những trang sử vẻ vang chống ngoại xâm đó, thời Trần là một trong những
thời đại tiêu biểu cho tinh thần hòa hợp, đoàn kết dân tộc, tinh thần quyết chiến chống giặc
ngoại xâm giành những thắng lợi vĩ đại. Những quốc sách về dựng nước và giữ nước tiến bộ
đã giúp cho nhà Trần đạt tới những đỉnh cao cả về võ công và văn trị, tạo nên cái hào khí
Đông A của nước Đại Việt trong gần hai thế kỷ.
Trong sự nghiệp hiển hách của nhà Trần, Trần Quốc Tuấn có vai trò đặc biệt quan
trọng. Ông là người có đạo đức tiêu biểu của một vị tướng, luôn nêu cao tấm gương sáng
ngời về lòng trung nghĩa, biết gạt bỏ hiềm khích riêng tư, luôn lấy đại nghĩa làm trọng để
đoàn kết tôn thất, triều đình, đoàn kết tướng sĩ, quân dân, nêu cao tinh thần “quyết chiến
không sợ kẻ thù hung bạo”.
Cuộc đời và sự nghiệp của Trần Quốc Tuấn gắn liền với cuộc kháng chiến chống
giặc Mông - Nguyên, gắn với những chiến công vĩ đại của dân tộc ta hồi thế kỷ XIII. Bằng
tài năng chính trị - quân sự kiệt xuất và tấm lòng tận trung với nước, Trần Quốc Tuấn đã chỉ
huy quân đội và triều đình nhà Trần bảo vệ vững chắc nền độc lập, đưa nước Đại Việt tiếp

1




tục phát triển phồn thịnh và có uy tín lớn trong khu vực. Công lao to lớn này đã đưa Trần
Quốc Tuấn lên hàng một thiên tài quân sự kiệt xuất, một anh hùng dân tộc vĩ đại.
Tư tưởng quân sự của ông có tầm vóc thời đại. Những tư tưởng lớn là kế sách bảo vệ
non sông đất nước như: “vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức”, “khoan
thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc”, “dĩ đoãn binh chế trường trận”, “quân quý tinh
không quý nhiều”, “phụ tử chi binh”, v.v. vẫn còn nguyên giá trị. Trong lịch sử quân sự
Việt Nam, Trần Quốc Tuấn là một trong số ít tướng lĩnh có công nghiên cứu, tổng kết và kế
thừa tư tưởng quân sự truyền thống của dân tộc, kết hợp với tri thức, kinh nghiệm của bản
thân, viết thành những bộ binh thư nhằm phục vụ cho sự nghiệp bảo vệ đất nước. Ông đã để
lại cho đời sau nhiều tác phẩm nổi tiếng, đặt cơ sở cho lý luận quân sự nước ta. Lý luận ấy
đã được Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ kế thừa và phát triển, hình thành nghệ thuật
quân sự nước ta thời phong kiến.
Hiện nay, công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước đã và đang thu được những
thành tựu to lớn. Nước ta đang chuyển sang một giai đoạn phát triển mới - giai đoạn đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa với những thách thức
và vận hội mới. Nghiên cứu về tư tưởng, sự nghiệp Trần Quốc Tuấn và công cuộc dựng
nước, giữ nước thời Trần là công việc có ý nghĩa khoa học và thực tiễn to lớn, nhằm kế thừa
và phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc, đặc biệt là truyền thống quân sự Việt Nam
phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
Vì tất cả những lý do trên, chúng tôi quyết định chọn vấn đề “Vai trò của Trần
Hưng Đạo trong ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên ở thế kỷ
XIII” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về một
giai đoạn hào hùng của dân tộc cũng như góp phần làm sáng tỏ thêm tài năng của Trần
Hưng Đạo.
2. Lịch sử vấn đề
Triều Trần (1226 - 1400) là triều đại lớn trong lịch sử dân tộc ta; lịch sử Việt Nam
thời Trần được xem là một giai đoạn oanh liệt nhất thời trung đại, giai đoạn mà dân tộc ta đã

vươn lên mạnh mẽ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, viết nên những trang sử

2


chói lọi trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước và phát triển kinh tế văn hóa, tạo nên hào khí
Đông A.
Trong hào khí Đông A của buổi phục hưng, nước Đại Việt nhỏ bé chỉ chừng năm
triệu dân đã đương đầu thắng lợi trước những cuộc xâm lăng quy mô lớn của đế chế Mông Nguyên đến từ phương Bắc, lập nên những võ công hiển hách, giữ vững nền độc lập. Nếu
như Lý Thường Kiệt là linh hồn của cuộc kháng chiến chống Tống kiên cường thời Lý, thì
Trần Hưng Đạo là trụ cột của triều đình nhà Trần trong ba lần kháng chiến thần thánh chống
Mông - Nguyên hung bạo, giúp nhà Trần tồn tại và phát triển từ nửa sau thế kỷ XIII và đầu
thế kỷ XIV. Với vai trò to lớn như vậy, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về những
đóng góp, công lao to lớn của Trần Hưng Đạo trong ba lần kháng chiến chống Mông Nguyên.
Qua quá trình tìm hiểu các công trình nghiên cứu về Trần Hưng Đạo, trên cơ sở các
nguồn tài liệu thu thập được, chúng tôi tiến hành thống kê, tập hợp và sắp xếp phân loại như
sau:
Nhóm thứ nhất gồm các tác giả nghiên cứu khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của
Trần Hưng Đạo. Có thể kể đến các tác giả như Hoàng Thúc Trâm với tác phẩm “Trần Hưng
Đạo”, Nxb. Vĩnh Bảo, Sài Gòn, hay “Trần Hưng Đạo- Tiểu sử, sự nghiệp, tác phẩm” của
Nguyễn Khắc Thuần, Nxb. Trẻ Thành Phố Hồ Chí Minh, 1987. Ngoài ra, còn có rất nhiều
sách, tạp chí đề cập đến Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn ở nhiều lĩnh vực khác nhau như:
“Anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn tức Trần Hưng Đạo và Di tích lịch sử Kiếp Bạc”, Sở
Văn hóa - Thông tin Hải Hưng, xuất bản năm 1978; “Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn”
của Trịnh Quang Khanh, Sở Văn hóa - Thông tin Nam Định, xuất bản năm 1999; “Việt Nam
ba lần đánh Nguyên toàn thắng” của Nguyễn Lương Bích, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội,
1981; “Đánh bại giặc Nguyên” của Hoàng Lê, Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 1979; “Đại việt
sử ký toàn thư”, tập 2 của Ngô Sĩ Liên, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1967.
Sử gia Nguyễn Khắc Thuần trong bài phỏng vấn “Trần Hưng Đạo – tinh hoa quân
sự Việt Nam” đăng trên báo Đất Việt và Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong bài viết của mình

nhân dịp kỷ niệm 700 năm ngày mất của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, ngày
16/9/2000 cũng đã một lần nữa khái quát một cách toàn diện tài năng quân sự - chính trị của
người anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo.

3


Nhóm thứ hai gồm các tác giả nghiên cứu một cách chuyên sâu về cuộc đời và đặc
biệt tập trung vào sự nghiệp và thiên tài quân sự của Trần Hưng Đạo như: Trần Huy Liệu
trong bài viết “Vai trò lịch sử của Trần Quốc Tuấn” đăng trên Tạp chí Văn sử địa số 10 –
1955, chỉ với một vài trang viết nhưng đã làm nổi bật được trí tuệ, bản lĩnh và tài năng quân
sự kiệt xuất của Trần Quốc Tuấn. Đối với Trần Huy Liệu, Trần Quốc Tuấn là một lãnh tụ
chính trị và quân sự thiên tài, đã điều khiển cuộc chiến tranh ái quốc đi đến thắng lợi cuối
cùng. Trong ba lần đánh bại quân Nguyên, Trần Quốc Tuấn đã vạch ra và thực hiện một
chiến lược tài tình, thích ứng với hoàn cảnh. Tư tưởng cốt lõi của chiến lược ấy là trường kỳ
kháng chiến, tránh những mũi nhọn đầu tiên của địch, bảo toàn lực lượng, phá tan kế hoạch
đánh nhanh thắng nhanh của địch, buộc chúng phải chấp nhận chiến trường và cách đánh do
ta lựa chọn, khoét sâu điểm yếu của giặc để tiến lên đánh bại chúng.
Nguyễn Khắc Thuần trong tác phẩm “Danh tướng Việt Nam”, tập 1 đã mô tả khá
toàn diện tài năng chính trị và quân sự của Trần Quốc Tuấn.
Cuốn “Trần Hưng Đạo- nhà quân sự thiên tài” do Viện Lịch sử quân sự Việt Nam
tổ chức nghiên cứu và biên soạn đã khắc họa một cách đầy đủ, chi tiết và chân thực về thân
thế, cuộc đời và đặc biệt tác phẩm đã làm rõ thiên tài quân sự Trần Quốc Tuấn trong ba lần
kháng chiến chống Mông – Nguyên.
Qua quá trình nghiên cứu tài liệu, chúng tôi nhận thấy hầu hết các công trình nghiên
cứu của các nhà khoa học đều đề cập đến vấn đề thiên tài quân sự và đóng góp của Trần
Hưng Đạo trong ba cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên ở những
phương diện khác nhau, ở những mức độ khái quát hoặc từng khía cạnh. Tuy nhiên, theo
tìm hiểu của tác giả, cho đến nay, chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách
đầy đủ, hệ thống về vai trò của Trần Hưng Đạo trong ba lần kháng chiến chống Mông Nguyên. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa những thành quả của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng

tôi tập hợp lựa chọn và khai thác thông tin phục vụ cho đề tài của mình. Mặt khác, trên cơ
sở các tài liệu tập hợp được tác giả khái quát thành các luận điểm; lựa chọn các luận cứ,
phân tích và chứng minh để làm rõ vai trò lịch sử to lớn của Trần Hưng Đạo trong ba lần
kháng chiến chống Mông - Nguyên.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu, khóa luận tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
4


Thứ nhất, khóa luận nghiên cứu những nét khái quát về nước Đại Việt thời nhà Trần
(1226 – 1400) và cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên ở thế kỷ XIII.
Thứ hai, tìm hiểu thân thế và sự nghiệp của Trần Hưng Đạo.
Thứ ba, khóa luận tập trung làm rõ vị trí và đóng góp của Trần Hưng Đạo trong ba
lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên.
Thứ tư, từ việc phân tích đóng góp của Trần Hưng Đạo, khóa luận làm rõ nghệ thuật
quân sự của ông.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng
- Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của đế quốc Mông – Nguyên.
- Nghiên cứu tình hình lịch sử Việt Nam thế kỷ XIII và cuộc kháng chiến chống quân
xâm lược Mông - Nguyên của Đại Việt dưới sự lãnh đạo của nhà Trần.
- Nghiên cứu khái quát thân thế, cuộc đời và sự nghiệp của Trần Hưng Đạo.
- Đặc biệt khóa luận đi sâu làm rõ vị trí và công lao của Trần Hưng Đạo trong ba lần
kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên.
4.2. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Về không gian
Khóa luận chủ yếu tập trung nghiên cứu những diễn biến lịch sử ở Việt Nam, đồng
thời có mở rộng tìm hiểu thêm các diễn biến lịch sử ở Trung Quốc và Mông Cổ.
4.2.2. Về thời gian
Khóa luận tập trung nghiên cứu vai trò của Trần Hưng Đạo trong khoảng thời gian

diễn ra ba lần kháng chiến chống Mông – Nguyên (1258- 1288), tuy nhiên để có một cái
nhìn khoa học và khách quan, khóa luận mở rộng nghiên cứu thời gian từ khi nhà Trần

5


thành lập đến khi cuộc kháng chiến chống Mông Cổ diễn ra (1226 - 1257) và cả thời gian
sau khi kết thúc cuộc kháng chiến lần thứ ba tới lúc Trần Quốc Tuấn qua đời (1289 – 1300).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Thực hiện khóa luận, tác giả đứng trên cơ sở quan điểm phương pháp luận Mác xítLê nin nít và tư tưởng Hồ Chí Minh về nghiên cứu lịch sử để tiếp cận vấn đề.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng kết hợp hai phương pháp chính
là phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Sử dụng phương pháp lịch sử để tái hiện chân
thực bức tranh quá khứ, kết hợp với phương pháp logic để làm rõ bản chất các sự kiện, hiện
tượng và nhân vật lịch sử.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu liên ngành để sưu tầm, phân loại tư liệu, phân tích, so sánh và đánh giá các sự kiện lịch
sử để đúc rút thông tin phục vụ nội dung khóa luận.
6. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận có những đóng góp sau:
Thứ nhất, khóa luận đã tập hợp được một hệ thống tư liệu về cuộc kháng chiến chống
Mông - Nguyên và danh tướng Trần Hưng Đạo cho những ai quan tâm nghiên cứu đến vấn
đề này.
Thứ hai, khóa luận tập trung làm rõ vai trò của Trần Hưng Đạo trong ba lần kháng
chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên, mà cụ thể là làm rõ vị trí lịch sử và đóng góp
của Trần Hưng Đạo trong ba lần kháng chiến đó.
Thứ ba, thực hiện đề tài này còn giúp chính tác giả của khóa luận nâng cao hiểu biết
của mình về lịch sử Việt Nam giai đoạn thế kỷ XIII - XIV và hiểu sâu sắc hơn nghệ thuật
quân sự Việt Nam, làm hành trang tri thức cho nghề nghiệp và cuộc sống sau này. Mặt khác,

việc thực hiện khóa luận còn giúp tác giả tập dượt nghiên cứu khoa học.
6


7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận được chia làm
ba chương với bố cục như sau:
Chương 1: Nước Đại Việt ở thế kỷ XIII và cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc
Mông - Nguyên.
Chương 2: Vị trí của Trần Hưng Đạo trong ba lần kháng chiến chống Mông Nguyên.
Chương 3: Đóng góp của Trần Hưng Đạo trong ba lần kháng chiến chống Mông Nguyên.

7


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NƯỚC ĐẠI VIỆT Ở THẾ KỶ XIII VÀ CUỘC CHIẾN TRANH XÂM
LƯỢC CỦA ĐẾ QUỐC MÔNG - NGUYÊN
1.1. Nhà Trần thế kỷ XIII
Đầu thế kỷ XIII, nhà Lý lâm vào khủng hoảng, suy sụp; Trần Thủ Độ thâu tóm được
quyền lực và đạo diễn một cuộc chính biến cung đình khéo léo bằng màn kịch vua Lý Chiêu
Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh. Năm 1226, vương triều Trần được thành lập, nhà Trần
ra sức khôi phục và phát triển kinh tế, củng cố bộ máy nhà nước, xây dựng quốc gia thống
nhất, thịnh vượng, có quân đội chính quy hùng mạnh.
Chế độ quân chủ quý tộc được khôi phục và tăng cường về mọi mặt. Nhiều chính sách
và biện pháp quan trọng nhằm củng cố bộ máy nhà nước được nhà Trần áp dụng như định
ra luật lệ “Quốc triều thông chế” (quy định tổ chức hành chính); “Quốc triều hình luật”
xây dựng chính quyền, ưu đãi các quý tộc và hoàng tộc. Quý tộc thời Trần có quyền to lớn
về chính trị, kinh tế, quân sự. Từ năm 1258, vua Trần Thái Tông nhường ngôi cho con là
Trần Hoảng để lên làm Thái Thượng hoàng, chế độ nhường ngôi để lên làm Thượng hoàng

chính thức bắt đầu từ đó.
Triều Trần hết sức coi trọng việc phục hồi và phát triển kinh tế. Để khôi phục lại sức
sản xuất bị đình đốn cuối thời Lý, nhà Trần đã tổ chức khai khẩn đất hoang, mở rộng diện
tích sản xuất nông nghiệp. Ở mỗi lộ, có hai viên đồn điền chánh sứ và phó sứ đôn đốc việc
khai khẩn đất đai, lập đồn điền của nhà nước. Năm 1226, vua Trần xuống chiếu cho các
vương hầu, công chúa, phò mã, cung phi chiêu mộ những người dân nghèo đói, phiêu tán
làm nô tỳ, khai khẩn ruộng hoang, lập thành các điền trang. Bọn quý tộc sai các nô tỳ đến
những vùng ven biển đắp đê ngăn nước mặn. Qua hai, ba năm, đất khai phá trở thành đồng
ruộng, đó là những điền trang của quý tộc.
Nhà Trần cũng rất chú ý tới việc đắp đê phòng lụt. Năm 1248, Thái Tông hạ lệnh cho
các lộ đắp đê từ đầu nguồn đến bãi biển để đề phòng nước sông dâng to, gọi là đê “đỉnh
nhĩ” (quai vạc), đặt chức Hà đê chánh sứ và phó sứ để trông coi việc đắp đê. Đê “đỉnh nhĩ”
ra đời thể hiện một bước tiến toàn diện về sức mạnh nhà nước, về tổ chức xã hội, có tác
dụng quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất nông nghiệp.
8


Nhà Trần chủ trương thắt chặt mối quan hệ giữa trung ương với địa phương, xây
dựng khối đoàn kết cả trong và ngoài hoàng tộc, cả trong kinh thành và ngoài các đạo, lộ.
Quan lại được cấp bổng lộc và lương ăn. Tổ chức bộ máy hoàn thiện và chế độ đãi
ngộ, thưởng phạt chặt chẽ và công minh hơn thời Lý.
Về văn hóa, nhà Trần coi trọng mở mang học tập; định ra các luật thi cử, yêu cầu các
quan lại phải thi, phải có học vị, qua đó đào tạo nhân tài chính quy. Năm 1232, nhà Trần đặt
ra học vị Thái học sinh (học vị này từ năm 1442 gọi là Tiến sĩ). Năm 1247, triều Trần định
lệ Tam khôi là danh hiệu cao quý dành cho ba người đỗ cao nhất trong kì thi đó (đó là Trạng
nguyên, Bảng nhãn và Thám hoa).
Trong lĩnh vực quân sự, huấn luyện và tổ chức quân đội theo phương châm chú trọng
chất lượng, chứ không phải số lượng, “binh quý hồ tinh, bất quý hồ đa”.
Nhà Trần đặc biệt chú ý đến đội ngũ các tướng lĩnh quân sự và các châu mục miền
núi. Với những chính sách, biện pháp mềm dẻo, triều Trần đã tập hợp, lôi kéo được các tù

trưởng, thổ ty, tộc trưởng vùng biên viễn, biến họ thành bề tôi trung thành của triều đình. Để
chống lại các thế lực ngoại xâm lớn mạnh, nhà Trần càng chăm lo củng cố tiềm lực đất
nước, trong đó có chú trọng nâng cao sức chiến đấu của quân đội quốc gia. Sức mạnh quân
đội trước hết biểu hiện trên lĩnh vực tổ chức. Bởi vậy, nhà Trần không ngừng chăm lo kiện
toàn cơ cấu tổ chức quân đội, chú trọng xây dựng quân thường trực chính quy có biên chế tổ
chức hợp lý, gọn nhẹ.
Về tổ chức, đã phân định rõ quân triều đình và quân các lộ, phủ (tức quân trung ương
và quân địa phương). Ở trung ương có cấm quân bảo vệ vua, triều đình; kinh đô Thăng
Long có quân Tú Sương canh giữ các cổng thành và là lực lượng cơ động. Ở địa phương có
quân các lộ, phủ canh giữ và bảo vệ các nẻo miền đất nước. Nhà nước còn cho phép các
vương hầu, quý tộc được tổ chức các đội quân riêng nơi mình trấn trị. Khi có chiến tranh, tất
cả chịu sự điều động và chỉ huy thống nhất của triều đình.
Nhà Trần cũng rất coi trọng việc rèn luyện tướng lĩnh và quân sĩ. Giảng võ đường là
trường học cao cấp thời Trần. Ở đó, vua cùng với các vương hầu, tướng lĩnh học binh thư,
binh pháp, học cách bày trận và phá trận. Trong điều kiện nước Đại Việt luôn luôn có nguy
cơ bị kẻ thù lớn xâm lược, để kết hợp cả hai mặt kinh tế và quân sự, giữa xây dựng và chiến
đấu, để có một đội quân thường trực tinh nhuệ, có số lượng hợp lý lúc hòa bình, nhưng lại
9


có một lực lượng dự bị hùng hậu khi chiến tranh xảy ra có thể huy động được đông đảo số
lượng binh sĩ, triều Trần đã kế thừa và vận dụng thành công chính sách “ngụ binh ư nông”.
“Ngụ binh ư nông” là gửi binh lính làm nông nghiệp thời hòa bình bằng cách chia quân đội
làm năm phiên, trong đó bốn phiên được cho phép về quê làm ruộng, chỉ giữ lại một phiên
vừa huấn luyện vừa làm nhiệm vụ thường trực bảo vệ triều đình và chiến đấu đột xuất. Cứ
thế các phiên thay nhau huấn luyện. Khi có chiến tranh thì huy động tất cả năm phiên về
thành chủ lực của triều đình. Chính sách này đã giúp nhà nước giải quyết hài hòa được hai
nhân tố chất lượng và số lượng, bảo đảm cân đối giữa quân thường trực và quân dự bị; khi
hòa bình vẫn đủ sức canh phòng, thời chiến huy động được đông đảo quân đội, thực hiện
chiến tranh nhân dân, toàn dân là lính. Như vậy có thể xem đây là sự kết hợp giữa xây dựng

kinh tế và quốc phòng của thời Trần. Về lý luận quân sự, “Binh thư yếu lược” của Trần
Quốc Tuấn có giá trị cao về lý luận lẫn thực tiễn được dùng vào huấn luyện cho tướng sĩ.
Như trong tác phẩm “Lịch sử nước ta”, Bác Hồ đã viết:
“Đời Trần văn giỏi võ nhiều
Ngoài dân thịnh vượng, trong triều hiển minh”
Tuy nhiên, bấy giờ khoa học quân sự của Đại Việt chưa phát triển nhiều, nền kinh tế
vẫn đơn thuần là kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc là chủ yếu, nước Đại Việt đất không rộng,
người không đông. Thế nhưng, với vị trí chiến lược trọng yếu, quốc gia Đại Việt đã trở
thành mục tiêu xâm lược của đế quốc Mông - Nguyên - một kẻ thù xâm lược hùng mạnh và
tàn bạo. Bấy giờ, đế quốc Mông Cổ chẳng khác gì một con ác thú khổng lồ, mình phủ kín cả
một vùng rộng lớn, kéo dài từ Hắc Hải đến Thái Bình Dương. Đất đai, dân số và tiềm lực
kinh tế to lớn gấp hàng trăm lần so với Đại Việt. Trong khi đó, đất Đại Việt mới khoảng từ
phía bắc tỉnh Quảng Trị ngày nay trở ra đến biên giới Việt - Trung, dân số Đại Việt ước tính
khoảng hơn ba triệu người. Đã thế, Đại Việt lại vừa thoát khỏi cuộc khủng hoảng trầm
trọng. Nhờ chính sách đoàn kết quân dân đúng đắn, nhờ chính sách cai trị khoan hòa, có
nhiều nhân tài mà Đại Việt đã vượt qua được thử thách đầy cam go ở thế kỷ XIII. Bởi vậy,
trong ba lần kháng chiến chống Mông - Nguyên, Đại Việt đã chiến thắng. Trần Hưng Đạo
đã trở thành một trong những vị tướng kiệt xuất của dân tộc, người có vai trò quan trọng
góp phần tạo nên những trang sử vẻ vang của dân tộc.
1.2. Đế quốc Mông - Nguyên

10


Vương quốc Mông Cổ hình thành ở Trung Á, với sự thống nhất các bộ lạc người Mông
Cổ và người Turk. Dưới sự lãnh đạo của Thành Cát Tư Hãn, Mông Cổ đã mở rộng về phía
Tây qua châu Á tới vùng Trung đông, Rus và châu Âu; về phía Nam đến Ấn Độ và Trung
Hoa; về phía Đông tới bán đảo Triều Tiên và trở thành một đế quốc hùng mạnh nhất thế giới
lúc bấy giờ. Với thế lực hùng mạnh đó, các Hoàng đế Mông Cổ nối tiếp nhau thực thi giấc
mộng bá chủ thế giới.

Đế quốc Mông Cổ (từ năm 1270) là đế quốc Nguyên, âm mưu thôn tính nước Đại Việt
nhỏ bé làm bàn đạp để thôn tính toàn bộ Đông Nam Á.
Người Mông Cổ sống trên vùng thảo nguyên châu Á rộng lớn, phía bắc đến hồ Baican,
thượng lưu Iêrixêi và sông Iếctưsơ; phía Nam qua sa mạc Gôbi đến gần Vạn Lý Trường
Thành. Đại bộ phận cư dân Mông Cổ sống du mục với ngành kinh tế chủ đạo là chăn nuôi
gia súc như ngựa, cừu, bò. Họ thường xuyên luyện tập võ nghệ nên rất giỏi cưỡi ngựa, bắn
cung và thiện chiến.
Người Mông Cổ còn được gọi là người Tácta. Cái tên này có xuất xứ từ việc người
Mông Cổ tự gọi chính mình là Tácta. Tuy nhiên kẻ thù của họ nhận ra rằng cái tên này nghe
gần giống từ “Tartarus” - thần địa ngục trong La Mã cổ đại. Vì vậy, họ đã gọi người Mông
Cổ là Tácta, có nghĩa là quỷ từ địa ngục của thần Tartarus.
Trước thế kỷ XIII, người Mông Cổ đang ở trong thời kì chế độ công xã thị tộc, sống
thành từng bộ lạc hay liên minh bộ lạc. Từ giữa thế kỷ XIII, xã hội Mông Cổ đã có sự phân
hóa giai cấp: tầng lớp quý tộc ngày càng lớn mạnh trên cơ sở chiếm đoạt đất đai, bãi chăn
nuôi của công xã, buộc các thành viên công xã tự do lệ thuộc vào họ. Cũng từ đó, cuộc
chiến tranh giữa các bộ lạc, liên minh bộ lạc để cướp súc vật, của cải, nô lệ, đồng cỏ của
nhau ngày càng gay gắt, quyết liệt. Những bộ lạc thua trận rơi vào tình cảnh bị phụ thuộc bộ
lạc thắng trận, và thủ lĩnh, quý tộc các bộ lạc thua trận trở thành chư hầu của kẻ chiến thắng.
Thắng lợi của liên minh bộ lạc do Têmugin cầm đầu vào thế kỷ XIII đã chấm dứt
cuộc chiến tranh lâu dài đó. Năm 1206, Đại hội quý tộc Mông Cổ đã tôn Têmugin làm
Trinhhít Khan (Thành Cát Tư Hãn). Từ đó, một nhà nước quân sự độc tài chuyên chế mang
tư tưởng bành trướng và thôn tính mạnh mẽ đã ra đời.
Têmugin ra sức xây dựng lực lượng vũ trang, tuyển lựa tướng sĩ, luyện tập quân đội.
Từ những đội quân thân binh trong cuộc chiến tranh giữa các bộ lạc trước đó, các Hoàng đế

11


Mông Cổ đã phát triển thành những đội kỵ binh cơ động, thiện chiến với một nghệ thuật
quân sự độc đáo.

Quân đội của người Mông Cổ được tổ chức đơn giản mà hiệu quả; không giống
những chiến binh du mục khác, chỉ biết di chuyển như người Hung nô; người Mông Cổ rất
giỏi trong nghệ thuật bao vây.
Người Mông Cổ nổi tiếng với những chiến thuật chiến đấu hiệu quả và vô cùng đáng
sợ. Để có được thành quả này, họ đã phải rèn luyện, huấn luyện khả năng chiến đấu của
người chiến binh qua những trận đánh lớn nhỏ. Những thành tích chiến đấu của những chỉ
huy nổi tiếng như Alexander Đại Đế hay Hannibal Barca vẫn bị đánh giá thấp hơn đội quân
Mông Cổ trong thời kì đỉnh cao do Thành Cát Tư Hãn thống lĩnh.
Người Mông Cổ có hai lối đánh nổi bật đó là bất ngờ đánh nhanh thắng nhanh và giả
vờ thua trận, rút chạy rồi bất ngờ quay lại phản công. Cả hai chiến thuật này đều làm cho
hàng ngũ địch bị mất tinh thần, rối loạn. Nhiều tướng lĩnh Đông Âu đã bị thất trận trước
chiến thuật thứ hai. Người Mông Cổ cũng là bậc tiền bối trong lĩnh vực bao vây và bắt giữ
con tin. Sự kết hợp giữa đội quân tinh nhuệ và chiến thuật thông minh đã làm nên nhiều
chiến thắng huy hoàng.
Người Mông Cổ sống rong ruổi trên các thảo nguyên rộng lớn nên bạn đồng hành
không thể thiếu của họ là những con ngựa. Họ trở nên vô cùng mạnh mẽ khi chiến đấu trên
lưng ngựa. Ngựa cũng được coi là một chiến binh, một trong những thứ vũ khí không thể
thiếu của người Mông Cổ.
Người Mông Cổ cũng sử dụng nhiều loại vũ khí khác như lưỡi kiếm cong giúp họ
chiến đấu thuận lợi ngay cả khi đang trên lưng ngựa hay trên mặt đất. Chùy, búa, dao găm
cũng là những vũ khí đánh gần phổ biến của quân đội Mông Cổ. Vũ khí tấn công từ xa phổ
biến nhất chính là cung tên. Trong sử sách, khả năng dùng cung tên của người Mông Cổ
cũng đã được công nhận. Họ sử dụng nhiều loại tên nổi tiếng, đặc biệt là tên còi (một loại
mũi tên rỗng có khả năng tạo ra âm thanh như tiếng huýt). Loại tên này chủ yếu được người
thủ lĩnh sử dụng để ra hiệu trong trận mạc. Tuy mạnh về phương diện vũ khí nhưng người
Mông Cổ không chú ý nhiều đến áo giáp. Mãi đến giai đoạn sau của kỷ nguyên Mông Cổ,
áo giáp mới được chiến binh thảo nguyên sử dụng nhiều. Do người Mông Cổ thích sự gọn
nhẹ nên vật liệu làm ra chúng thường bằng da ngựa đã ngâm trong nước tiểu. Thỉnh thoảng,
họ cũng làm bộ áo bọc thép khoác lên những chiến mã.
12



Theo các tư liệu lịch sử, quân đội Mông Cổ lúc đó là một đội quân rất thiện chiến:
“… Trăm quân kỵ quay vòng, có thể bọc được vạn người, nghìn quân kỵ tản ra, có thể dài
tới trăm dặm…”. “Kỵ đội là ưu thế của họ. Hoặc xa, hoặc gần, hoặc nhiều, hoặc ít, hoặc tụ,
hoặc tán, hoặc hiện, hoặc ẩn, đến như rơi trên trời xuống, đi như chớp giật”. Với một lực
lượng quân đội mạnh và hiếu chiến, tập đoàn phong kiến quý tộc Mông Cổ, đứng đầu là
Tringhít Khan đã dốc toàn bộ lực lượng và sức lực vào những cuộc chiến tranh xâm lược
tàn bạo, đại quy mô để chinh phục các quốc gia, dân tộc khác. Ở thế kỷ XIII, đế chế Mông
Cổ đã chinh phục khắp thế giới. Nhiều nền văn minh ở châu Âu và châu Á đã lần lượt sụp
đổ dưới vó ngựa của đội quân này.
Năm 1211, quân Mông Cổ tiến vào khu vực miền bắc Trung Quốc ngày nay. Bấy
giờ, đây là vùng chiếm cứ của người Nữ Chân, và từ năm 1115, họ đã lập ra được một quốc
gia riêng cho mình, đó là nước Kim. Năm 1215, quân Mông Cổ đã chiếm được kinh đô của
nước Kim, nhưng họ chỉ chiếm đoạt của cải và bắt thật nhiều tù binh rồi rút về.
Năm 1218, Trinhhít Khan tiến quân xâm chiếm Đông Tuốckextan. Năm 1219, kỵ
binh Mông Cổ hung hãn tiến về Trung Á. Tại đây, một loạt những thành phố nổi tiếng lần
lượt bị tấn công và bị triệt hạ. Năm 1221, các vương quốc như Azerbaijan, Grouzia và nhiều
thành phố lớn của Nga bị quân Mông Cổ bóp nát. Năm 1223, sau thất bại thảm hại của liên
quân Nga, đến lượt cả nước Nga cũng bị quân Mông Cổ chiếm đóng. Không bao lâu,
Tringhít Khan lại chỉ huy quân đội Mông Cổ đánh chiếm nước Tangút (tức Tây Hạ),
Tuốckextan, Trung Á, vùng thảo nguyên bao la từ sông Iếctưsơ đến sông Vonga, phần lớn
đất Irăng và Cápca.
Năm 1227, trên đường viễn chinh, Tringhít Khan chết ở Cam Túc (Trung Quốc).
Năm 1228, Ôgôđây - con trai thứ ba của Tringhít Khan lên ngôi Hãn, tiếp tục cuộc viễn
chinh xâm lược nước Kim. Năm 1232, quân Mông Cổ tiến công vào Hà Nam, chiếm đóng
Thái Châu. Thôn tính xong nước Kim (năm 1234), quân Mông Cổ chuẩn bị ráo riết cho
cuộc xâm chiếm Nam Tống.
Năm 1236, Ôgôđây huy động ba đạo quân đánh Tống. Đạo thứ nhất vượt qua Tứ
Xuyên, đánh vào Thành Đô; đạo thứ hai đánh vào Hồ Bắc chiếm Tương Dương; đạo thứ ba

tiến đánh vùng Hán Khẩu. Cuộc chiến tranh xâm lược Nam Tống phải kéo dài hơn 40 năm
mới chấm dứt.
Để thực hiện tham vọng mở rộng lãnh thổ của đế quốc Mông Cổ, từ năm 1236,
Ôgôđây đã huy động một lực lượng mạnh gồm 15 vạn quân đặt dưới quyền thống soái của
Ba Tu (cháu nội của Tringhít Khan) ồ ạt tiến sang phía tây, lần lượt chiếm đóng vương quốc
13


Vlađimia (năm 1238), Kiép và toàn bộ vùng Ucraina (năm 1240), Caracốp (Ba Lan). Năm
1241, quân Mông Cổ đánh tan liên quân Ba Lan- Tiệp, chiếm Hunggari vào năm 1242.
Năm 1241, Ôgôđây chết, nội bộ quý tộc Mông Cổ mâu thuẫn gay gắt, ngôi Hãn bỏ
trống cho đến năm 1246, Guyúc (em trai Ôgôđây) được cử làm Đại Hãn, nhưng Ba Tu
không thừa nhận. Năm 1248, Guyúc chết trên đường đem quân đánh Ba Tư. Từ đó, Môngke
giữ ngôi Đại Hãn và các cuộc chinh phạt của đế quốc Mông Cổ vẫn tiếp diễn. Từ đây, quân
Mông Cổ đẩy mạnh bành trướng xuống phía nam.
Năm 1241, quân Mông Cổ đánh vào Hunggari, đuổi vua của Hunggari đến tận biên
giới của nước Ý. Bấy giờ, cả Châu Âu bị chấn động dữ dội bởi vó ngựa hung hãn của quân
Mông Cổ. Nỗi lo sợ bao trùm lên mọi quốc gia.
Năm 1252, ngay khi cuộc thôn tính Trung Quốc còn đang dở dang, Môngke đã ra
lệnh cho em của hắn là Hốt Tất Liệt (Khubilai) đánh xuống Vân Nam. Cùng đi với Hốt Tất
Liệt còn có tướng Ngột Lương Hợp Thai (Uyrăngkhađai). Bấy giờ, đất Vân Nam thuộc lãnh
thổ của nước Đại Lý và vua của nước Đại Lý lúc ấy là Đoàn Hưng Trí. Chỉ trong vòng một
thời gian ngắn, nước Đại Lý bị tiêu diệt. Hốt Tất Liệt trở về Mông Cổ, giao quyền quản lí
đất nước cho Ngột Lương Hợp Thai. Năm 1258, sau khi cho sứ giả chiêu dụ vua Trần bất
thành, Ngột Lương Hợp Thai đã đưa quân tấn công xâm lược Đại Việt để mở rộng lãnh thổ,
đồng thời lấy Đại Việt làm bàn đạp để tấn công Nam Tống từ phía nam. Tuy nhiên, cuộc tấn
công này của quân Mông Cổ đã bị quân dân Đại Việt đánh bại.
Năm 1253, quân Mông Cổ xâm lược Ba Tư, tiến công Lưỡng Hà, Xiri.
Cùng thời với các cuộc viễn chinh sang Châu Âu và Trung Á, Môngke cùng Hốt Tất
Liệt tiếp tục cuộc xâm chiếm miền nam Trung Quốc. Năm 1260, Hốt Tất Liệt lên ngôi Hãn.

Sau một thời gian tập trung ổn định ngôi vị, Hốt Tất Liệt đã cho quân dồn dập tấn công nhà
Tống. Năm 1271, sau khi thôn tính được Nam Tống, Hốt Tất Liệt lập nên nhà Nguyên. Đế
quốc Mông - Nguyên ra đời. Năm 1279, toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc bị đặt dưới ách đô hộ
của đế quốc Mông - Nguyên, một đế quốc rộng lớn từ bờ Thái Bình Dương đến bên kia Hắc
Hải; cả vùng Đông Nam Á xa xôi với những hòn đảo được ngăn cách với đại lục bằng biển
cả cũng bị uy hiếp nghiêm trọng và không thoát khỏi nguy cơ xâm lược của quân Mông Nguyên.
Trong hơn nửa thế kỷ tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược nhiều nước trên thế
giới, quân Mông Cổ đã bộc lộ bản chất vô cùng tàn bạo, vô nhân đạo. Sử cũ cho thấy vào
tháng 2 năm 1220, sau khi đánh chiếm được thành Bukhara (vương quốc Khômexrơ) quân
Mông Cổ đã đuổi tất cả dân cư ra khỏi thành, cướp bóc của cải và đốt thành. Biến Xamác
14


Khan từ một thành thị giàu có ở Trung Á trở thành hoang phế, dân số còn lại không được
một phần tư. Năm 1221, sau sáu tháng vây hãm Uốcghentrơ, thủ đô của vương quốc
Khômexrơ, quân Mông Cổ đã tàn sát cư dân ở đây và phá đê sông Amu Đaria cho nước tràn
vào thành giết chết những người còn sống sót. Cũng trong năm này, khi đánh chiếm được
thành Mécvơ, quân Mông Cổ đã tàn sát tất cả cư dân ở đây, trừ 400 thợ thủ công bị bắt để
phục vụ nhu cầu bọn giặc. Năm 1223, sau khi đánh bại quân Nga, quân Mông Cổ bắc ván
lên đầu họ để ngồi lên đó ăn mừng chiến thắng. Năm 1234, sau khi đánh bại nước Kim theo điều ước liên minh giữa quân Mông Cổ với Nam Tống - quân Tống tiến vào lấy lại
nước cũ bị nước Kim chiếm, nhưng đã bị quân Mông Cổ phá đê, tháo nước sông Hoàng Hà
làm ngập quân Tống. Năm 1241, quân Mông Cổ sau khi đánh chiếm được thành Gran, đế
đô cũ của Hunggari, căm tức vì nhân dân ở đây bỏ trốn, bọn chúng bắt được dân đã đem
nướng người trên lửa, chặt đầu phụ nữ trong thành,v.v.. Tội ác tày trời của quân Mông Cổ
đã được phản ánh qua nhận xét của các nhà sử học, nhà thơ, nhà văn, danh nhân. Ở nước
Đức lúc đó đã xuất hiện bài kinh cầu nguyện: “Chúa cứu vớt chúng con khỏi cơn thịnh nộ
của Tácta”. Còn một nhà thơ Ácmênia ở thế kỷ XIII đã viết: “… Không một dòng suối, một
con sông nào không tràn đầy nước mắt của chúng ta, không một ngọn núi, một cánh đồng
nào không bị quân Tácta giày xéo…” [14; 38]. Các Mác cũng đã viết về tội ác của quân
Mông Cổ khi xâm lược Trung Á: “Nghệ thuật, những thư viện phong phú, nền nông nghiệp

ưu việt, cung điện và giáo đường - tất cả sạch không”.
Nước Đại Việt của nhà Trần với một vị trí địa lý đặc biệt quan trọng, là cửa ngõ giữa
Đông Nam Á đất liền và hải đảo, nằm ở Đông Nam của đại lục châu Á, nhìn ra Thái Bình
Dương, ở trên con đường giao thông thủy bộ thuận lợi từ nam lên bắc, từ đông sang tây...
Mặt khác nước ta vốn từ xưa đã nổi tiếng là nơi có “rừng vàng biển bạc”. Với vị trí trọng
yếu và những nguồn tài nguyên phong phú, Đại Việt là nơi giao lưu nhiều luồng văn hóa
Đông- Tây và cũng là địa bàn chiến lược mà nhiều thế lực ngoại xâm nhòm ngó, thèm khát.
Mặt khác, kẻ thù muốn đánh chiếm nước ta không chỉ để bóc lột nhân dân, vơ vét của cải,
khai thác nguồn tài nguyên phong phú, mà còn muốn biến nước ta thành một đầu cầu chiến
lược để bành trướng khắp vùng Đông Nam Á. Vì thế, sau khi hoàn tất việc thôn tính đất đai
Trung Quốc, Hốt Tất Liệt bắt đầu huy động những đạo quân thiện chiến và khổng lồ để tiến
đánh nước ta. Đây quả thật là cuộc đối đầu có một không hai trong lịch sử Đại Việt, đặt
quân dân Đại Việt đứng trước thách thức nghiêm trọng mất còn.

15


CHƯƠNG 2: VỊ TRÍ CỦA TRẦN HƯNG ĐẠO TRONG BA LẦN KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MÔNG - NGUYÊN
2.1. Tiểu sử Trần Hưng Đạo
Trần Hưng Đạo sinh ra tại làng Kiếp Bạc, xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải
Dương; nguyên quán của ông là làng Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Năm lên 4-5
tuổi, Trần Quốc Tuấn theo cha là An Sinh Vương Trần Liễu (lúc đó là Khâm Minh Thái
Vương) bị đày đến Ái Châu, nơi giam cầm trọng tội. Trưởng công chúa là Thụy Bà thương
anh cả mình vô tội bị đầy, bèn năn nỉ anh kế là vua Trần Thái Tông nhận Trần Quốc Tuấn
làm con đem về Thăng Long nuôi dạy. Để tránh sự soi mói của triều đình, Trần Quốc Tuấn
được công chúa Thụy Bà gửi tại chùa Phật Quang làng Khúc Thủy, xã Cự Khê, huyện
Thanh Oai, tỉnh Hà Tây, nhờ sư trụ trì chùa này dạy dỗ cho tới năm ông lên 10 tuổi. Khi lớn
lên, Trần Quốc Tuấn có dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, học thông hiểu rộng,
văn võ song toàn. Một người coi tướng thấy ông nói rằng: “Người này ngày sau có tài kinh

bang tế thế”. Do vợ Trần Cảnh là Lý Chiêu Hoàng không có con nên năm 1237, Trần Thủ
Độ bắt vợ của Trần Liễu lúc ấy có thai ba tháng về làm vợ Trần Cảnh (chị thay cho em).
Chính vì lẽ đó mà Trần Liễu oán giận Trần Cảnh. Vốn có hiềm khích đó với vua Trần Thái
Tông - Trần Cảnh mà An Sinh Vương Trần Liễu mang lòng hậm hực, tìm những người tài
nghệ khắp nơi về để dạy cho con trai là Trần Quốc Tuấn, mong sau này con mình phải làm
vua thiên hạ. Lúc sắp mất, An Sinh Vương Trần Liễu cầm tay Trần Quốc Tuấn trăng trối
rằng: “Con không vì cha mà lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không
nhắm mắt được”.
Tháng 2 năm 1251, Trần Hưng Đạo kết hôn với Công Chúa Thiên Thành tức Nguyên
Từ quốc mẫu, sinh được 4 trai và một gái, và ông còn có người con gái nuôi:
- Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn : võ tướng.
- Minh Hiến Vương Trần Quốc Uất: võ tướng.
- Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng: võ tướng, cha vợ của Trần Anh Tông.
- Hưng Trí Vương Trần Quốc Hiện: võ tướng, nhà khai khẩn đất đai.
- Khâm Từ hoàng hậu: vợ vua Trần Nhân Tông.
- Anh Nguyên quận chúa: con nuôi của Trần Hưng Đạo, vợ của danh tướng Phạm Ngũ Lão.
16


Đức Trần Hưng Đạo là người có nhân cách cao đẹp với một trái tim hừng hực yêu tổ
quốc, yêu thương muôn dân. Nhân cách ấy, con tim vĩ đại ấy đã tạo nên một khí phách vượt
lên những toan tính cá nhân, những tị hiềm gia đình, phe nhóm tung hoành trước binh đao
để làm nên những chiến công hiển hách bảo vệ giang sơn của Tổ quốc. Trước quân thù, ông
là biểu tượng sáng ngời về lòng dũng cảm và sự thông minh tuyệt đỉnh thiêu rụi bọn giặc
xăm lược Bắc phương. Các địa danh Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, Bạch Đằng gắn với
tên tuổi của người anh hùng Trần Hưng Đạo mà mỗi khi nhắc tới là nỗi khiếp sợ của quân
Nguyên.
Trần Hưng Đạo là vị tướng có tài trong việc đánh giá và sử dụng nhân tài. Ông đã
phát hiện và tiến cử cho triều đình và quân đội nhiều danh sỹ võ tướng tài ba như: Phạm
Ngũ Lão, Trần Thị Kiến, Trương Hán Siêu, Trịnh Dũ, Ngô Sỹ Thường, Nguyễn Thế Trực…

Yết Kiêu và Dã Tượng tuy là hai gia nô của Hưng Đạo nhưng cũng là những chiến binh
dũng cảm tài ba, rất trung thành và lập được nhiều chiến công quan trọng.
Trần Hưng Đạo sớm bộc lộ tài mưu lược, anh hùng, là người trung nghĩa nên đã giữ
được những nhân tài chung quanh ông. Ví dụ như khi vua Trần Thánh Tông ướm hỏi Trần
Quốc Tuấn rằng: “Thế giặc như vậy, ta phải hàng thôi”. Trần Quốc Tuấn đã khẳng khái trả
lời: “Bệ hạ chém đầu thần trước rồi hãy hàng”. Tiếng vang đến giặc phương Bắc, chúng
thường gọi Trần Quốc Tuấn là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi bằng tên.
Nhân dân Việt Nam vô cùng kính trọng ông và tôn ông là vị anh hùng dân tộc có
công trạng lớn vào hàng bậc nhất đối với Tổ quốc và là tấm gương sáng ngời cho các thế hệ
sau học tập.
Ngoài tài dụng người, dụng binh, ông là nhà lý luận quân sự Việt Nam tầm cỡ đã
từng soạn các binh thư như “Binh gia diệu lý yếu lược” (còn gọi là “Binh thư yếu lược”) và
“Vạn kiếp tông bí truyền thư” để dạy các tể tướng quân sĩ. Ông còn soạn Hịch để khích lệ
tướng sĩ dưới quyền.
Trần Hưng Đạo là người thông minh đĩnh ngộ, văn võ song toàn; chí biết dẹp thù
nhà, thân biết đoàn kết anh em dòng họ cùng lo toan việc nước. Ông nghiên cứu binh thư,
biết dùng người hiền tài, coi binh sĩ như tay chân. Ông là hiện thân của một vị tướng có đủ:
Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Tín. Cả ba lần chống quân Mông - Nguyên, ông đều lập được
nhiều công, đặc biệt là lần thứ hai và lần thứ ba. Sau khi cuộc kháng chiến chống quân
17


Nguyên lần thứ ba thành công, ông về ẩn thân ở trang viên của mình tại Vạn Kiếp. Tuy
nhiên, các vua Trần vẫn thường xuyên đến phủ đệ của ông để vấn kế sách giữ nước. Trước
khi mất, ông đã để lại lời di huấn nổi tiếng về kế sách giữ nước cho vua Trần Anh Tông là:
“khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”.
Là nhân vật lịch sử lớn, nhà quân sự thiên tài, nhưng rất tiếc, do những biến thiên của
lịch sử, ngày tháng năm sinh của ông vẫn chưa được xác định. Người ta chỉ mới biết vào
mùa thu năm 1300 (nhằm ngày 20 tháng 8 âm lịch năm Canh Tý) Thượng quốc công, Bắc
bình đại nguyên soái Trần Quốc Tuấn qua đời. Sau khi ông mất, vua đã phong cho ông tước

Hưng Đạo Đại vương. Triều đình và nhân dân lập đền thờ ông tại Vạn Kiếp - Hải Dương,
Bảo Lộc - Nam Định và nhiều nơi khác. Công lao và sự nghiệp đánh giặc của ông sống mãi
với dân tộc Việt Nam. Ông xứng đáng được các vua Trần coi là bậc Thượng phụ, trăm họ
kính trọng gọi ông là Đức Thánh Trần.
2.2. Vị trí củaTrần Hưng Đạo trong ba lần kháng chiến chống Mông - Nguyên
Anh hùng dân tộc là người kết tinh tất cả những phẩm chất cao đẹp nhất của dân tộc.
Họ là hiện thân của con người vừa có ý chí, vừa có tài năng. Xuất hiện trong những hoàn
cảnh lịch sử nhất định, các vĩ nhân bao giờ cũng mang đậm tinh thần thời đại. Khi sự sống
còn của dân tộc bị đe doạ, lãnh thổ đất nước bị mũi giày quân xâm lược giày xéo, đời sống
nhân dân lầm than cơ cực….Đó là lúc anh hùng dân tộc xuất hiện, đứng ra đảm nhận sứ
mệnh lịch sử. Anh hùng Trần Hưng Đạo cũng xuất hiện trong một hoàn cảnh lịch sử như
vậy.
Đầu thế kỷ thứ XIII đế chế Mông Cổ hình thành và ngày càng lớn mạnh. Chúng
nhanh chóng trở thành một đội quân xâm lược hùng mạnh nhiều lần dẫn quân chinh chiến
xâm lược nhiều quốc gia ở châu Á và châu Âu. Chúng đi đến đâu gieo chết chóc và tang
thương đến đó; quân Mông Cổ trở thành nỗi khiếp sợ của nhiều dân tộc trên thế giới lúc bấy
giờ. Bằng vó ngựa và cung tên cùng với bản lĩnh phi thường của người dân du mục, quân
Mông Cổ đã làm chủ được một vùng đất đai rộng lớn:
Quân Nguyên binh giỏi tướng tài
Đánh đâu được đấy, dông dài Á- Âu
Tung hoành chiếm nửa châu Âu
Chiếm Cao Ly, lấy nước Tàu bao la
18


(Lịch sử nước ta - Hồ Chí Minh)
Đội quân xâm lược của chúng chưa từng thất bại, nổi tiếng với kỵ binh trăm trận
trăm thắng. Năm 1258, sau khi đã thôn tính gần hết Bắc Kim và Vân Nam, Mông Cổ quyết
định xâm lược Đại Việt để mở rộng lãnh thổ và làm bàn đạp tấn công tiêu diệt Nam Tống.
Trong 30 năm (1258-1288), Mông - Nguyên đã ba lần xâm lược nước ta. Trong cả ba lần,

chúng đều mang theo đội quân đông đảo, hùng mạnh (lần một: 3 vạn quân; lần hai: 50 vạn
quân; lần ba: trên 30 vạn quân) với âm mưu và thủ đoạn thâm độc hơn và quyết tâm khuất
phục bằng được nước Đại Việt.
So sánh với tiềm lực của kẻ thù lúc này thì chúng ta đang đứng trước tình thế “ngàn
cân treo sợi tóc”, một dân tộc đất không rộng người không đông phải chống lại đội quân
hung bạo nhất trong lịch sử, chưa từng nếm mùi thất bại. Yêu cầu lịch sử đặt ra trong lúc
này là cần có một vị anh hùng đứng ra đảm đương sứ mệnh lịch sử giao phó: tổ chức lãnh
đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên thắng lợi. Trong hoàn
cảnh lịch sử đó, Trần Hưng Đạo đã xuất hiện, bằng tài năng kiệt xuất với một lòng yêu nước
nồng nàn và quyết tâm giữ nước, ông đã đứng ra gánh vác trách nhiệm lịch sử, trở thành
người lãnh đạo quân và dân tiến hành kháng chiến chống xâm lược. Ông là vị tướng rường
cột của quốc gia, được giao quyền Tiết chế, thống đốc quân đội của cả triều đình và tất cả
các vương hầu, tôn thất.
2.2.1. Vị trí của Trần Hưng Đạo trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông
Cổ lần thứ nhất (1258)
Ngay từ khi còn là một tướng trẻ, chưa đầy 30 tuổi, nhưng Trần Hưng Đạo đã được
vua Trần lúc đó là Trần Thái Tông (1226 - 1258) tin cậy và giao phó trọng trách làm tướng
tiên phong lên chốt giữ biên giới với 2 nhiệm vụ:
- Củng cố lực lượng phòng giữ, nắm tình hình địch, thông tin cho triều đình.
- Tiến hành phục kích tiêu hao lực lượng địch khi chúng tiến sang.
“Tháng 8 (năm Đinh Tị, 1257), chủ trại Quy Hóa là Hà Khuất sai người chạy trạm về báo
rằng có sứ giả của nhà Nguyên sang. Tháng 9 (nhà vua) xuống chiếu, ra lệnh cho các tướng
tả hữu đem quân thủy và quân bộ ra ngăn giữ ở biên giới. Tất cả đặt dưới sự chỉ huy của
(Trần) Quốc Tuấn. Mùa đông, tháng 11, lệnh truyền cả nước sắm vũ khí” [5; 21b].
19


Với vị trí là một tướng tiên phong, nắm trong tay một lực lượng không lớn, Trần
Quốc Tuấn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đúc rút được nhiều kinh nghiệm. Trước thế
giặc mạnh, ông đã biết rút lui đúng lúc, đồng thời phối hợp chiến đấu bảo vệ vua Trần ở

Bình Lệ Nguyên.
Với những đóng góp tích cực và có ý nghĩa đó, Trần Hưng Đạo đã thể hiện được tài
năng và triển vọng lớn. Đây chính là một trong những cơ sở quan trọng để sau này triều
Trần trao quyền Tổng chỉ huy quân đội cho Trần Hưng Đạo về sau.
2.2.2. Vị trí của Trần Hưng Đạo trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên
năm 1285
Nếu như trước và trong cuộc kháng chiến lần thứ nhất (1257), Trần Hưng Đạo mới
chỉ là một vị tướng nhỏ chỉ huy lực lượng bảo vệ biên giới phía bắc thì trong cuộc kháng
chiến lần thứ hai (1285), Trần Hưng Đạo được triều đình tin tưởng giao phó toàn quyền
trong việc lựa chọn nhân tài, tổ chức chỉ đạo cuộc kháng chiến. Với trọng trách này, Trần
Hưng Đạo chính thức đảm nhiệm kể từ tháng 10 năm 1283: “Tấn phong Hưng Đạo Vương
Trần Quốc Tuấn làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh quân sĩ cả nước, cho được quyền chọn
bọn quân hiệu có tài chỉ huy, sai đi chỉ huy các đơn vị” [5; 43-b].
Về sự kiện này, sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán
triều Nguyễn viết: “Tháng 10, mùa đông (năm Qúy Mùi 1283) Trung phẩm là Hoàng Ư
Lệnh và Nội thư gia Nguyễn Chương sang sứ bên nhà Nguyên trở về nói nhà Nguyên sai
Thái tử là A Thai (Thoát Hoan) và Bình Chương A Thích hội họp 50 vạn quân ở Hồ Quảng,
định đến sang năm kéo sang cướp nước ta. Bấy giờ, nhà vua thân hành đem các vương hầu
điều động tất cả quân thủy, quân bộ, thao diễn chiến trận, hạ lệnh cho Quốc Tuấn làm
Quốc công tiết chế thống lĩnh tất cả các sắc quân; chọn trong hàng tướng tá nếu người nào
có tài thì phân phối cho thống lĩnh đội ngũ của từng bộ phận” và “nhà vua hạ lệnh cho
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn điều khiển các sắc quân của vương hầu mở cuộc duyệt
binh lớn ở Đông Bộ Đầu, rồi chia quân ra đóng giữ bến Bình Than và các nơi xung yếu”.
Kể từ đây, Trần Hưng Đạo dốc hết trí lực, cùng với Thượng hoàng, nhà vua và các
tướng lĩnh cao cấp, quyết tìm cho bằng được kế sách đối phó hữu hiệu nhất với quân Mông
- Nguyên xâm lăng.

20



Trong cuộc kháng chiến này, chính Trần Hưng Đạo là người đã khai sinh ba quyết
định rất đúng đắn. Một là, đối với đạo quân 50 vạn tên do Thoát Hoan cầm đầu tấn công từ
mặt bắc xuống, ta tạm thời rút lui để bảo toàn lực lượng, tránh đòn mạnh nhất của kẻ thù
đang lúc hung hăng. Hai là, đối với đạo quân gần 10 vạn tên do Toa Đô cầm đầu, từ Chiêm
Thành tiến lên, ta quyết tâm đánh trả, không để cho chúng có cơ hội nhanh chóng nhập cục
với đại binh của Thoát Hoan. Ba là, kiên trì tổ chức hàng loạt những cuộc nghi binh nhằm
đánh lạc hướng của kẻ thù và nhằm bảo toàn lực lượng của ta, vững chí chờ thời cơ thuận
tiện nhất để mở một loạt chiến dịch lớn, quét sạch quân xâm lăng khỏi bờ cõi.
Và cũng trong cuộc kháng chiến lần thứ hai này, Trần Hưng Đạo đã trực tiếp chỉ huy
cuộc tấn công vào đồn trại của giặc trên sông Hồng, vào kinh thành Thăng Long với những
chiến thắng lẫy lừng ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương.
2.2.3. Vị trí của Trần Hưng Đạo trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên
năm 1288
Sau hai lần xâm lược Đại Việt đều đại bại, Hoàng đế nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt và
cả triều đình của ông ta vô cùng sửng sốt, tức tối và hằn học. Nóng lòng đánh báo thù để rửa
nhục và cũng để thực hiện bằng được giấc mộng biến Đại Việt thành bàn đạp, căn cứ bành
trướng xuống Đông Nam Á để bá chủ thế giới, Hốt Tất Liệt vội vàng ra lệnh đình chỉ cuộc
xâm lược Nhật Bản, tập trung binh lực đánh chiếm Đại Việt.
Trước tình thế đó, vương triều nhà Trần và cả nước ta tích cực, khẩn trương và chủ
động chuẩn bị cho cuộc đụng đầu lịch sử sắp sửa xảy ra.
Ngay từ giữa năm 1286, khi được tin Hốt Tất Liệt sửa soạn xâm lược nước ta, vua
Trần Nhân Tông đã tin tưởng giao cho Trần Quốc Tuấn trọng trách Tiết chế toàn quân “đốc
suất các vương hầu, chiêu mộ binh lính, sắm sửa binh khí”.
Xuất phát từ hoàn cảnh của nước ta lúc bấy giờ, nước nhỏ, dân ít, yêu cầu của nền
kinh tế nông nghiệp đòi hỏi phải có nhân lực; và cũng từ thực tiễn chiến tranh chống quân
Nguyên năm 1285, Trần Quốc Tuấn đã có một chủ trương rất đúng đắn và sáng suốt là:
“Quân quý ở tinh nhuệ, không quý ở số đông. Dẫu đến 100 vạn quân mà như Bồ Kiên thì
làm được gì”. Bởi vậy, trong việc chuẩn bị kháng chiến, ông đặc biệt chú trọng đến việc
huấn luyện quân đội, tăng cường kỷ luật và sức chiến đấu hơn là tuyển nhiều quân.


21


Với vị trí là Tổng chỉ huy quân đội (Quốc công tiết chế), Trần Quốc Tuấn trở thành
trụ cột quan trọng bậc nhất của nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược
Nguyên lần thứ ba. Với vị trí quan trọng đó, Trần Hưng Đạo là người được cả triều đình nhà
Trần và nhân dân Đại Việt trao gửi trọng trách đầy vinh quang nhưng cũng rất nặng nề, khó
khăn.
Lãnh đạo thành công hai cuộc kháng chiến, Trần Hưng Đạo đã không phụ lòng tin
tưởng của vua tôi Đại Việt, ghi vào lịch sử dân tộc những trang sử vẻ vang, hào hùng nhất.
Những chiến thắng này thể hiện rõ đóng góp to lớn của Trần Hưng Đạo.

22


CHƯƠNG 3: ĐÓNG GÓP CỦA TRẦN HƯNG ĐẠO TRONG BA LẦN KHÁNG
CHIẾN CHỐNG MÔNG - NGUYÊN
3.1. Đóng góp của Trần Quốc Tuấn trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược
Mông Cổ lần thứ nhất (năm 1258)
Thực hiện kế hoạch xâm lược Đại Việt, tướng Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy hơn ba
vạn quân từ nước Đại Lý tiến vào biên giới nước ta. Trước khi tiến vào lãnh thổ Đại Việt,
Ngột Lương Hợp Thai dừng quân, nhiều lần cho sứ giả đưa thư dụ hàng vua Trần.
Tháng 9 năm 1257, Ngột Lương Hợp Thai từ nước Đại Lý tới trước cửa ải Quy Hóa
xin vào. Chủ trại Quy Hóa là Hà Bổng cho chạy ngựa trạm về triều báo có sứ Mông Cồ xin
vào. Triều đình cho sứ vào, nhưng tới kinh thành Thăng Long ta bắt tống vào ngục. Tháng
10 năm 1257, Ngột Lương Hợp Thai lại cho sứ sang, và rồi nhà vua cũng cho vào để rồi đến
kinh thành Thăng Long lại tống giam.
Trước tình thế khẩn cấp quân giặc sắp tràn vào bờ cõi, vua Trần và Thái sư Trần Thủ
Độ chưa biết chọn vị tướng nào để đi biên giới chặn giặc thì Trần Hưng Đạo đã tình nguyện
xin đi. Trần Hưng Đạo được nhà vua giao ấn tiên phong đưa quân lên Quy Hóa bày trận và

cả nước được lệnh sắm sửa vũ khí, sẵn sàng đánh giặc. Khi nhận trọng trách này, Trần
Hưng Đạo chưa đầy ba mươi tuổi, nhưng vị tướng quân còn rất trẻ ấy đã hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ của mình, xứng đáng với niềm tin cậy lớn lao của triều đình và của các tướng
sĩ đương thời. Toàn bộ dải biên cương trùng điệp ở vùng núi rừng phía bắc được kiểm soát
chặt chẽ, mọi động tĩnh lớn nhỏ ở biên giới đều được thông báo về triều đình một cách kịp
thời. Những thông tin phong phú và chính xác do Trần Hưng Đạo chuyển đạt có ý nghĩa hết
sức quan trọng đối với việc hoạch định kế sách chung của triều đình. Thắng lợi của cuộc
kháng chiến lần thứ nhất gắn liền với công lao trấn giữ biên cương của Trần Hưng Đạo.
Buổi đầu trong cuộc kháng chiến lần thứ nhất năm 1258, Trần Quốc Tuấn thấy rõ với
lực lượng ít ỏi của mình không thể đánh tiêu diệt đại quân Mông Cổ do Ngột Lương Hợp
Thai chỉ huy nên ông đã cho quân rút lui một cách an toàn, bảo toàn lực lượng để đánh trận
lớn ở Nam Bạch Hạc và ở Bình Lệ Nguyên do chính vua Trần chỉ huy. Ngột Lương Hợp
Thai phát hiện lực lượng quân Trần mỏng đã tung toàn bộ lực lượng bủa vây toan bắt sống
vị tướng trẻ. Nhưng Trần Quốc Tuấn bố trí trận địa làm như chuẩn bị đánh lớn, nên khi tên
tướng Mông Cổ hùng hổ tấn công vào thì đó chỉ là một trận địa giả, còn Trần Quốc Tuấn thì
23


đã cùng toàn quân của mình rút lui an toàn. Trần Quốc Tuấn đã đưa quân lui về phía sau và
bố trí nhiều trận địa đánh chặn tiêu hao địch khiến cho chúng bị thương vong nặng nề.
Ngoài ra, trong cuộc kháng chiến này, Trần Hưng Đạo còn là một trong những vị
dũng tướng đã sát cánh chiến đấu bên cạnh nhà vua và đã có công gây cho đội quân của
Ngột Lương Hợp Thai những thiệt hại không nhỏ. Đây chính là một trong những cơ sở quan
trọng để sau này triều Trần trao quyền Tổng chỉ huy quân đội cho Trần Hưng Đạo trong các
cuộc chiến tranh lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1288). Mặt khác, qua giao chiến với quân
Mông Cổ lần này còn giúp Trần Quốc Tuấn tích lũy được kinh nghiệm cho hai lần sau.
3.2. Đóng góp của Trần Quốc Tuấn trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược
Nguyên lần thứ hai và lần thứ ba.
3.2.1. Cùng với triều đình nhà Trần chuẩn bị kháng chiến
Mặc dù giành được thắng lợi trong cuộc kháng chiến lần thứ nhất, nhưng nhà Trần và

Trần Quốc Tuấn nhận thức được rằng: kẻ thù chưa cam tâm chấp nhận thất bại mà sẽ còn
tiếp tục phục thù bằng cuộc chiến tranh mới. Do đó, một cuộc chiến tranh mới với người
Mông Cổ là không thể tránh khỏi, vì thế mà sau cuộc kháng chiến chống xâm lược lần một,
nhà Trần và Trần Quốc Tuấn đã áp dụng các biện pháp nhằm củng cố quân đội. Năm 1261,
vua xuống chiếu tuyển lựa đinh tráng nhằm bổ sung cho quân đội thường trực. Số còn lại
ghi tên vào danh sách các lực lượng dân binh địa phương. Năm 1262, nhà Trần bắt tay vào
việc chế tạo các loại vũ khí và chiến thuyền mới. Năm 1267, định lại cơ cấu quân thường
trực gọi là “quân ngũ”, tức là năm bộ phận gồm: trung quân, hữu quân, tả quân, tiền quân và
hậu quân. Mỗi quân gồm 30 đô, mỗi đô 80 người. Chỉ huy các quân theo chiếu chỉ của vua
là những người tôn thất giỏi võ nghệ, tinh binh pháp.
Bước vào cuộc kháng chiến lần ba, các công việc chuẩn bị kháng chiến chống xâm
lược cũng được chuẩn bị khẩn trương. Tháng 6 năm 1287, các vương hầu, tôn thất được
lệnh tuyển mộ binh lính, thống lĩnh các thuộc hạ của mình. Sau khi nhận được tin cho biết
rằng, trong cuộc viễn chinh mới này, quân Mông Cổ hy vọng nhiều vào việc phát huy tác
dụng của lực lượng thủy binh, triều đình Đại Việt ra lệnh sửa chữa và đóng mới thêm chiến
thuyền.
Nhà Trần và Trần Quốc Tuấn đặc biệt coi trọng việc đào tạo các võ quan, tướng lĩnh
trên cả hai mặt đức và tài - coi đây là một nhân tố hết sức quan trọng để nâng cao chất lượng
24


quân đội. Hình thức bồi dưỡng, rèn luyện đức độ có thể bằng ban chiếu dụ, truyền hịch,
hoặc tổ chức cho các tướng học tập, họp bàn, tuyên thệ, v.v..
Nội dung rèn luyện trước tiên là bồi dưỡng tình cảm của võ quan, tướng lĩnh đối với
quê hương, đất nước, đối với quân sĩ, đề cao lòng nhân nghĩa, “trung quân ái quốc”, tinh
thần trách nhiệm của người cầm quân.
Trước khi bước vào cuộc đọ sức quyết liệt với giặc Nguyên lần thứ hai (1285), ở
cương vị là Quốc công tiết chế (Tổng chỉ huy quân đội), Trần Quốc Tuấn đã ra “Hịch tướng
sĩ” kêu gọi, khơi dậy lòng trung nghĩa, tinh thần chiến đấu hy sinh “vì nước quên mình” của
các tướng sỹ. Ý chí quyết chiến, quyết thắng được bài Hịch khích lệ đã từ các tướng sĩ

truyền đến toàn quân, tạo nên một sức mạnh chính trị tinh thần hết sức to lớn.
Tháng 11 năm 1282, vua Trần Nhân Tông triệu tập các vương hầu bách quan đến
Bình Than bàn kế đánh giặc. Qua hội nghị đó, triều đình đã tập hợp được trí tuệ và quyết
tâm của các tôn thất, tướng sĩ để đạt tới một phương lược giữ nước tối ưu, để mọi người
cùng thống nhất ý chí và hành động.
Cũng như nhà Lý, nhà Trần tổ chức hội thề hằng năm ở Long Trì hay tại đền Đồng
Cổ, gọi là lễ Hội thề quốc nhân hay Lễ Minh thệ. Sách “Lịch triều hiến chương loại chí”
miêu tả một buổi hội thề như sau:
“Hàng năm, ngày mồng 4 tháng 4, tể tướng và trăm quan, hồi gà gáy đến trực ngoài
cửa thành, mờ sáng tiến vào triều. Vua ngự ở cửa hữu lang điện Đại Minh; trăm quan mặc
nhung phục làm lễ hai lạy rồi lui ra; đều đủ đội ngũ nghi trượng theo hầu cửa tây Kinh
thành đến đền thờ thần núi Đồng Cổ, họp nhau như thế rồi uống máu. Quan Trung thư kiểm
chính đọc lời thề rằng: “Làm tôi hết lòng, làm quan thanh bạch, không giữ lời thề thần
minh tru diệt”. Đọc xong, quan tể tướng sai đóng cửa lại để kiểm điểm. Người nào thiếu
mặt thì phạt năm quan tiền. Ngày hôm ấy con trai, con gái bốn phương đứng ở cạnh đường
để xem chật ních, cho là hội lớn”.
Hơn thế, Trần Quốc Tuấn còn quan tâm đến cả vấn đề chiến lược và chiến thuật. Bởi
vậy, ông đã tìm hiểu và tổng kết kinh nghiệm chiến tranh của Trung Quốc cổ đại từ thời
Xuân Thu đến thời Tống, từ đó biên soạn thành hai bộ binh thư là “Vạn kiếp tông bí truyền
thư” và “Binh thư yếu lược”. Theo lời Trần Khánh Dư, bấy giờ “đã lấy sách này dạy bảo
con em làm gia truyền, không tiết lộ cho người ngoài biết”. Bí thuật của Trần Quốc Tuấn là
25


×