Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

Khoá luận tốt nghiệp ngủ thăm một trong những nét văn hóa đặc sắc của dân tộc dao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (24.91 MB, 50 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC s ư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỦ VĂN

PHẠM THỊ MAI ANH

“NGỦ THĂM”- MỘT TRONG NHỮNG
NÉT VĂN HÓA ĐẶC SẮC CỦA
DÂN TỘC DAO

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC




C h u y ên n gàn h : V iệ t N am h ọc

HÀ NỘI - 2015






TRƯỜNG ĐẠI HỌC s ư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGŨ VĂN

PHẠM THỊ MAI ANH

“NGỦ THĂM”- MỘT TRONG NHỮNG
NÉT VĂN HÓA ĐẶC SẮC CỦA
DÂN TỘC DAO



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC




C h u y ên n g à n h : V iệ t N am học

N gười hướng dẫn khoa học
THS. VŨ NGỌC DOANH

HÀ NỘI - 2015






LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới ThS,
GVC, Vũ Ngọc Doanh - người trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình giúp
tôi trong suốt thời gian thực hiện khóa luận.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới tất cả các Thầy, Cô giáo trong khoa
Ngữ Văn đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành khóa luận tốt
nghiệp này.
Khóa luận được hoàn thành, song không tránh khỏi những hạn chế,
thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những đóng góp ý kiến từ phía Thầy, Cô và
các bạn đế bài viết của tôi được hoàn thiện hơn.
Tỏi xỉn trân trọng cảm ơn!


Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2015
Tác giả khóa luận

Phạm Thị Mai Anh


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan những nội dung mà tôi trình bày trong khóa luận này
là kết quả nghiên cứu của bản thân tôi dưới sự hướng dẫn của Th.s, GVC Vũ
Ngọc Doanh. Ket quả thu được là hoàn toàn trung thực và không trùng với
kết quả nghiên cứu của những tác giả khác.
Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2015
Tác giả khóa luận

Phạm Thị Mai Anh


DANH MỤC VIỂT TẮT

Nxb:

Nhà xuất bản

TPHCM:

Thành phố Hồ Chí Minh

Tr:


Trang

TP:

Thành phố


MỤC LỤC

MỞ Đ À U ...................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề t à i ...................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đ ề ...................................................................................................... 3
3. Mục tiêu nghiên c ú n ........................................................................................... 3
4. Mục đích nghiên c ứ u ..........................................................................................4
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứ u ........................................................................ 4
6. Phương pháp nghiên c ứ u ................................................................................... 4
7. Bố cục của khóa luận..........................................................................................4
NỘI DUNG.................................................................................................................. 5
Chưong 1. KHÁI QUÁT CHUNG VÈ DÂN TỘC DAO Ở VÙNG NÚI
PHÍA B Ắ C .................................................................................................................. 5
1.1. Sơ lược về người Dao ở vùng núi phía B ắ c ................................................ 5
1.1.1. Nguồn gốc...................................................................................................... 5
1.1.2. Địa bàn cư t r ú ................................................................................................6
1.1.3. Nhà cử a...........................................................................................................6
1.1.4. Hoạt động sản x u ấ t.......................................................................................8
1.1.5. Ngôn ngữ và chữ viết................................................................................... 9
1.1.6. Tổ chức xã h ộ i.............................................................................................10
1.2. Khái quát về văn hóa, tín ngưỡng của người D ao.................................... 10
1.2.1. Đặc điểm văn h ó a ....................................................................................... 10

1.2.1.1. Trang phục.............................................................................................10
1.2.1.2. Ấm th ự c................................................................................................. 15
1.2.1.3. Văn hóa, lễ hội dân gian......................................................................18
1.2.2. Đặc điêm về tín ngưỡng............................................................................. 19
CHƯƠNG 2. GIÁ TRỊ VĂN HÓA ĐẶC SẢC CỦA TỤC “NGỦ THĂM”

...........................................................................................................................24


2.1. Khái niệm phong tục...................................................................................... 24
2.2. Thế nào là tục “ngủ thăm” ............................................................................ 25
2.3. Tại sao “ngủ thăm” trở thành phong tục độc đáo của người D a o ..........27
2.4. So sánh tục “ngủ thăm” của dân tộc Dao với một số dân tộc khác........30
2.5. Một số giải pháp khắc phục biểu hiện tiêu cực của tục “ngủ thăm” .... 37
2.5.1. Thực trạng của tục “ngủ thăm” trong cộng đồng người Dao hiện nay
2.5.2. Biến tướng và giải pháp khắc phục biến tướng của tục “ngủ thăm”
trong cộng đồng người Dao hiện n a y ................................................................. 37
KÉT L U Ậ N ................................................................................................................41
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


M Ờ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Văn hoá là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ quá trình lịch sử của dân tộc,
nó làm nên sức sống mãnh liệt giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam vượt qua
bao sóng gió, ghềnh thác tưởng chừng như không thể vượt qua nổi để không
ngừng lớn mạnh và phát triển. Văn hoá là một sức sống bên trong, văn hoá
được tạo ra từ lao động sinh hoạt và phát triển trong cái nôi địa hình sinh thái

và môi trường của bản thân mình. Văn hoá thể hiện rõ rệt bản chất sâu xa của
con người.
Những năm gần đây, nhận thức về vai trò của văn hoá ở nước ta được
nâng lên đúng với giá trị đích thực của nó. Nói tới văn hoá là nói tới toàn bộ
những giá trị về vật chất và tinh thần, thể hiện trình độ sống, dân trí, những
quan niệm về đạo lý nhân sinh, thẩm mỹ của một dân tộc và dấu ấn của mỗi
con người. Văn hoá sáng tạo nên sự khác biệt giữa dân tộc này với dân tộc
khác. Giá trị của một nền văn hoá được bồi đắp qua nhiều thế kỷ có tĩnh tiếp
nối truyền thống như những lớp phù sa ít có tính đột biến trong phát triển. Vì
văn hoá liên quan đến mọi mặt đời sống của con người nên nó mang một
ngoại diên rất rộng, nó là bất cứ một cái gì con người làm ra, đều có chứa
thuộc tính văn hoá, đều được nhân hoá. Từ “văn hoá” có rất nhiều nghĩa.
Trong tiếng việt “văn hoá” được dùng theo nghĩa thông dụng đê chỉ học thức
trình độ văn hoá, lối sống (nếp sống văn hoá), theo nghĩa chuyên biệt để chỉ
trình độ phát triển của một giai đoạn (văn hoá Đông Sơn). Trong khi theo
nghĩa rộng thì văn hoá bao gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho
đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống, lao động.
Ó Việt Nam có 54 dân tộc anh em cùng chung sống. Mồi dân tộc đều
sở hữu nhũng nét văn hóa mang bản sắc riêng như: dân tộc Mông có tục
“cướp vợ”, dân tộc Thái có tục “chọc sàn”, dân tộc Chăm Bà Ni ở Ninh

1


Thuận thì có lễ trưởng thành cho thiếu nữ, hay đồng bào các dân tộc ở Tây
Nguyên lại có lễ “bỏ mả” ...V à đặc biệt hòa vào dòng chảy của các văn hóa
dân tộc anh em, dân tộc Dao có tục “ngủ thăm” độc đáo với những giá trị văn
hóa vô cùng đặc sắc góp phần làm cho bức tranh văn hóa Việt Nam thêm
phong phú và đa dạng.
Tục “ngủ thăm” là nét văn hóa phố biến của một số dân tộc như: dân

tộc Mường, dân tộc Thái, dân tộc Chơ R o ... Nhưng với dân tộc Dao tục “ngủ
thăm” có nhiều nét văn hóa đặc sắc hơn cả.
Cùng với 53 dân tộc anh em, người Dao luôn luôn là một phần của sự
thống nhất khối đại đoàn kết dân tộc và góp phần làm phong phú cho nền văn
hoá các dân tộc Việt Nam.
Trong quá trình tồn tại và phát trien, người Dao có một bản sắc văn
hóa riêng và đặc trung. Không chỉ có lễ cấp sắc độc đáo, có làn điệu dân ca,
màn múa hát thể hiện nếp sống văn hóa, phản ánh về tâm tư, nguyện vọng,
quan niệm của người Dao về các sự vật, hiện tượng và tất cả “hơi thở cuộc
sống” của họ. Mà đồng bào dân tộc Dao còn giữ bên mình nhiều phong tục
tập quán tốt đẹp, mang đậm hồn cốt dân tộc.
Tuy nhiên trước sự thay đối của cơ chế thị trường, trước làn sóng đô
thị hóa 0 ạt như hiện nay, diện mạo và giá trị văn hóa truyền thống của Việt
Nam nói chung, của đồng bào người Dao nói riêng dần thay đổi tạo nên
những mặt tiêu cực làm mất đi giá trị, ý nghĩa của những nét văn hóa trong
các phong tục đặc sắc, độc đáo. Điều đó đã ảnh hưởng đến công cuộc xây
dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Xuất phát từ tình hình
thực tiễn đó, tôi chọn đề tài


Ngủ thăm - M ột trong những nét vãn hóa đặc sắc của dân tộc Dao ”

2


2. Lịch sử vấn đề
Phong tục tập quán là một mảng văn hóa tinh thần không thể thiếu
trong đời sống sinh hoạt của người dân Việt Nam. Chính nhũng giá trị văn
hóa cội nguồn của dân tộc đã khắng định bản sắc và sự trường tồn của văn
hóa Việt. Tục “ngủ thăm” là một trong những nét văn hóa độc đáo đó. Đây là

một đề tài thu hút được nhiều tác giả quan tâm tìm hiếu và có nhiều công trình
nghiên cún về văn hóa nói chung và văn hóa người Dao nói riêng như:
Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc vẫn hóa Việt Nam , Nxb thành phố Hồ
Chí Minh
GS. TS. Mai Ngọc Chừ, Khái quát về văn hóa phương Đông
Những đặc điêm cơ bản của văn hóa người Dao
Và còn nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả khác nhưng nghiên
cứu vê “ngủ thăm ” - một trong những nét văn hóa đặc sắc của dân tộc Dao
thì chưa có hoặc nếu có thì cũng chỉ đề cập đến khía cạnh nhỏ.
Tuy nhiên công trình nghiên cún của các tác giả đi trước là cơ sở, là
nền tảng đế cho người viết và thế hệ mai sau học hỏi, tự hào với những giá trị
văn hóa độc đáo.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Phong tục là thói quen đã có từ lâu đời, đã ăn sâu vào đời sống xã hội,
được mọi người công nhận và làm theo. Cùng với các phong tục, tập quán
khác nhau, tục “ngủ thăm” góp phần làm cho văn hóa Việt Nam nói chung,
văn hóa người Dao nói riêng trở nên đặc sắc. Nên mục đích khi làm đề tài
khóa luận này là tác giả muốn hiểu được thế nào là tục “ngủ thăm”. Qua đó
biết được nhũng giá trị đặc sắc của phong tục này. Để từ đó đưa ra những giải
pháp nhằm bảo tồn giá trị văn hóa ý nghĩa, đồng thời khắc phục những biến
tướng của tục “ngủ thăm” trong xã hội hiện nay.
3


4. Mục đích nghiên cửu
Giúp bạn đọc có thế hiểu biết được về dân tộc Dao trên nhiều
phương diện. Đồng thời hiểu về nét đặc sắc của tục “ngủ thăm”. Ý nghĩa tốt
đẹp của tục “ngủ thăm”. Khắng định được những giá trị của tục “ngủ thăm”.
Từ đó giúp bạn đọc có cái nhìn khái quát về dân tộc Dao và tục “ngủ thăm”.
Qua đó khắng định sức sống lâu bền của giá trị văn hóa truyền thống.

5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Tục “ngủ thăm” của đồng bào dân tộc Dao
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Tục “ngủ thăm” của dân tộc Dao ở các tỉnh Trung du miền núi phía Bắc
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp tra cứu
Phương pháp tổng hợp
Phương pháp so sánh
Phương pháp truy vấn thông tin qua Internet
7. Bố cục cùa khóa luận
Ngoài phần mở đầu, nội dung, kết luận, thư mục tài liệu tham khảo,
phụ lục, khóa luận gồm 2 chương:
Chương 1: Khái quát chung
Chương 2: Tục “ngủ thăm” trong đời sống văn hóa của dân tộc Dao

4


NỘI DUNG

Chưong 1. KHÁI QUÁT CHUNG VÈ DÂN TỘC DAO
Ở VÙNG NÚI PHÍA BẮC

1.1. Sơ lược về người Dao ở vùng núi phía Bắc
1.1.1. Nguồn gốc
Theo kết quả nghiên cún của Đe án "Sưu tầm kiếm kê kho sách cồ
người Dao" do Tiến sĩ Trần Hữu Son (Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin Thể thao Lào Cai) chủ trì có đăng tải thì: Người Dao có nguồn gốc xa xưa ở
đảo Hải Nam. Họ bắt đầu di cư sang Việt Nam vào thời Lê (vào khoảng cuối
thế kỷ 17). Đe đến được đất Việt, sống ở vùng núi như ngày nay, người Dao

đã phải trải qua cuộc hành trình muôn phần gian khô vượt biển, vượt núi,
vượt sông. Điều này phản ánh rõ trong nhiều phong tục, nghi lễ của người
Dao và được ghi lại rất tỉ mỉ trong sách cố. Người Dao di cư sang Việt Nam
theo nhiều đợt từ đảo Hải Nam, qua Phòng Thành, tới Bắc Giang. Tới đây,
họ di chuyển theo các hướng khác nhau:
- Theo sông Lô tới Hà Giang hình thành nên người Dao Áo Dài.
- Theo sông Chảy tới Lào Cai, hậu duệ ngày nay gọi là Dao Tuyển
- Nhóm ở lại vùng Nga Hoàng thuộc Yên Lập, Yên Phúc một thời
gian, sau đó di chuyên tới Văn Chấn (Yên Bái), rồi Văn Bàn (Lào Cai) là tồ
tiên người Dao Quần Chẹt ngày nay.
Dân số khoảng một triệu người (năm 2009)
Người Dao cũng là một trong số 56 dân tộc thiếu số ở Trung Quốc
(tiếng Hán:

Pinyin: Yáo zú, nghĩa là Dao tộc) với dân số là 2.637.000

người. Dân tộc này cũng là mộl dân lộc thiếu số ử Lào, Myanma, Thái Lan.

5


Người Dao (các tên gọi khác: Mán, Đông, Trại, Dìu Miền, Kim Miền,
Lù Gang, Làn Tẻn, Đại Bản, Tiểu Bản, Cốc Ngáng, Cốc Mùn, Sơn Đ ầu..
Người Dao còn chia ra thành nhiều nhóm khác nhau, với những nét
riêng về phong tục, tập quán mà biếu hiện rõ rệt nhất là trên trang phục.
1.1.2. Địa bàn cư trú
Dân tộc Dao cư trú chủ yếu ở biên giới Việt-Trung, Việt-Lào và ở
một số tỉnh Trung du và ven biển Bắc Bộ Việt Nam. Cụ thể, đa phần tại các
tỉnh như: Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Quảng Ninh, Cao
Bằng, Bắc Kạn, Lai Châu, Hòa Bình,v.v.

Theo “Tống điều tra dân số và nhà ở” năm 2009, người Dao cư trú
tập trung tại các tỉnh: Hà Giang (109.708 người, chiếm 15,1% dân số toàn
tỉnh và 14,6% tổng số người Dao tại Việt Nam), Tuyên Quang (90.618 người,
chiếm 12,5% dân số toàn tỉnh và 12,1% tống số người Dao tại Việt
Nam), Lào Cai (88.379 người, chiếm 14,4% dân số toàn tỉnh và 11,8% tổng
số người Dao tại Việt Nam),Yên Bái (83.888 người, chiếm 11,3% dân số toàn
tỉnh và 11,2% tổng số người Dao tại Việt Nam), Quảng Ninh (59.156 người,
chiếm 5,2% dân số toàn tỉnh), Bắc Kạn (51.801 người, chiếm 17,6% dân số
toàn tỉnh), Cao Bằng (51.124 người, chiếm 10,1% dân số toàn tỉnh), Lai
Châu (48.745 người, chiếm 13,2% dân số toàn tỉnh), Lạng Son (25.666
người), Thái Nguyên (25.360 người)...
1.1.3. Nhà cửa
Ớ Việt Nam, người Dao về cơ bản có ba loại hình nhà ở chính : nhà
đất, nhà sàn (người Dao Quần Trắng ở Yên Bái) và nhà nửa sàn nửa đất
(người Dao Đỏ ở Tả Phin, Sa Pa, Lào Cai).
Người Dao không có thợ làm nhà chuyên nghiệp mà mọi người trong
thôn đều có thể làm được, kể cả phụ nữ. Người Dao có tập quán tương trợ lẫn
nhau từ lâu đời. Mỗi khi trong thôn có người làm nhà thì mọi người tới làm

6


giúp hoặc góp thêm nguyên vật liệu. Vì vậy, công việc được tiến hành rất
nhanh chóng.
Loại hình nhà đất
Nhà đất là loại hình nhà ở đã có từ rất lâu đời và phổ biến trong cuộc
sống của người Dao, nhà đất thường có ba hoặc năm gian đứng (không có
chái). Người ta cho rằng: Có ở nhà nền đất thì mới có chỗ đê cúng Bàn vương.
Bộ sườn của nhà nền đất được cấu tạo khá đơn giản. Thông thường, mỗi
vì kèo chỉ có hai hoặc ba cột, một quá giang và một bộ kèo đơn. Với người

Dao, nhà nền đất luôn mang tính chất bền vững, thích hợp với điều kiện sản
xuất tương đối ồn định ở miền núi ril'ng.
Loại hình nhà sàn
Nhà sàn phô biến ở những người Dao đã làm m ộng nước và sống gần
người Tày, Nùng, Việt hoặc ở nhũng thôn người Dao chuyên làm rẫy như:
Dao Thanh Y, Dao Áo Dài, Dao Slán Chỉ. Nhà sàn được cất lên trên các gò
đất thấp, dưới chân núi trong các thung lũng gần ruộng nước.
Tuy nhiên, dù thế nào thì nhà sàn của người Dao vẫn mang những nét
tiêu biểu riêng. Nhà sàn có sự thông gió trên mái và dưới sàn đế tránh ấm. Mái
nhà độc đáo theo phong cách của người Dao với những tấm xà lớn được trang
trí và lọp bằng lá cọ đảm bảo sự mát mẻ cho mùa hè nhưng lại ấm áp vào mùa
đông. Mái nhà được xử lý một cách tự nhiên bằng khói từ ô sưởi vuông trong
nhà, trong cách dựng nhà của người Dao có thể thấy sinh thái học hình thành
từ xa xưa trước cả trào lun về sinh thái.
Loại hình nhà nửa sàn-nửa đất
Nhà nửa sàn-nửa đất tập trung tại các làng người Dao sống bằng nương
rẫy du canh, cư trú trên đất dốc, vì thế nhũng ngôi nhà này chỉ là phương tiện
cư trú tạm thời.
Để làm nhà nửa sàn-nửa đất, người ta không phải bỏ ra nhiều công sức
đê san nền. Có thế nói, nhà nửa sàn-nửa đất không chỉ là một bước phát triến
7


của loại hình nhà nền đất mà là một biến dạng của nhà nền đất để thích ứng
với điều kiện sản xuất du canh du cư trên nền đất dốc.
Mặc dù có ba loại hình nhà ở khác nhau nhưng vẫn có thê nhận ra
những nét chung trong kiến trúc nhà ở người Dao. Đó là vị trí và cách bố trí
bên trong của một “gian đặc biệt” trong ngôi nhà. Gian này thường có vách
chắn theo chiều dọc của nhà và có một đoạn vách ngăn giữa nó với gian bên,
ở góc nhỏ này có bàn thờ, sau đoạn vách ngăn dọc là một buồng nhỉ thường đế

rư ợ u hay thịt ướp chua. Cách bố trí của gian nhà này là đặc trưng nhà ở của

người Dao.
Muốn làm nhà phải xem tuối những người trong gia đình, nhất là tuối
chủ gia đình. Nghi lễ chọn đất được coi là quan trọng. Buổi tối, người ta đào
một hố to bằng miệng bát, xếp một số hạt gạo tượng trưng cho người, trâu bò,
tiền bạc, thóc lúa, tài sản rồi úp bát lên. Dựa vào mộng báo đêm đó mà biết
điềm xấu hay tốt. Sáng hôm sau ra xem hỗ, các hạt gạo vẫn giữa nguyên vị trí
là có thể làm nhà được.
Nghi lễ Đạo để chọn đất cho một ngôi nhà mới là rất quan trọng. Vào
buối tối, hộ gia đình đào một lỗ nhỏ, cho vào đó vài hạt gạo đế xin về người,
bò, trâu, tiền và tài sản. Các gia đình đó sẽ biết được nơi để xây dựng nhà dựa
trên những giấc mơ của họ trong đêm. Đen buối sáng, các gia đình đào lỗ đó
sẽ đến xem nếu gạo vẫn còn thì sẽ xây dựng nhà ở đó. Nếu không, ngôi nhà sẽ
được xây dựng ở những nơi khác.
1.1.4. Hoạt động sản xuất
Nương, thổ canh hốc đá, ruộng là những hình thức canh tác phố
biến ở người Dao. Tuỳ từng nhóm, từng vùng mà hình thức canh tác này hay
khác nối trội lến như: Người Dao Quần Trắng, Dao Áo Dài, Dao Thanh Y
chuyên làm ruộng nước. Người Dao Đỏ thổ canh hốc đá. Phần lớn các nhóm
Dao khác làm nương du canh hay định canh. Cây lương thực chính là lúa, ngô,

8


các loại rau màu quan trọng như bầu, bí, khoai... Họ chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà
ở vùng lưng chừng núi và vùng cao còn nuôi ngựa, dê.
Nghề trồng bông, dệt vải phố biến ở các nhóm Dao. Họ ưa dùng vải
nhuộm chàm. Hầu hết các xóm đều có lò rèn để sửa chữa nông cụ. Nhiều nơi
còn làm súng hoả mai, súng kíp, đúc những hạt đạn bằng gang. Nghề thợ bạc

là nghề gia truyền, chủ yếu làm những đồ trang sức như vòng cồ, vòng chân,
vòng tay, vòng tai, nhẫn, dây bạc, hộp đựng trầu...
Nhóm Dao Đỏ và Dao Tiền có nghề làm giấy bản. Giấy bảndùng để
chép sách cúng, sách truyện, sách hát hay dùng cho các lễ cúng như viết sớ,
tiền ma. Nhiều nơi có nghề ép dầu thắp sáng hay dầu ăn, nghề làm đường mật.
1.1.5.

Ngôn ngữ và chữ viết
Ngôn ngữ của người Dao thuộc về người H ’Mông - Dao là ngôn

ngữ gia đình. Văn bản của họ được dựa trên ký tự Trung Quốc được điều
chỉnh đế thích ứng với chính tả của mình.
Có một số nhóm khác biệt trong phạm vi dân tộc Dao, và các nhóm
này cũng nói bằng một vài ngôn ngừ từ các ngữ hệ khác nhau, như:
Ngữ hệ Miêu-Dao
Người Miền nói các thứ tiếng Miền (tiếng Trung: ắỐSp/®, Hán-Việt:
Miễn ngữ), bao gồm:
Các ngôn ngữ Miền-Kim
- Tiếng Dìu Miền (Ư’u Miền), khoảng 818.685 người (383.000 người tại
Trung Quốc, 350.000 người tại Việt Nam, 40.000 người tại Thái Lan, 20.250
người tại Lào, 70.000 người tại Hoa Kỳ)
- Tiếng Kim Môn (còn gọi là tiếng Dao đồng bằng, tiếng Làn Tẻn,
tiếng Lam Điện), trên 300.000 người Dao
- Phương ngữ Phiêu Man, 20.000 người
- Phương ngữ Tảo Mần, 60.000 người
- Tiếng Miền Phiêu-Giao, 43.000 người
Tiếng H ’Mông (hay tiếng Miêu)
9



- Tiếng Bố Nỗ, 258.000 người
- Phương ngữ Ngô Nại, 18.442 người
- Phương ngữ Ưu Nặc, 9.716 người
- Phương ngữ Huỳnh Nại, 1.078 người
Một số ngôn ngữ từ các ngữ hệ khác
Một vài nhà ngôn ngữ học gộp nhóm các ngôn ngừ trên, với tông cộng
trên 287.000 người, cùng nhau như là các phương ngữ của tiếng Bố Nỗ

(*??).
Hệ ngôn ngữ Tai-Kadai
Tiếng Lạp Già (ÍẺĩj]PfỒ/ỈÌ®PÌâ, 12.000 người
Tiếng Trung: Khoảng 500.000 người Dao nói các phương ngữ của
tiếng Trung
Ngưòi Dao có chữ viết gốc Hán được Dao hóa (chữ Nôm Dao).
1.1.6. Tổ chức xã hội
Những người đàn ông Dao đóng một vai trò thống trị trong gia đình,
họ là người chia sẻ với cộng đồng và quản lý về kinh tế. Họ cũng đóng một vai
trò quan trọng trong các nghi lễ như hôn nhân, đám tang, và xây dựng nhà mới.
Người Dao có rất nhiều cái tên về gia đình khác nhau. Mỗi dòng họ có hệ
thống tên riêng của mình đế phân biệt giữa người của các thế hệ khác nhau.
Trong thôn xóm tồn tại chủ yếu các quan hệ xóm giềng và quan hệ
dòng họ. Người Dao có nhiều họ, phồ biến nhất là các họ Bàn, Đặng, Triệu.
Các dòng họ, chi họ thường có gia phả riêng và có hệ thống tên đệm đế phân
biệt giữa nhũng người thuộc các thế hệ khác nhau.
1.2. Khái quát về văn hóa, tín ngưỡng của người Dao
1.2.1. Đặc điểm văn hóa
1.2.1.1. Trang phục
Mỗi dân tộc đều có một trang phục mang những nét đặc sắc riêng của
mình. Nhìn vào trang phục ta có thế biết được đó là dân tộc nào. Người Dao
cũng vậy, trang phục của người Dao không chỉ biếu hiện tính cần cù, nhẫn nại


10


và bàn tay khéo léo, trí tưởng tượng phong phú cùng với con mắt thấm mỹ.
Mà còn về nghệ thuật rất tinh tế trong việc sử dụng màu sắc, bố cục cân đối
hài hòa, vui tươi, trong sáng. Điều này góp phần tô điếm thêm cho bản sắc
riêng vốn có của dân tộc Dao. Trang phục của họ như đóa hoa ngời sắc giữa
núi rừng mà không lẫn với bất cứ dân tộc nào.
Dựa vào đặc thù quần của nữ giới được may bó sát vào đùi, bắp
chân vấn xà cạp thì ta biết được đó là Dao Quần Chẹt. Trang phục nữ Dao
Quần Trắng có đặc điểm nổi bật là yếm rất to che kín cả ngực và bụng, tên
gọi Dao Quần Trắng bắt nguồn từ phong tục trong lễ cưới phải mặc quần
trắng. Người Dao Làn Tuyển mặc áo dài, đội mũ nhỏ như cái đấu gỗ.
Và đặc biệt hơn trong các nhóm Dao thì trang phục của người Dao
Đỏ thường được làm cầu kỳ và sử dụng nhiều màu sắc hơn cả.
Với người phụ nữ Dao Đỏ, chuyện ăn mặc rất được coi trọng, trang
phục của họ thể hiện sự sáng tạo, tinh tế trên từng đường kim, mũi chỉ.
Người Dao thường trồng bông trên núi, họ tranh thủ những lúc nông
nhàn, không phải lên nương, rẫy để bật bông, ép hạt, se sợi, dệt vải và may
trang phục. Thường vào tháng Một, tháng Hai, khi những cánh đồng ít sương
muối, họ tranh thủ gieo hạt, để đến ngày lấy bông, họ cho vào nồi đun qua
nước sôi rồi ngâm vào nước lạnh, sau đó mới kéo thành sợi, dệt vải.
Theo quan niệm dân gian của người Dao Đỏ, bộ trang phục hay gọi là
“Luy hâu” bao gồm: Khăn, mũ, áo, quần, thắt lưng , xà cạp, giầy dép và các
đồ trang sức khác đi kèm. Đe tạo thành bộ y phục đẹp, cầu kỳ phải có đúng
năm màu cơ bản phối vào nhau, nhưng chủ yếu là màu đỏ để làm phụ tiết. Họ
tìm thấy trong thiên nhiên như: c ỏ , cây, hoa lá, các loài động vật... Để tạo
nên những họa tiết cho bộ trang phục thêm đẹp và rực rỡ.



Lu y dao, hay áo khoác ngoài
Không có thắt lưng và dài đến mắt cá chân. Đuôi tà áo sau là phần

được trang trí nhiều nhất. Ngoài ra phần được trang trí là phần tay áo và vạt

11


của tà áo phía trước. Trên lưng là một họa tiết thêu hình chữ nhật gọi là luy
tan. Chiếc áo là điểm nhấn và là phần quan trọng nhất của bộ trang phục.
Người Dao Đỏ thường dùng vải lanh nhuộm chàm để may trang phục. Công
đoạn nhuộm chàm rất cầu kỳ, đòi hỏi sự kiên trì và kinh nghiệm: Vải sau khi
dệt xong sẽ ngâm trong nước lá chàm khoảng ba mươi phút rồi đem ra phơi
khô, sau đó lại tiếp tục đưa vào nhuộm nước lá chàm. Công đoạn này kéo dài
một tháng mới được một tấm vải ưng ý, bền và không bị phai màu. Chiếc áo
dài có màu chàm hoặc màu đen thường được may dài đến gần đầu gối, khi
mặc, vạt áo phải đè chéo lên vạt áo trái, c ố áo được thiết kế theo hình chữ V
có thêu hoa văn được nẹp liền với ngực, thêu kín các họa tiết trang trí bằng chỉ
màu đầu ống tay áo được trang trí các họa tiết hình sôm, hình dấu chân hổ,
hình răng cưa, hình quả trám, hình thập... Nẹp ngực mỗi bên đính bảy quả
bông len đỏ và các tua len được đính ở nơi xẻ tà.
Trong nghệ thuật thêu hoa văn, nồi bật trên màu chàm là nền hoa văn
được thêu bằng chỉ ngũ sắc. Người phụ nữ Dao Đỏ có cách thêu rất độc đáo,
không theo mẫu vẽ phác thảo trước mà thêu theo trí tưởng tượng và trí nhớ của
mình.
Hoa văn được thêu trên áo là những hoa văn sặc sỡ lấy ý tưởng từ núi
rừng thiên nhiên mang đầy đủ yếu tố tạo hình. Các họa tiết trang trí trên áo là
những hình cỏ cây, hoa lá, là những gì mà người Dao cảm nhận được trong
cách sinh hoạt hàng ngày. Cùng ý tưởng đó nhưng trên mỗi bộ trang phục, hoa

văn không giống nhau bởi mỗi người có một cách làm và gửi vào tác phấm
của mình những nỗi niềm khác nhau.
Mô típ thêu là các hình ảnh quen thuộc với cuộc sống như: Rừng
núi, cây cối, hoa lá. Công đoạn thêu trang trí hoa văn cho trang phục đòi hỏi
sự khéo léo, tỉ mỉ, kiên trì. "Để hoàn thiện một bộ trang phục của người phụ
nữ Dao Đỏ phải mất ít nhất ba tháng, từ khâu dệt vải, nhuộm chàm đến thêu
hoa văn trang trí".
12


Các họa tiết ở tay thường cửa tay áo, nẹp xung quanh tà áo trước và
sau đều được thêu bằng chỉ màu đỏ và trắng. Riêng ở gấu vạt trước và sau
người ta thêu hai nẹp tách rời nhau, trông xa như hai áo mặc lồng nhau, áo
ngoài ngắn hơn áo trong.
Sau lưng áo của phụ nữ Dao cũng có phần thêu hoa văn. Ö phần thêu
này, người Dao cho rằng sẽ làm chiếc áo thêm đẹp, thêm độc đáo và đế dễ
phân biệt dân tộc Dao với các dân tộc khác.
Áo người Dao có hai tà và phần cầu kỳ nhất để làm nên sự độc đáo
trong chiếc áo của phụ nữ Dao chính là những nét hoa văn được thêu ở phần
đuôi áo. Người Dao cho rằng: Nhìn áo để biết người phụ nữ khéo hay không,
nhìn áo để biết người phụ nữ có đảm đang hay không chính là nhìn vào cách
thêu hoa văn ở phần đuôi áo mà người phụ nữ mặc.


Chap hoong, hay cái yếm
Họ cũng biết làm duyên bằng chiếc áo nhỏ bên trong của chiếc áo dài,

phụ nữ Dao Đỏ còn mặc áo con, giống như cái yếm, mặc bên trong che kín cả
ngực và bụng, cổ tròn mở sau gáy, họa tiết tập trung ở phía ngực, cổ và lưng
áo. Được mặc trong áo khoác ngoài, yếm được trang trí Thường họ thêu hoặc

đính cúc hoa bạc theo chiều dọc ở giữa áo, mặc bên trong chiếc áo dài. Các
họa tiết thường được các hoa văn được kết hợp rất hài hòa, đẹp mắt, và có
những đường thêu bằng chỉ trắng và vàng.


La sin, hay thắt lưng
Giữa eo của thân áo được thắt dây lưng, dệt bằng vải màu đỏ, màu xanh

hoặc dây xà tích hay còn văn trang trí trên dây lưng tập trung ở hai đầu gồm
các họa tiết hình dấu chân hổ, hình cây thông, hình người mặc váy... Khi thắt
dây lưng phải cuốn từ ba đến bốn vòng và buộc chặt ở phía sau, giữ cho áo
khoác luôn được buộc kín.


La peng, hay quần dài

13


Chiếc quần dài độc đáo bởi được dệt bằng vải thô, nhuộm màu chàm
hoặc bằng vải đen và thêu hoa văn. Và đế thấy độ tinh xảo, kỹ thuật thêu cầu
kỳ phải kể đến chiếc quần.
Phía trên quần màu đen tuyền, không có hoa văn, nhưng ở phía dưới,
họa tiết được thêu rất tỉ mỉ. Những hoa văn trang trí ở hai ống quần thường là
hình vuông, hình chữ nhật màu đỏ, vàng, trắng hay hình cây thông, hình quả
trám... Tạo nên một sự cân đối hài hòa cho toàn bộ trang phục.
Khi mặc, quần phần trên màu đen không có hoa văn, quấn bằng dây,
thắt lưng, phần dưới của hai ống quần với các hoa văn, họa tiết đã tạo nên sự
cân đối hài hòa cho toàn bộ y phục.



Khăn trùm đầu
Khăn trùm đầu là phụ kiện quan trọng để nhận biết người phụ nữ Dao.

Bố mẹ có con gái thường cho cô đội khăn lúc cô mười ba tuổi, đủ tuổi để đi
chợ phiên và bắt đầu tìm hiếu bạn khác giới. Khăn trùm được trang trí với các
đồng xu và chuông bạc. Một cái khăn có thể có hai mươi đến hai mươi lăm lớp
vải màu đỏ hình chữ nhật. Nó được xếp lại, có các nếp gấp và thẳt thành cho
tròn trịa, hình dạng tròn. Người phụ nữ cạo hai bên mai tóc của mình để đảm
bảo tóc không lộ ra bên dưới khăn, mặc như vậy không chỉ để làm đẹp, mà còn
đế chống lại những cơn gió lạnh và sương mù của Sapa.
Người ta dễ dàng phân biệt được phụ nữ Dao Đỏ với các phụ nữ Dao
khác qua chiếc khăn đỏ đội đầu sặc sỡ. Khăn đội đầu được người Dao Đỏ trang
trí hình vết chân hổ, cây vạn hoa, hình cách đoạn... Chiếc khăn đội đầu được
người Dao Đỏ trang trí hình vết hố, cây vạn hoa, hình cách đoạn... Hoa văn ở
trên khăn từ ngoài vào có năm lóp, năm lóp này được bao khuôn ổ vuông ở
trung tâm "điểm" của khăn. Khi đội lên đầu, các hoa văn họa tiết của năm lớp
hoa văn sẽ phô ra ngoài, làm tăng thêm vẻ đẹp của chiếc khăn. Tua len làm
bằng sợi len có tua rua bằng sợi tơ đỏ, ở lóp ngoài với nhiều màu, không chỉ có

14


tác dụng thẩm mỹ mà còn giúp để khi vấn giữ cho khăn chặt hơn. Các họa tiết
trên tua len gồm có hình sôm, hình gấp khúc, hình cây thông.


Chiếc xà cạp
Và cuối cùng là chiếc xà cạp. Hoa văn chủ yếu là hình răng cưa, hình


cây thông, hình quả trám vuông chữ “vạn” . . .viền có các tua len màu đỏ, khi đã
mặc áo, quần, thắt lưng thì cuốn tạp dề ở ngoài cùng. Thắt tạp dề không những
đế che phần vải không thêu hoa văn của áo dài mà còn tăng thêm vẻ đẹp sang
trọng của bộ lễ phục.
Trang phục nam giới
Nam giới Dao Đỏ mặc hai áo: Ngắn và dài. Hoa văn trên áo ngắn tập
trung chủ yếu ở phần ngực, cô và lưng áo để khi mặc áo dài trùm bên ngoài,
nhũng nơi đó không bị che lấp, các họa tiết hoa văn tinh tế sẽ được phô ra
ngoài. Phần cánh tay được thêu và luy tan ở sau lưng. Đàn ông thường đội
khăn choàng đầu được thêu trang trí và đó cũng là phụ kiện không thế thiếu
trong dịp lễ tết.
Mũ trẻ em của người Dao
Những bé trai và gái người Dao đội những cái mũ riêng biệt được
thêu trang trí. Bé trai thì đội mũ được trang trí với các khuy rời bằng bạc và
đồng xu, còn bé gái thì đội mũ được trang trí với các họa tiết thêu.
1.2.1.2. Ẩm thực
Người Dao thường ăn hai bữa chính trong ngày, bữa trưa và bữa
tối. Chỉ những ngày mùa bận rộn mới ăn thêm bữa sáng. Người Dao ăn cơm là
chính, ở một số nơi lại ăn ngô nhiều hon ăn cơm hoặc ăn cháo, c ố i xay lúa
thường dùng là loại cối gỗ đóng dăm tre. c ố i giã có nhiều loại như cối gỗ hình
trụ, cối máng giã bằng chày tay, cối đạp chân, cối giã bằng sức nước. Họ thích
ăn thịt luộc, các món thịt sấy khô, ướp chua, canh măng chua. Khi ăn xong,
người ra kiêng đế đũa ngang miệng bát vì đó là dấu hiệu trong nhà có người
chết.
15


Giống như một số tộc người anh em, người Dao cũng thường xuyên
đồ xôi đế ăn trong những ngày Tet và lễ như: lễ vào nhà mới, lễ cưới hoặc
trong nhũng ngày gia đình nhờ anh em giúp cây mộng, gieo trồng ngô lúa,

làm chuồng trại gia súc. Đặc biệt, trong Tet Thanh minh nhiều nhà còn đồ xôi
nhiều màu.
Ngoài các nguồn lương thực chính là gạo và ngô, người Dao cũng có
nhiều món chế biến từ thịt và cá rất đa dạng.
Đối với các món rau, trong các món thức ăn hàng ngày, món rau nấu
canh mặn hoặc nhạt là món chính. Bất kể loại rau nào cũng được người Dao
đem nấu canh, chẳng hạn như: Rau cải, cà chua, bắp cải, đu đủ, su su, rau bí,
rau rền, măng, mướp, bầu, bí, khoai sọ.... Các loại rau như: Mùi khai, ngọn
khoai lang, lá non của cây sắn, rau cải làn, rau đớn thường được xào, ít dùng
nấu canh. Tuy gọi là rau xào nhưng vẫn phải cho một ít nước đê đun cho rau
chín, tránh cho rau bị cháy. Hiện nay, do ảnh hưởng văn hoá, người Dao cũng
ưa thích món rau luộc. Rất nhiều loại rau như: Rau cải, bắp cải, su hào, rau
rền được họ đem luộc ăn với nước chấm.
Người Dao có tập quán uống rượu từ lâu đời. Tuy vậy, chỉ có đàn
ông Dao là hay uống rượu, nhất là khi nhà có khách. Còn nữ giới chỉ uống
rượu thuốc đế chữa bệnh hoặc trong dịp lễ Tet cũng như lúc có bạn bè.
Nước uống thường ngày của người Dao là nước lã đun sôi với một
loại rễ, lá cây rừng hoặc hạt vối, vừa mát vừa bố. Hiện nay, nhiều gia đình
người Dao đã tự trồng chè nên nước chè xanh cũng bắt đầu trở thành đồ uống
phổ biến của họ.
Theo tập quán, cứ đến bữa ăn chính, tất cả các thành viên trong gia
đình đều phải ngồi vào mâm cùng ăn uống,

về

vị trí ngồi, hàng phía trên là

nơi ngồi của đàn ông, còn hàng phía dưới hoặc tiếp giáp bếp là chỗ ngồi của
phụ nữ và trẻ con. Việc chia ra thành nhiều mâm để ăn uống thường chỉ xảy ra
khi trong nhà có khách hoặc các thành viên quá đông, không đủ chỗ ngồi ăn

16


cùng mâm. Tuy vậy, hiện nay cũng có một số gia đình thích chia ra thành hai
mâm đế ăn uống cho thuận tiện. Khi đó, mâm trong gian bếp có bà, mẹ cùng
con dâu và các cháu nhỏ, còn mâm trong gian khách có ông, bố cùng các con
trai và các cháu trai lớn tuôi.
Trong ăn uống của người Dao, khi mọi người ngồi vào mâm phải chờ
cho đủ cả gia đình mới được cầm bát đũa. Người Dao có thói quen trong bữa
ăn mời, nhường nhịn và gắp thức ăn cho nhau. Bố mẹ gắp cho ông bà và con
cái, ông bà gắp cho các cháu nhỏ. Khi thịt gà dù to hay bé đều đành bộ gan
cho ông bà, đùi chân cho những đứa trẻ bé nhất, còn đầu cánh đế cho những
đứa lớn hơn.
Trong bữa ăn, nếu có khách chủ nhà cũng không quên mời và luôn tay
gắp miếng ăn ngon cho khách. Đúng theo tập quán trước kia, người Dao vừa
ăn cơm vừa uống rượu, khách thường nhấc chén uống rượu mỗi khi chủ nhà
nâng chén mời nhưng không chạm chén. Do vậy, khách cần dựa theo khả năng
của mình mà uống nhiều hay ít mỗi khi nhấc chén uống rượu. Khi uống cạn
chén khách cứ tự nhiên để cho chủ nhà rót rượu xuống. Neu cảm thấy không
muốn uống nữa thì lấy tay đẩy nhẹ miệng chai lên mỗi khi thấy chủ nhà định
rót rượu xuống chén của mình. Khi ăn cơm xong hoặc đang ăn không được đế
đũa lên miệng bắt, bởi vì họ quan niệm rằng chỉ trong nhũng ngày ma chay
hoặc xới cơm cúng vong hồn người chết mới được để đũa như vậy.
Đối với các nghi lễ của người Dao như đám cưới, vào nhà mới, đám
ma, có một số món ăn thường được chế biến theo chuân mực đã được tập quán
cộng đồng quy định. Chẳng hạn, trong đám cưới thường phải có các món như:
xôi, thịt lợn luộc, thịt gà thiến, xương lợn nấu với một số món như măng, đậu
tương hầm... Nhìn chung, nếu đám cưới to thì có khá nhiều món và được chế
biến như trong những ngày Tet Nguyên đán. Trong lễ cấp sắc, họ thường ăn
thịt lợn, thịt gà cùng với một số món như cá suối và thịt sóc để cúng lễ. Còn

trong đám ma có thịt lợn luộc, thịt lọn xào, rau cải nấu, nhất thiết phải có món
17


đu đủ nấu hoặc bi chuối rừng nấu với xương lọn. v ề cách sắp xếp số lượng
người ngồi ăn trong mâm, vị trí ngồi, ngôi thứ, vị thế trong dòng họ, chỗ ngồi
theo tuối tác và địa vị của khách... Thì tuỳ theo sự quy định của tùng loại nghi

Người Dao rất hay làm bánh, vào những dịp lễ tết, cũng như ngày
thường. Bánh của họ có rất nhiều loại, cách làm cũng sáng tạo, phong phú.
1.2.1.3. Văn hóa, lễ hội dân gian
Người Dao có vốn văn nghệ dân gian rất phong phú, nhiều truyện
cổ, bài hát, thơ ca. Với hai mươi ba truyện thơ như: "Hàn Bằng”, "Đàm
Thanh”, "Bát Nương", "Lâu Cảnh", "Trạng Nghèo", "Đô Nương truyện",
"Đặng Nguyên Huyện truyện", "Bá Giai truyện", "Thần sắt ca”... Đặc biệt
truyện “Quả bầu” với nạn hồng thuỷ. Sự tích Bàn Vương rất phô biến trong
người Dao.Trong số đó, truyện thơ kê về hành trình tìm đất vất vả của người
Dao chiếm số lượng nhiều hơn cả. Bên cạnh đó, người Dao còn có kho tàng tri
thức dân gian vô cùng phong phú, đặc biệt là y học cố truyền.
Mỗi năm người Dao cũng có những lễ hội đặc biệt như: “Hội Tet,
nhảy múa” tố chức vào ngày mồng một và mồng hai tháng Giêng; “Hát hội
giao duyên” vào ngày mồng mười tháng Giêng ở bản Tả Phin, cách thị trấn Sa
Pa khoảng mười hai cây số. Bản này nối tiếng với các loại thồ cẩm đủ màu sắc
và kiểu dáng do bàn tay khéo léo của phụ nữ H ’Mông hoặc phụ nữ Dao tạo
nên. Đặc biệt, họ có bài thuốc tam bằng lá cây rừng của tồ tiên người Dao Đỏ
truyền lại đến ngày nay, rất tốt cho du khách đi đường xa mệt mỏi.
Âm nhạc, múa là một thành tố văn hóa, một giá trị sáng tạo văn hóa
trong đời sống tinh thần của người Dao. Có thể nói nghệ thuật ca múa của
người Dao mang tính giáo dục, sự kế thừa nền văn hóa truyền thống, ý thức
nguồn gốc cộng đồng cao. Cùng với thời gian nghệ thuật ca muá của họ đã,

đang và sẽ tồn tại mãi với một niềm tự hào mà không phải bất cứ một dân tộc
nào cũng có được.
18


×