Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Thi quản lý xã hội chuan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.94 KB, 34 trang )

Cẩu 1: Phân tích thủ thuật, phương sách nhăm thực hiện
Quyết định quản lý có hiệu quả của chủ thể QLXH?
Phương pháp QLXH được nhìn nhận như là phương thức
hay tổng thể các thủ thuật, các phương sách, các quy trình
chuẩn bị và thông qua, tổ chức và giám sát thực hiện các
quyết định quản lý. Phương pháp QLXH được phân chia theo
tính chất tác động tới ý thức, ý chí, lợi ích của con người
Các phương pháp cụ thể:
- Phương pháp cấu trúc hóa: phương pháp này là phân chia
các vấn đề ra thành các yếu tố cấu thành củng với sự đánh giá
sau đó về tấm quan trọng tương đối của chúng. Thường gọi
quy trình như vậy là xây dựng “cây” mục đích. Các quy tắc
chung để xây dựng cây mục đích là: sự phục tùng lẫn nhau, sự
có phân cấp; sự so sánh được xây đựng các mục đích đồng
loại ở các cấp độ khác nhau, so sánh về ý nghĩa, qui mô, sự
đầy đủ của mỗi cấp độ đều có mọi yếu tố cần thiết; tính xác
định, định tính; tính linh hoạt, khả nằng điều chỉnh; phương
pháp cấu trúc hóa sử dụng các nguyên tắc phân tích hệ thống
- Phương pháp gợi mở: phương pháp này có tính chất hiện
đại. thuộc về các phuơng pháp công nghệ xã hội cùng với
phương pháp hệ thông và phương pháp trò chơi; phương pháp
gợi mở là phương tiện tổ chức các quá trình tư duy sáng tạo,
có hiệu quả (hoạt động gợi mở); tư duy căn cứ trên việc sử
dụng trực giác (linh cảm) là cái cho phép phát hiện ra các giải
pháp quản lý đúng đắn trong quá trình họat động, phân tích.
- Phương pháp khoa học: Quy luật nội tạng của sự vận động
của tư duy con người được xem như là sự phản ảnh chủ quan
của thế giới khách quan, quy luật khách quan được phản ảnh
trọng ý thức con người, được sử đụng một cách có ý thức và
có ké hoạch như là công cụ lý giải cải tạo hiện thực bao
quanh, bất kỳ phương pháp khoa học nào cũng bao gồm trong


mình sự nhận thức các quy luật khách quan và thực hiện yêu
cầu các quy luật ấy như là các chuẩn mực, các quy tắc, các thủ
thuật để nghiên cửu quy luật khách quan, bao gồm sự áp dụng
các quy luật ấy trên thực tế.
Trong phương pháp khoa học có 2 yêu tố: phản ánh và
chuẩn mực. Phương pháp khoa học dựa trên phương pháp
luận về nhận thức khoa học, phương pháp luận bao hàm trong
mình không những các phương phảp và lý luận về phương
pháp mà còn cả các nguyên tắc lý luận phổ biến, lập trường
thế giới quan của các nhà nghiên cứu, cá phương thức cải tạo
xã hội.
- Phương pháp kinh tế trong quản lý: Phương pháp kinh tế
hiện đại hay thô sơ thì vẫn có sự tác động mạnh mẽ hàng đầu.
là các phương thức đạt tới mục đích của quản lý trên cơ sở sử
dụng 1 cách có ý thức các quy luật kinh tế là cái đảm bảo sự
thống nhất lợi ích của xã hội, của tập thể vả của cá nhân riêng
biệt, sự quan tâm của con người đén kết quả hữu hiệu của hoạt
động sản xuất
- Phương pháp làm việc theo nhóm: là phương pháp kỹ thuật
xã hội, công nghệ xã hội, hướng vào việc xây dựng các nhóm
sáng tạo có tinh thần đòan kết như: các đội quản lý, nhóm tự
quản..có khả năng tự mình tạo ra các tư tưởng mới, thúc đẩy
sự phát triển nhân cách của những người tham gia nhóm, giải
quyết cá vấn đề cụ thể. Việc áp dụng phương pháp này sẽ làm
tăng hiệu quả của nhóm. Nhiệm vụ của người quản lý là ở sự
gúp đỡ về mặt phương pháp, tâm lý và đạo đức cho các thành
viên cuả nhóm khi hình thành và phát triển nhóm, khi nhóm
nhận được thủ lĩnh, các chức năng đa dạng và mô hình tổ
chức có hiệu quả.
- Phương pháp phát sinh: Bắt đầu từ sự vận động của XH,

xác định xu hưởng vận động như thế nào. là phương pháp
nghiên cứu các hiện tượng, các quá trình xã hội, bao gồm việc
phân tích nguồn gốc, sự sinh thành, sự phát triển của chúng.

Trong quản lý xã hội, trong lập kế hoạch phát triển của các tập
thể, các khu vực, các nhóm yà các cộng đồng xã hội, sử dụng
phương pháp pháp sinh để nghiên cứu các đặc điểm về trạng
thái của chúng, xác định các triển vọng phát triển của chúng.
- Phương pháp quản lý hành chính: phương pháp này dựa
trên quyền uy của Nhà nước ra lệnh, ra mệnh lệnh đơn
phương, là các phương pháp tác động trực tiếp, linh hoạt đến
đối tượng quản lý nhằm mục đích đảm bảo lối ứng xử và hành
động nhất quán của những người thi hành trong 1 tình huống
cụ thể nhằm đạt tới kết quả tương ứng. Phương pháp quản lý
hành chính thể hiện qua cảc quyết định cụ thể. Phương pháp
QLHC căn cứ trên quyên uy của chính quyền, thẩm quyền,
quyền đưa ra mệnh lệnh của người lãnh đạo, của chủ thể quản
lý trên nguyên tắc bắt buộc đối với người cấp dưới người thực
thi. Phương pháp QLHC có mục đích họat động của mình,
không mâu thuẫn với các phương pháp quản lý kinh tế và các
phương pháp khác, bổ sung cho chúng. Quản lý hành chính có
khoa học qua đó hoàn tòan không có điểm gì chung với quản
lý hành chính quan liêu.
- Phươngpháp thiết chế xã hội: là sử dụng các phượng phầp
khác nhau trong việc thiết kế các tập thể lao động: phương
pháp chuẩn tắc, phương pháp loại suy, khi mà người thiết kế
tiến hành khái quát thực tiễn theo lối kinh nghiệm chủ nghĩa,
xây dựng thiết kế theo các khuôn mẫu hiện có. Phương pháp
mô hình hóa ngày càng đựơc sử dụng thường xuyên hơn trong
việc xây dựng các thiết chê xã hội. Phuơng pháp tự động hóa

cùng với công nghệ thông tin - hệ thống thiết kế tự động ngày
càng được phổ biên rộng rãi trong thiết kế. Song áp đụng
phương pháp này vào trong thiết kế xã hội là chưa đủ vi nó
loại bỏ các vấn đề về cơ Cấu hạ tầng xã hội.
Chúng ta quản lý bẳng tổ chức, VD: thành lập các Hội, gom
mọi người lại thành các tổ chức.
- Phương pháp trò chơi: Phương pháp này thống nhất về lợi
ích, là nhóm các phương pháp của công nghệ xã hội. Được sử
dụng để xây dựng quyết định, thống nhất lợi ích của những
người tham gia làm việc, dạy họ thối quen ứng xử trong các
tình huống xác định và trong các cơ cấu nhóm khác nhau bàng
con đường mô hình hóa các hệ thống và các quá trình xã hội
nhờ công nghệ trò chơi xã hội.


Câu 2: Trình bày nội dung quản lý trong tư tưởng Henry
Phayor và ảnh hưởng của nó tới QLXH ở VN hiện nay?
THUYẾT HÀNH CHÍNH (Hery Fayoi 1841 - 1925)
Hăngri phayon (Henry Fayol 1841 - 1925). Năm 1908, ông
viết luận văn có nhan đề: Thảo luận về các nguyên tắc quản lý
hành chính chung, đến năm 1915, ông phát triển thành cuốn
sách Quản lý hành chính chung và trong công nghiệp, trong
đó đưa ra định nghĩa Quản lý hành chính là dự đoán và lập kế
hoạch, tổ chức, điều khiển, phối hợp và kiểm tra.
Tư tưởng chủ yếu của thuyết Fayol là nhìn vấn đề quản lý ở
cả tổng thể tổ chức quản lý xí nghiệp, xem xét hoạt động quản
lý từ trên xuống, tập trung vào bộ máy lãnh đạo cao với các
chức năng cơ bản của nhà quản lý. Ông cho rằng thành công
của quản lý không chỉ nhờ những phẩm chất của các nhà quản
lý, mà chủ yếu nhờ các nguyên tắc chỉ đạo hành động của họ

và những phương pháp mà họ sử dụng. Với các nhà quản lý
cấp cao phải có khả năng bao quát, còn đối với cấp dưới thì
khả năng chuyên môn là quan trọng nhất. Tư tưởng quản lý đó
phù hợp với hệ thống kinh doanh hiện đại, và từ những
nguyên lý đó (trong công nghiệp) có thể vận dụng cho việc
quản lý các loại tổ chức thuộc lĩnh vực khác.
Trước hết, ông phân chia toàn bộ các hoạt động của xí
nghiệp thành 6 nhóm công việc chính gồm:
1. Kỹ thuật (khai thác, chế tạo, chế biến)
2. Thương mại (mua bán, trao đổi)
3. Tài chính (huy động vốn, sử dụng vốn)
4. An ninh (bảo vệ tài sản và nhân viên)
5. Kế toán (kiểm kê tài sản, theo dõi công nợ, hạch toán giá
thành, thống kê)
6. Quản lý - điều hành (kế hoạch, tổ chức, điều khiển, phối
hợp, kiểm tra).
Qua đó, ông xác định nội hàm quản lý gồm: lập kế hoạch, tổ
chức, điều khiển, phối hợp và kiểm tra. Chính đó là sự khái
quát các chức năng quản lý, bảo đảm cho hoạt động tiến hành
thuận lợi và có hiệu quả. Như vậy chức năng quản lý chỉ tác
động đến con người, là sự quản lý của tổ chức xã hội đối với
con người (không phải là trực tiếp tác động đến nguyên liệu,
thiết bị…). Với quan niệm đó, thực chất thuyết Fayol là lý
thuyết về tổ chức xã hội. Cũng qua đó, Fayol phân biệt rõ lãnh
đạo với quản lý, trong đó quản lý chỉ là một công cụ bảo đảm
sự lãnh đạo nhằm đạt được mục đích của cả tổ chức; và do đó
hoạt động chủ yếu của người lãnh đạo là phát huy cao tác
dụng của quản lý, thông qua hoạt động quản lý để thúc đẩy
các hoạt động của tổ chức.
Mặt khác, Fayol cũng cho rằng quản lý không phải là đặc

quyền và trách nhiệm riêng của cá nhân người đứng đầu, mà
được phân chia cho các thành viên khác trong hệ thống tổ
chức quản lý. Từ đó, ông đưa ra trật tự thứ bậc trong hệ thống
đó gồm 3 cấp cơ bản: cấp cao là Hội đồng quản trị và giám
đốc điều hành; cấp giữa là các người tham mưu và chỉ huy
thực hiện từng phần việc, từng công đoạn; cấp thấp là các
người chỉ huy tác nghiệp ở từng khâu. Trật tự đó thể hiện sự
phân phối quyền lực và trách nhiệm với ranh giới rõ ràng.
Về các chức năng quản lý, chức năng hoạch định (dự đoán,
lập kế hoạch) được coi là nội dung hàng đầu, cơ bản nhất. Tuy
vậy, ông cũng chỉ ra tính tương đối của công cụ kế hoạch,
không thể dự đoán đầy đủ và chính xác mọi biến động, cần
phải xử lý linh hoạt sáng tạo. Chức năng tổ chức bao gồm tổ
chức sản xuất (các công đoạn, các khâu trong hoạt động) và tổ
chức bộ máy quản lý (cơ cấu, cơ chế, các quan hệ chức năng,
nhân sự). Chức năng điều khiển là tác động lên động cơ và
hành vi của cấp dưới để họ phục tùng và thực hiện các quyết
định quản lý; vừa có tính kỷ luật cao vừa phát huy được tính
chủ động, sáng tạo. Chức năng phối hợp là kết nối, liên hợp,

điều hòa tất cả các hoạt động và các lực lượng, đảm bảo cho
các hoạt động diễn ra hài hòa, gắn bó trong một thể thống
nhất, tạo ra tổng hợp lực và sự cân đối. Chức năng kiểm tra là
nắm chắc diễn biến tình hình hoạt động để kịp thời phát hiện
vấn đề cần điều chỉnh, sửa đổi đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu
đã đề ra, quy rõ trách nhiệm.
Fayol cũng đề ra 14 nguyên tắc về quản lý để vận dụng:
- Phân công lao động phù hợp, rõ ràng, tạo được sự liên kết.
- Xác định quyền hạn và trách nhiệm rõ ràng, đúng mức.
- Duy trì tốt kỷ luật trong đội ngũ, đảm bảo sự quy củ và

tinh thần phục vụ.
- Đảm bảo sự thống nhất chỉ huy, chấp hành mệnh lệnh từ
một trung tâm.
- Chỉ đạo nhất quán (theo một kế hoạch, một đầu mối).
- Xử lý hài hòa lợi ích, đảm bảo lợi ích chung cao nhất.
- Trả công thỏa đáng, công bằng, sòng phẳng.
- Tập trung quyền lực trong hệ thống tổ chức quản lý.
- Xác định rõ và ổn định hệ thống cấp bậc với chức trách rõ
ràng.
- Đảm bảo trật tự trong hệ thống với vị trí xác định.
- Thực hiện công bằng trong quan hệ đối xử.
- Ổn định đội ngũ nhân sự và được bổ sung kịp thời.
- Khuyến khích tính sáng tạo, chủ động của mọi người.
- Xây dựng bầu không khí tập thể đồng thuận, đoàn kết nội bộ.
Trong 14 nguyên tắc đó, nguyên tắc 4 (thống nhất chỉ huy)
và nguyên tắc 9 (hệ thống cấp bậc) được coi là hai nguyên
tắc quyết định, phản ánh thực chất của thuyết quản lý Fayol.
Với nội dung nói trên, thuyết quản lý tổng hợp của Fayol có
ưu điểm nổi bật là tạo được kỷ cương trong tổ chức. Song nó
chưa chú trọng đầy đủ các mặt tâm lý và môi trường lao động,
đồng thời chưa đề cập đến mối quan hệ với bên ngoài doanh
nghiệp (với khách hàng, với thị trường, với đối thủ cạnh tranh
và với Nhà nước).
H. Phayon cũng quan tâm nghiên cứu vấn đề con người vào
đào tạo trong quản lý. về phía người lao động, Fayol yêu câu
nhà quản lý phải đối xử tôt với họ, ký kết được các cấp thỏa
thuận lao động, ông còn chú ý tới các nhà quản lý các cấp,
ông đòi hỏi họ phải có đủ tài, đủ đức, nhấn mạnh vai trò của
giáo dục và đào tạo, trước hết là đào tạo cán bộ quản lý một
cách chính quy và có hệ thống.

Hạn chế chủ yếu của H. Phayon là chưa chú ý đầy đủ các
mặt tâm lý và môi trường xã hội của người lao động, chưa chỉ
rõ mối quan hệ giữa xí nghiệp và khách hàng, thị trường các
đối thủ cạnh tranh và các ràng buộc nhà nựớc. Tuy vậy sự
đóng góp của ông cho khoa học quản lý của loài người vẫn rất
độc đáo và có giá trị, được đánh giá là một Tay lo châu Âu.
Ảnh hưởng của nó tới quản lý xã hội ở Việt Nam hiện nay


Câu 3: Bằng lý luận và thực tiễn, hãy chứng minh:
QLXH rất khó khăn và phức tạp?
Đặc điểm bao trùm đó là quản lý XH rất khó khăn và phức
tạp vì sự phức tạp cùa con người thì vô cùng đa dạng vì:
- Đối tượng bị quản lý rất lớn và rất phức tạp, nó bao gồm
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, tất cả ngưởi dân cư trú
trên lãnh thổ đất nước và người sống ở nước ngoài; với trình
độ và hoàn cảnh khác nhau; mục tiêu và nhu cầu khác nhau
- Cùng sự hội nhập và quá trình toàn cầu hóa trên tất cả các
lĩnh vực; các hoạt động quản lý xã hội của mỗi quốc gia đều
bị ràng buộc chặt chẽ vào nhau; việc QLXH của mỗi quốc gia
này phái tính đến sự tác động của cảc quốc gia khác
- Chủ thể QLXH không thuần nhất, vì XH càng phát triển
thì chủ thể cũng khác nhau phần lớn lệ thuộc vào vai trò của
NN và các tổ chức chính trị xã hội, chủ thể hữu hình của
QLXH, ngoài ra còn phụ thuộc vào các lực lượng khác của xã
hội. VD: các phần tử phản động, cơ hội chính trị cỏ quan điểm
khác vê chính trị. VD: đòi xóa bỏ điều 4 trong Hiến pháp, lợi
dụng chiêu bài dân chủ nhân quyền đòi đa nguyên đa đảng...
Nhà nước QLXH thông qua việc tổ chức xã hội, thiết lập
mối quan hệ giữa con người, giữa các nhóm, cộng đồng để

thực hiện một quá trình xã hội. Quyền lực NN mang tính
mệnh lệnh, đơn phương và tính tổ chức cao. Quản lý NN
mang tính quyền ỉực đặc biệt, bắt đối tượng quản lý phải phục
tùng không điều kiện, Nhà nước QLXH bằng pháp luật
Quản lý NN quan hệ tác động qua lại với sự điều tiết của các
cộng đồng đân cư; của đặc điểm; phong tục tập quán của dân
tộc. Giữa NN và phong tục tập quán của dân tộc phải tìm
được tiếng nói chung, việc QLXH mới đạt hiệu quả
- QLXH có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển
của các dân tộc. Xã hội sẽ phát triển khi quản lý xã hội có
hiệu quả và ngược lại
- QLXH có tính liên tục, tính kế thừa. Việc QLXH gắn liền
với sự tồn tại của các quốc gia và các dân tộc. Còn hoạt động
của con người thì còn hoạt động quản lý, vì vậy QLXH luôn
là sự kế thừa theo dòng chảy của lịch sử xã hội loài người
- QLXH mang tính thẩm thấu, tính lan truyền, QLXH của
XH này phải học hỏi kinh nghiệm của XH khác để tìm được
cách quản lý tốt nhất sự học hỏi phải có chọn lọc cho phù hợp
với đặc điểm của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia.
- QLXH luôn liên quan tới vấn đề động lực và phản động
lực của sự phát triển xã hội.
Động lực trong quản lý xã hội là động lực cuả từng thành
viên, tính đồng thuận và sự kết hợp tốt của từng động lực
riêng rẽ thông qua các thiết chế của xã hội hợp lý, ngoài ra
còn phải tính đên sự kết hợp có hiệu quả của các xã hội bên
ngoài.
Phản động lực là sự không đồng thuận của các động lực cá
nhân tronậ xã hội thông qua các điều bất cập của thiết chế xã
hội. Sự tác hại từ phía các xã hội khác hoặc điều kiện bất lợi
từ thiên nhiên gây ra.

Các động lực và phản động lực cần được kiểm sát và sử
dụng có hiệu quả.
- QLXH là một khoa học vì có đối tượng và phương pháp
nghiên cứu riêng
- QLXH là một nghệ thuật vì nó đòi hỏi sự sử lý linh hoạt và
có hiệu quả việc quản lý trong các điêu kiện cụ thể của xã hội
- QLXH là sự nghiệp của toàn xã hội, nó đòi hỏi sự đóng
góp công sức, mọi nỗ lực chủ động sáng tạo của mọi con
người, của tất cả các nhóm người trong XH, của mọi thiết chế
XH dưới sự điều hành của chủ thể quản lý xã hội cơ bản.
Cỏ thể nói, chủ thể QLXH là phức tạp nhất, QLXH ngày
càng phức tạp ai cũng có thể làm được và cũng có thể không

làm được. QLXH là sự nghiệp của toàn dân vì con người là
chủ thể của mọi đối tượng, là tổng hòa những quan hệ XH.
Câu 4: Hãy chứng minh: Vai trò QLNN trong hệ thống các
chủ thể QLXH luôn chiếm vị trí đặc biệt quan trọng?
Một nét đặc trưng trong vai trò lãnh đạo của Đảng là phương
pháp lãnh đạo. Lênin đã khẳng định: “Nhà nước là lĩnh vực
thực hành cưỡng bức. Chỉ có điên rồ mới từ bỏ cưỡng bức, nhất
là trong thời đại chuyên chính vô sản. Dùng mệnh lệnh hành
chính và đứng trên quan điểm hành chính để giải quyết vấn đề
ở đây là tuyệt đối cần thiết. Đảng là đội tiền phong của GCVS,
đội tiền phong trực tiếp nắm chính quyền, đó là người lãnh đạo.
Khai trừ ra khỏi Đảng chứ không phải cưỡng bức, chính là
phương pháp hành động đặc biệt đôi với đội tiên phong để làm
cho đội đó được trong sạch và rèn luyện nó”
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin thì Nhà nước là
một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, Nhà nước là
công cụ để thể hiện ỷ chí của giai cấp thống trị, nhằm bảo vệ

lợi ích thống trị trong XH. Nhà nước mang tính XH, bảo vệ
các lợi ích thiết yếu của mọi thành viên trong XH, có trách
nhiệm phải giải quyết những vấn đề do XH đặt ra. Nhà nước
khác với các tổ chức khác đó là:
- Nhà nước thiết lập 1 quyền lực công đặc biệt, có một bộ máy
cưỡng chế và quản lý, thực hiện quyền lực công, quản lý công;
NN có quyền cưỡng chế, điều nay khác với các tổ chức khác.
- Nhà nước phân chia dân cư theo lãnh thổ hành chính,
không theo huyết thống, có nghĩa là Nhà nước quản lý con
người theo lãnh thổ, dân cư được chìa theo lãnh thổ thành các
đơn vị hành chính không phụ thuộc vào huyết thống, giới tính,
hình thành các cơ quan TW và địa phương của bộ máy nhà
nước. Nhà nước có chủ quyền quốc gia, nhà nước là thuộc
tỉnh không tách rời của nhà nước.
- Nhà nước ban hành và quản lý XH bằng pháp luật. Nhà
nước là tổ chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật, sử
dụng pháp luật để quản lý XH. Đó là điểm vô cùng quan trọng
khi nói đến vai trò quản lý nhà nước trong hệ thống các chủ
thể QLXH. Pháp luật của NN có tính bắt buộc chung.
- NN ban hành và thu các loại thuế. NN là tổ chức duy nhất có
quyền thu thuế, là nguồn nuôi bộ máy nhà nước và phúc lợi XH.
Như Lênin nói: Nhà nước là chuyên chính vô sản. Chỉ khi
nào XH không còn cưỡng chế, khi đó XH không tồn tại mâu
thuẫn thì XH đó đứng im.
Trong XH nguyên thủy, do kinh tế còn thấp kém, chưa có sự
phân hóa giai cấp, chưa xuất hiện mâu thuẫn nên chưa có NN.
Bản chất của nhà nước CHXHCNVN là sự biểu hiện cụ thể
của NNXHCN. Trong Điều 2 hiến pháp 1992 quy định:
“NNCHXHCNVN là NN của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Tất cả quyền lực NN thuộc về nhân dân mà nền

tảng là Hên minh GCCN với GCND và các tầng lớp trì thức ”
Từ bản chất của nỏ, đã khẳng định NN là 1 chủ thể QLXH
có vai trò to lớn nhất và quan trọng nhất. NN là chủ thể trực
tiếp và toàn diện của QLXH. NN quản lý thông qua quyền lực
nhà nước, trong việc thực hiện các quyền: LP, HP và TP. NN
mang bản chất XHCN, có tính chất khoa học và tổng hợp vì
XH là phức hợp các lĩnh vực.
Nhà nước XHCN có chức năng đối nội trong đó: chức năng
tổ chức và quản lý kinh tế; giữ vững an ninh chính trị, trật tự
an toàn XH; tổ chức và quản lý văn hóa, giáo dục, KHCN;
bảo vệ trật tự XHCN, bảo vệ các quyền và lợi ích cơ bản của
công dân; Ngoài chức năng đối nội còn có chức năng đối
ngoại đó là bảo vệ tổ quốc XHCN; mở rộng quan hệ hợp tác
với các nước.
Như vậy, các chức năng của NN hợp thành hệ thống thống
nhât thể hiện bản chất và những nhiệm vụ chiến lược của NN
trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, an ninh, văn hóa. Được biểu


hiện dưới hình thức NN pháp quyền. Hoạt động của NN rất đa nâng cao năng suất lao động, và như vậy mâu thuẫn giữa yêu
dạng, phong phú bao gồm nhiều lĩnh vực của đời sống XH.
cầu xã hội và yêu cầu kinh tế trở nên có tính chất tương đối,
Câu 5: Hãy trình bày những yêu cầu của QLXH?
bởi vì những biện pháp xã hội mang lại hiệu quả kinh tế và
những quyết định kinh tế lại góp phần đạt tới những nhiệm vụ
Yêu cầu của QLXH là những yêu cầu của những quy luật và xã hội. Trong mối tương quan giữa những yêu cầu xã hội và
xu hướng khách quan của sự phát triển đất nước theo hướng kinh tế, cần xuất phát từ quan điểm coi quản lý xã hội là một
hiện đại hoá, hội nhập quốc tế.
phương pháp tác động tích cực đối với đời sống để cho nó
- Trước hết, QLXH phải thúc đẩy việc nâng cao năng suất phát triển theo lợi ích chung của xã hội.

lao động, sử dụng nhân lực có hiệu quả nhất, khuyến khích
- Quản lý xã hội phải tính đến hậu quả của cách mạng khoa
người lao động phát huy được hết năng lực của mình. Liên kết học công nghệ. Cuộc cách mạng nàv với tính chât toàn câu
nhân lực với tư liệu sản xuất một cách tối ưu, giảm dần thất của hoạt động con người, có thể gây ra những biến đổi to lớn
nghiệp, tạo sự liên kết giữa các đơn vị sản xuất, Nhà nước về môi trường và những hậu quả khó lường trước, vì vậy
phải có trách nhiệm chăm lo đào tạo và sử dụng nhân lực trên QLXH phải tính đến điều đó.
quy mô toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Tóm lại, việc QLXH hiện nay phải tính đến yêu cầu của các
Chú ý hoàn thiện thái độ cửa người lao động với lao động, quy luật và xu hướng phát triển xã hội đang tác động trong
nhất là trong điều kiện của cách mạng khoa học công nghệ và lĩnh vực xã hội - kinh tế cũng như trong lĩnh vực khoa học hội nhập ngày nay, khi những khả năng kiểm tra từ bên ngoài công nghệ. Không thể quản lý nêu không biết đến những quy
đối với người lao động giảm đi, vì lao động hôm nay mang luật và xu hưởng ấy hoặc bất chấp chúng.
tính sáng tạo cao, nên ít thích hợp với việc kiểm tra từ bên
Xét đến cùng, mục tiêu QLXH trước hết phải ổn định chính
ngoài. Trong điều kiện ấy, lương tâm con người trở thành trị, ổn định chính trị vừa là nguyên nhân vừa là kết quả để
người kiểm tra chủ yếu, cho nên động cơ bên trong ngày càng phát triển kinh tế xã hội, đồng thời ổn định và phát triển kinh
có vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng suất lao động. tế - xã hội cũng vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của ổn
Hơn nữa, điều kiện chủ yếu đê nâng cao năng suất lao động là định chính trị./.
sự phát triển cá nhân. Lao động sáng tạo chỉ thực hiện được
khi cá nhân phát triển. Giữa phát triển sản xuat (sự phát triển
kinh tế) với sự phát triển cá nhân (sự phát ưiển xã hội) có môi
liên hệ biện chứng trực tiếp, việc nhận thức và đánh giá mối
liên hệ ấy là một trong những cơ sở của QLXH, vì QLXH
phải đạt tới sự phát triển cao nhất của cá nhân và bằng cách đó
mà đạt tới sự phát triển sản xuất.
- Phải đảm bảo mức thoả mãn cao nhất có thể được đối với
những yêu cầu của quy luật phát triển xã hội. Không coi chỉ là
quy luật phát triển kinh tế, mà là sự phát triển cân đối trên tất
cả các lĩnh vực của đời sông xã hội. Để giải quyết nhiệm vụ
ấy phải tính tới tác động qua những xu hướng trái ngược nhau,
có liên quan tới tỉnh độc lập tương đối của mỗi lĩnh vực cũng

như với nhịp độ phát triển của xã hội.
Sự phát triển nhanh chóng của mọi xã hội ngày nay đòi hỏi
con người phải chuẩn bị đầy đủ mọi điêu kiện đê thích ứng
với sự thay đổi đó. Chính vì vậy giáo đục phải đi trước một
bước, kéo theo sự phát triển của các lĩnh vực khác. Nhiệm vụ
của QLXH là tìm ra sự thoả hiệp giữa tính cân đối và tính
không cân đối trong sự phát triển xã hội trong điều kiện kinh
tế thị trường hiện nay.
- Phải bảo đảm sự phù hợp của quan hệ xã hội với sự phát
triển của cơ sở vật chất kỹ thuật.
Một trong những vấn đề cơ bản của phương pháp luận
QLXH là sự tương quan giữa những yêu cầu xã hội và những
yêu cầu kinh tế, điều này không đồng nhất với mối quan hệ
giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, giữa kiến trúc
thượng tầng với cơ sở hạ tầng. Với CNXH, sự phát triển sản
xuất chỉ là phương tiện để phát triển toàn diện con người, điều
đó có nghĩa là mục đích xã hội chiếm ưu thế đối với những
yêu cầu kinh tế, bởi vì mục đích ấy thể hiện bản chất của quan
hệ sản xuất XHCN. Tuy nhiên, điêu đó không có nghĩa là phải
thoả mãn bât cứ yêu cầu nào của xã hội khi chưa có khả năng
kinh tế, mà có nghĩa là nhịp độ phát triển xã hội phải đi trước.
Mâu thuẫn giữa yêu cầu xã hội và yêu cầu kinh tế chỉ có tính
chất ước lệ, có cái không sinh lợi nếu xét theo quan điểm của
một đơn vị kinh tế hay một nghành, lại rất có lợi nếu xét theo
quan điểm xã hội. Do đó QLXH phải tính đến toàn bộ chi phí
của xã hội cho việc táỉ sản xuất dân cư.
Việc nâng cao năng suất lao động không chỉ kích thích bằng
vật chất mà còn những nhân tố khác nữa (tâm lý, hoàn cảnh
sống...) giải quyết được hài hoà vấn đề chính là điều kiện để



Câu 6: Hãy làm rõ khái niệm biến đổi XH? Chỉ ra các loại
biến đổi? Các nhân tố tác động đến sự biến đổi XH?
I. Khái niệm và phân loại biến đổi xã hội.
1. Khái niệm: Biến đổi xã hội là sự thay đổi xã hội từ một
ngưỡng phát trỉển này sang một ngưỡng phát triển khác (cao
hoặc thấp hơn) về chất xét dưới góc độ tổng thể các thiết chế
xã hội và cấu trúc xã hội.
2. Các loại biến đồi xã hội.
+ Biến đổi phát triển, như là 1 quy luật tất yếu của loài
người, là sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp và mong muốn
của xã hội VD: Đảng ta xác định vì mục tiêu dân giàu nước
mạnh, với các đặc trưng là: giữ vữ ổn định xã hội đăc biệt là
thiết chế chính trị của xã hội; bảo toàn các đặc trưng của chế
độ xã hội; giữ vững độc lập, chủ quyền đạt được các mục tiêu
đặt ra trong quá trình phát triển; kinh tế văn hóa phát triển.
+ Biến đổi suy thoái (diệt vong) là biến đổi theo chiều
hướng xấu, ngược lại với biến đổi phát triển. Đó là một xã hội
bế tắc với những đả vỡ không thể khắc phục được. VD: Hy
Lạp, LiBi
+ Biến đổi hòa nhập, sự biến đổi đã bị chuyển đổi đặc trưng
xã hội và bị lệ thuộc nô dịch bởi một xã hội khác mạnh hơn.
+ Biến đổi chủ động, là sự biến đổi mang tính cơ học, đột
biến dưới sự tổ chức, chỉ đạo của Nhà nước theo định hướng
đã định.
+ Biến đổi thụ động; là sự biển đổi tự nhiên không có sự chỉ
đạo của nhà nước hoặc có sự chỉ đạo nhưng không có sự hiệu
quả
II. Một số học thuyết về sự biến đổi:
- Học thuyết tiến hóa: Cho rằng biến đổi là sự tăng trưởng

và phát triển của cải xã hội (cả vật chất lẫn trí tuệ) cung năng
suất lao động xã hội, đó là quá trình tiến hóa tất yếu của mọi
xã hội, cùng với quá trình tích lũy tri thức và khoa học công
nghệ của con người.
- Học thuyết tuần hoàn: (hoặc chu kỳ) cho các quốc gia, xã
hội luôn có sự thăng trầm, thay đổi, thịnh lại suy theo các chu
kỳ tuần hoàn kết tiếp nhau không dừng (ngoại trừ xã hội quá
suy thoái dẫn đến diệt vong). Theo 5 giai đoạn: phục hồi phát triển - hưng thịnh - suy thoái - đổ vỡ.
- Học thuyết chức năng: cho rằng sự biến đổi của xã hội là
do sự biến đổi của các thiết chế xã hội. VD: Thay đổi về thể
chế chính trị kéo theo XH cũng thay đổi.
- Học thuyết xung đột quyền lợi: Sự biển đổi chủ yếu do con
người tạo ra và trong sự phát triển xã hội bao giờ cũng hình
thành tầng lớp, giai cấp khác nhau về địa vị, quyền lực, lợi ích
trong xã hội. Để tồn tại và phát triển các thế lực tiến hành
tranh chấp loại bỏ nhau, từ đó dẫn đến sự biến đổi (đấu tranh
giai cấp) VD: Cách mạng tháng Mười Nga, ở VN thì có cách
mạng tháng Tám/1945.
- Học thuyết mâu thuẫn giữa nhu cầu xã hội và khả năng đáp
ứng nhu cầu xã hội: Xã hội gồm các con người với những nhu
cầu lợi ích khác nhau, để tồn tạỉ và phát triển con người phải
tìm cách đáp ứng nhu cầu của mình, quá trình xử lý nhu cầu
và lợi Ích diễn ra trên nhiều lĩnh vực làm cho xã hội biến đổi.
- Học thuyết biến đổi tổng hợp xã hội: Sự biển đổi xã hội là
tổ hợp của nhiều nguyên nhân kể cả do con người gây ra, kể
cả do thiên nhiên gây ra mà cơ bản là do con người.

III. Các nhân tố tác động đến sự biến đổi xã hội.
- Sự chuẩn xác của đường lối, đặc trưng phát triển xã hội.
Đây là nhân tố mang ý nghĩa quyêt định, nó tác động vào tất

cả các lĩnh vực đời sống xã hội, do đó nó phải có sự đồng
thuận của xã hội, đồng thời đường lối và đặc trưng xã hội phải
phù hợp với xu thế phát triển của xã hội và nhân loại, phù hợp
với quy luật thời đại.
- Đội ngũ công chức và bộ máy quản lý nhà nước, Nhân tố
này có tác động tiêu cực hoặc tích cực đến biến đổi xã hội. Xã
hội lành mạnh và phát triển nếu bộ máy và đội ngũ công chức
của bộ máy hoạt động hiệu quả vì nhân dân mà phục vụ.
Ngược lại, nếu quan liêu, tham nhũng, không thạo việc, đạo
đức kém sẽ dẫn đến suy thoái và diệt vong của xã hội.
- Cơ cấu xã hội. Là hình thức tồn tại của xã hội, thông qua
việc sắp xếp các thiết chế, các yếu tố tạo nên xã hội cùng các
mối quan hệ hữu cơ giữa chứng. Mỗi giai đoạn lịch sử xã hội
có một cơ cấu nhất định, các yêu tố trong cơ cấu xã hội dung
nạp nhau trong mối quan hệ tạo nên cơ sở tồn tại xã hội (cá
nhân, nhóm thiết chế) trong khuôn khổ thể chế xã hội với các
đặc trưng xã hội nhất định. Nhưng mỗi khi có một sự biến đổi
từ thiết chế, một yếu tố nào đó vượt qua ngưỡng cho phép của
mối quan hệ ổn định thị cơ cấu xã hội bị phá vỡ từng mức,
mức thấp là các xung đột, sự bất bình đẳng xã hội, bất
thường...
Tích tụ dần dẫn đến mức cao, cơ cấu xã hội cũ bị phá vỡ
thay thế bằng cơ cấu xã hội mới thích hợp với đặc trưng mới
tương ứng. VD: người nghèo tăng lên, người giàu giảm đi và
XH cũng bị suy thoái.
- Các nguồn lực và phương thức sử dụng. Để xã hội tồn tại
con người phải sử dụng các nguồn lực tự nhiên và xã hội để
phục yụ cho cuộc sống của mình, nguồn lực nhiều hay ít và
cách thức sử dụng chúng là tốt hay xấu, hiệu quả hay không
sẽ dẫn đến biến đổi xã hội. VD: cách sử dụng người tài, như

cổ nhân nói: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguồn lực
con người là quý hiếm nhất.
- Các lực tác động từ xã hội bên ngoài. Bằng bạo lực, kinh
tế, văn hóa tác động, bằng các mối quan hệ đa phương làm
biến đổi xã hội. VD: Các cuộc chiến tranh, sức mạnh kinh tế
III. Liên hệ ở Việt Nam
Có những căn cứ để giải thích quy mô rộng lớn và tính chất
phức tạp của những biến đổi xã hội, cũng đồng thời là phát
triển xã hội ở Việt Nam thời đổi mới, mở cửa và hội nhập, với
các tác nhân quan trọng nổi bật là kinh tế thị trường, dân chủ
hoá, xây dựng nhà nước pháp quyền, tổ chức đời sống xã hội
dân sự, xây dựng xã hội dân chủ, trên một đường hướng chiến
lược là ổn định - đoàn kết - hợp tác - đồng thuận để phát triển
dân tộc và hiện đại hoá xã hội Việt Nam.
Sự tác động của những nhân tố nêu trên cũng đồng thời là
những nội dung và nhiệm vụ xây dựng đất nước, xã hội và
con người Việt Nam trong toàn bộ tiến trình đổi mới, mà hơn
20 năm qua mới chỉ là một chặng đầu. Hệ mục tiêu của đổi
mới là định hướng cho việc giải quyết các nhiệm vụ đó, cũng
là chỗ đi đến, là tính hướng đích phát triển của Việt Nam "dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Biến
đổi xã hội là rộng lớn và phức tạp còn bởi chỗ, đó không chỉ
là những biến đổi do tác nhân kinh tế gây ra mà còn chịu tác
động rất mạnh mẽ từ chính trị và những biến đổi của thể chế
chính trị lẫn môi trường xã hội. Như đã nói, biến đổi xã hội
còn chịu ảnh hưởng từ văn hoá và hoàn cảnh lịch sử - xã hội,
trong đó con người sinh sống.
Trước đổi mới (từ 1985 trở về trước), ở Việt Nam chỉ có
kinh tế kế hoạch hoá tập trung với vai trò tuyệt đối của Nhà
nước trong quản lý kinh tế. Đó là nền kinh tế hiện vật và bao

cấp, đi liền với phương thức phân phối bình quân, không thể
hiện tính khách quan của quy luật giá trị, quy luật thị trường.


Trên thực tế, Nhà nước độc quyền sản xuất - kinh doanh.
Trong quan hệ sở hữu chỉ có sở hữu Nhà nước (đại diện cho
sở hữu xã hội) và sở hữu tập thể. Không có kinh tế tư nhân,
không có thị trường và càng không có cạnh tranh, thiếu hụt
động lực nội tại để phát triển. Sau chiến tranh, sự trì trệ, lạm
phát và khủng hoảng đã xảy ra như một tất yếu.
Đổi mới đã tìm thấy lối thoát cho cuộc khủng hoảng kinh tế
- xã hội trầm trọng ở giữa thập kỷ 80. Với việc phát triển
mạnh mẽ nền sản xuất hàng hoá và kinh tế hàng hoá, thừa
nhận sự tồn tại lâu dài của nhiều thành phần kinh tế, chú trọng
phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân, chú trọng lợi ích cá nhân
của người lao động, xã hội đã nhanh chóng chuyển trạng thái
từ trì trệ sang năng động.
Quan tâm tới các vấn đề xã hội trong phát triển kinh tế đã
dẫn đến một bước tiến tiếp theo là đặt đúng vị trí của các vấn
đề xã hội trong phát triển và thấy rõ sự cần thiết phải đầu tư
cho việc giải quyết các vấn đề xã hội, làm thay đổi quan niệm
về chính sách xã hội. Đầu tư cho các vấn đề xã hội để giải
quyết việc làm, nâng cao mức sống dân cư, phát triển giáo
dục, y tế, các dịch vụ xã hội và phúc lợi công cộng... chính là
đầu tư theo chiều sâu, đầu tư cho phát triển. Chính sách xã hội
gắn liền với kinh tế, thúc đẩy kinh tế trong khi vẫn chịu sự chi
phối từ tiềm lực vật chất của kinh tế. Với đổi mới và kinh tế
thị trường, chính sách kinh tế và chính sách xã hội gắn liền
với nhau trong một thể thống nhất, tạo ra sự thống nhất kinh tế
- xã hội với xã hội - kinh tế vì mục tiêu phát triển con người

và xã hội, cá nhân và cộng đồng.
Áp dụng cơ chế thị trường trong quản lý kinh tế đã tạo ra sự
thay đổi căn bản mô hình phát triển và quản lý kinh tế, tạo ra
cái giá đỡ vật chất cho những biến đổi xã hội, trong đó có biến
đổi cơ cấu xã hội. Do phát triển sản xuất hàng hoá và kinh tế
hàng hoá nên hoạt động sản xuất - kinh doanh, hoạt động kinh
tế tất yếu phải tuân theo quy luật giá trị, quy luật cung - cầu,
quy luật thị trường. Đây là phương thức cần thiết và là động
lực mạnh mẽ để phát triển lực lượng sản xuất, giải phóng sức
sản xuất, đẩy mạnh phân công lao động, vị thế và vai trò của
người lao động, các chủ hộ lao động, của doanh nghiệp và
doanh nhân được khẳng định.
Nhà nước trong nền kinh tế thị trường chỉ thực hiện quyền
quản lý hành chính trong kinh tế, theo luật pháp hiện hành,
không can thiệp tùy tiện vào hoạt động sản xuất kinh doanh
vốn là thẩm quyền của người lao động (cá thể, tư nhân), của
các doanh nghiệp và chủ doanh nghiệp (doanh nhân). Nhà
nước tạo ra khung khổ luật pháp như một hành lang pháp lý
và sử dụng kế hoạch ở tầm vĩ mô để điều tiết, cùng với những
điều tiết bằng luật pháp, chính sách, cơ chế và các chế tài.
Hiện nay, cơ cấu xã hội ở Việt Nam là một tập hợp bao gồm
các nhóm xã hội sau đây: 1) công nhân; 2); nông dân; 3) trí
thức; 4) doanh nhân; 5) thanh niên; 6) phụ nữ; 7) quân đội; 8)
người cao tuổi; 9) người về hưu; 10) tôn giáo; 11) dân tộc (các
tộc người thiểu số); 12) công chức, viên chức; 13) người Việt
Nam ở nước ngoài... Các tầng lớp, các nhóm xã hội đó, trong
hoạt động kinh tế, hoạt động xã hội và tham gia vào đời sống
chính trị (tham chính) lại thường đan xen và giao thoa lẫn
nhau, nhất là giới - lứa tuổi - thế hệ.
Nước ta đang còn là một nước nông nghiệp, nông dân chiếm

đa số tới 60 triệu người, trên 12 triệu hộ gia đình. 70% dân số
và 60% lao động đang ở trên địa bàn nông thôn, trong lao
động nông nghiệp. Đây là đối tượng chịu nhiều thiệt thòi nhất
trong những năm đổi mới và phát triển kinh tế thị trường. Đói
nghèo, phân hoá giàu nghèo diễn ra chủ yếu ở nông thôn, đối
với nông dân. Một bộ phận trong số họ đã mất đất sản xuất,
do phát triển công nghiệp và đô thị hoá. Nơi tái định cư không
ổn định, nghề nghiệp mới (sau khi mất đất) chưa có, chưa qua
đào tạo. Đây là đối tượng dễ rơi vào tái nghèo khổ hoặc đói

nghèo. Nhiều nghịch lý xuất hiện ở nông thôn: nông dân cả
đời gắn với ruộng đất nay mất đất và cũng không còn thiết tha
với nghề nông, họ trả lại ruộng khoán vì không có lợi ích đảm
bảo trong nghề nông, thuần nông, di cư ra đô thị tìm kiếm mọi
việc làm để mưu sinh. Thiên tai, dịch bệnh làm cho nhiều hộ
nông dân phá sản, không có khả năng thanh toán các khoản
vay ngân hàng. Được mùa nhưng mất giá, sản phẩm không
tiêu thụ được, giá bán không đủ bù đắp chi phí sản xuất, nông
dân làm ra lúa gạo và đưa nước ta vào vị trí một trong những
nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới nhưng bản thân họ,
trong một bộ phận vẫn đói nghèo, vẫn tái nghèo đói, không
chỉ đói nghèo kinh tế mà còn đói nghèo thông tin và văn hoá.
Con em họ và bản thân họ khó có điều kiện tiếp cận dịch vụ
giáo dục, y tế, văn hoá. Đội ngũ trí thức, công chức gần đây
đang xuất hiện tình huống bỏ việc ở cơ quan nhà nước và đi
tìm kiếm việc làm ở khu vực tư nhân. Họ không tìm thấy
những đảm bảo cho cuộc sống và triển vọng phát triển trong
khu vực công. Đó là tình huống có vấn đề từ chính sách, cơ
chế. Bản thân đội ngũ tri thức với cơ cấu về trình độ, chuyên
môn, nghề nghiệp... cũng đang phân hoá. Đang ngày càng gay

gắt vì sự hẫng hụt giữa các thế hệ khoa họ. Thiếu nghiêm
trọng đội ngũ chuyên gia, khoa học chậm phát triển, giáo dục
đang suy thoái về chất lượng, nhất là chịu tác động tiêu cực
của thương mại hoá.
Ngoài những điều nói trên, trong biến đổi cơ cấu xã hội còn
có hiện tượng phân tầng xã hội, diễn ra trong chỉnh thể hệ
thống cơ cấu mà cũng diễn ra trong từng bộ phận, từng tiểu hệ
thống. Nó bắt nguồn từ mức chênh lệch trong tiền lương, thu
nhập, từ phân hoá giàu - nghèo. Trong xã hội, từ cơ cấu đã mô
tả ở trên, đã hình thành những nhóm giàu có, rất giàu (tỷ phú,
triệu phú), nhóm trung lưu khá giả, nhóm nghèo và nhóm đói
nghèo. Đó là tiếp cận cơ cấu từ thu nhập, mức sống và phân
hoá giàu - nghèo. Đáng lưu ý là, hiện tượng phân tầng xã hội
ở Việt Nam có tính hai mặt: hợp lý và bất minh, tích cực và
tiêu cực. Đó là phân tầng hợp thức và phân tầng bất hợp thức.
Bên cạnh một bộ phận giàu lên nhờ tài trí, tháo vát, sáng tạo
và lao động chân chính, hợp pháp đang xuất hiện ngày một
nhiều những hiện tượng làm giàu bất chính, phi pháp, bòn rút
của công, xâm phạm công quỹ, tham ô tham nhũng, lợi dụng
chức quyền và các kẽ hở trong quản lý vốn yếu kém của nhà
nước để làm giàu, trục lợi. Nó dẫn tới tình trạng bất bình
đẳng, bất công trong xã hội, dẫn tới tiêu cực, tệ nạn và tội
phạm, gây bất ổn xã hội và bất an cho chế độ. Đó là những
mặt trái của biến đổi xã hội, tiềm ẩn những phản phát triển.
Thiết chế cổ truyền tồn tại từ hàng ngàn năm trong lịch sử
xã hội Việt Nam truyền thống là Nhà - Làng - Nước. Mối
quan hệ này đã định hình bền vững trong đời sống xã hội.
Bước vào thời kỳ đổi mới, thiết chế xã hội này đã biến đổi,
vừa bảo tồn và phát huy được các giá trị tốt đẹp, vừa có những
thay đổi cho hợp với yêu cầu phát triển mới, trong đó có cả

tác động của tiếp biến văn hoá do mở cửa, hội nhập quốc tế,
thông tin toàn cầu, các quá trình dân chủ hoá, công nghiệp hoá
và đô thị hoá tác động và ảnh hưởng. Với tác động của kinh tế
thị trường, lợi nhuận được đề cao, kiếm tiền và làm giàu có
sức lôi cuốn, cá nhân được khẳng định nhưng cũng phát triển
thái quá chủ nghĩa cá nhân vụ lợi, vị kỷ nên đời sống gia đình
biến đổi rất nhanh, có không ít sự biến động và đảo lộn. Cùng
với kinh tế thị trường là xã hội công nghiệp, lối sống công
nghiệp, tác động vào gia đình, tính hiện đại do bên ngoài thâm
nhập vào tăng lên nhưng cũng làm suy giảm các nét đẹp của
truyền thống, các chuẩn mực giá trị của truyền thống. Biến đổi
lối sống của con người Việt Nam có thể coi là tổng hợp những
biến đổi xã hội dưới tác động của đổi mới, của hội nhập. Bên
cạnh những nhân tố lành mạnh, tích cực trong lối sống với các
đức tính cần cù, trung thực, khiêm tốn, giản dị, vị tha, nhân ái


cũng đang xuất hiện những lệch lạc trong lối sống: hưởng thụ,
thực dụng, tôn thờ vật chất, tiền của, khoái lạc, sự phát triển
chủ nghĩa cá nhân cực đoan, thờ ơ với xã hội, lãnh cảm xã hội
ở một bộ phận dân cư, trong đó có lớp trẻ, sự suy đồi đạo đức,
gây phản cảm từ những người lớn với con em họ, thói cơ hội,
tùy thời, thói đạo đức giả của những quan chức và công chức
thoái hoá trong bộ máy công quyền. Đó là những mặt trái, gây
cản trở đối với giáo dục đạo đức, lối sống cho lớp trẻ.
Câu 7: Hãy làm rõ các quan hệ khách quan có tính
quy luật, mang tính chính trị - XH trong tổ chửc và
hoạt động của Nhà nước về lĩnh vực QLXH?
(Hãy phân tích mối quan hệ có tính quy luật mang tính chính
trị xã hội. Các nguyên tắc trong QLXH của nhà nước)?

KN: Nguyên tắc là những hiện tượng xác định cơ sở của
việc xây dựng và tổ chức hoạt động của các cơ quan nhà nước
trong lĩnh vực quản lý. Bản thân các nguyên tắc cũng phát
sinh từ các qui luật khách quan, từ các quá trình phát triển
nhất định, tức là xuất phát từ những nhân tố khách quan có
ảnh hưởng trực tiếp đến qúa trình quản lý.
Nguyên tắc quản lý nhà nước là các quan hệ khách quan có
tính qui luật mang tính CT-XH trong việc tổ chức và hoạt
động của nhà nước về lĩnh vực quản lý.
1 .Các nguyên tắc:
a/Nguyên tắc chính trị - xã hội:
Nguyên tắc tính Đảng, tính giai cấp (nguyên tắc đầu tiên có
tính đặc thù của NN XHCN): nguyên tắc này có nghĩa là quản
lý nhà nước phản ánh lợi ích giai cấp và nhân dân. Quản lý
nhà nước phải phản ánh vai trò lãnh đạo của Đảng, phải thực
hiện đường lối chủ trương của Đảng trong mọi quyết định.
Điều này phản ánh đặc trưng về tính chính trị trong quản lý
nhà nước.
Nguyên tắc dân chủ và công bàng: bđầu từ bản chất của chế
độ chính trị, nguyên tắc này đòi hỏi nhà nước phải liên hệ chặt
chẽ với nhân dân, đòi hỏi sự tham gia tích cực của nhân dân
vào tât cả các quá trình quản lý nhà nước từ xây dựng mục
tiêu, chương trình của công tác quản lý... Nguyên tăc này còn
quy định sự tham gia của nhân dân vào các hoạt động thực
tiễn của các cơ (Ịuan QLNN, tức là nhân dân thiết lập nhà
nước và tự nhân dân quản lý, tự nhân dân cầm quyển, đây
cũng là dân chủ XHCN. Nguyên tắc này đòi hỏi các quyền tự
do dân chủ, tiến bộ và cồng bằng phải được đảm bảo hoàn
toàn.
Nguyên tắc bình đẳng và thống nhất giữa các dân tộc, vấn

đề dân tộc là một vấn đề hết sức tế nhị và phức tạp, mỗi một
quốc gia đều tập hợp tất cả các dân tộc trong nước mình trên
tinh thận chủ nghĩa quốc tế. Không thể coi trọng dân tộc này,
coi thường dân tộc khác. Bởi vậy, đặc diêm của đất nựớc có
nhiều dân tộc phải được thể hiện trong hệ thống cơ quan
QLNN và trong các quyết định quản lý. Đó là cơ sở để xây
dựng nhà nước XHCN, thực hiện quyền bình đẳng và thống
nhất giữa các dân tộc.
Nguyên tắc tập trung dân chủ (ngtẳc xương sống của NN
XHCN): Đây ỉà nguyên lắc cơ bản trong tổ chức và họat động
của Nhà nước XHCN. Nó được thể hiện thông qua việc bản
bạc dân chủ, quyêt định tập trung. Nó đảm bảo thống nhất của
toàn xã hội thành 1 thể hữu cơ hoạt động nhịp nhàng.
Nguyên tắc pháp chế XHCN: nguyên tắc này có nghĩa tổ
chức và hoạt động quản lý của cơ quan nhà nước phải dựa
trên cơ sở pháp luật của nhà nước.Đặc biệt phải chú ý : việc tổ
chức, hoạt động quản lý được điêu chỉnh băng pháp luật, Cân
chấp hành và thực hiện nghiêm ngặt những đỏi hỏi của pháp
luật.
Nguyên tắc tính khách quan: nguyên tắc nảy đòi hỏi quản lý

nhầ nước được lập ra và tồn tại trên quy luật khách quan của
sự phát triển xã-hội và phù họp với những yêu cầu khách quan
đó.
Nguyên tắc công khai: tính công khai là hình thức biểu hiện
của dân chủ XHCN, đồng thời là nội dung của dân chủ, do đó
đây là thuộc tính của quản lý nhà nước XHCN.
b. Các nguyên tắc tổ chức nhà nước gồm có
Nguyên tắc thống nhất của hệ thống cơ quan quản lý nhà
nước: Nhà nước XHCN không có sự phân quvền mà chỉ là sự

phân định chức năng trong hoạt động của quản lý nhà nước và
mọi hoạt động đó điều được pháp luật điều chỉnh. Trong phạm
vi nhất định, hoạt động quản lý nhà nước đều có sự tham gia
của tất cả các cơ quan nhà nước và phải tuân theo những quy
chế pháp lý về hoạt động của nó.
Nguỵên tắc kết hợp quản lý theo lãnh thổ với quản lý theo
ngành: đây là nguyên tắc quyết định trong tổ chức nhà nước.
Giữa ngành và lãnh thổ có mối tương quan, nhưng chúng lại
được quản lý trên những nguyên tắc hoạt động khác nhau. Do
đó xuất hiện yêu cầu khách quan là phải kết hợp quản lý theo
lãnh thổ và quản lý theo ngành 1 cách đúng đắn. phải đảm bảo
sự phát triển hợp lý giữa lãnh thổ và ngành.
Nguyên tắc trực thuộc 2 chiều (trực tiếp và theo chức năng):
nguyên tắc này có nghĩa là 1 số cơ quan nhất định nào đó phải
trực thuộc 2 cơ quan khác nhau theo chiều dọc và chiều
ngang, quan hệ trực tiêp và quan hệ theo chức năng. Trong
công tác quản lý của nhà nước có mối quan hệ trực tiếp từ trên
xuống, có mối quan hệ rất nhiều cấp, bộ phận khác nhau nên
trong mối quan hệ của các cơ quan cần kết hợp chặt chẽ giữa
mối quan hệ trực tiếp vơi quan hệ theo chức năng.
Nguyên tắc trực thuộc thẳng: là nguyên tậc xây dựng mối
quan hệ bên trong của mỗi cơ quan và các cơ quan nhà nựớc
với nhau. Theo nguyên tắc này, các cán bộ cấp dưới của mỗi
cơ quan chỉ trực thuộc thẳng vào cán bộ cấp trên và cán bộ
lãnh đạo cơ quan cấp dưới chỉ trực thuộc cơ quan lãnh đạo
cấp trên. Nguyên tắc này cho phép tổ chức mối quan hệ giữa
các cơ quan với nhau. Phảỉ tạo ra các mối quan hệ trực thuộc
thẳng và các mối quan hệ tác nghiệp hợp lý để có thể phối họp
được các mối quan hệ đó với nhau đảm bảo sự chỉ đạo, điều
hành thống nhất, thông suốt, có hiệu quả và hiệu lực.

Nguyên tắc kết hợp chuyên nghiệp và sự tham gia của quần
chúng: nguyên tắc này thể hiện sự thống nhất của việc tham
gia trực tiếp hay gián tiếp của những cán bộ chuyên nghiệp và
các đại diện quần chúng vào công việc quản lý trên cơ sở dân
chủ. Trong XHCH, đại diện nhân dân đuợc bầu vào các cơ
quan quyền lực hay cơ quan quản lý, vào các tổ chức xã hội
trên cơ sở dân chủ, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào
quản lý nhà nước.
Nguyên tắc lãnh đạo tập thể kết hợp với trách nhiệm cá nhân
và chế độ 1 thủ trưởng: nguyên tắc này quy định hoạt động
của các cơ quan nhà nước dựa trên cơ sở tập thể, đồng thời
quy định trách nhiệm cá nhân của thủ trưởng. Sự kết hợp giữa
chế độ lãnh đạo tập thể với chế độ 1 thủ trưởng chính là nhằm
vào việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ với mục đích
phát huy sáng kiến cá nhân trong công tác quản lý.
Nguyên tăc phân tán hoạt động tác nghiệp, phù họp giữa
quyền và nghĩa vụ
- Nguyên tắc tổ chức quản lý cán bộ: tuyển chọn và đề bạt
cán bộ phải căn cứ vào tiêu chuẩn: chính trị, thạo việc và có
phẩm chất nhất định.
Nguyên tắc chung sống hòa binh với các xã hội khác: mở
rộng quan hệ quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ
của nhân dân thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc vối sức mạnh
thời đại...
Nguyên tắc mối liên hệ ngược đòi hỏi quản lý xã hội của
Nhà nước phải thường xuyên năm chắc các phản ứng trở lại


của xã hội trước các tác động quản lý của mình để có thể điều
chỉnh kịp thời.

Nguyên tắc bổ sung ngoài, đòi hỏi nhà nước phải có 1 giải
pháp quản lý đúng đắn, thường phải có các buớc thử nghiệm
trên quy mô nhỏ để từ đó rút ra kết luận chung cho tòan xã
hội.
Nguyên tắc khâu xung yếu: quản lý xã hội đòi hỏi nhà nước
do nguồn lực có hạn, nên phải phân bổ đúng các nguồn lực
vào các khâu xung yếu theo thứ bậc ưu tiên khác nhau.
Câu 8: Chỉ ra vị trí của nhân tố con người trong QLXH?
a. Khái niệm nhân tố con người, nhân tố con người là 1
chính thể thống nhất biện chứng giữa các mặt hoạt động và
tổng hòa những phẩm chất, năng lực về trí tuệ, thể lực của cá
nhân hay cộng đồng người tham gia vào sự biến đổi, phát triển
của 1 quá trình xã hội nhất định với tư cách là chủ thể sáng
tạo lịch sử- xã hội, sáng tạo mọi giá trị vật chất và giá trị tinh
thần, đồng thời tự hòan thiện và làm phong phú thêm phẩm
giá nhân cách của chính con người.
b. Nội dung của nhân tố con người: Nhân tố con người
là khái niệm động, mang tính nhiều mặt, là điêm hội tụ của
nhiều phương diện khác nhau, trong đó thể hiện sự thống nhất
giữa mặt cấu trúc và nội dung:
- Thứ nhất, những hoạt động tự giác của con người nhằm
thỏa mãn những nhu cầu đa dạng của cá nhân hay xã hội. Nhờ
những hoạt động này mà xã hội vận động và phát triển. Mặt
khác, hoạt động của con người bao giờ cũng chịu sự chi phối
của động cơ, mục đích nhất định. Do vậy, vai trò của nhân tố
con người không chỉ phụ thuộc trực tiếp của các hoạt động
của con người mà còn phụ thuộc vào mức độ liên kết xã hội.
- Thứ hai, vai trò của nhân tố con người không chỉ phụ
thuộc vào mặt số lượng, chất lượng của dân số và lao động,
mà còn phụ thuộc vào việc quản lý, sử dụng đúng đắn tiềm

năng, nhân tố con người.
- Thứ ba, nhân cách của con người bao gồm nhựng phẩm
chất, năng lực của cá nhân được hình thành, phát triển và hiện
thực hóa trong quá trình thực hiện chức năng xã hội nhất định.
Nhờ đó có thể sáng tạo ra các giá trị vật chất, tinh thần.
Quản lý xã hội với nhân tố con người:
Xã hội luôn là 1 hệ thống hoàn chỉnh, vì thế là 1 hệ thống tự
quản lý. Trong bất kỳ xã hội nào cũng có sự phân công lao
động. Nếu không có quản lý, không xác lập và duy trì 1 trật tự
và 1 tính tổ chức nào đây, thì dù cho trong giai đọan đầu tiên
của lịch sử loài người cũng không thể có hoạt động lao động,
hoạt động xã hội.
* Vị trí cuả nhân tố con người trong quản lý xã hội:
Nhân tố con người với tư cách là chủ thể của hoạt động
quản lý xã hội. Con người là chủ thể của đời sống xã hội,
thông qua các hoạt động của mình cải tạo môi trường tự nhiên
và xã hội theo hướng có lợi hơn cho mình. Vì thế, quản lý xã
hội không phải là vấn đề gì khác ngoải bản chất là 1 hoạt động
có mục đích của con người nhằm thực hiện những mục tiêu
của con người. Tóm lại, con người luôn là chủ thể của hoạt
động quản lý. Chủ thể quản lý xã hội là con người có thể tồn
tại ở dạng cá nhân, tập thể, giai cấp hay 1 quốc gia, dân
tộc,..Con người thông qua quá trình nhận thức và tìm kiếm
những biện pháp tác động tổng hợp lên hệ thống xã hội để vận
hành, điều chỉnh nó theo hướng phát triển phù hợp với mục
tiêu của con người.
Con người và nhân tố con người với tư cách là đối tượng,
khách thể của hoạt động quản lý xã hội: xã hội là 1 tổ chức tự
quản lý, nhưng vì yếu tố chính của xã hội là con người, và con
người làm thành những tập đòan người khác nhau, cho nên cái

chính trong quản lý xã hội là quản lý con người, quản lý những
tập đoàn người. Con nguời trong xã hội không những là chủ thể

mà còn là khách thể, đối tượng của quản lý 1 cách tất yếu.
- Như vậy, trong quản lý xã hội, nhân tố con người là chủ thể
nhưng đồng thời cũng là đối tượng, khách thể. Trong sự đa
dạng và phức tạp của các hoạt động quản lý xã hội, việc phân
định ranh giới giữa chủ thể và khách thể chỉ mang tính tương
đối. Việc đó cần căn cứ vào vị trí người đó trong các quan hệ
quản lý gắn với chức năng, lĩnh vực xã hội cụ thể được quản lý.
-Xây dựng 1 xã hội mới không thể chỉ là trách nhiệm của
các cơ quan, các nhà quản lý. Do đó, phát huy nhãn tố con
người trong quản lý xã hội ở Việt Nam là yêu cầu cần thiết, có
ý nghĩa thực tiễn sâu sắc:
+ Thứ nhất, phản ánh thái độ của công tác quản lý xã hội
trong nuớc đối với việc nhận thức, đánh giá vị trí, vai trò của
con người, của quần chúng trong sự nghiệp xây dựng và phát
triển của đất nước.
+ Thứ hai, chính là quá trình tạo dựng những điều kiện cho việc
thực hiện mục tiêu phát triển tòan diện con người Việt Nam.
+ Thứ ba, trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập, phát
huy nhân tố con người trong quản lý xã hội sẽ giúp người dân
chủ động tìm kiếm những cơ hội thích nghi, phát triển, tránh
nguy cơ tụt hậu của bản thân.
+ Thứ tư, cho phép khơi dậy, phát huy cao nhất sức mạnh,
trách nhiệm xã hội ở từng cá nhân, tập thể, góp phần phát huy
sức mạnh của khối đại đòan kết tòan dân.
+ Thứ năm, phát huy nhân tô con người trong quản xã hội ở
Viêt Nam. đồng thời thể hiện tính chủ động, sánh tạo. Phát
huy nhân tố con người cũng có nghĩa là phương pháp chuyển

từ quá trình quản lý thành quá trình tự quản lý ở mỗi người
dân. Đây là xu thế phổ biến trong quản lý xã hội ở các quốc
gia hiện nay.
Nhận thức về vai trò của phát triển con người và phát triển
nguồn nhân lực đã được xây dựng trên nền tảng tư tưởng Hồ
Chính Minh về phát triển con người. Hồ Chủ Tịch đã từng nói
“vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm
thì phải trồng người” và “muốn có chủ nghĩa xã hội thì phải
có con người xã hội chủ nghĩa”. Trên cơ sở đó, từ thực tiễn và
lý luận về vai trò động lực của nguồn nhân lực đối với quá
trình CNH-HĐH đất nước, Đảng ta đã chỉ đạo “lấy việc phát
huy yếu tố con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững”. Quan điểm này đã được Đảng và Nhà
nước ta thể hiện trong Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội
giai đoạn 1991-2000 mà một trong những mục tiêu là: kết hợp
hài hoà giữa mục tiêu kinh tế và xã hội, đặt con người vào vị
trí trung tâm, phát triển nguồn nhân lực nhằm khơi dậy và
khai thác mọi tiềm năng của từng con người để tham gia tốt
nhất vào xây dựng đất nước.
Ngày nay, từ nhận thức sâu sa hơn về những đặc điểm mới
của thời đại và những nhu cầu của sự phát triển đất nước, vị
trí của các nguồn lực được nhìn nhận rõ hơn, trong đó con
người được coi vừa là nguồn lực nội tại, cơ bản, quyết định sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vừa là đối tượng mà
chính quá trình CNH-HĐH phải hướng vào phục vụ. Đại hội
lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “đáp ứng yêu cầu về con
người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển
đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Việt
Nam, trong dòng chảy liên tục của phát triển, hơn 20 năm đổi
mới vừa qua có thể được coi là một giai đoạn tiếp nối trong

quá trình phát triển con người Việt Nam. Tính liên tục này
được đảm bảo bởi sự nhất quán của định hướng phát triển
XHCN với mục tiêu tối thượng là con người được phát triển
tự do và toàn diện. Với cơ chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN, đổi mới đã tạo ra những cơ hội, thách thức và điều
kiện mới cho sự phát triển con người. Đồng thời đổi mới cũng
đưa ra một cơ chế thích hợp để hiện thực hoá các cơ hội và
điều kiện đó. Khi mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế trở


thành một xu thế tất yếu khách quan, Việt Nam có những cơ
hội phát triển to lớn, đồng thời cũng phải đối mặt với những
thách thức gay gắt và khắc nghiệt của thời đại. Với nhận thức
rõ ràng về vai trò quyết định của con người trong phát triển,
Đảng và Nhà nước đang xây dựng chiến lược phát triển con
người, chiến lược phát triển nguồn nhân lực như trung tâm
của chiến lược phát triển. Như vậy, ở Việt Nam, tình hình mới
đã tạo nên những biến đổi trong sự phát triển con người và
phát triển nguồn nhân lực, biểu hiện tập trung ở sự chuyển
động thang giá trị, định hướng giá trị khuyến khích con người
tích cực, năng động, sáng tạo, dám cạnh tranh vượt qua thách
thức, không chờ đợi bao cấp mà tự tạo cho mình cuộc sống tốt
hơn, đồng thời đóng góp cho gia đình, cộng đồng và xã hội.
Xét về tiềm năng, việc phát triển nguồn nhân lực thông qua
giáo dục, đào tạo nghề nghiệp, chăm sóc sức khoẻ,… làm cho
nguồn lực con người không ngừng phát triển trở thành tiềm
năng vô tận. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại xem xét nguồn nhân
lực dưới dạng tiềm năng thì chưa đủ. Vấn đề quan trọng là
phải khai thác, huy động và phát huy có hiệu quả nhất tiềm
năng đó vào quá trình phát triển kinh tế- xã hội. Đó chính là

quá trình chuyển hoá nguồn nhân lực dưới dạng tiềm năng
thành “vốn nhân lực”. Nghiên cứu bản chất phát triển nguồn
nhân lực trong chiến lược phát triển con người, chúng ta càng
hiểu sâu sắc hơn tầm quan trọng đặc biệt của đầu tư vào con
người, vào phát triển nguồn nhân lực, thực chất là đầu tư cho
phát triển để tạo ra vốn nhân lực, nguồn nội lực vô tận của đất
nước. Là bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển con
người, chiến lược phát triển nguồn nhân lực phải hướng vào
nâng cao chất lượng toàn diện con người Việt Nam về chính
trị , đạo đức, ý chí, tri thức, thể lực; phát huy tiềm năng lao
động dồi dào của đất nước; hình thành nguồn nhân lực có cơ
cấu hợp lý, trong đó đặc biệt là lao động trình độ cao. Có thể
nói đó là chiến lược phát triển con người lao động mới Việt
Nam, có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, có nhân cách


Câu 9: Lâm rõ hình thức QLXH của Nhà nước? (Hãy làm
rõ những biểu hiện bên ngoài thường xuyên, những cách
thức tác động có mục đích của NN đổi với XH)
Các hình thức là cách thức kết hợp các hoạt động, quan hệ XH
của các chủ thề vì mục tiêu phát triên XH. Hình thức là cơ sở
để lựa chọn sử dụng phương pháp quản lý, biểu hiện bên
ngoài thướng xuyên của cơ quan NN trong XD và thực hiện
chức năng quản lý và biến đổi hoạt động của nó.
1.
Các hình thức OLXH của Nhà nước:
Nhóm hình thức pháp luật: nhóm nạy gom có hình
thức quy định các C[uy phạm pháp luật và hình thức áp dụng
các quy phạm pháp luật. Hình thức pháp luật là hình thức trực
tiếp liên quan tới việc sử dụng quyền lực và thẩm quyền tương

ứng của các cơ quan quản lý nhà nước.
Nhóm hình thức tổ chức: nhóm này gồm các hình
thức tổ chức hoat động của các cơ quan nhà nước được pháp
luật quy định cụ thể và các hình thức tổ chức tác nghiệp. Hình
thức tổ chức có liên quan tới tổ chức hoạt động của bộ máy.
Các hình thức hoạt động vật chất kỹ thuật: là những
hoạt động được thực hiện trong bộ máy để phục vụ cho chính
bộ máy đó. Các hình thức hoạt động vật chất kỹ thuật phát
sinh trong quá trình tác động quản lý. Nhóm này không có
mối quan hệ pháp lý đối với đối tượng quản lý cũng như với
các cơ quan quản lý, do đó người làm nhiệm vụ thực hiện hoạt
động vật chất kỹ thuật không phải là những nhà chức trách.
Kế hoạch hóa phát triển xã hội: là công cụ khoa học
dùng để điều khiển sự phát triển xã hội, bao gồm việc đề ra
các mục đích của sự phát triển và phương tiện, thử đoạn, biện
pháp thực hiện các mục đích đề ra. Cụ thể hóa định hướng
phát triển XH, bộ phận của KHH KT-XH. Nguyên tắc của kế
hoạch hóa phát triển xã hội là: tập trung dân chủ - hiệu quả hiện thực. Đòi hỗi quản lý tập trung: mọi yếu tố, mọi hoạt
động, mọi quan hệ, mọi thiết chế. Phát huy chủ động sáng tạo
của cá nhân, nhóm, cộng đồng, XH trong thực hiện mục tiêu.
Phải quy tụ dược ý chí, bản lĩnh, quan tâm của cộng đồng dân
tộc, khai thác thời cơ, vượt qua thách thức trong quá trình phát
triển. Việc lập kế hoạch phải từ nghiện cứu, dự đoán, căn cứ
trên chuẩn mực đưa ra phương án hiện thực, lựa chọn phương
án tối ưu.
Dự đoán xã hội: là việc khẳng định diễn biến của xã
hội trong tương lai vói độ tin cậy nhất định, dựa trên tính quán
tính của sự biến đổi xã hội, hoặc sự cảm nhận có tính bản
năng, mẩn cảm của con người trước các hiện tượng xã hội
trong tương lai. Để dự đoán xã hội có thế sử dụng nhiều công

cụ và kỹ thuật khác nhau:
+ Phương pháp ngoại suy xu thế: là phương pháp dự
đoán căn cứ vào các kết quả đã xảy rạ trong quá khứ về các
hiện tượng xã hội, về kết quả sẽ xảy ra.
+ Phương pháp mẫn cảm: dựa vào các khả năng cảm
nhận đặc biệt của 1 vài cá nhân đã thu được các kết quả dự
báo với độ chính xác cao.
Do dự đoán chưa tính đến tác động đột biến, chỉ trên cơ sở xu
hướng khách quan truyền thống. Dự đoán như chúng ta vừa
nói với biện pháp và thời hạn thực hiện trạng thái đó dẫn đến
dự báo XH. Dự báo XH dẫn đến dự đoán đã tính đến các bất
thường trên cơ sở cho hoạch định kế hoạch phát triển XH,
Thực nghiệm xã hội: giúp chỉ ra những phương thức
thu nhận và phân tích các tư liệu kinh nghiệm trong quá khứ
để kiểm tra các giả thuyết về mối quan hệ tất yếu giữa các
hiện tượng và các quá ừình xã hội. Từ đặc điểm 1 quá trình
xem xét toàn bộ quá trình nghiên cứu.
Xây dựng và thực thi các thiết chế xã hội và cơ cấu
tổ chức xã hội: Trong quản lý xã hội, nhà nước là chủ thể cơ

bản và cố tính chất quyết định, nhưng không thể không tính
đến các tổ chức xã hội và các thiết chế xã hội khác. Khi nhà
nước bất lực trong quản lý đối với xã hội thì chính các thiết
chế và tổ chức xã hội đó sẽ tự thân vận hành để duy trì xã hội.
Thực hiện các chính sách và các phong trào xã hội:
+ Chính sách nhà nước là tổng thể các quan điểm,
các chuẩn mực, các biện pháp, các thủ thuật mà nhà nước sử
dụng để quản lý xã hội. Chính sách thường hướng vào việc xử
lý những lĩnh vực quan trọng trong mỗi giai đoạn, đảm bảo
cho sự tồn tại và phát triển của đất nước. Mỗi chính sách

thường chỉ tồn tại trong 1 thời gian nhất định nào đó. Chính
sách là sản phẩm chủ quan của con người trong quá trình thực
thi quyền lực , nên chỉ có thể thành công nếu nó phù hợp với
thực tế khách quan. Một chính sách tồn tại trg sự tác động vời
các chính sách khác tức là không có chính sách nào độc lập
trong quá trình cả.
+ Các phong trào xã hội là những hoạt động mang
tính tập trung cao của đông đảo người dân trong xã hội nhằm
thực hiện mục tiêu to lớn và đột biến của xã hội.
- Các hình thức tổ chức xã hội đặc biệt: là các hình thức được
nhà nước sử dụng để quản lý xã hội trong các tình huống khẩn
cấp. Đây là các hình thức có thể chỉ thiên về phương pháp
hành chính, nhưng rất cần thiết để bảo vệ sự tồn tại của xã hội
và thường được xã hội chấp nhận.


Câu 10: Hãy chỉ ra các nhân tố tác động đến nhà nước
trong quá trình QLXH? .
QLXH là sự nghiệp vừa lớn lao vừa phức tạp với sự biến
động không ngừng, lý do là vì quá trình quản lý luôn phải
chịu sự tác động từ nhiều phía, từ nhiều nhân tố khác nhau
nên quản lý nói chung và QLXH nói riêng luôn phải vận động
và thích nghi để đạt được hiệu quả quản lý. Nhận thức rõ các
nhân tố tác động đến NN trong qúa trình QLXH là Cơ sở quan
trọng để đổi mới quản lý NN nhằm thúc đẩy tiến trình phát
triển toàn diện XH. Các nhân chủ yếu có thể kể đến là:
1/ Sự chuẩn xác của đường lối và đặc trưng xây dựng XH :
đường lối và đặc trưng của XH mà NN xây dựng phản ánh
bản chất hoạt động quản lý. Đó là sự định hướng phát triển
XH theo mục đích đã chọn lựa từ trước mang tính chiến lược

lâu dài phù họp với quy luật khách quan, do vậy đường lối và
đặc trưng XH không thể là sự chọn lựa theo chủ quan, duy ý
chí. Thực hiện qúa trình quản lý phải dựa trên thực tiễn của
đất nước.
2/ Sự đồng thuận của XH : XH đóng vai trò vừa là khách
thể, vừa là chủ thể của qúa trình quản lý XH của NN ở vai trò
khách thể, XH chịu sự tác động về mặt quản lý của NN; ở vai
trò chủ thể, XH vừa tham gia thực hiện vừa giám sát qtrình
qlý của NN. Nếu XH kg đồng thuận, thì quá trình quản lý của
NN sẽ gặp khó khăn, thậm chí bế tắt.
3/ Bộ máy quản lý, cơ cấu và các thiết chế XH : nhân tố này
tác động rất lớn đến hiệu quả quản lý. Nếu cơ cấu và hệ thống
các thiết chế XH lành mạnh, phu hợp thực tiễn và xu thế phát
triển của lịch sử thì QLXH sẽ đạt hiệu quả cao.
4/ Cơ chế sử dụng tài nguyên môi trường: tài nguyên có loại
tái sinh và loại không tái sinh. Phương thức thăm dò, kthác và
sử dụng tài nguyên có ảnh hưởng to lớn đến môi trường sống
và hoạt động của XH, do đó to lớn đế qúa trình quản lý, Ngày
nay vấn đề mồi trường là vấn đề của toàn cầu, do vậy cơ chế
sử dụng tài nguyên môi trường phải phù hợp tiến trình phát
triển của đất nước, đồng thời phải được sự đồng thuận của
cộng đồng quốc tế thì QLXH mới đạt hiệu quả cao.
5/ Phương thức điều hành qlý của bộ máy và đội ngũ công
chức NN: đây là nhân tố đại biểu của chủ thể quản lý, là
nguồn lực quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới.
Phương thức điều hành qlý của bộ máy và đội ngũ công chức
thể hiện đặc trưng XH của NN, đó là NN quản lý theo kiểu cai
trị hay kiểu phục vụ, công chức hành động theo kiểu quan liêụ
hay kiểu dân chủ.
Thực tiễn phát triển các phương thức QLXH trên thế giới đã

chứng minh, nếu lựa chọn một phương thức QLXH phiền hà
sẽ dẫn đến hình thành một đội ngũ công chức quan liêu, hư
hỏng và tất yếu kéo lùi sự phát triển của đất nước, thậm chí
dẫn đến đổ vỡ XH.
6/ Các mối quan hệ đối ngoại: Xu hướng phát triển hiện nay
là khu vực hóa, toàn cầu hóa. Lựa chọn đường lối đối ngoại
phải trên tinh thần giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thồ, phải giữ vững nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn
trọng chủ qụyền và không can thiệp vào công việc nội bộ,
cùng thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của
mỗi quốc gia. Muốn vậy phải thúc đẩy các quan hệ đối ngoại
nhằm nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế, nhưng
phải giữ vững đặc trưng phát triển của mình. Như vậy, đường
lối đối ngoại là một nhân tố ảnh hưởng rất quan trọng đến qúa
trình thực hiện QLXH của NN.
7/ Đổi mới QLXH : đây là nhân tố vừa khách quan, vừa chủ
quan. Mục đích đặt ra của XH có thể là cố định, nhưng con
đường thực hiện mục đích có thể biến động tùy theo xu thế
phát triển của thời đại, tùy theo nguồn lực khai thác được của
đất nước. Đối với phương thức QLXH của NN, các nhân tố

tác động bên ngoài mang tính khách quan, sự nhận thức để lựa
chọn con đường phù hợp là cơ quan. Tất cả các yếu tố này đều
luôn vận động và phát triển, đòi hỏi phương thức QLXH phải
luôn đổi mới để bắt nhịp kịp thời với các thành quả của sự tiến
bộ, mang lại hiệu quả cao cho quá trình QLXH.
Tóm lại nhận thức các nhân tố chủ yếu tác động đến NN
trong qúa trình QLXH là cơ sở để NN thực hiện đổi mới
QLXH, chỉ rõ được phương thức tiến hành, chọn khâu đột phá
nhằm mau chóng đạt đến mục tiêu mà XH đã lựa chọn.(Tuy

nhiên khi lựa chọn con đường đổi mới, NN cần phải giữ vững
các nguyên tắc chính như sau: Đổi mới nhưng không gây đổ
vỡ XH. Đổi mới nhưng không làm mất đặc trưng XH. Đổi
mới phải bắt đầu từ hạ tầng xã hội đến đổi mới thượng tầng
kiến trúc.Đổi mới nhưng phải dựa vào sự đồng thuận cao nhất
của XH).


Câu 11 :Trình bày nội dung thiết chế trong QLXH?
KN: là 1 hệ thông các qui định, luật lệ, giá trị và cấu trúc
XH nhằm mục đích duy trì sự tồn tại và biến đôi XH theo 1
hướng nhất định. Là phương thức tổ chức và nguyên tắc vận
hành XH nhằm duy trì và bảo vệ các giá trị XH vá thực hiện
thành công các mục tiêu XH cho các bước PT XH.
Nội dung :
Chủ thể QLXH là tác nhân tạo ra các tác động QL, nhờ đó
XH (gồm chủ thể và đối tượng QL) đạt tới mục đích và mục
tiêu QL. Chủ thể QLXH sở dĩ có thể tạo ra được các tác động
do QL do đã nắm được quyền lực QLXH.
+ Quyền lực XH : là năng lực tự nhiên, vốn có của XH tạo
ra khả năng tổ chức, sử đụng các nguồn lực của XH để đạt
được mục đích và mục tiêu của QLXH. Quyền lực XH thực
hiện thông qua quyền lực của cá nhân, các nhóm in XH, với tu
cách là năng lực hành vi áp đặt ý chí của các cá nhân, các
nhóm này lên các cá nhân khác lên các nhóm và lên cả XH.
Quyền lực XH tạo bởi các nhân tố :
Sức mạnh tổ chức của XH, đặc biệt là sức mạnh
trừng phạt của XH.
- Các nguồn lực vật chất, các lợi ích mà XH có thể
đem đến hoặc thu lại cho cá nhân, cho nhóm và cho XH.

Sức mạnh của niềm tin của tri thức XH.
Để quản lý con người, chủ thể QLXH phải có năng lực
đưa ra qui tắc ứng xử, khen thưởng và trừng Ị)hạt con người
in phạm vi quyền lực của mình.
Quyền lực XH chính là khả năng và hình thức mà chủ
thể QLXH có thể đem ỉại hoặc lấy đi các lợi ích mà con người
theo đuổi in XH, đặc biệt là lợi ích vật chất.
Muốn thế chủ thể QLXH cần phải có in tay nguồn yật
chất cần thiết đủ để chi phối hệ thống.
Quyền lực XH sẽ chỉ là hình thức nếu chủ thể QLXH không
tạo được niềm tin, động lực cho môi người in XH; hoặc không
tạo được hiệu quả hoạt động do sự hiểu biết và kém tri thức
của mình.
+ Chuẩn mực XH là những yêu cầu, những tiêu chuẩn
hành vi đo XH mong muốn, đặt ra và đòi hỏi mọi người phải
tuân thủ in suy nghĩ và hành động. Chuẩn mực XH mang tính
lịch sử, nó được lấy làm thước đo vai trò của các con người in
XH. Chuẩn mực XH phải là chuẫn mục âại đa số con người in
XH, nếu không sẽ đẫn tới xung đột, suy yếu, thậm chí đổ vỡ
XH. Chuẩn mực XH còn là căn cứ để hình thành cấu trúc vị
thế của XH, thông qua việc phân bổ quyền lực XH cho môi cá
nhân dựa vào các yêu cầu của các chuân mực đặt ra. Chuân
mực sẽ ỉà hơp lý nếu phù hợp với các qui luật khách quan liên
quan đến tồn tại và phát triển XH.
+ Giá trị XH lả những tình cảm, những thái độ, hành vi được
chuẩn mực XH đánh giá rất cao, rất quan trọng mà con người
in XH thường hướng vào đó để hành động và đạt lấy. Là căn
cứ được dùng để xem xét, xử lý các vấn đề về vị thế và vai
trò. Giá trị phải họp với đa số nguyện vọng chính đáng của
các con người trong xã hội, để cùng chuẩn mực nó trở thành

thước đo vai trò của mỗi người trong quá trình vận hành và
phát triển xã hội.
+ Vai trò của cá nhân trong xã hội.
Là vị thế thực tế của cá nhân, thể hiện thông qua nguồn lực
thực tể và tác động thực tế mà họ gây ra cho xã hội. Nói cách
khác, là mức độ tác động thực tế của cá nhân đó đối với
những người khác trong và ngoài xã hội. Mỗi người có thể có
vai trò to lởn, ngược lại có vị thế xã hội nhưng vai trò chưa
hẳn đã lớn.
Vai trò của một con người được tạo ra trong xã hội một
phần do vị thế danh nghĩa mà họ chiếm giữ đưa lại, một người

có vị thế lớn dễ có vai trò lớn trong xã hội. Vai trò của con
người còn do khả năng hoạt động thực tế và hiệu quả mà họ
đem lại. Xã hội chỉ phát triển lành mạnh khi câu trúc vị thế yà
câu trúc vai trò là phù hợp, là tương xứng với nhau.
Vị thế của mỗi cá nhân trong xã hội là địa vị, thức bậc
quyền lực mà các nhân đó được xã hội thừa nhận và tuân thủ.
Trong xã hội bao giờ cũng tồn tại một cấu trúc thang bậc
trong đó bao gồm trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích mà họ
nhận được tương ứng với vị trí này. Thiết chế quản lý xã hội
chức đựng trong nó một cấu trúc các vị thế của các con người
trong xã hội. Có người chiếm vị thế khống chế xã hội, vị thế
then chốt với tư cách người cầm đầu xã hội. Cũng có những
người không chiếm vị trí cầm đầu xã hội nhưng quyền lực, vị
thế của họ cũng không nhỏ và cũng đóng vai trò khác quan
trọng trong sự điều hành xã hội như các nhà khoa học, doanh
nhân...Những cán bộ lãnh đạo có vị thế quan trọng là những
người tham gia vào bộ máy quản lý xã hội, họ là những người
đứng đầu các tổ chức trong xã hội, cùng với những người

đứng đầu họ hình thành nên nhóm các nhà lãnh đạo. Nhóm
những người tham gia vào bộ máy quản lý xã hội cón lại
quyền lực là ít hơn nhưng rất cần thiết để bảo đảm cho ý đồ
của các nhà lãnh đạo trở thành hiện thực, họ là cán bộ quản lý
trong đóng vai trò vật truyền dẫn của ý chí quản lý của những
nhà lãnh đạo. Tất cả các loại cán bộ trên tạo thành đội ngũ cán
bộ quản lý xã hội.
Vị thế của một cá nhân trong xã hội là địa vị, là thứ bậc
quyền lực của cá nhân đó được xã hội thừa nhận và tuân thủ,
nằm trong thiết chế xã hội một cách chính thức và trên đanh
nghĩa; nó có thể được xã hội thừa nhận đồng thời trên nhiều
ỉĩnh vực của xã hội. Họ có thể vừa có vị thế về mạt quyền lực
trong bộ máy chính quyền, vừa có vị thế trong lĩnh vực khoa
học chuyên ngành. Vị thế cá nhân trong xã hội có thể chỉ là
hình thức nếu cá nhân đó tuy ở cương vị cao nhưng do năng
lực, uy tín kèm họ sẽ không thể hoạt động có hiệu quả./.


Câu 12. Trình bày đặc điểm trong QLXH?
Quản lý xã hội rất khó khăn và phức tạp, đây là đặc điểm bao
trùm đối với QLXH ở mọi quốc gia và mọi thời đại. QLXH là
khó khăn vì:
Đối tượng bị quản lý rất lớn và rất phức tạp, nó bao
gồm tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, tất cả người dân
cư trú trên lãnh thổ đất nước và người sống ở nước ngoài; với
trình độ và hoàn cảnh khác nhau; mục tiêu và nhu cầu khác
nhau.
Cùng sự hội nhập và quá trình toàn cầu hoá trên tất
cả các lĩnh vực; các hoạt động QLXH của mỗi quốc gia đều bị
ràng buộc chặt chẽ vào nhau; việc QLXH của mỗi quốc giạ

này phải tính đến sự tác động của các quốc gia khác.
Chủ thể QLXH không thuần nhất, phần lớn phụ
thuộc vào vai trò của Nhà nước và các tổ chức chỉnh trị-xã
hội, chủ thể hữu hình của QLXH, ngoài ra còn phụ thuộc vào
các lực lượng khác của xã hội.
Nhà nước QLXH thông qua việc tổ chức xã hội, thiết lập mối
quan hệ giữa con người, giữa các nhóm, cộng đồng để thực
hiện một quá trình xã hội. Quyền lực Nhà nước mang tính
mệnh lệnh đơn phương và tính tổ chức cao. QLNN mang tính
quyền lực đặc biệt bắt đối tượng quản lý phải phục tùng
không điều kiện, Nhà nước QLXH bằng pháp luật.
Quản lý Nhà nước quan hệ tác động qua lại với sự điều tiết
của các cộng đồng dân cư; của đặc điểm, phong tục tập quán
của dân tộc. Giữa Nhà nước và phong tục tập quán của dân
tộc phải tìm được tiếng nói chung, việc QLXH mới đạt hiệu
quả.
QLXH có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát
triển của các dân tộc. Xã hội sẽ phát triển khi QLXH có hiệu
quả và ngược lại.
QLXH có tính liên tục, tính kế thừa. Việc QLXH gắn
liền với sự tồn tại của các quốc gia và các dân tộc. Còn hoạt
động của con người thì còn hoạt động quản lý vì vậy QLXH
luôn là sự kế thừa theo dòng chảy của lịch sử xã hội loài
người.
QLXH mang tính thẩm thấu, tính lan truyền, QLXH
của xã hội này phải học hỏi kinh nghiệm của xã hội khác để
tìm được cách quản lý tốt nhất. Sự học hỏi phải có chọn lọc
cho phù hợp với đặc điểm của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia.
QLXH luôn liên quan tới vấn đề động lực và phản
động lực của sự phát triển xã hội.

Động lực trong QLXH là động lực của tímg thành viên, tỉnh
đồng thuận và sự kết hợp tốt của từng động lực riêng rẽ thông
qua các thiết chế tổ chức xã hội hợp lý, ngoài ra còn phải tính
đên sự kết hợp có hiệu quả của các xã hội bên ngoài.
Phản động lực là sự không đồng thuận của các động lực cá
nhân trong xã hội thông qua các điêu bât cập của thiết chế xã
hội; sự tác hại từ phía các xã hội khác hoặc điều kiện bất lợi từ
thiên nhiên gây ra.
Các động lực và phản động lực cần được kiểm sát và sử đụng
có hiệu quả.
QLXH là một khoa học vì có đối tượng và phương
pháp nghiên cứu riêng.
QLXH là nghệ thuật vì nó đòi hỏi sự xử lý linh hoạt
và có hiệu quả việc quản lý trong các điều kiện cụ thể của xã
hội.
QLXH là sự nghiệp của toàn xã hội, nó đòi hỏi sự
đóng góp công sức, mọi nỗ lực chủ động sáng tạo của mọi con
người, của tất cả các nhóm người trong xã hội, của mọi thiết
chế xã hội dưới sự điều hành của chủ thể QLXH cơ bản./.


Câu 13. Hãy trình bày các nguyên tắc QLXH?
Nguyên tắc QLXH là yêu cầu xuất phát, chủ đạo mà chủ thể
QLXH tuân thủ. Nguyên tắc QLXH biểu thị các cơ sở cần
thiết cho hoạt động của các cơ quan quản lý và các cơ quan tự
quản, các cán bộ lãnh đạo, tức là các chủ thể của quan hệ quản
lý. Nguyên tắc QLXH tổng hợp trong mình các quy luật xã
hội và các cách tiếp cận cụ thể với việc thực hiện chúng trên
thực tế. Nếu các quy luật của QLXH biểu thị những mối quan
hệ cơ bản giữa chủ thể và khách thể quản lý thì xuất phát từ

những quan hệ ấy, nguyên tắc QLXH xác lập các quy tắc cơ
bản về tổ chức và hoạt động của chủ thể và khách thể quản lý.
Nguyên tắc QLXH là các phương châm chỉ đạo, các chuẩn
mực hoạt động cơ bản, xuất phát nhằm chấn chỉnh hệ thống
hoạt động và quan hệ xã hội, quản lý các hiện tượng và quá
trình xã hội.
Tiêu chuẩn phân loại các nguyên tắc QLXH là:
- Trình độ phát triển của của KHCN và sản xuất.
- Vai trò ngày càng tăng của chủ thể QLXH đối với tiến
trình phát triển khách quan của xã hội.
- Trình độ quản lý có tính chất nhà nước với quản lý có tính
chất xã hội, nhằm lôi cuốn ngày càng đông đảo những người
lao động vào công việc xã hội.
Các nguỵên tắc phương pháp luận:
- Nguyên tắc về sự phát triển của hệ thống được quản lý.
Nguyên tắc này chỉ rõ sự thay đổi thường xuyên của hệ thống
được quản lý, do sự mở rộng những mối liên hệ của nó với
những hệ thống khác thường xuyên nảy sinh gây ra. Nguyên tắc
này đòi hỏi phải xem xét các vấn đề quản lý không những về
mặt lô gich, mà còn tính đến yếu tố lịch sử (kế thừa). Nó phản
ánh sự chuyển biến từ những hình thức quản lý cũ sang những
hình thức quản lý mới, hoàn thiện hơn, phù hợp với trình độ
phát triển sản xuất và với những yêu cầu phát triển xã hội.
Đồng thời nó cũng phản ánh cơ cấu chuyển biến từ những hình
thức giản đơn sang những hình thức phức tạp.
- Nguyên tắc về mọi liên hệ, tác động qua lại và quy định
lẫn nhau của khách thể vả chủ thể trong quản lý.
Một đặc điểm của hoạt động xã hội là lợi ích của chủ thể xã
hội (con ngươi) được nhận thức trên những cơ sở và xu hướng
khách quan của sự phát triển xã hội, và việc thực hiện lợi ích

ấy có liên quan đên sự nhận thức đầy đủ những điều kiện hoạt
động khách quan. Trong những hoạt động xã hội, bao giờ
cũng có yếu tố chủ quan, những yếu tố ấy chỉ phát huy đầy đủ
và mạnh mẽ của nó khi nào nhận thức được những quy luật
khách quan của khách thể.
Tính tích cực của chủ thể quản lý đòi hỏi trước hết phải mở
rộng những tác động và những chức năng của nó trong quá
trình quản lý nhằm thực hiện những mục đích nhất định. Đồng
thời tính tích cực ấy cũng thay đổi theo sự thay đổi không
ngừng của những điều kiện khách quan.
Phép biện chúng của những điều kiện khách quan và nhân tố
chủ quan trong quản lý là ở chỗ nhân tố chủ quan vốn do
những điều kiện khách quan sinh ra, nhưng nó lại động viên
đối tượng quản lý thay đổi những điều kiện ấy và tạo ra hoàn
cảnh khách quan mới. Do phản ánh những điều kiện khách
quan đã thay đổi, chủ thể quản lý nêu lên mục đích mới của sự
phát triển, động viên đối tượng quản lý thực hiện mục đích
mới ấy, đồng thời cững tự hoàn thiện trong quá trình đó.
- Nguyên tắc và quan hệ cụ thể - lịch sử đối với một quả
trình xã hội.
Phải xem xét một hiện tượng được nghiên cứu không phải
cái riêng rẽ mà nó luôn nằm trong môi liên hệ với cái phổ
biến. Chỉ có thể nhận thức đúng một quá trình (hay hiện
tượng) khi tính đến điều kiện phát triển của nó một cách đầy
đủ.

Trong khi nhấn mạnh tính cụ thể của nhận thức, lưu ý tới sự
thay đổi thường xuyên của những điều kiện cụ thể, tới sự thay
đổi của những quy luật phát triển của các hiện tượng gắn liền
với sự thay đôi của những hiện tượng ấy. Như vậy nguyên tắc

này cho phép nghiên cứu sự phát triển của những nguyên tắc
quản lý trong những hình thái trước đó cũng như trong những
hình thái hiện nay của sự phát triển xã hội.
- Nguyên tắc về quan điểm tổng hợp đổi với việc nghiên cứu
một hiện tượng.
Nguyên tắc này nhằm tìm hiểu đẫy đủ những môi liên hệ tất
yếu bên trong của nó. Cho phép khám phá những quy luật
phát triển bên trong của hiện tượng, khám phá những mâu
thuẫn tồn tại một cách khách quan trong hiện tượng ấy, cho
phép loại bỏ mâu thuẫn ấy một cách kịp thời. Quan điểm tổng
hợp đóng một vai trò quan trọng trong quá trình QLXH một
cách khoa học, không có quan điểm tổng hợp thì không thể
giải quyết những vấn đề quản lý hiện đại. Quan điểm này đòi
hỏi phải xây dựng và áp dụng rộng rãi khoa học về QLXH,
một khoa học có tính tổng hợp cao vì đối tượng của nó là tổng
hợp của tất cả những chức năng quản lý.
- Nguyên tắc phản ảnh.
Trong QLXH, nguyên tắc này thể hiện tác dụng quyết định
của tiến trình phát triển xã hội khách quan với chủ thể. Trong
mỗi giai đọạn phát triển của xã hội, con người chỉ có thể đặt
ra cho mình những nhiệm vụ mà tiến trình lịch sử của xã hội
tạo ra những khả năng cần thiết khách quan để giải quyết
chúng trong quá trình quản lý. Coi thường nguyên tắc phản
ánh sẽ dẫn tới chủ nghĩa chủ quan trong QLXH.
- Nguyên tắc thừa nhận tính chất biện chứng của quy luật
phát triển khách quan về QLXH.
Nguyên tắc này có tính chất thế giới quan, vạch rõ tính tất
yếu của việc chuyển lên một hình thức quản lý cao hơn,
nguyên tắc này cho phép thấy rõ phép biện chứng cũng như
những biện pháp của việc chuyển lên hình thức quản lý mới

ấy, đồng thời cũng chỉ rõ vai trò của những tập thể lao động
và những tổ chức xã hội trong quá trình đó.
Những nguyên tắc phương pháp luận chung của QLXH luôn
vận động. Chúng phát triển cùng với sự phát triển của việc
nhận thức các hiện tượng và quá trình xã hội, cùng với sự mở
rộng phạm vi tác động tự giác đối với sự phát triển xã hội,
cũng như cùng với sự thay đổi thường xuyên của bản thân xã
hội và góp phần quan trọng vào việc tính đến sự phát triển của
những nguyên lý quản lý ấy.
Các nguyên tắc cụ thể trong QLXH:
Nguyên tắc cơ địa chủ
Nguyên tắc tổ chức quá trình quản lý; yêu cầu thực hiện
quyết định quản lý mà theo đó thì phải phân biệt những người
thừa hành cụ thể và phải giao cho họ những nhiệm vụ hoàn
toàn xác định, việc thực hiện chúng là Gần thiết để đạt được
mục đích đề ra. Việc vi phạm các yêu cầu của nguyên tắc có
địa chỉ trong QLXH sẽ lảm nảy sỉnh tính không minh bạch
trong quan hệ giữa người thừa hành và người quản lý, làm
giảm bớt trách nhiệm, khả năng của họ trong việc thực hiện
lợi ích đặc biệt của mình một cách có hại cho lợi ích chung,
làm chệch sự định hướng có mục đích của quá trình quản lý.
Nguyên tắc công khác
Nguyên tắc liên hệ ngược trong hệ thống quản lý xã hội; yêu
cầu thông báo kịp thời, rộng rãi và thường xuyên cho đối
tượng quản lý biết về hoạt động của các chủ thể quản lý, vê
tình hình hiện thực trong QLXH. Việc thực hiện nguyên tắc
công khai đạt được nhờ báo cáo bắt buộc của các chủ thể quản
lý trước đối tượng quản lý, về khả năng tiếp xúc với mọi
thông tin về hoạt động của chúng, nhờ thảo luận toàn diện các
vấn đề quan trọng nhất và các quyết định được thông qua.



- Nguyên tắc công khai là phương tiện hình thành dư luận xã
hội, lôi kéo đối tượng quản lý vào quá trình quản lý, nâng cao
tính tích cực của họ, thực hiện sụ tác động của xã hội công
dân tới nhà nước. Công cụ để thực hiện nguyên tắc công khai
là các phương tiện thông tin đại chúng. Khả năng thực hiện
nguyên tắc công khai phụ thuộc vào các bảo đảm pháp lý có
trong xã hội, không phụ thuộc vào các cơ quan quyền lực mà
phụ thuộc vào tự đo ngôn luận.
Nguyên tắc hệ thống trong QLXH.
Yêu cầu thống nhất (với sự phân họá tương ứng) các hình
thức hoạt động quản lý riêng biệt, quy định lẫn nhau trên cơ
sở mục đích chung. Do vậy nguyên tắc hệ thống trong QLXH
giả định phải có hoạt động có liên hệ mật thiết với nhau, tiến
hành theo một phương hướng của các cơ quan quản lý khác
nhau. Điều đó có nghiã không phải là sự phối hợp bình
thường thông qua thoả thuận, mà là sự thống nhất hành động
thành một chương trình có mục đích toàn vẹn, trong đó có các
cơ quan quản lý riêng biệt, nhiệm vụ của chúng thê hiện như
là những yếu tố phụ thuộc lẫn nhau, có vị trí và vai trò của
mình trong quá trình thực hiện quá trình quản lý.
Nguyên tắc hợp pháp trong QLXH.
Là sự châp hành bắt buộc luật pháp và các văn bản pháp lý
tương ứng với chúng của các cơ quan nhà nước, các nhà chức
trách, các công dân và các tổ chức xã hội. Nguyên tac họp
pháp trong QLXH là nguyên tắc mang tính lập hiến của hệ
thống chính trị xã hội, của chế độ nhà nước, của hệ thống
QLXH.
Nguyên tắc khách quan trong QLXH.

Yêu cầu tính đến các quy luật phát triển của khách thể quản
lý trong quá trình thực hiện các mục đích quản lý. Đặc diêm
của nguyên tắc khách quan là một điêu quan trọng nói rằng
việc tuân thủ (hay không) nguyên tắc này quy định trước hiệ
quả áp dụng tất cả các nguyên tắc quản lý khác (nguyên tắc hệ
thông, nguyên tăc công khai...). Tạo thành cơ sở của nguyên
tắc khách quan là cả các khoa học xã hội lẫn các khoa học tự
nhiên. Nghiên cứu xã hội học- điều quan trọng để thực hiện
nguyên tắc khách quan trong QLXH.
Nguyên tắc phân quyền.
Là yêu cầu xây dựng cơ cấu quản lý nhà nước, thể hiện ở sự
phân chia toàn bộ quyền lực nhà nước toàn vẹn thành một số
nhánh. Nguyên tắc phân quyền là sự phân chia quyền lực giữa
các cơ quan nhà nước riêng biệt, tác động qua lại với nhau
trên cơ sở có địa vị tương đối độc lập với nhau. Tính không tự
đầy đủ của cảc cơ quan quyền lực nhà nước riêng biệt làm cho
chúng phụ thuộc lẫn nhau trong quá trình thực hiện quyển lực.
Đồng thời địa vị độc lập của chúng xét từ góc độ thực hiện
các thẩm quyền quản lý cũng không chó phép mỗi nhánh
chiếm độc quyền quyền lực một cách riêng biệt. Nguyên tắc
phân quyền là cơ sở đối với hệ thống kiềm chế và đối trọng, là
điều kiện hoạt động của hệ thống quản lý dân chủ.
Các nhánh quyền lực riêng biệt không thể cân sức về mặt
địa vị của chúng trong hệ thống quyên lực nhà nước. Trong
trường hợp ngược lại, những mâu thuẫn nảy sinh một cảch
khách quan giữa chúng trong quá trình tác động qua lại sẽ
không giải quyết được nhờ thủ tục pháp lý. Có địa vị mang
tính quyết định là quyền lực nắm trong tay chức năng có mục
đích của quản lý nhà nước, quyết định các mục đích chiến
lược sự phát triển xã hội. Có mục đích như vậy trước hết được

hình thành trong các cơ quan lập pháp trên cơ sở những lợi ích
đặc biệt được thể hiện và tác động qua lại với nhau trong nó
của cảc nhóm xã hội và các cộng đồng xã hội công dân.
Phù hợp với nguyên tắc phân quyền, với tư cách các nhánh
quyền lực riêng biệt trong hệ thống quản lý dân chủ, phân chia
thành quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp. Đại

diện cho quyền lập pháp là các cơ quan đại diện: Quốc hội,
Nghị viện cho quyền hành pháp: Chính phủ; quyền tư pháp:
Toà án.
Nguvên tắc phức hệ trong QLXH,
Là yêu cầu phải tính đến mọi phương diện trong mỗi hiện
tượng xã hội phức tạp, đang chịu tác động của quản lý- các
phương tiện kinh tế, xã hội, chính trị tinh thần...Nguyên tăc
phức hệ trong OLXH biểu thị một phương diện đặc biệt của
sự thực hiện cách tiếp cận hệ thống trong quản lý- không
những tính đầy đủ và toàn vẹn về mặt tổ chức, mà cả tính đầy
đủ cần thiết trong việc nắm bắt mọi phương diện của hiện
tượng.
Nguyễn tắc tối ưu,
Là xác định hiệu quả đạt tới mục đích trong quả trình giải
quyết các nhiệm vụ quản lý. Nguyên tắc tối ưu được đặc trưng
bởi sự phối hợp các yếu to mâu thuẫn khác nhau trong quá
trình hình thành trạng thải tốt nhất của hệ thống. Định hựớng
khi đánh giá sự thực hiện đầy đủ nguyên tắc tối ưu có thể là
phương án hoạch định cho phép đạt tới những tham số phù
hợp tối đa với các khả năng phát triển của hệ thống khi có tính
đến những hạn chế hiện có. Nguyên tắc tối ưu được sử dụng
khi lập kế hoạch trong điều kiện tối ưu hoá sự kết hợp giữa hệ
thống kinh tế tập trung với tính độc lập của các ngành kinh tế.



Câu 14. Trình bày các phương pháp QLXH của
nước?

Nhà ngũ công chức có phẩm chất và trình độ phù hợp để tiến hành
thực thi các phương pháp vận động và tuyên truyền. Nếu
không được như vậy, phương pháp này sẽ không đạt hiệu quả.
Phương pháp QLXH của Nhà nước là các biện pháp, thủ
- Thứ ba, hệ thống luật pháp phải đồng bộ và thích hợp.
thuật của các cơ quan quản lý Nhả nước áp dụng nhằm thực Việc vận động tuyên truyền sẽ không có ý nghĩa gì nếu đời
hiện các chức năng và nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho; là sổng nhân dân không ngày càng được cải thiện, nâng cao.
tổng thể các cách thức tác động có chủ đích và có thể có của
3. Các phương pháp tác động lên lợi ích
Nhà nước đối với các hoạt động và quan hệ xã hội của các chủ
KN: Các phương pháp tác động lên lợi ích trong QLXH của
thể xã hội nhằm đạt được mục tiêu quản lý xã hội đặt ra.
nhà nước là các cách tác động có chủ đích và bằng các biện
Các phương pháp QLXH của Nhà nước:
pháp chi phối trực tiếp lên các lợi ích (vật chất và phi vật chất)
1. Các phương pháp hành chính
của công dân, để tác động lên các hoạt động và các mối quan
KN: Là các tác động mang tính pháp quyền của Nhà nước hệ vì mục tiêu xã hội đã được đặt ra.
lên các hoạt động và các quan hệ xã hội nhằm hướng các hành
Vai trò: Các phương pháp tác động lên lợi ích là các phương
vi xã hội đạt tới mục tiêu QLXH đề ra.
pháp tác động bổ sung của nhà nước sử dụng để QLXH, nó có
Vai trò: Các phương pháp hành chính là các phương pháp cơ vai trò to lớn trong quản lý:
bản mang đặc thù của nhà nước đùng để QLXH nhờ đó:
- Chi phối lên một loại động cơ làm việc quan trọng của con

Xác lập đựợc trật tự kỷ cương, môi trường pháp lý hợp lý và người (đó là động cơ tính toán hiệu quả đạt được trong các
ổn định cho sự phát triển xã hội.
hoạt động); nhờ đó biến con người thụ động thành con người
- Giúp nhà nước giải quyết nhanh chóng mọi mâu thuẫn, chủ động, sáng tạo.
xung đột xảy ra trong xã hội một cách hiệu quả nhất; đồng
- Là phương pháp phù hợp với các phương pháp đã sử dụng
thời phát triển được các nhân tố tích cực trong xã hội vì các trong quản lý kinh té, đáp ứng tốt nhu cầu đời sống của nhân
mục tiêu đã được dự kiến.
dân.
- Giải quyết nhanh và có hiệu quả các tranh chấp với các xã
- Gắn kết các phương pháp quản lý khác thành một chỉnh
hội khác, góp phần tốt nhất bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn thể có tính hiện thực cao.
vẹn lãnh thổ quốc gia.
Điều kiện thực hiện:
- Liên kết, gắn bó các phương pháp quản lỷ khác nhau thành
- Các phương pháp tác động lợi ích trong QLXH của nhà
một thể thống nhất.
nước phải bảo đảm có sự cân xứng hợp lý giữa trách nhiệm,
Điều kiện sử dụng:
nghĩa vụ và lợi ích của công dân, của các tổ chức xã hội.
Để sử dụng có hiệu quả các phương pháp hành chính trong
- Giữa lợi ích vật chất và lợi ích phi vật chất, giữa lợi ích cá
QLXH, nhà nước cần phải có đủ các điêu kiện sau:
nhân và bộ phận với lợi ích của cả xã hội phải có sự gắn kết
- Phải có một hệ thống luật pháp QLXH đồng bộ, đầy đủ, cụ hài hoà theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ và mục tiêu
thể, ổn định phù hợp với lợi ích của đông đảo công dân có tổ hướng tới của xã hội.
chức và nắm giữ quyền lực xã hội.
Phải có một hệ thống cơ quan chức năng với một đội ngũ
- Phải có hệ thống các cơ quan quản lý chức năng cùng đội công chức thích hợp.
ngũ công chức có trình độ, kiến thức, thạo việc, có nhân cách

4. Các phương pháp tự quản lý
và trung thành tuyệt đối với chế độ xã hội.
KN: Các phương pháp tự quản lý của nhà nước dùng để
- Phải có các cơ quan thanh tra, kiểm soát nhà nước công QLXH là các phương pháp tác động gián tiếp của nhà nước
tâm, có tay nghề và có đạo đức để giám sát việc thực thi các lên xã hội bằng đường lối, chủ trương, luật pháp lên các tổ
phương pháp QLXH của các cơ quan chức năng nhà nước.
chức xã hội cùng nhà nước thực hiện thành công các mục tiêu
2. Phuơng pháp vận động tuyên truyền
quản lý đề ra.
KN: Các phương pháp vận động tuyên truyền trong QLXH
Vai trò: Các phương pháp tự quản lý góp phần phát huy tốt
của Nhà nước là các tác động vê mặt tư tưởng, tình cảm, ý ý thức tự chịu trách nhiệm và khả năng tổ chức của các tổ
thức trách nhiệm, niềm tin của nhà nước đối với công dân chức, nhóm, phân hệ trong xã hội; có thể tác động lên nhiều
trong xạ hội để tạo ra sự đồng thuận và động cơ làm việc tích hoạt động và quan hệ xã hội mà dù muốn nhà nước cũng
cực cho xã hội nhằm thực hiện thành công các mục tiêu quản không thể bao quát hết được.
lý được xác định trong khuôn khố hiến pháp, pháp luật và thể
Nó phù họp với xu thế mở rộng dân chủ và bình đẳng về
chế xã hội.
thông tin trong các xã hội ngày nay. Nó thực sự xây dựng nhà
Vai trò:
nước của dần, do dân và vì dân.
- Các phương pháp vận động tuyên truyền tạo ra môi trường
Điều kiện thực hiện: Các phương pháp tự quản lý của nhà
đồng thuận về mặt tinh thân cho sự tồn tại và phát triển xã hội. nước sử dụng trong QLXH chỉ thu được kết quả khi:
Các nhà nước được lòng dân thường dễ đàng vượt qua các trở.
- Thể chế chính trị xã hội đủng đắn, luật pháp nghiêm minh;
ngại trong quá trình phát triển.
để các tổ chức, các phân hệ trong xã hội không hoạt động sai
- Các phương pháp vận động tuyên truyền biến các công dân lầm và được tự chủ sáng tạo trong phạm vi cho phép trong các
thụ động trở thành chủ động, có ý thức về các hành động của hoạt động và các mối quan hệ của bản thân.

mình trong xã hội, xử lý các khiếm khuyêt sai sót của các
- Các phương pháp tự quản lý của các tổ chức, phân hệ,
phương pháp hành chính trong QLXH.
phong trào xã hội phải phù hợp với đặc trưng xã hội và trong
- Duy trì phát triển được sức mạnh của truyền thống dân tộc, khuôn khổ cho phép của thể chế chính trị và luật định xã hội;
tiếp nhận có chọn lọc các thành tựu khác của các xã hội bên không làm vô hiệu hoá nhà nước.
ngoài và biến chúng thành công cụ, sức mạnh có hiệu quả của
dân tộc mình.
Điều kiện sử dụng:
- Thứ nhất, nhà nước phải có một đường lối và thể chế chính
trị đúng đắn, bảo vệ và thể hiện được ý chí và nguyện vọng
của đa số công dân trong xã hội.
- Thứ hai, nhà nước phải có các cơ quan chức năng và đội


Câu 15. Khái niệm, đặc trưng, tính chất QLXH của
Nhà nước?
Trong thời đại ngày nay, xã hội thể hiện rõ rằng nó được quản
lý bằng nhiều kiểu, nhiều cách thức khác nhau và kiểu quản lý
nào cũng đều quan trọng như nhau. Song vai trò chính trị và sự
tác động chính trị bao giờ cũng giữ vị trí cực kỳ quan trọng, có
ý nghĩa lớn lao nhất. Đó là vì nội dung chủ yếu của chính trị là
việc xác định phương hướng và cách thức cơ bản để phát triển
xã hội. Vai trò nhà nước và sự quản lý của nó - QLNN đối với
xã hội luôn chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng.
Vai trò QLNN trong hệ thống các chủ thể QLXH tăng lên
do nhiều nguyên nhân, song trước hết do bản chất cùa nhà
nước quy định. Chính bản chất nhà nước tạo cho QLNN có
những đặc điểm là:
Đặc điểm:

- Nhà nước là một tổ chức xã hội duy nhất tập họp trong tổ
chức của mình toàn thể nhân dân của đât nước không trừ một,
ai. Đó là điểm khác biệt cơ bản giữa nhà nước với các tổ chức
chính trị - xã hội khác, vi các tổ chức này chỉ tập hợp trong tổ
chức của mình một bộ phận dân cư hoặc một nhóm người nào
đó. Điều này tạo cho nhà nước khả năng thể hiện được ý chí,
lợi ích, nhu cầu của các tầng lớp, các gỉai cấp trong xã hội,
đồng thời tạo cho nhà nước khả năng thực hiện hai mặt:
+ Mặt giai cấp, đó là việc nhà nước thể hiện ý chí và lợi ích
của giai cấp thống trị xã hội về mặt chính trị. Cho nên đây là
chức năng chính trị của nhà nước.
+ Mặt có kết các tầng lớp, các giai cấp, các dân tộc trong xã
hội; đó là chức năng xã hội của nhà nước.
- QLXH của Nhà nước chính là khả năng sử dụng để tổ chức
và điều chỉnh các hoạt động, các QHXH của Nhà nước; tác
động có ý thức, buộc mọi người, mọi tổ chức vận động theo
hướng đã định dẫn đến biến đổi kết cấu tổ chức và các QHXH.
- Nhà nước là một tổ chức quyền lực. Quyền lực nhà nước là
sức mạnh của ý chí chung mà nhà nước là người đại diện.
- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là người chủ sở
hữu các TLSX chủ yếu của xã hội. Điều này làm cho quyền
lực nhà nước vừa là quyền lực chính trị, vừa là quyền lực kinh
tế và là người chủ sở hữu lớn nhất của xã hội. Trong xã hội
hiện đại, hầu hết các nhà nước đều có xu hướng trở thành
người chủ sở hữu lớn nhất của xã hội. Với ưu thế đó, Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam nắm lấy quyền định
hướng toàn bộ hoạt động kinh tế của đất nước và thông qua
đó, thực hiện các tác động định hướng sự phát triển của tất cả
các lĩnh vực trong đời sống xã hội, thực hiện chức năng
QLXH của mình.

- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam có khả năng to lớn
trong việc thu hút toàn thể nhân dân lao động tham gia vào
công việc của Nhà nước. Do vậy, nó quyết định vai trò chủ
thể QLXH của Nhà nước. Có thể nói, sự QLNN đối với xã hội
đạt tới mức độ nào thi xã hội cũng được phát triển tới mức độ
như thế. Bởi vậy, vấn đề phát triển bộ máy của nhà nước - chủ
thể QLXH căn bản phải được quan tâm hàng đầu.
Đặc trưng trong QLXH của Nhà nước:
Là những hoạt động, tác động mang tính tổ chức và điều
chỉnh nhằm đặt con người vào mối quan hệ nào đó, trong một
lĩnh vực nào đó, trong một nhóm người nào đó…Tổ chức là
xây dựng các mối quan hệ giữa người với người nhằm thực
hiện một mục đích nhất định. Bởi vậy, mục đích là cơ sở để
thiết lập ra tổ chức. Tổ chức không phải là những hoạt động
mà chỉ tạo ra điều kiện cho các hoạt động thực tiễn; còn hoạt
động, chính là sự tác động qua lại theo một trật tự, một quy
trình định trước của các bên tham gia trong một quan hệ nhằm
thực hiện mục đích đã được xác định.
Như vậy, tổ chức chỉ tạo ra điều kiện cho hoạt động; còn để

cho quan hệ đã được tổ chức ấy hoạt động phải thực hiện
những tác động điều chỉnh. Đó là việc xác định một quy trình
vận động, tác động qua lại lẫn nhau và việc điều chỉnh các
hành vi trong quá trình thực hiện sự giao tiếp giữa các bên
tham gia trong quan hệ, phù hợp với mục đích đã đề ra.
Tính chất quyền lực trong QLNN, toàn bộ các tác động tổ
chức và điều chỉnh của quản lý dựa trên cơ sở quyền lực Nhà
nước. Chỉ có một sức mạnh cưỡng chế mới tổ chức được các
cố gắng riêng lẻ thành cố gắng chung của xã hội. Nhà nước
với tư cách là tổ chức quyền lực, đại biểu cho ý chí chung của

toàn xã hội, thông qua các cơ quan Nhà nước và đội ngũ công
chức, tiến hành các hoạt động tổ chức và điêu chỉnh băng các
biện pháp cưỡng chê khác nhau. Cưỡng chế là một hình thức
biểu hiện của quyền lực. Quyền lực là sức mạnh của ý chí
chung. Cưỡng chế ỉà việc sử dụng sức mạnh dưới hình thức
vật chất hay tinh thần, pháp lý hay đạo lý, kinh tế hay phi kinh
tế buộc mọi đối tượng xã hội phải phục tùng ý chí chung.
Quyền lực nhà nước và QLNN đối với xã hội là hai mặt của
một vấn đề. Bản thân quản lý là một quan hệ có tính quyền
uy, quyền uy lấy sự phục tùng làm tiền đề; còn quản lý lấy
quyền uy làm điều kiện tồn tại. Quyền uy của QLNN chính là
quyền lực nhà nước, bởi vậy khi thực hiện quyền lực chính là
thực hiện sự quản lý. Trong quá trình quản lý, quyền lực nhà
nước là một điều kiện làm phát sinh và duy trì quan hệ quản lý
và do đó là phương tiện có hiệu quả nhất, quan ữọng nhất thực
hiện sự quản lý của nhà nước đối với xã hội. Quyền lực nhà
nước khi được xác lập và được trao cho các cơ quan nhà nước,
cho công chức nhà nước dưới dạng thẩm quyền là để thực
hiện việc tổ chức và điều chỉnh các quan hệ và các hoạt động
trong xã hội.
Quyền lực NN được biểu hiện trong hệ thống các quy phạm
pháp luật - điều kiện bảo đảm cho các tác động quản lý. Thực
hiện các tác động quản lý chính là sự bảo đảm cho các quy
phạm pháp luật được thực hiện trên thực tế. Trong nhà nước
pháp quyền XHCN không có sự tách biệt giữa quyền lực và
quyền quản lý.
QLXH của nhà nước là sự quản lý có tính khoa học và tính
kế hoạch. Quản lý là sự biểu hiện khả năng của con người tổ
chức và điều chỉnh các hoạt động và quan hệ của mình, như
vậy quản lý bao giờ cũng được biểu hiện là những hoạt động

có ý thức của con người. Con người nhận thức thế giới xung
quanh, tổ chức nhau lại trong các quan hệ xã hội và điều chỉnh
các quan hệ ấy để tác động vào thế giới xung quanh nhằm
đem lại lợi ích cho mình. Sự hiểu biết về thế giới xung quanh
càng sâu sắc bao nhiêu thì khả năng tự tổ chức và điều chỉnh
cuộc sống cho con người càng có hiệu quả và phục vụ lợi ích
con người càng tốt bấy nhiêu. Nhờ có sự hiểu biết ngày càng
sâu sắc các quy luật vận động của tự nhiên, xã hội và tư duy
mà con người thực hiện các tác động tổ chức và điều chỉnh có
căn cứ khoa học hơn,
Trong QLXH XHCN, cơ sở tư tưởng và nhận thức thế giới
là chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là cơ
sở giúp chủ thể quản lý nhận thức thế giới và cải tạo thế giới,
tổ chức và điều chỉnh các quá trình phát triển xã hội có căn cứ
khọa học và theo đặc trưng và mục tiêu đã định.
QLXH của nhà nước là những tác động quản lỷ mang tính
liền tục, Bản chất của các quá trình xã hội là sự phát triển liên
tục, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn
thiện…Vì thế để tạo ra một quá trình liên tục của sự phát triển
xã hội, các tác động tổ chức và điều chỉnh cũng phải là những
tác động liên tục. Mặt khác, quyền lực không những phải
được thể hiện khắp nơi, khắp các lĩnh vực của đời sống xã hội
mà còn phải được thể hiện liên tục. Từ khâu ra quyết định đến
tổ chức thực hiện quyết định và kiểm ừa các quá trình là một
trong thể các tác động tổ chức và điều chỉnh được thực hiện


nhằm tạo ra các quá trình phát triển xã hội và hình thành chu
kỳ cua QLNN. Kết quả của mỗi chu kỳ QLXH cua nhà nước
là sự phát triển xã hội trên từng lĩnh vực được thúc đẩy, các

hoạt động và các quan hệ xã hội ngày càng phong phú và đa
dạng, chất lượng xã hội được biến đổi theo hướng tích cực.
Khái niệm: QLXH của nhà nước là sự tác động tổ chức và
điều chỉnh mang tính quyền lực nhà nước đối với các quá
trình xã hội (các hoạt động và các quan hệ xã hội); là những
tác động có căn cứ khoa học, có tính kế hoạch được tiến hành
một cách liên tục để thực hiện các quá trình phát triển xã hội
theo một mục tiêu đã định.
Tính chất quản lý của nhà nước pháp quyền XHCN đối
với xã hội:
- Tính chất chính trị: Nhà nước có vị trí trung tâm của các
vấn đề chính trị, trên thực tế nó là cơ sở của mọi cơ sở chính
trị. Mọi cuộc cách mạng xã hội là vấn đề chính quyền nhà
nước, là giành lấy quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước. Vì
vậy, quản lý nhà nước là sự tác động tổ chức và điều chỉnh
mang tính quyền lực nhà nước lên các quá trình xã hội luôn
thấm nhuần tính chất chính trị trong đó.
Tính chất chính trị của QLNN có ý nghĩa to lớn trong việc
xác định các chức năng, các hình thức và các phương pháp
quản lý của nhà nước. Bộ máy nhà nước phải phù hợp với cơ
sở chính trị của xã hội. Hiện nay, nhiệm vụ chính trị của cách
mạng nước ta là tiếp tục đẩy mạnh quá trình đổi mới đất nước,
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn
minh. Đây cũng là bản chất của chế độ mà nhân dân ta đã lựa
chọn. Để thực hiện được mục tiêu đó, chúng ta tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN nhằm nâng
cao hiệu quả quản lý của nhà nước đối với xã hội, tác động và
điều chỉnh các hoạt động và quan hệ xã hội để giữ vững đặc
trưng của xã hội và mục tiêu chinh trị đã đề ra.
- Tính chất dân chủ: Đây là tính chất đặc thù và là thuộc tính

của QLNN XHCN. Cùng với xu thế tiến bộ của nhân loại, nhà
nước XHCN tạo mọi điều kiện để quần chúng nhân dân tham
gia các quá trình phát triển xã hội và tham gia QLNN và
QLXH.
Trong QLXH, nhà nước XHCN có ba hình thức thực hiện
quyền quản lý của mình:
+ Dân chủ trực tiếp, hình thức này nhân dân trực tiếp giải
quyết các vấn đề quản lý nhà nước như mít tinh, biểu tình,
trưng cầu ý dân...
+ Dân chủ đại diện, nhân dân bầu ra người đại diện của
mình tham gia giải quyết các công việc nhà nước.
+ Hình thức chuyên nghiệp thực hiện chức năng QLNN. Đó
là những người làm việc trong bộ máy nhà nước. Đây cũng là
một hình thức dân chủ vì những người làm việc trong bộ máy
nhà nước cũng là những đại biểu thuộc các giai cấp và tầng
lớp nhân dân lao động, họ cũng từ nhân dân mà ra. Tuy nhiên,
quản lý là một dạng lao động đặc biệt nên họ phải được đào
tạo để có trình độ phù hợp với công việc.
Mỗi hình thức nêu trên đều có vị trí quan trọng khi thực hiện
quyền quản lý. Không có hình thức nào có thê bao trùm tất cả
quá trình quản lý, mỗi hình thức đều có tính hai mặt, cho nên
vấn đề là áp dụng các hình thức đó phải hài hòa và sử dụng
đầy đủ các yếu tố tích cực củá từng hĩnh thức.
- Tính chất khoa học: QLNN, bản thân nó là một khoạ học,
hơn thế nữa QLNN còn tiếp thu thành tựu của nhiều ngành
khoa học khác nhau.
Để thực hiện tốt chức năng QLXH, QLNN không chỉ nắm
được các nguyên lý cơ bản của khoa học quản lý mà cần phải
nắm vững các quy luật vận động của xã hội. Chính vì vậy,
người cán bộ làm công tác QLNN phải nắm vững chủ nghĩa

Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phải có kiến thức xã hội
học sâu săc bởi đây là khoa học nghiên cứu sự vận động của

xã hội trên cơ sở các nhu cầu của con người và sự vận động
của các nhóm người. Phải nắm vững khoa học tâm lý, vì đây
là ngành khoa học nghiên cứu về hành vi xử sự của con người
trong giáo tiếp và chi phối các tình huống trong đời sống con
người. Tuy nhiên, quan trọng hơn cả, người cán bộ quản lý
phải nắm được khoa học pháp lý, phải nắm vững được đối
tượng điều chỉnh của quy phạm pháp luật, ứng dụng các quy
phạm ấy để giải quyết các vấn đề phảt sinh trong cuộc sống.
Ngoài ra, người cán bộ quản lý còn cần có những tri thức nhất
định về các ngành khoa học tự nhiên, công nghệ...Người quản
lý sẽ không thể làm việc được nếu thiếu sự tổng hợp của các
tri thức hiện đại.
- Tính chất tổng hợp: Xã hội là một tổng thể các lĩnh vực
trong đó con người tiến hành các hoạt động vằ quan hệ nhằm
đem lại lợi ích cho mình. Có thể chia thành các lĩnh vực sau:
+ Lĩnh vực kinh tế, là lĩnh vực trong đó con người tiến hành
các hoạt động sản xuất và trao đổi sản phẩm, cùng những hoạt
động khác phục vụ sản xuất và trao đổi.
+ Lĩnh vực chỉnh trị là lĩnh vực trong đó các giai cấp, các
tầng lớp, các dân tộc quan hệ với nhau trên cơ sở lợi ích của
mình, là lĩnh vực mà ở đó quyền lực nhà nước được thực hiện.
+Lĩnh vực các hoạt động xã hội là lĩnh vực bao gồm các
hoạt động nhằm phục vụ các nhu cầu ấy ngày càng được thỏa
mãn tốt hơn.
+Lĩnh vực tinh thần và tư tưởng là lĩnh vực trong đó con
người tiến hành các hoạt động giao tiếp, trao đổi tư tưởng, xây
dựng và thỏa mãn các nhu cầu về văn hóa, tinh thần của con

người.
QLXH của Nhà nước đồng thời được thực hiện trên cả bốn
lĩnh vực này, mặt khác, phải thực hiện sự kết hợp cả bốn lĩnh
vực này thành một hoạt động thống nhất. Sự tồn tại và phát
triển của từng cá nhân con người trong xã hội chính là kết quả
của sự tác động lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau của cả bốn yếu
tố trên. Mỗi một lĩnh vực chỉ là một bộ phận các quan hệ xã
hội hình thành trên lĩnh vực ấy, vì vậy không thể tách sự quản
lý nhà nước khỏi từng lĩnh vực riêng biệt. Việc chia xã hội
thành các lĩnh vực như trên chỉ mang tính hình thức, về bản
chất, xã hội là một cơ thể thống nhất không tách rời./.


Câu 16: Chủ thể, khách thể và bộ máy QLXH?
1.
Chủ thể quản lý xã hội:
Quản lý là những tác động do con người thực hiện để tổ chức
và điều chỉnh hành vi của những con người khác nhau nhằm
phối hợp các cố gắng riêng lẻ của từng người, từng nhóm
người độc lập đối với nhau, thành một cố gắng chung, hướng
vào việc biến đổi, cải tạo thế giới xung quanh, chinh phục thế
giới ấy vì lợi ích của con người. Bởi vậy, quản lý là quan hệ
giữa người với người trong một xã hội nhất định. Nói cách
khác, quản lý là một dạng quan hệ xã hội có sự tham gia của
các tác động tổ chức và điều hành, còn bên kia là sự tiếp nhận
các tác động ấy, chuyển chúng thành các hành vi hoạt động cụ
thể, tạo thành một quá trình vận động ăn khớp, nhịp nhành
nhằm một mục đích chung. Trong quan hệ này, chủ thể quản
lý là bên làm phát sinh các tác động tổ chức và điều chỉnh,
còn bên kia là khách thể quản lý.

Xã hội là một cộng đồng người được quản lý. Nhiều chủ thể
thực hiện sự tác động quản lý lên xã hội hình thành hệ thống
quản lý xã hội. Trong những giai đoạn lịch sử nhất định, vai
trò và sự tham gia thực hiện quản lý xã hội của các chủ thể
quản lý có sự khác nhau cả về số lượng và chất lượng, tính
chất và quy mô của quản lý. Những chủ thể quản lý xã hội bao
gồm:
Từng con người - thành viên của xã hội, là một chủ thể quản
lý xã hội. Để tồn tại, con người phải lao động. Muốn lao động
có kết quả - tức là lao động do con người tiến hành phải thỏa
mãn được nhu cầu của minh - mỗi một con người phải biết tự
tổ chức các hoạt động của mình và tự điều chỉnh các hành vi
của mình cho phù hợp với quy luật khách quan của thế giới tự
nhiên và xã hội quanh minh. Trong trường họp này, con ngưòi
tự quán lý lấy mình.
Các cộng đồng xã hội nhỏ, những cộng đồng này là
cảc chủ thể quản lý xã hội, khi nó thực hiện sự tự quản lý
trong nội bộ của cộng đồng. Tuy nhiên, các cộng đồng xã hội
nhỏ được hình thành theo nhiêu nguồn gốc và dấu hiệu khác
nhau; độ bền vững và khả năng có kết nội bộ khác nhau. Do
đó, trình độ, tính chất và quy mô của sự tự quản lý cũng khác
nhau.
Các đoàn thể quần chúng là những tổ chức thành lập
trên nguyên tắc tự nguyện và đại biểu cho lợi ích của một
nhóm người có cùng nghề nghiệp, lứa tuổi hay giới tính. Vai
trò chủ thể quản lý xã hội của các đoàn thể quần chúng được
thực hiện thông qua các cơ quan đại diện của nó từ cơ sở đến
trung ương. Bởi vậy, không gian tác động quản lý cùa nó bao
trùm toàn xã hội. Đó là điều khác biệt đối với các cộng đồng
xã hội nhỏ và các tập thể người lao động, tạo cho các đoàn thể

quần chúng khả năng tham gia quản lý xã hội trong vai trò
chủ thể của nó, được lớn hơn và tích cực hơn.
Đảng cộng sản Việt Nam, với tư cách là một lực
lượng chính trị, lãnh đạo các quá trình phát triển xã hội, do đó
là chủ thể chủ yếu và quan trọng trong quản lý xã hội ở nước
ta. Trong vai trò quản lý xã hội, Đảng vạch ra đường lối phát
triển xã hội, đặt ra mục tiêu đó. Sự lãnh đạo của Đảng có nội
dung cơ bản là tạo ra và bảo đảm sự phối hợp các cố gắng của
từng chủ thể quản lý xã hội thành một cố gắng chung thống
nhất, thành một sức mạnh tổng hợp hướng vào việc xây dựng
một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Nhà nước, từ bản chất của nó, đã khẳng định là một
chủ thể quản lý xã hội có vai trò to lớn nhất và quan trọng
nhất. Nhà nước là chủ thế trực tiếp và toàn diện của quản lý
xã hội. Với tư cách là hình thức tổ chức xã hội, nhà nước,
bằng hệ thống các cơ quan nhà nước và đội ngũ công chức,
thực hiện chức năng tổ chức và điều chỉnh các quá trình xã
hội, tức là tổ chức thực hiện trên thực tế đường lối chiến lược

các mục tiêu và phương hướng phảt triển xã hội của Đảng.
Các chủ thể quản lý xã hội đều có mục đích quản lý giống
nhau về bản chất, tức là đều nhằm thực hiện cảc lợi ích, các
nhu cầu của con ngưòỉ và vì vậy, chủ thể quản lý xã hội phải
hiểu được cơ cấu nhu cầu của con người, các quy luật khách
quan của tự nhiên và xã hội để thực hiện các tác động quản lý.
Cho nên các chủ thể quản lý xã hội đều có chung nội dung
quản lý nhưng phạm vi và mức độ khác nhau. Sự phân biệt
khác nhau giữa các chủ thể quản lý xã hội là hình thức và
phương pháp thực hiện các tác động quản lý được quy định
bởi vị trí xã hội, pháp lý và sức mạnh biểu hiện ý chí - quyền

uy - của chủ thể quản lý xã hội.
2.
Khách thể quản lý xã hội
Quản lý xã hội được thực hiện thông qua toàn bộ các hoạt
động và các quan hệ trong đời sống xã hội của con người. Bởi
vậy những biểu hiện cơ bản nhất, chủ yếu nhất cửa các hiện
tượng xã hội, đời sống xã hội, các nhóm xã hội tác động qua
lại với nhau nhằm thực hiện lợi ích chung hoặc riêng là con
người, các tổ chức, các cộng đồng lãnh thổ, các nhóm giai cấp
xã hội...các hoạt động và hành vi của con người đêu là khách
thể quản lý xã hội.
Có thể dễ dàng nhận thấy rằng, toàn bộ các hiện tượng xã hội
ấy, chính là các quá trình tái sản xuất ra các giá trị vật chất và
tinh thần, các điều kiện xã hội nhằm phục vụ cuộc sống của
con người.
Hệ thống tái sản xuất ra các giá trị vật chất và tinh thần, các
điều kiện sống của xã hội là hệ thống cơ bản của xã hội.
Chính hệ thống này đã sản sinh ra các giá trị mà con người đã
sử dụng nó để tồn tại và phát triển. Đến ngày nay con người
đã tạo ra cho mình một hệ thống to lớn các lĩnh vực trong đó
con người tiến hành các hoạt động sản xuất và tái sản xuất các
giá trị vật chất và tinh thần, các điều kiện sống của con người.
Hệ thống đó bao gồm các lĩnh vực tái sản xuất ra chính bản
thân con người. Khách thể quản lý xã hội chính là tong thể các
lĩnh vực ấy.
3.
Quan hệ giữa khách thể và chủ thể quản lý
Hệ thống quản lý trong xã hội là một hệ thống thứ bậc phức
tạp với các khâu quản lỵ trung tâm và trung gian của nó. Hệ
thống ấy luôn thay đổi, ngoài ra, một yếu tố căn bản của quản

lý xã hội là việc chuyên hình thức quản lý tự phát sang những
hình thức quản lý tự giác và mở rộng nhân tố tự giác. Quản lý
xã hội là việc quản lý những mặt khác nhau của đời sống xã
hội, những thể chế xã hội khác nhau và xã hội nói chung
nhằm duy trì trạng thái vận động và hoạt động bình thường
của hệ thống xã hội.
Áp dụng vào xã hội, các hệ quản lý và bị quản lý thực hiện
thành chủ thể, khách thể của quản lý. Phân hệ bị quản lý
(khách thể) tiếp nhận và sử dụng mệnh lệnh của khối quản lý,
còn phân hệ quản lý (chủ thể) thì xử lý thông tin nhận được và
đưa ra những mệnh lệnh quản lý. Gữa khách thể và chủ thể
quản lý có mối liên hệ và tác động qua lại chặt chẽ; đó là
những mối liên hệ xuôi ngược, mối liên hệ đó thê hiện sự
thống nhất biện chứng cùa chủ thể và khách thể quản lý. Quản
lý thực hiện chức năng tích cực, nhưng nó lại chịu tác động
của bị quản lý.
Khách thể quản lý xã hội bao giờ cũng là tập thể cụ thể, một
cộng đồng người nhất định (có thể cả xã hội hay nhóm
người..) và các mối quan hệ giữa chúng, nhưng vì xã hội nói
chung (là một hệ thống) lại tự quản lý nên không có một chủ
thể quản lý nào ở bên ngoài nó và vì vậy những khách thể
quản lý vừa là những hệ thống bị quản lý, vừa là những hệ
thống tự quản lý.
Vì mỗi tập thể cụ thể là một yếu tố, là một bộ phận không tách
rời của cái toàn bộ, vì vậy chịu ảnh hưởng của cái toàn bộ,


phải điều chỉnh hoạt động của mình theo hoạt động của cái
toàn bộ, tức là phải bị quản lý từ một trung tâm quản lý chung
nào đó.

Có thể nói rằng, trong hệ thống phức tạp ấy (xã hội nói
chung), sự phân chia thành chủ thể và khách thể quản lý chỉ
có tính quy ước hoặc tương đối, bởi vì cùng hệ thống, tùy theo
quan hệ khác nhau khi đóng góp vai trỏ khách thể, khi đóng
góp vai trò chu thể của quản lý.
Quan hệ giữa các khâu trong hệ thống quản lý (trong cơ cấu
quản lý) được xây dựng trên cơ sở phụ thuộc lân nhau và phối
hợp với nhau. Những quan hệ ấy do phân công lao động và
những yêu cầu của quá trình công nghệ quy định. Để đạt mục
đích thường dùng những phương tiện hoạt động quản lý khác
nhau: Mệnh lệnh, chỉ thị, khuyến khích, trừng phạt, giáo dục.
Đặc bỉệt là công tác giáo dục liên quan rất chặt chẽ với phát
triển sản xuất và xã hội nói chung. Quá trình giáo dục là một
hịên tượng xã hội phức tạp đòi hỏi phải được quản lý và phát
triển có kế hoạch. Vai trò của người lãnh đạo trong quá trình
giáo dục là một vai trò hai mặt. Một mặt tham gia vào việc tổ
chức và quản lý giáo dục, mặt khác bản thân họ làm chức
năng giáo dục. Như vậy, người lãnh đạo không chỉ là người
quản lý, mà còn là người giáo dục, không chỉ tác động tới tập
thể bằng lời nói mà bằng tấm gượng cá nhân của mình. Và bởi
vì ảnh hưởng của chủ thể quản lý đối với khách thể quản lý
bằng hai kênh: Những mệnh lệnh và quyết định quản lý cũng
như phương tiện giáo dục nên mối liên hệ giữa chủ thể và
khách thể quản lý có thể chia thành hai loại: liên hệ xuôi
mệnh lệnh, liên hệ xuôi giáo dục.Khi giáo dục tập thể, người
quản lý không được đứng trên tập thể. Họ cũng chịu ảnh
hưởng của tập thể, trước hết là chịu ảnh hưởng của tập thể. Do
đó, tập thể vừa là đối tượng chịu giáo dục lại vừa là người
giáo dục tập thể cho thành viên cũng như cho những cán bộ
quản lý. Đó cũng chính là quan hệ biện chứng giữa chủ thể và

khách thể của quản lý xã hội. Anh hưởng của khách thể đôi
với chủ thể không chỉ giới hạn ở tác động giáo dục, tập thể
còn có chức năng kiểm tra, nên tập thể không chỉ giữa vai trò
thụ động mà còn giữa vai trò chủ động.


Câu 17. Hãy phân tích những quan điểm cơ
bản chủ nghĩa Mác-Lênin về con người. Việc
xây dựng và phát huy vai trò và nhân tố con
người ở nước ta hiện nay.
Bài làm
Con người là một đề tài cũ nhưng nghiên cứu nó luôn luôn
là một vấn đề mới không bao giờ kết thúc và ngày nay, vấn đề
con người luôn có vị trí cao nhất và bao trùm là chiến lược
của mọi chiến lược. Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị (khóa VI)
chỉ rõ: phải quán triệt quan điểm cơ bản của Đảng là coi trọng
con người, coi con người là động lực quan trọng nhất, là mục
tiêu phục vụ và xây dựng của mọi hoạt động KT-XH.
1. Quan điểm của CN Mác Lênin về con người:
- Con người vừa là một thực thể tự nhiên có cấu trúc sinh
học, vừa là một thực thể xã hội mang bản chất xã hội. Nói đến
bản chất “thực thể tự nhiên” của con người là nói đến tiền đề
vật chất, nói đến nhu cầu ăn uống, đi lại, hoạt động của cơ thể
sống con người. Tuy nhiên đặc trưng cơ bản riêng có của con
người là bản chất xã hội. Con người phát triển cao hơn các
con vật khác là nhờ thông qua quá trình lao động. Nhờ tác
động của tự nhiên và xã hội mà con người ngày càng được
phát triển nâng lên về mọi mặt, nhờ đó mà những hành vi có
tính sinh vật, tình cảm bản năng của con người đang mang
tính xã hội, tình người khác hẳn ở con vật. Con người hoạt

động có ý thức không lệ thuộc vào tự nhiên mà con người còn
có thể cải tạo tự nhiên tốt hơn. Con người là sự thống nhất
biện chứng giữa mặt vật chất và mặt tinh thần, giữa mặt sinh
học và mặt xã hội. Con người bên cạnh những nhu cầu lợi ích
về tinh thần còn có cả nhu cầu lợi ích về vật chất, không được
tuyệt đối hóa một mặt nào. Nếu chúng ta đề cao, tuyệt đối hóa
bản chất tư nhiên của con người, phủ nhận mặt xã hôi thì sẽ
rơi vào tình trạng hạ thấp con người, thậm chí xem con người
ngang hàng con vật. Nếu tuyệt đối hóa mặt xã hội, phủ nhận
mặt sinh học của nó thì ta sẽ rơi vào quan điểm duy tâm,
không thừa nhận coi người hiện thực hoặc xem con người phi
hiện thực. Con người vừa chịu sự tác động của qui luật tự
nhiên vừa chịu sự tác động của qui luật xã hội.
- Bản chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội
(quan hệ về chính trị, đạo đức, pháp quyền, tôn giáo, kinh
tế… trong đó, quan hệ SX có ý nghĩa quyết định). Muốn thay
đổi bản chất của con người thì cần thay đổi các mối quan hệ
xã hội của nó và điều này thì không dễ dàng.
- Với bản chất xã hội, con người luôn gắn bó chặt chẽ với
đồng loại, đồng thời lại là những cá nhân với ý nghĩa ngày
càng đầy đủ. Xã hội càng phát triển, thì một mặt mối liên hệ
cộng đồng giữa người và người ngày càng trở nên bền vững,
nhưng mặt khác mỗi con người ngày càng có xu hướng “tách
biệt” thành những cá nhân độc lập.
- Con người với tư cách là những cá nhân độc lập nhưng
luôn sống trong mối quan hệ xã hội của cộng đồng, như cộng
đồng dân tộc, cộng đồng giai cấp, cộng đồng nhân loại… Con
người bao giờ cũng có nhu cầu sở thích riêng, có cá tính. Tính
cá nhân của con người chỉ được khẳng định kể từ khi phương
thức sản xuất TBCN ra đời với nền SX hàng hóa lấy kinh

doanh làm cơ sở, con người trở thành động lực của cuộc cách
mạng tư sản, điều này là sự tiến bộ. (Trong chế độ phong
kiến thì con người lệ thuộc vào các vị vua, chúa). Tuy nhiên,
nếu tính cá nhân được đẩy lên quá cao thì sẽ trở thành chủ
nghĩa cá nhân. Để tránh hạn chế đó, xã hội XHCN lấy mục
đích vì sự phát triển con người khắc phục chủ nghĩa cá nhân.
- Trong xã hội có giai cấp, con người cũng mang tính giai
cấp, đó là sự đồng nhất giữa các cá nhân có cùng lợi ích, trong
mối quan hệ đó các cá nhân từng bước nhận thức lợi ích riêng
chỉ được thực hiện khi lợi ích chung trở thành động lực chi
phối hành vi của con người. Do vậy, phải đứng trên lập trường

quan điểm của giai cấp mình để giải quyết mọi việc, tuy nhiên
không nên tuyệt đối hóa tính giai cấp, không nên đối lập với
dân tộc và nhân loại bởi vì con người bao giờ cũng hiện diện
như là một phần tử của một giai cấp, thành viên của một dân
tộc (thể hiện qua ngôn ngữ, tình cảm, tính cách tâm lý). Ngoài
ra, cùng với tính giai cấp, tính dân tộc con người còn có tính
nhân loại, đã góp phần tạo ra những giá trị đạo đức, lý trí, tình
cảm của con người trong xã hội. Trong chế độ CNXH, các
giai cấp và tầng lớp xã hội đều xích lại gần nhau, mối quan hệ
xã hội dần dần được điều chỉnh, đó là mảnh đất hội nhập
những lợi ích giai cấp chân chính, những bản sắc dân tộc đậm
đà và bền vững, hướng con người vào sự phát triển toàn diện
và vươn tới sự hoàn thiện.
- Con người vừa mang tính thời đại, vừa mang tính lịch sử.
Trong mỗi thời đại, con người có một hệ tiêu chí riêng trong
đó con người là tiêu điểm phản ánh trình độ văn minh của thời
đại đó. Mỗi thời đại có một mẫu người riêng, đặc trưng cho
thời đại đó. Tuy nhiên con người của thời đại mới bao giờ

cũng được hình thành bắt đầu từ những giá trị truyền thống
được kết tinh trong lịch sử dân tộc, đất nước. Con người mang
tính lịch sử bởi vì nó vừa có kiến thức những giá trị tích cực,
tinh hoa của quá khứ đồng thời vừa mang những hạn chế, tiêu
cực của quá khứ. Sự kết hợp đúng các giá trị lịch sử với các
giá trị tiến bộ của thời đại, trong đó có các giá trị truyền thống
được bổ sung, nâng lên và hoàn thiện từng bước, con người
XHCN góp phần phát huy vai trò nhân tố con người.
- Con người vừa là sản phẩm đồng thời vừa là chủ thể sáng
tạo ra lịch sử. Trong tiến trình phát triển của lịch sử, con
người lại qui định bởi các mối quan hệ xã hội, đồng thời thông
qua hoạt động thực tiễn con người thúc đẩy xã hội phát triển
tiến lên. Con người luôn là mục tiêu, đồng thời luôn là năng
lực của tiến trình cách mạng theo hướng tiến bộ. Có hiện thực
hóa được vấn đề đó thì cách mạng mới dành được thắng lợi.
Tóm lại, chủ nghĩa Mác-Lênin đã đặt ra và giải quyết vấn
đề con người một cách nhất quán triệt để. chủ nghĩa MácLênin là học thuyết giải phóng con người, tôn vinh con người,
con người ở đây là con người chủ thể sáng tạo ra lịch sử, là
giá trị xã hội, văn hóa cao nhất trong các giá trị vật chất tinh
thần của lịch sử.
2. Việc xây dựng và phát huy vai trò và nhân tố con
người ở nước ta hiện nay
a. Những đặc trưng cơ bản của con người mới XHCN :
Quán triệt những quan điểm của CN Mác-Lênin và tư tưởng
HCM về vấn đề con người, Đảng ta luôn coi con người là mục
tiêu, là nhân tố quyết định của công cuộc CNH, HĐH đất
nước. Đảng ta đã từng bước đề ra mục tiêu xây dựng con
người XHCN ở nước ta. Con người XHCN là sản phẩm của
mối quan hệ kinh tế - xã hội của xã hội XHCN, nó từng bước
hình thành trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội cùng với

quá trình phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội. Bác Hồ nói:
muốn xây dựng CNXH trước hết cần có con người XHCN.
Con người XHCN có những đặc trưng cơ bản sau:
Một là, có ý thức, có trình độ, năng lực làm chủ và đồng
thời được tạo điều kiện để thực hiện năng lực làm chủ của
mình. Chế độ XH XHCN nhằm giải phóng con người, xây
dựng cơ sở thống nhất lợi ích cá nhân, tập thể và lợi ích XH.
Hai là, con người lao động kiểu mới, am hiểu công việc của
mình, có sức khỏe, lao động có kỷ thuật, có kỷ luật đồng thời
có trách nhiệm trong công việc của mình làm, biết hưởng thụ
và biết gắn lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và lợi ích XH.
Ba là, có lối sống VH và tình nghĩa.
Bốn là, có lòng yêu nước, yêu CNXH, tình thương yêu giai
cấp, đồng loại, có tinh thần quốc tế chân chính của GCCN.
b. Nhân tố con người
Trong Chiến lược phát triển KT-XH đến năm 2010, Đảng ta


xác định phát huy nhân tố con người có ý nghĩa quyết định và
quan trọng nhất. Nhân tố con người là tổng thể các yếu tố
thuộc về thể chất và tinh thần, về trình độ chuyên môn, về tay
nghề, về phẩm chất đạo đức, về vị thế xã hội … tạo nên năng
lực của con người mà năng lực đó nếu biết phát huy sử dụng
tốt, nó sẽ trở thành động lực to lớn thúc đẩy xã hội phát triển.
Nhân tố con người được xem là nhân tố quyết định trong 4
nguồn lực của sự phát triển, bởi vì để có thể phát huy, khai
thác tốt các nguồn lực về tài nguyên, vị trí địa lý và vốn phải
thông qua con người - tức là nguồn lực (nhân tố) con người.
Thực chất của việc phát huy nhân tố con người ở nước ta
hiện nay là nâng cao chất lượng cuộc sống và phát huy vai trò

của con người cho sự nghiệp phát triển KT-XH của đất nước.
c. Những phương hướng chủ yếu phát huy vai trò nhân tố
con người ở nước ta trong giai đoạn hiện nay:
Nước ta hiện nay đang trong thời kỳ chuyển mình sang phát
triển nền KT hàng hóa nhiều thành phần, vấn đề con người
luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm phát triển. Song
trong thực tế vẫn còn một số vấn đề về con người ở từng nơi,
từng lúc có những tình trạng cần phải quan tâm khắc phục: Đó
là những vấn đề điểm nóng ở Thái Bình, Tây Nguyên vừa
qua, tuy mặt nổi là vấn đề dân tộc, tôn giáo nhưng sâu xa phải
nói đến yếu tố con người ở đây chưa được phát huy đầy đủ tại
các địa phương, do hệ thống hệ thống chính trị cở sở ở đó
quan liêu, xa rời nhân dân, không quan tâm hay quan tâm
không đầy đủ đến lợi ích của nhân dân lao động cả về vật chất
và tinh thần, cán bộ cơ sở tham nhũng, yếu kém năng lực
phẩm chất đã gây ra tình trạng vừa qua. Mặt khác tình trạng
người dân đi khiếu kiện trong cả nước hiện nay tranh chấp về
đất đai, giá cả bồi hoàn, giải tỏa để xây dựng các công trình…
có lúc thành điểm “nóng” mà chính phủ phải đứng ra giải
quyết, cho thấy thực hiện việc khiếu kiện cho người dân là
chưa đúng, từng lúc từng nơi ức hiếp dân, không dân chủ,
quan liêu, tham nhũng.
Về KT, tuy nhà nước ta đã có nhiều chính sách về người lao
động (Luật lao động), các tổ chức công đoàn trong các đơn vị
KT (quốc doanh và ngoài quốc doanh) có tiến bộ một bước
trong việc bảo vệ quyền lợi của người lao động, tạo điều kiện
cho người lao động phát huy quyền làm chủ. Tuy nhiên, vẫn
còn một số nơi không hoặc chưa phát huy quyền làm chủ của
người lao động hay quyền làm chủ còn hình thức; áp đặt trong
lao động, thực hiện chi trả lương cho công nhân không đúng,

không đủ, không công bằng và bất hợp lý giữa các ngành
nghề. Còn một số tổ chức Công đoàn cơ sở KT chưa thực sự
quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần cho người lao
động nhất là chưa bảo vệ được quyền lợi cho người lao động
làm việc trong các xí nghiệp liên doanh với nước ngoài, xí
nghiệp 100% vốn nước ngoài và trong xuất khẩu lao động.
Nền KT thị trường cũng tạo sự phân hóa giàu, nghèo sâu
sắc, xuất hiện một số người bị nhiễm lối sống thực dụng chạy
theo “đồng tiền”, các bất bình đẳng trong XH, trong cuộc sống
và ngay cả trong từng gia đình còn nhiều bất công, làm ảnh
hưởng nền tảng đạo đức truyền thống của con người VN.
Trong tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã sớm có phương
hướng, giải pháp khắc phục bằng các chính sách, kịp thời điều
chỉnh để thực hiện quyền con người, khắc phục một bước các
tiêu cực của XH.
Về sử dụng con người trí thức ở nước ta tuy có chiến lược
phát triển nhưng do sự thiếu đồng bộ và chưa thật sự tạo mọi
điều kiện cho mọi tài năng của con người được phát huy một
cách tốt nhất, mà còn nặng chính sách bao cấp thể hiện ở chế
độ đãi ngộ vật chất, chưa quan tâm đầu tư kết cấu hạ tầng kỷ
thuật để cho khoa học phát triển, chưa tận dụng được chất
xám và nhân tài, còn phân biệt đối xử giữa các tầng lớp trí
thức, phân biệt hoặc ưu tiên ngành khoa học này không phát

triển ngành khoa học khác, điều đó làm cho con người ở nước
ta thiếu sáng tạo và không cồng hiến nhiều cho sự nghiệp cách
mạng của dân tộc.
Để phát huy vai trò nhân tố con người ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay, Đảng ta đã đề ra một số phương hướng chủ
yếu sau:

- Một là, xây dựng và thực hiện một chính sách XH đúng
đắn và phù hợp vì lợi ích của con người, do con người hay vì
hạnh phúc con người. Trên cơ sở lấy con người làm mục tiêu
của sự phát triển, mọi sự phát triển phải xoay quanh con người
chứ không phải con người xoay quanh mọi sự phát triển. Khi
nói con người có vai trò to lớn, không phải là khai thác không
có định hướng mà phải trên cơ sở đào tạo, bồi dưỡng con
người, tạo ra môi trường sống lành mạnh, tôn trọng bằng cách
phát triển nét độc đáo ưu điểm của từng cá nhân.
- Hai là, Phát triển nền KT hàng hóa nhiều thành phần có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, nền KT đó
phải đảm bảo vừa là phương thức nền tảng để phát huy vai trò
khai thác nhân tố con người có hiệu quả nhất, vừa là điều kiện
để mỗi cá nhân bộc lộ những khả năng, năng khiếu của mình.
Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành giúp giải phóng
mọi sức SX, mọi tiềm năng của xã hội, sự quản lý của Nhà
nước nhằm đảm bảo các cá nhân khai thác tốt nhất các tiềm
năng đó của đất nước, đồng thời tạo điều kiện cho con người
lao động sáng tạo, năng động hơn, phát triển KHKT, từ đó tác
động trở lại phát triển con người. Nhưng cũng cần phải luôn
lưu ý, nền kinh tế hàng hóa có mặt trái của nó và là nguyên
nhân làm hạn chế việc nâng cao hiệu quả phát triển con người.
Nó làm cho con người dễ chạy theo lối sống thực dụng, coi
trọng đồng tiền. Vì vậy, nhà nước cần phải có sự kiểm tra,
kiểm soát, điều tiết kịp thời làm hạn chế những nảy sinh tiêu
cực trong cơ chế thị trường.
- Ba là, Xây dựng Nhà nước pháp quyền vững mạnh, bảo
đảm cuộc sống an toàn cho mọi người và an ninh cho xã hội.
Ngăn chặn và trừng trị có hiệu quả những hành vi xâm phạm
đến tài sản, phẩm giá của từng cá nhân trong cộng đồng; bảo

vệ người lao động, trừng trị những người vì lợi ích trước mắt
của cá nhân mình mà làm tổn hại đến sức khỏe người khác;
đồng thời thực hiện dân chủ hóa trên mọi lĩnh vực đời sống xã
hội, đảm bảo người dân thực sự làm chủ xã hội của mình theo
đúng tiêu chí: Nhà nước của dân, do dân và vì dân; chống
tham ô, tham nhũng; thực hiện công bằng xã hội nhất là về
mặt phân phối lợi kinh tế .
- Bốn là, Thực hiện cuộc cách mạng XHCN trên lĩnh vực
văn hóa tinh thần, tạo điều kiện xây dựng cho người lao động
có một đời sống tinh thần lành mạnh, phong phú. Trong phát
triển kinh tế thì phải lấy văn hóa làm mục tiêu phát triển.
Quan tâm đổi mới giáo dục, đào tạo, nâng cao dân trí, đào tạo
tay nghề, đào tạo nhân tài và thực hiện tốt việc chăm lo sức
khỏe của con người, chăm lo đời sống tinh thần nhân dân.
- Năm là, xây dựng và thực hiện giá trị, thang bậc giá trị của
người lao động trong đời sống xã hội để khuyến khích các cá
nhân hoạt động tích cực, sáng tạo; nhằm thực hiện việc phân
phối một cách tốt nhất, hạn chế thái độ ỷ lại, trông chờ hay lao
động không chân chính.
Tóm lại, trên cơ sở lý luận của CN Mác-Lênin về con
người, trong tiến trình cách mạng Đảng ta đã từng bước đề ra
mục tiêu xây dựng con người XHCN ở nước ta. Các Văn kiện
Đại hội IV, V và VI của Đảng ta đã xác định những đặc trưng
cơ bản của con người mới XHCN là: con người lao động kiểu
mẫu, có tinh thần và năng lực làm chủ, có tinh thần yêu nước
và tinh thần quốc tế vô sản, có lối sống lành mạnh, trong sáng,
văn minh./.




Câu 18: Vai trò của NN trong QLXH?
(Nhà nước là chủ thể quan trọng nhất trong QLXH).
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê nin thì Nhà nước là
một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, Nhà nước là
công cụ để thể hiện ý chỉ của giai cấp thống trị, nhằm bảo vệ
lợi ích thống trị trong XH. Nhà nước mang tính XH, bảo vệ các lợi ích thiết yếu của mọi thành viên trong XH, có trách
nhiệm phải giải quyết những vấn đề do XH đặt ra.
Để QLXH thì chủ thể phải lả những tổ chức, chủ thể thể hiện
ở những hình thức, hoạt động của những quan hệ quản lý.
VD: NN, tổ chức khác. Hình thức đó bao hàm các tổ chức
thực hiện quản lý các lĩnh vực hoạt động khác nhau, phù hợp
với nhu cầu và quy luật XH.
Các chủ thể QLXH với chức năng quản lý riêng, bảo đảm
bằng quyền lực.
1. Nhà nước trong QLXH:
a.
Quan niệm về NN trong QLXH: Trong thời đại ngày
nay, xã hội thể hiện rõ rằng nó được quản lý băng nhiều kiểu,
nhiều cách thức khác nhau và kiểu quản lý nào cũng đều quan
trọng như nhau. Song vai trò chính trị và sự tác động chính trị
bao giờ cũng giữ vị trí cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa lớn lao
nhât. Đó là vì nội dung chủ yếu của chính trị lả việc xác định
phương hướng và cách thức cơ bản để phát ừiển xã hội. Từ
vai trò của chính trị trong đời sống xã hội, bản chất của Nhà
nước quy định ỷ chỉ lợi ích nhu cầu: lợi ích nhu cầu, ý chí của
tất cả. Vai trò nhà nước và sự quản lý của nó - QLNN đối với
xã hội luôn chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng.
Vai trò QLNN trong hệ thống các chủ thể QLXH tăng lên do
nhiều nguyên nhân, song trước hết do bản chất của nhà nước
quy định. Chính bản chất nhà nước tạo cho QLNN cỏ những

đặc điểm là:
*
QLNN có những đặc điểm là:
Nhà nước là một tổ chức xã hôi duy nhất tập hợp
trong tổ chức của mình toàn thể nhân dân của đất nước không
trừ một ai. Đổ là điểm khác biệt cơ bản giữa nhà nước với các
tổ chức chính trị - xã hội khác, vì các tổ chức này chỉ tập hợp
trong tổ chức của mình một bộ phận dân cư hoặc một nhóm
người nào đó. Điều này tạo cho nhà nước khả năng thể hiện
được ý chí, lợi ích, nhu cầu của các tầng lớp, các giai cấp
trong xã hội, đồng thời tạo cho nhà nước khả năng thực hiện
hai mặt:
+ Mặt giai cấp, đó là việc nhà nước thể hiện ý chí và lợi ích
của giai cấp thống trị xã hội về mặt chính trị. Cho nên đây là
chức năng chính trị của nhà nước.
+ Mặt có kết các tầng lớp, các giai cấp, các dân tộc trong xã
hội; đó là chức năng xã hội của nhà nước.
QLXH của Nhà nước chỉnh là khả năng sử dụng để
tổ chức và điều chỉnh các hoạt động, các QHXH của Nhà
nước; tác động có ý thức, buộc mọi người, mọi tổ chức vận
động theo hướng đã định dẫn đên biến đổi kết cấu tổ chức và
các QHXH.
VD: Muốn ổn định XHphải giải quyết tốt mối quan
hệ về điều hòa lợi ích.
Nhà nước là một tổ chức quyền lực. Quyền lực nhà
nước là sức mạnh của ý chí chung mà nhà nước là người đại
diện, là khả năng mà nhà nước có thể buộc các thành viên
trong XH phải phục tùng ý chí chung đó. Để thể hiện quyền
lực và ý chí của mình Nhà nước xây dựng hệ thống PL, tổ
chức ra bộ máy và dựa vào đó thực hiện vai trò QLXH của

mình.
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là người chủ
sở hữu lớn nhất của XH, sở hữu các TLSX chủ yếu của xã
hội. Điều này làm cho quyền lực nhà nước vừa là quyền lực

chính trị, vừa là quyền lực kinh tế và là người chủ sở hữu lớn
nhất của xã hội. Trong xã hội hiện đại, hầu hết các nhà nước
đều có xu hướng trở thành người chủ sở hữu lớn nhất của xã
hội. Với ưu thế đó, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
nắm lấy quyền định hướng toàn bộ hoạt động kinh tế của đất
nước và thông qua đó, thực hiện các tác động định hướng sự
phát triển của tất cả các lĩnh vực ừong đời sống xã hội, thực
hiện chức năng QLXH của mình.
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là 1 chế độ
dân chủ của nhân dân lao động tự tổ chức lấy cuộc sống của
mình, có khả năng to lớn trong việc thu hút toàn thể nhân dân
lao động tham gia vào công việc của Nhà nước.
VD: Có quan hệ thì mới có tương lai.
Những đăc điểm trên của Nhà nước XHCN quyết đinh vai trò
chủ thể QLXH của Nhà nước. Có thể nói, sự QLNN đối với
xã hội đạt tới mức độ nào thì xã hội cũng được phát triển tới
múc độ như thế. Bởi vậy, vấn đề phát triển bộ máy của nhà
nước - chủ thể QLXH căn bản phải được quan tâm hàng đầu.
b.
Khái niệm QLXH của Nhà nưởc
QLXH của NN là sự biểu hiện khả năng mà XH có
thể sử dụng để tổ chức và điều chỉnh các hoạt động và các
quan hệ của mình.
XH chỉ phát triển được nhờ ý thức của con người,
con người nhờ ý thức đã nhận thức được thế giới xung quanh

minh, hình thành kế hoạch tác động vào thế giới tự nhiên để
tạo nên cuộc sống cho mình, con người liên kết với nhau tạo
nên các quan hệ XH.
QLXH của NN chính là biểu hiện năng lực của con
người trong việc tổ chức và điều chỉnh các hoạt động các quan
hệ XH một cách có ý thức dưới 1 hình thức tổ chức xã hội
nhất định đó là tổ chức NN.
QLXH của NN không phải chỉ là ra các quyết định
mà chủ yếu là kết quả thực hiện các QĐ đó.
QLXH của NN chính là tác động có ý thức lên quá
trình phật triển XH, lên nhận thức của con người, buộc mọi
người, mọi tổ chức XH phảỉ vận động theo 1 hướng đã định,
tạo nên những thay đổi thật sự ừong đời sống XH và cải tạo
được XH.
=> Tóm lại: QLXH của nhà nước là sự tác động tổ chức và
điều chỉnh mang tính quyền lực nhà nước đối với các quá
trình xã hội (các hoạt động và các quan hệ xã hội); là những
tác động có căn cứ khoa học, có tính kế hoạch được tiến hành
một cách liên tục để thực hiện các quá trình phát triển xã hội
theo một mục tiêu đã định.
*
QLXH của Nhà nước có những đăc trưng sau:
Là những hoạt động, tác động mang tính tỗ chức và
điều chỉnh nhằm đặt con người vào mối quan hệ nào đó, trong
một lĩnh vực nào đó, trong một nhỏm người nào đó...Tổ chức
là xây dựng các mối quan hệ giữa người với người nhằm thực
hiện một mục đích nhất định. Bởi vậy, mục đích là cơ sở để
thiêt lập ra tổ chức. Tổ chức không phải là những hoạt động
mà chỉ tạo ra điêu kiện cho các hoạt động thực tiễn; còn hoạt
động, chính là sự tác động qua lại theo một trật tự, một quy

trình định trước của các bên tham gia trong một quan hệ nhằm
thực hiện mục đích đã được xác định.
Như vậy, tổ chức chỉ tạo ra điều kiện cho hoạt động; còn để
cho quan hệ đã được tổ chức ấy hoạt động phải thực hiện
những tác động điều chỉnh. Đó là việc xác định một quy trình
vận động, tác động qua lại lẫn nhau và việc điều chỉnh các
hành vi trong quá trình thực hiện sự giao tiếp giữa các bên
tham gia trong quan hệ, phù hợp với mục đích đã đề ra.
Tính chất quyền lực trong QLNN, toàn bộ các tác


động tổ chức và điều chỉnh của quản lý dựa trên cơ sở quyền
lực Nhà nước. Chi có một sức mạnh cưỡng chế mới tổ chức
được các cố gắng riêng lẻ thành cố gắng chung của xã hội.
Nhà nước với tư cách là tổ chức quyền lực, đại biểu cho ý chí
chung của toàn xã hội, thông qua các cơ quan Nhà nước và
đội ngũ công chức, tiến hành các hoạt động tổ chức và điều
chỉnh bằng các biện pháp cưỡng chế khác nhau. Cưỡng chế là
một hình thức biểu hiện của quyền lực. Quyền lực là sức
mạnh của ý chí chung. Cưỡng chế là việc sử dụng sức mạnh
dưới hình thức vật chất hay tinh thần, pháp lý hay đạo lý, kinh
tế hay phi kinh tế buộc mọi đối tượng xã hội phải phục tùng ý
chí chung. Quyền lực nhà nước và QLNN đối với xã hội là hai
mặt của một vấn đề. Bản thân quản lý là một quan hệ có tính
quyền uy, quyền uy lấy sự phục tùng làm tiền đề; còn quản lý
lấy quyền uy làm điều kiện tồn tại. Quyền uy của QLNN
chính là quyền lực nhà nước, bởi vậy khi thực hiện quyền lực
chính là thực hiện sự quản lý. Trong quá trình quản lý, quyền
lực nhà nước là một điều kỉện làm phát sinh và duy ừì quan hệ
quản lý và do đó là phương tiện có hiệu quả nhất, quan trọng

nhất thực hiện sự quản lý của nhà nước đối vởi xã hội. Quyền
lực nhà nước khi được xác lập và được trao cho các cơ quan
nhà nước, cho công chức nhà nước dưới dạng thẩm quyền là
để thực hiện việc tổ chức và điều chỉnh các quan hệ và các
hoạt động trong xã hội.
Quyền lực nhà nước được biểu hiện trong hệ thống
các quy phạm pháp luật. Như vậy, hệ thống các quy phạm
pháp luật là điều kiện bảo đảm cho các tác động quản lý. Thực
hiện các tác động quản lý chính là sự bảo đảm cho các quy
phạm pháp luật được thực hiện trên thực tế. Trong nhà nước
pháp quyền XHCN không có sự tách biệt giữa quyền lực và
quyền quản lý.
QLXH của nhà nước là sự quản lý có tính khoa học
và tính kế hoạch. Quản lý là sự biểu hiện khả năng cùa con
người tô chức và điều chỉnh cảc hoạt động và quan hệ của
mình, như vậy quản lý bao giờ cũng được biểu hiện là những
hoạt động có ý thức của con người. Con người nhận thức thế
giới xung quanh, tổ chức nhau lại trong các quan hệ xã hội và
điều chỉnh các quan hệ ấy để tác động vào thế giới xung
quanh nhằm đem lại lợi ích cho mình. Sự hiểu biết về thế giới
xung quanh càng sâu sắc bao nhiêu thì khả năng tự tổ chức và
điều chỉnh cuộc sống cho con người càng có hiệu quả và phục
vụ lợi ích con người càng tốt bấy nhiêu. Nhờ có sự hiểu biết
ngày càng sâu sắc các quy luật vận động của tự nhiên, xã hội
và tư duy mà con người thực hiện các tác động tổ chửc và
điều chỉnh có căn cứ khoa học hơn.
Trong QLXH XHCN, Cơ sở tư tưởng và nhận thức thế giới là
chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đỏ là cơ sở
giúp chủ thể quản lý không chỉ nhận thức thế giới mà còn cải
tạo thế giới, tổ chức và điều chỉnh các quá trình phát ừiển xã

hội có cãn cứ khoa học và theo đặc trưng và mục tiêu đã định.
QLXH của nhả nưởc là những tác động quản lý
mang tính liên tục. Bản chất của các quá trình xã hội là sự
phát triển liên tục, từ đơn giản đến phức tạp, tò chưa hoàn
thiện đến hoàn thiện... Vì thế đê tạo ra một quá ừình liên tục
của sự phát triển xã hội, các tác động tổ chức và điều chỉnh
cũng phải là những tác động liên tục. Mặt khác, quyền lực
không những phải được thể hiện khắp nơi, khắp các lĩnh vực
của đời sống xã hội mà còn phải được thể hiện liên tục. Từ
khâu ra quyết định đến tổ chức thực hiện quyết định và kiểm
tra các quả trình là một tổng thể các tác động tổ chức và điều
chỉnh được thực hiện nhằm tạo ra các quá trình phát triển xã
hội và hình thành chu kỳ của QLNN. Kết quả của mỗi chu kỳ
QLXH của nhà nước là sự phát triển xã hội trên tững lĩnh vực
được thúc đẩy, các hoạt động và các quan hệ xã hội ngày càng

phong phủ và đa dạng, chất lương xã hội được biến đổi theo
hướng tích cực.
=> KL: QLXH của NN là sự tác động có tổ chức và đỉều
chỉnh mang tỉnh quyền lực đối với các quá trình XH (các hoạt
động và các quan hệ XH), là những tác động có căn cứ khoa
học, có tính kế hoạch được tiến hành 1 cảch liên tục để thực
hiện các quả trình phát triển XH theo mục tiêu đã định.
c.
Tính chất quản lý của nhà nước pháp quyền XHCN
đối vói xã hội:
Tính chất chính trị: Nhà nước có vị trí trung tâm của
các vấn đề chính trị, trên thực tế nó là cơ sở của mọi cơ sở
chính trị. Mọi cuộc cách mạng xã hội là vấn đề chính quyền
nhà nước, là giành lấy quyền lực chính trị, quyền lực nhà

nước. Vì vậy, quản lý nhà nước là sự tác động tổ chức và điều
chỉnh mang tính quyền ỉực nhà nước lên các quá trình xã hội
luôn thấm nhuần tính chất chính trị trong đó.
Tính chất chính trị của QLNN có ý nghĩa to lớn trong việc xác
định các chức năng, các hình thức và các phương pháp quản
lý của nhà nước. Bộ máy nhà nước phải phù hợp với cơ sở
chính trị của xã hội. Hiện nay, nhiệm vụ chính trị của cách
mạng nước ta là tiếp tục đẩy mạnh quá trình đổi mới đất nước,
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn
minh. Đây cũng là bản chất của chế độ mà nhân dân ta đã lựa
chọn. Để thực hiện được mục tiêu đó, chúng ta tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN nhằm nâng
cao hiệu quả quản lý của nhà nước đối với xã hội, tác động và
điều chỉnh các hoạt động và quan hệ xã hội để giữ vững đặc
trưng của xã hội và mục tiêu chính trị đã đề ra.
Tính chất dân chủ: Đây là tính chất đặc thù và là
thuộc tính của QLNN XHCN. Cùng với xu thế tiến bộ của
nhân loại, nhà nước XHCN tạo mọi điều kiện để quần chúng
nhân dân tham gia các quá trình phát triển xã hội và tham gia
QLNN và QLXH.
Trong QLXH, nhà nước XHCN có các hình thức thực hiện
quyền quản lý của mình:
+ Dân chủ trực tiếp, hình thức này nhân dân trực tiếp giải
quyết các vấn đề quản lý nhà nước như mít tinh, bỉểu tình,
trưng cầu ý dân...
+ Dân chủ đại diện, nhân dân bầu ra người đại diện cua mình
tham gia gĩải quyết các công việc nhà nước.
+ Hình thức chuyên nghiệp thực hiện chức năng QLNN. Đó là
những người làm việc trong bộ máy nhà nước. Đây cũng là
một hình thức dân chủ vì những người làm việc trong bộ máy

nhà nước cũng là những đại biểu thuộc các giai cấp và tầng
lớp nhân dân lao động, hộ cũng từ nhân dân mà ra. Tuy nhiên,
quản lý là một dạng lao động đặc biệt nên họ phải được đào
tạo để có trình độ phù hợp với công việc.
Mỗi hình thức nêu trên đều có vị trí quan trọng khi thực hiện
quyền quản lý. Không có hình thức nào có thể bao trùm tất cả
quá trình quản lý, mỗi hình thức đều có tinh hai mặt, cho nên
vấn đề là áp dụng các hình thức đó phải hài hòa và sử dụng
đầy đủ các yếu tố tích cực của từng hình thức.
Tính chất khoa học: QLNN, bản thân nó là một khoa
học, hơn thế nữa QLNN còn tiếp thu thành tựu của nhiều
nghĩa khoa học khác nhau.
Để thực hiện tốt chức năng QLXH, QLNN không chỉ nắm
được các nguyên lý cơ bản của khoa học quản lý mà cần phải
nắm vững các quy luật vận động của xã hội. Chính vì vậy,
người cán bộ làm công tác QLNN phải nắm vững chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phải có kiến thức xã hội
học sâu sắc bởi đây là khoa học nghiên cứu sự vận động của
xã hội trên cơ sở các nhu cầu của con người và sự vận động
của các nhóm người. Phải nắm vững khoa học tâm lý, vì đây
là ngành khoa học nghiên cứu về hành vi xử sự của con người


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×