Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Các biện pháp hạn chế nhập khẩu của Nhật Bản và giải pháp thích ứng của hàng nông sản Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.54 KB, 15 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lời mở đầu
1. Tính tất yếu của đề án:
Trong những năm gần đây, quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Nhật Bản
ngày càng trở nên tốt đẹp, đánh dấu bằng những chuyến thăm chính thức lẫn nhau của
lãnh đạo cấp cao hai nước như chuyến thăm chính thức Nhật Bản của thủ tướng Việt
Nam vào tháng 4 và tháng 12 năm 2003 đã nâng quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản
lên một tầm cao mới theo phương châm “đối tác tin cậy, ổn định, lâu dài”. Chuyến
thăm này cũng là cơ sở để hình thành Sáng kiến chung Việt - Nhật, trong đó có Kế
hoạch hành động gầm 44 hạng mục với những cam kết cụ thể của hai Chính Phủ về
những biện pháp nhằm cải thiện môi trường kinh doanh của Việt Nam. Được thực hiện
thông qua việc rà soát, hoàn thiện các quy định về đầu tư, cải thiện các thể chế liên
quan đến đầu tư và cải thiện cơ sở hạ tầng. Đến tháng 10 năm 2006, Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng đã sang thăm chính thức Nhật Bản. Thủ tưóng hai nước đã ký Tuyên bố
chung Việt - Nhật, nâng tầm quan hệ hai nước hướng tới quan hệ đối tác chiến lược vì
hoà bình và phồn vinh ở Châu Á, cả hai thủ tướng đều nhất trí phấn đấu kim ngạch
thương mại hai chiều sẽ đạt 15 tỷ USD vào năm 2015.
Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới và cũng là một thị trường lớn với dân
số vào khoảng 128 triệu, có sức tiêu thụ rất lớn. Trong những năm gần đây, kim ngạch
nhập khẩu của Nhật Bản ngày càng tăng: năm 2001 đạt 351 tỷ USD, năm 2004 đạt 454
tỷ USD và năm 2007 là 621 tỷ USD trong đó nông thuỷ sản, thực phẩm chiếm 51 tỷ
USD ( 8,3% tổng kim ngạch xuất khẩu ). Vào năm 2007, kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam sang Nhật Bản đạt 6,608 tỷ USD và Nhật Bản tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn
thứ 2 của Việt Nam sau Hoa Kỳ. Từ số liệu nêu trên có thể thấy Việt Nam mới chỉ
chiếm một thị phần rất nhỏ tại thị trường Nhật Bản ( 1% tổng kim ngạch nhập khẩu của
Nhật Bản ). Trong khi đó, thị phần của Trung Quốc là 20,5%, Thái Lan 2,94%,
Malaixia 2,8%. Từ thực tiễn đó đòi hỏi chúng ta cần phải nghiên cứu thị trường Nhật
Bản một cách sâu sắc hơn và đưa ra được những giải pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa giá
trị xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam sang thị trường Nhật Bản.
Các mặt hàng có thế mạnh của Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản đó
là nông thuỷ sản, đồ gỗ, hàng dệt may, đồ thủ công mỹ nghệ. Trong đó thì nông sản


Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đóng một vai trò rất quan trọng. Các mặt hàng nông sản của Việt Nam cũng đang tạo
đựơc uy tín và vị trí tại thị trường Nhật Bản. Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu còn thấp
và còn nhiều vấn đề cần giải quyết. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài “ các biện pháp
hạn chế nhập khẩu của Nhật Bản và giải pháp thích ứng của hàng nông sản Việt
Nam” với mong muốn tìm hiểu về vấn đề này rõ ràng hơn.
2. Mục đích:
- Làm rõ xu hướng và đặc điểm nhập khẩu nông sản của Nhật Bản trên các phương
diện: nhu cầu, thị hiếu của thị trường, những rào cản nhằm hạn chế nhập khẩu của Nhật
Bản.
- Đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường Nhật
Bản.
- Đề xuất những giải pháp nhằm giúp hàng nông sản của Việt Nam có thể thích nghi
với các rào cản của thị trường Nhật Bản và đẩy mạnh xuất khẩu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng: Nghiên cứu về các biện pháp hạn chế xuất khẩu để bảo hộ nền sản xuất
trong nước và bảo vệ người tiêu dùng của Nhật Bản cùng với những giải pháp nhằm
giúp cho hàng nông sản Việt Nam có thể thích ứng với những rào cản đó.
Phạm vi: Giới hạn về mặt nội dung nghiên cứu là mặt hàng nông sản xuất khẩu sang
thị trường Nhật Bản với các sản phẩm chính là cà phê, cao su và rau quả.
4. Phương pháp nghiên cứu:
So sánh, phân tích, tổng hợp số liệu thống kê, báo cáo thực tiễn.
5. Kết cấu đề án:
Ngoài phần mở đầu, mục lục và danh sách tài liệu tham khảo, đề án gồm 3 chương :
Chương 1: Những vấn đề chung về các biện pháp hạn chế nhập khẩu và đặc điểm thị
trường Nhật Bản.
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường Nhật Bản
và khả năng thích ứng.
Chương 3: Dự báo và giải pháp tăng khả năng thích ứng của hàng nông sản xuất

khẩu của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương 1: Những vấn đề chung về các biện pháp hạn chế nhập
khẩu và đặc điểm thị trường Nhật Bản
1.1 Những vấn đề chung về các biện pháp hạn chế nhập khẩu
1.1.1 Các công cụ và biện pháp hạn chế nhập khẩu.
1.1.1.1 Thuế quan
Nhật Bản áp dụng 4 hệ thống thuế như sau :
- Thuế suất chung: mức thuế cơ bản căn cứ vào Luật thuế quan hải quan, áp dụng
trong một thời gian dài.
- Thuế suất tạm thời: là thuế suất trong một thời gian ngắn, thay thế cho thuế suất
chung.
- Thuế suất ưu đãi phổ cập ( GSP): là mức thuế áp dụng cho các nước đang phát
triển hay các khu vực lãnh thổ. Mức thuế có thể thấp hơn mức thuế đang áp dụng cho
các nước phát triển. Hệ thống GSP của Nhật Bản bắt đầu có hiệu lực vào từ ngày
1\8\1971.
- Thuế suất WTO: là mức thuế căn cứ vào cam kết WTO và các hiệp định quốc tế
khác.
Về nguyên tắc, mức thuế áp dụng theo thứ tự mức thuế GSP, mức thuế WTO, mức
thuế tạm thời và mức thuế chung. Tuy nhiên, mức thuế GSP chỉ được áp dụng trong
trường hợp thoả mãn các điều kiện cần thiết mà Nhật Bản đưa ra như : là nước đang
phát triển, là thành viên của hiệp ước Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát
triển ( UNCTAD ), là quốc gia mà Nhật Bản cho là thích hợp để hưởng quy chế GSP...
Đối với mức thuế WTO, nó chỉ được áp dụng khi thấp hơn cả mức thuế tạm thời và
mức thuế chung. Như vậy, mức thuế chung là mức thuế áp dụng cho các nước không
phải là thành viên của WTO. Trong trường hợp mức thuế tạm thời thấp hơn các mức
thuế trên, nó sẽ được áp dụng.
1.1.1.2 Các biện pháp hạn chế định lượng

Hạn ngạch nhập khẩu.
Tại Nhật Bản, hạn ngạch nhập khẩu được tính toán trên cơ sở dự đoán các nhu cầu
về hàng hóa và khả năng sản xuất của các doanh nghiệp trong nước. Vào đầu và giữa
năm tài chính ( từ tháng 4 năm trước đến tháng 4 năm tiếp theo), Bộ Công nghiệp và
Ngoại Thương ( MITI) Nhật Bản phê chuẩn những mặt hàng nhập khẩu theo quy chế
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hạn ngạch được ghi rõ trong thông báo nhập khẩu. Trong thông báo hàng năm của MITI
có quy định rõ trình tự các bước để xin hạn ngạch cho một mặt hàng hay một nhóm mặt
hàng. Khi nhập khẩu các mặt hàng có quy định hạn ngạch, nhà nhập khẩu phải xin hạn
ngạch nhập khẩu trước của MITI, thì mới xin được giấy phép của ngân hàng quản lý
ngoại hôi hay của cơ quan quản lý khác.
Hạn ngạch được áp dụng với 3 nhóm hàng sau:
- Các mặt hàng thương mại thuộc kiểm soát của nhà nước, bao gồm vũ khí, rượu,
chất nổ, súng cầm tay và dao, vật liệu hạt nhân, ma tuý và các thực phẩm chịu sự kiểm
soát ( như gạo ).
- Những mặt hàng hạn chế nhập khẩu
- Các loại thực vật và động vật có tên trong Bản phụ lục I của Công ước về thương
mại quốc tế về các loài động vật có nguy cơ tuyệt chủng trong hệ thống động thực
vật(CITES).
Theo các quy định trước đây của Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch GATT
(nay là tổ chức thương mại thế giới WTO) thì các nước thành viên của tổ chức này
không được sử dụng hạn ngạch để tạo rào cản phi thuế quan cản trở buôn bán với các
nước khác. Tuy nhiên, các nước có thể sử dụng hạn ngạch trong một số trường hợp
ngoại lệ như : để bảo hộ nông nghiệp, chống bán phá giá và đảm bảo an toàn tạm thời
trong trường hợp hàng nhập khẩu có thể làm tổn thương các ngành công nghiệp khác.
Hạn ngạch thuế quan
Chế độ hạn ngạch thuế là chế độ, trong đó quy định áp dụng mức thuế bằng không
(0%) hoặc thấp đối với những hàng hoá được nhập khẩu theo đúng số lượng quy định,
nhằm cung cấp với giá hợp lý cho người tiêu dùng. Khi hàng hoá vượt quá số lượng

quy định thì sẽ áp dụng mức thuế cao để bảo vệ các nhà sản xuất trong nước. Chế độ
hạn ngạch nhập khẩu thuế được thiết lập dựa trên quan điểm đảm bảo hài hoà mục tiêu
bảo vệ người tiêu dùng và mục tiêu bảo hộ người sản xuất nội địa. Vì vậy, chính phủ
phải dựa trên cơ sở xem xét cung cầu, thực trạng sản xuất trong nước để đề ra mức thuế
lần một, lần hai và thời gian áp dụng... để không cản trở tự do hoá thương mại. Trong
các quy định của GATT/WTO, các nước thành viên không được sử dụng chế dộ hạn
ngạch nhập khẩu, nhưng lại thừa nhận chế độ hạn ngạch thuế với điều kiện không có sự
phân biệt đối xử với từng nước.
Hạn chế xuất khẩu tự nguyện
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Là một dạng của hạn chế nhập khẩu, là thoả thuận theo đó một nước đồng ý hạn chế
xuất khẩu của mình sang nước khác đối với một mặt hàng xác định, với một mức tối đa.
Các thoả thuận này là tự nguyện chỉ ở mức độ nước xuất khẩu muốn tránh một mối đe
doạ lớn hơn đối với ngoại thương của mình và do đó chọn biện pháp ít thiệt hại hơn.
Tuy nhiên, đây là biện pháp tạm thời và không có hiệu quả. Bởi vì biện pháp này có thể
giúp làm giảm lượng xuất khẩu của một nước nhưng lại bóp méo quá trình tự do ngoại
thương và dẫn đến việc phân phối các nguồn tài nguyên quốc gia và quốc tế một cách
kém hiệu quả. Tại Nhật Bản, vào cuối những năm 50 đã phải thực hiện hạn chế xuất
khẩu tự nguyện đối với các sản phẩm dệt và một số mặt hàng sử dụng nhiều lao động.
Giấy phép nhập khẩu
Hầu hết các mặt hàng nhập khẩu vào Nhật Bản không cần giấy phép của Bộ Công
Nghiệp và Ngoại thương. Nhưng các mặt hàng sau vẫn cần giấy phép nhập khẩu :
- Hàng hoá liệt kê trong thông báo nhập khẩu thực hiện quản lý bằng hạn ngạch.
- Hàng hoá sản xuất hay vận chuyển từ các quốc gia, khu vực quy định trong thông
báo nhập khẩu đòi hỏi phải có giấy phép nhập khẩu.
- Hàng hoá đòi hỏi phương thức thanh toán đặc biệt.
- Hàng hoá cần sự xác nhận của hải quan về nhập khẩu và phải đáp ứng được các
quy định đặc biệt của chính phủ, như các loại vắcxin nghiên cứu.
1.1.1.3 Các biện pháp hành chính kỹ thuật.

Đây là nhóm các biện pháp gián tiếp ngăn cản và giám sát hàng nhập khẩu từ nước
ngoài vào thị trường Nhật Bản. Các biện pháp hành chính kỹ thuật rất phong phú và đa
dạng. Chúng tuỳ thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Tại Nhật
Bản, các biện pháp hành chính được áp dụng rât đa dạng và nó đã hình thành nên một
rào cản rất lớn đối với doanh nghiệp muốn thâm nhập vào thị trường Nhật Bản.
Trong quan hệ ngoại thương, giá cả thường rất quan trọng. Tuy nhiên, tại thị trường
Nhật Bản thì chất lượng của sản phẩm được đặt lên hàng đầu. Ngay cả đối với những
mặt hàng rẻ tiền, hạ giá thì người tiêu dùng Nhật Bản cũng rất quan tâm đến chất lượng
và độ an toàn của mặt hàng đó. Thực tế là là các tiêu chuẩn về chất lượng và độ an toàn
của hàng hoá của Nhật Bản còn cao hơn và chặt chẽ hơn so với yêu cầu thông thường
và các tiêu chuẩn quốc tế. Vì vậy nên các sản phẩm của Nhật Bản thường có chất lượng
cao và dễ tràn ngập vào các thị truờng các nước khác. Các dấu chứng nhận chất lượng
mà Nhật Bản sử dụng có thể kể đến như :
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tiêu chuẩn “JIS”
Dấu chứng nhận tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản “ JIS” là một trong những dấu
được sử dụng rộng rãi nhất ở Nhật Bản. Tiêu chuẩn này dựa trên “luật tiêu chuẩn hoá
công nghiệp” được ban hành vào tháng 6 năm 1949. Dấu JIS được áp dụng cho tất cả
các sản phẩm công nghiệp và khoáng sản, trừ những sản phẩm được áp dụng các tiêu
chuẩn chuyên ngành như dược phẩm, phân hoá học, sợi tơ tằm, thực phẩm và các sản
phẩm nông nghiệp khác được quy định trong luật về tiêu chuẩn hoá và dán nhãn các sản
phẩm nông lâm sản. Các nhà sản xuất trong nước hay nước ngoài muốn được cấp giấy
chứng nhận JIS phải làm đơn xin cấp giấy chứng nhận này. Bộ trưởng bộ Công nghiệp
và ngoại thương có phê đuyệt đơn xin phép cấp JIS cho nhà sản xuất hay không dựa
vào kết luận của Hội đồng thẩm định. Quyết định của Bộ trưởng sẽ được thông báo cho
người nộp đơn. Nếu đơn xin phép được phê duyệt thì sẽ đăng trên Công báo. Thời gian
cần thiết kể từ khi nộp đơn cho đến lúc nhận được quyết định và thông báo là 3 tháng.
Tiêu chuẩn “JAS”
Luật tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản được ban hành vào tháng 5 năm 1970. Luật

này quy định các tiêu chuẩn về chất lượng và đóng dấu chất lượng tiêu chuẩn JAS.
Danh sách các sản phẩm được điều chỉnh bởi Luật JAS bao gồm: đồ uống, thực phẩm
chế biến, dầu ăn và mỡ, các nông, lâm thuỷ sản chế biến. Các tiêu chuẩn JAS bao quát
cả sản phẩm được sản xuất trong nước và các sản phẩm nhập khẩu. Tại Nhật Bản việc
sử dụng dấu chứng nhận sản phẩm JAS lên nhãn hiệu sản phẩm là tự nguyện và các nhà
sản xuất cũng như các nhà bán lẻ không bị bắt buộc phải sản xuất hay kinh doanh các
sản phẩm có chất lượng tiêu chuẩn JAS. Tuy nhiên, các quy định về việc ghi nhãn mác
sản phẩm là bắt buộc với những sản phẩm do bộ Nông – Lâm – Ngư nghiệp quy định.
Người tiêu dùng Nhật Bản rất tin tưởng vào chất lượng của các sản phẩm đã được đóng
dấu JAS. Vì vậy, các nhà sản xuất nước ngoài khi xuất khẩu hàng hoá vào Nhật Bản có
được dấu chứng nhận chất lượng JAS sẽ tạo thuận lợi cho việc tiêu thụ hàng hoá của
mình tại đây.
Các dấu chứng nhận chất lượng khác:
Ngoài dấu chứng nhận chất lượng JIS và JAS còn có nhiều loại dấu chứng nhận
khác được sử dụng ở Nhật Bản. Ví dụ, các dấu chứng nhận sau đang được sử dụng tại
Nhật Bản :
Bảng 1.1 Một số dấu chất lượng của Nhật Bản
Website: Email : Tel : 0918.775.368

×