Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Chủ đề văn hóa thời kỳ văn lang - âu lạc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.74 KB, 21 trang )

BÀI THUYẾT TRÌNH NHÓM 1
Chủ đề:

Văn hoá thời kỳ Văn Lang- Âu Lạc
I/ Sơ lược về thời kỳ tiền sử
1. Thời kỳ đồ đá
a. Hậu thời đại đồ đá cũ:
Văn hóa Sơn Vi, phân bố rất rộng trong các hang động và thềm sông cổ từ Lào
Cai đến Nghệ An. Những nhóm cư dân nguyên thủy này sinh sống bằng hái
lượm và săn bắt trong một hệ sinh thái miền nhiệt - ẩm với một thế giới động
vật và thực vật phong phú, đa dạng.
b. Thời đại đồ đá mới:
- Văn hóa Hòa Bình:
+ Hòa Bình, một địa danh bên dòng sông Đà, là nơi đầu tiên các nhà khảo cổ
học khám phá ra một nền văn hóa thuộc cuối thời đồ đá cũ đến thời đồ đá mới
trên một vùng ảnh hưởng rộng lớn thuộc Đông Nam Á và Nam Trung Hoa.
+ Cụm từ này được dùng để nói đến nền văn hóa cuội được ghè đẽo trên khắp
chu vi hòn cuội để tạo ra những dụng cụ từ thời đá cũ đến thời đá mới.
+ Gồm 3 giai đoạn: Hòa Bình sớm, Hòa Bình giữa, Hòa Bình muộn.
- Văn hóa Bắc Sơn
+ Là tên gọi một nền văn hóa Việt Nam ở sơ kỳ thời đại đồ đá mới có niên đại
sau nền văn hóa Hòa Bình, cách ngày nay từ một vạn đến 8000 năm. Bắc Sơn là
1


đặt theo tên huyện Bắc Sơn, nơi phát hiện đầu tiên những di vật của nền văn hóa
này.
+ Không gian của văn hóa Bắc Sơn là các miền đất thuộc các tỉnh Lạng
Sơn, Thái Nguyên, Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An... ngày
nay. Tính đến năm 1997, đã có 51 điểm văn hóa Bắc Sơn được tìm thấy và khai
quật. Trong số đó, có 8 địa điểm tìm thấy di cốt người.


2. Thời đại đồ đồng đá
Địa bàn: Các địa điểm văn hoá Phùng Nguyên phân bố tập trung ở khu vực hợp
lưu của các con sông lớn: Sông Hồng, Sông Đà, Sông Lô và Sông Đáy tức vùng
Phú Thọ và Nam Vĩnh Phúc, Đông Bắc Hà Tây, Hà Nội, vùng Nam Bắc Ninh.
Cư dân Phùng Nguyên là những người đã định cư ổn định và sống theo từng
cụm dân cư làng xã chặt chẽ và đã thực sự có những khu vực sản xuất thủ công,
mỹ nghệ.
Di vật: đá, gốm, xương, đồng
Công cụ sản xuất của cư dân Phùng Nguyên chủ yếu làm bằng đá, đều được mài
nhẵn, kích thước nhỏ nhắn, đa dạng và tinh tế, được chế tác từ các loại đá quý
hiếm, độ rắn cao, màu sắc đẹp. Các kỹ thuật chế tác như ghè đẽo, cưa, khoan,
mài, tiện… đều đạt tới một trình độ điêu luyện cao.
Việc phát hiện ra di chỉ ở Phùng Nguyên thuộc về các nhà khảo cổ học Việt
Nam (năm 1959). Giai đoạn này các nhà khảo cổ học chưa tìm thấy nhiều các
hiện vật bằng đồng. song cư dân Phùng Nguyên đã biết đến nghề luyện đồng.
Trong một số di chỉ Phùng Nguyên đã tìm thấy những cục đồng nhỏ, gỉ đồng và
xỉ đồng.
Gốm Phùng Nguyên được xem là đỉnh cao của nghệ thuật gốm Việt Nam thời
sơ sử.
2


Niên đại: Niên đại mở đầu từ cuối thiên niên kỷ III TCN, đầu thiên niên kỷ II
TCN và kết thúc vào khoảng nửa đầu thiên niên kỷ II TCN, tức cách đây
khoảng từ 3.000 đến 4.000 năm.
3. Thời đại đồ đồng
- Văn hóa Đồng Đậu:
* Di tích: Các di tích tập trung ở những đồi gò không cao, bên các đầm hồ, ven
lưu vực các sông suối như sông Hồng, sông Lô, sông Đà và sông Đuống thuộc
các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Hà Tây, Bắc Ninh, Bắc Giang

Cư dân Đồng Đậu làm nông nghiệp. Họ làm ruộng nước và ruộng khô quanh
nơi cư trú. Điều kiện khí hậu và môi trường rất thuận lợi cho việc phát triển nền
nông nghiệp đa canh, nguồn gốc từ văn hóa Phùng Nguyên. Niên đại 35003000 cách ngày nay.
* Di vật: đồ đá vẫn chiếm một tỉ lệ đáng kể. Tuy vậy có thể thấy sự suy thoái về
chất liệu cũng như kỹ thuật chế tác. kỹ thuật luyện kim đúc và chế tác đồ đồng
có sự phát triển đột biến. Đồng được chế tác tại chỗ. Hầu hết ở các khu di tích
văn hoá Đồng Đậu đều tìm thấy dấu vết của nghề đúc, luyện đồng như khuôn
đúc, nồi nấu đồng. Qui mô nghề luyện đồng ở Đồng Đậu không lớn - theo kiểu
hộ gia đình trong một làng.
- Văn hóa Gò Mun
+ Ước chừng trong khoảng thời gian từ năm 1.000 - năm 700 TCN, thuộc
cuối thời kỳ đồ đồng. Nền văn hóa này được đặt theo tên của địa điểm mà vào
năm 1961, các nhà khảo cổ học đã khai quật được nhiều di chỉ của nền văn hóa
này, gò Mun, xã Tứ Xã, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ.

3


+ Văn hóa Gò Mun được nhìn nhận như là nền văn hóa tiền văn hóa Đông Sơn.
Thời kỳ này, người Việt cổ đã có những chuyển biến rõ rệt về một xã hội phúc
tạp và giàu có, thúc đẩy việc ra đời nhà nước sơ khai của người Việt.
+ Chủ nhân VHGM là cư dân nông nghiệp. Công cụ và vũ khí bằng đồng khá
đa dạng, gồm rìu, liềm, dao, giáo, lao, mũi tên, vv. Đồng cũng được dùng làm
chuông, vòng tay, khuyên tai, trâm cài và tượng động vật. Đồ gốm có độ nung
cao. Phổ biến nhất là các loại bình, nồi có miệng loe gãy và trang trí hoa văn
khắc vạch phía trong miệng.
4. Thời đại đồ sắt
- Văn hóa Đông Sơn: Đây là giai đoạn chuyển tiếp từ sự phát triển rực rỡ của
đồ đồng đạt đến mức hoàn hảo cả về mặt kỹ thuật và mỹ thuật sang sơ kỳ đồ sắt.
Giai đoạn cuối của văn hóa Đông Sơn kéo dài đến vài ba thế kỷ sau Công

nguyên. Có những nghiên cứu cho rằng trên cơ sở văn hóa Đông Sơn nhà nước
văn minh đầu tiên của người Việt, nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng và nối
tiếp là nhà nước Âu Lạc của An Dương Vương đã phát triển, trước khi bị ảnh
hưởng của nền văn minh Hán. Theo đánh giá của các nhà khoa học, thì nền Văn
hóa Đông Sơn là sự phát triển liên tục và kế thừa từ các thời kỳ tiền Đông Sơn
trước đó là Văn hóa Phùng Nguyênđến Văn hóa Đồng Đậu và Văn hóa Gò
Mun.
- Văn hóa Sa Huỳnh
- Văn hóa Ốc Eo
II/ Sự hình thành nhà nước Văn Lang - Âu Lạc
1. Lịch sử hình thành nhà nước Văn Lang
Theo truyền thuyết thì cách đây từ rất lâu đời, có Lạc Long Quân thuộc dòng
dõi Rồng ở dưới biển, sức khỏe lạ kì. Lạc Long Quân đã từng trừ các loài thủy
4


quái, hồ tinh hung dữ và dạy cho dân biết làm nhà, cày cấy.Dân cảm ơn công
đức ấy và dựng cho Lạc Long Quân một tòa cung điện lộng lẫy dưới đáy biển.
Một hôm, trong chuyến đi chơi thăm phong cảnh đất nước. Lạc Long Quân gặp
nàng Âu Cơ thuộc dòng dõi Tiên ở trên trời, đẹp người đẹp nết. Âu Cơ cũng
phục tài và đức của Lạc Long Quân. Thế là hai người kết duyên với nhau thành
vợ chồng. Chẳng bao lâu, Âu Cơ có mang, đẻ ra một bọc có một trăm quả trứng.
Bảy ngày sau, cái bọc ấy nở ra một trăm người con trai khỏe mạnh, khôi ngô và
thông minh. Năm tháng trôi qua, cả nhà sống đầm ấm. Nhưng Lạc Long Quân
vẫn nhớ biển, bèn hóa thành rồng bay trên mây xuôi về phía Đông. Âu Cơ và
đàn con ở lại. Vợ nhớ chồng, con nhớ bố, họ bèn trèo lên đỉnh núi cao gọi Lạc
Long Quân trở về Lạc Long Quân lại từ biển lên núi gặp Âu Cơ. Hai người bàn
với nhau: “Rồng với Tiên là hai dòng dõi quen sống ở hai vùng khác nhau, ta
nên chia đôi đàn con. Một nửa theo mẹ lên núi, một nửa theo cha xuống biển.
Khi nào gặp nguy biến thì báo cho nhau biết để cứu giúp nhau, chứ đừng quên

nhau”. Thế là hai người cùng hai bầy con chia tay nhau. Kẻ lên rừng vỡ hoang
trồng lúa. Kẻ xuống biển đóng thuyền đánh cá làm ăn. Cuộc sống mỗi ngày một
ấm no, hạnh phúc.Riêng người con trai cả ở lại đất Phong Châu, được tôn làm
vua nước Văn Lang. Đó là vua Hùng thứ nhất. Rồi mười tám đời vua Hùng kế
tiếp nhau trị vì, mở mang bờ cõi, dân càng giàu, nước càng mạnh.
Vào khoảng các thế kỉ VIII - VII TCN, ở vùng đồng bằng ven các sông lớn
thuộc Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay, đã dần dần hình thành những bộ lạc
lớn, gần gũi nhau về tiếng nói và phương thức hoạt động kinh tế, sản xuất phát
triển. Trong các chiềng, chạ, một số người giàu lên, được bầu làm người đứng
đầu để trông coi mọi việc ; một số ít nghèo khổ, phải rơi vào cảnh nô tì. Mâu
thuẫn giữa người giàu và người nghèo đã nảy sinh và ngày càng tăng thêm.
Việc mở rộng nghề nông trồng lúa nước ở vùng đồng bằng ven các con sông lớn
gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, cần phải có người chỉ huy đứng ra tập hợp nhân
dân các làng bản chống lại lụt lội, bảo vệ mùa màng. Đất đai ở các vùng không
5


giống nhau nên cuộc sống của người dân cũng khác nhau. Các làng bản có giao
lưu với nhau nhưng cũng có xung đột. Xung đột không chỉ xảy ra giữa người
Lạc Việt với các tộc người khác mà còn giữa các bộ lạc Lạc Việt với nhau, cần
phải giải quyết các cuộc xung đột đó để sống yên ổn ổn. Nhà nước Văn Lang đã
ra đời trong hoàn cảnh phức tạp nói trên.
2. Lịch sử hình thành nước Âu Lạc
Từ trước cuộc xâm lăng của quân Tần, giữa vua Hùng và họ Thục đã xảy ra một
cuộc xung đột kéo dài chưa phân thắng bại. Trong bối cảnh đó, cuộc xâm lăng
của quân Tần xảy ra ồ ạt. Đứng trước tình hình mới, hai bên chấm dứt xung đột,
cùng chiến đấu chống ngoại xâm. Cuộc chiến đấu kéo dài 5 đến 6 năm đã thắt
chặt quan hệ đoàn kết gắn bó vốn có người Tây Âu và người Lạc Việt. Kháng
chiến thắng lợi, Thục Phán với tư cách người chỉ huy chung đã được thay thế
Hùng Vương làm vua, đặt tên nước mới là Âu Lạc. Quốc gia Âu Lạc ra đời

khoảng đầu thế kỷ III tr.CN. Nước Âu Lạc là bước kế tục và phát triển cao hơn
của nước Văn Lang và trên một phạm vi rộng lớn hơn của người Việt và người
Tây Âu. Tổ chức bộ máy nhà nước và các đơn vị hành chính dưới thời Âu Lạc
vẫn chưa có gì thay đổi khác với thời Văn Lang của các Vua Hùng. Đứng đầu
nhà nước là Thục An Dương Vương. Dưới đó, trong triều vẫn có các Lạc hầu
giúp vua cai quản đất nước. Ở các địa phương (bộ) vẫn do các Lạc tướng đứng
đầu quản lý. Đơn vị hành chính cấp cơ sở vẫn là các công xã nông thôn (kẻ,
chiềng, chạ).

6


III/ Đời sống văn hóa vật chất tinh thần của nhà nước Văn Lang - Âu Lạc
1. Đời sống vật chất
Quốc gia Văn Lang-Âu Lạc tồn tại trên dưới 500 năm tr.CN. Bằng sức lao động
sáng tạo và đấu tranh kiên cường, bền bỉ, người Việt cổ đã xây dựng được cho
mình một đất nước phát triển với nhiều thành tựu kinh tế và văn hóa làm nền
tảng cho một nền văn minh bản địa đậm đà bản sắc dân tộc. Trên cơ sở nền
kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước và kết cấu xóm làng bền chặt, cư dân Văn
Lang-Âu Lạc tiến hành khai hoang, làm thuỷ lợi, chống ngoại xâm và các hoạt
động khác. Cũng từ đó, người Việt cổ bấy giờ đã định hình cho mình một lối
sống, cách ứng xử, tâm lý, tôn giáo tín ngưỡng, nghệ thuật, tốt lên những đặc
điểm của đời sống văn hóa vật chất và tinh thần đặc sắc.
Về đời sống vật chất : Thóc gạo là nguồn lương thực chủ yếu của cư dân Văn
Lang - Âu Lạc, chủ yếu là gạo nếp. Người bấy giờ dựng gạo nếp để thổi cơm,
làm bánh chưng, bánh giầy. Nhiều tài liệu đã ghi lại sự việc trên. Sách Lĩnh nam
chích quái ghi rằng ở thời Hùng Vương sản xuất được nhiều gạo nếp, lấy ống
tre mà thổi cơm. Rất nhiều chiếc chị gốm dựng để thổi xôi đã tìm thấy ở các địa
điểm thuộc văn hóa Đông Sơn. Ngoài thóc gạo là nguồn lương thực chính, cư
dân Văn Lang-Âu Lạc còn sử dụng các loại cây có củ cung cấp chất bột như củ

từ, khoai lang, sắn, củ mài, khoai sọ, rau quả. Lúc thiếu thốn người ta còn dựng
các loại cây có bột khác như cây quang lang, búng, bỏng. Thức ăn cũng khá
phong phú gồm các loại cá, tôm, cua, ốc, hến, ba ba, các loại rau củ (bầu, bí, cà,
đậu…). Thức ăn được chế biến bằng nhiều cách khác nhau theo sở thích từng
vùng, từng gia đình (đun nấu, nướng, muối, ăn sống…). Nghề chăn nuôi và săn
bắn phát triển đã cung cấp thêm nguồn thức ăn có nhiều chất đạm cho mỗi gia
đình. Cư dân bấy giờ đã biết chăn nuôi nhiều loại gia súc, gia cầm ở mỗi nhà
(trâu, bị, lợn, gà,…). Trong số đồ ăn quen thuộc của cư dân Văn Lang –Âu Lạc
còn có nhiều loại hoa quả vùng nhiệt đới như vải, nhãn, mơ, mận, chuối, dưa
7


hấu, cam, quýt… Nguồn lương thực và thực phẩm của người Việt cổ thực
phong phú, đa dạng, rất giàu chất bột, chất đạm và nhiều chất bổ khác, trong đó
lúa gạo là chính. Đây là một biểu hiện của cuộc sống vật chất được nâng cao,
cũng là một biểu hiện của sự phát triển kỹ thuật canh tác nông nghiệp của cư
dân bấy giờ.
Thời Hùng Vương, người ta cũng đã biết sử dụng nhiều thứ gia vị có nguồn gốc
thực vật như gừng, hẹ, riềng, tỏi. Trong tập quán ăn uống của người Việt cổ
bấy giờ phải kể đến tục uống rượu và ăn trầu. Rượu được nhắc nhiều trong các
thư tịch cổ, truyện dân gian. Người Văn Lang có thói quen ăn trầu, nhuộm răng
đen. Dấu tích hạt cau, quả cau được tìm thấy ở Đông Sơn.
Trang phục của cư dân Văn Lang Âu Lạc đã phản ánh một phần trình độ phát
triển, đầu óc thẩm mỹ và bản sắc văn hóa của người Việt cổ. Do nghề dệt rất
phát triển, người Việt cổ đã sản xuất được nhiều loại vải khác nhau từ sợi đay,
gai, tơ tằm, bụng, nên đã đáp ứng được nhu cầu may mặc của nhân dân. Trong
sinh hoạt đời thường, nam thường đóng khố, nữ mặc váy. Khố của nam giới có
loại quấn đơn và loại quấn kép. Váy của nữ giới có loại váy quấn và loại váy
chui được làm từ một mảnh vải dài, rộng. Nhiều tượng người đàn ông thổi khèn
ngồi trên cán đèn Việt Khê hay các tượng người mặc váy dài trên thạp đồng

Đào Thịnh đã phản ánh kiểu mặc đó. Phụ nữ ngoài mặc váy còn có yếm che kín
ngực, áo xẻ giữa, thắt lưng quấn ngang bụng và khăn quấn đầu. Vào các ngày lễ
hội, trang phục của nam nữ đẹp đẽ hơn: Có mũ lông chim, váy xoè kết bằng
lông chim hoặc lá cây và mang nhiều đồ trang sức đẹp (Khuyên tai, hạt chuỗi,
nhẫn, vòng tay, vòng ống chân bằng đá, đồng).
Sự phát triển kinh tế, nhất là sự phát triển mạnh mẽ của nghề thủ công và kỹ
thuật luyện kim đã tạo điều kiện làm phong phú, đa dạng các đồ trang sức. Mặt
khác, sự phong phú và dựng phổ biến nhiều loại đồ trang sức đẹp cũng chứng tỏ
đời sống vật chất cư dân Văn Lang-Âu Lạc được nâng cao rõ rệt.
8


Về đầu tóc của người bấy giờ có 4 kiểu: Kiểu tóc cắt ngắn, búi tóc, tết bím và
quấn túc ngược lên đỉnh đầu. Trên thạp đồng Đào Thịnh (Yên Bái) có tượng
nam tóc cắt ngắn ngang vai để xoã. Ở trống đồng Cổ Loa cũng có hiện tượng
tương tự. Lối cắt tóc ngắn đến ngang lưng để xõa khá phổ biến ở nam giới thời
bấy giờ. Búi tóc cũng rất phổ biến ở cả nam giới và nữ giới. Nhiều người còn có
kiểu chít một dải khăn nhỏ giữa trán và chân tóc, hoặc có đuôi khăn thả dài phía
sau. Có thể nghĩ rằng, kiểu tóc cắt ngắn buông xõa sau lưng và búi tóc cao là hai
kiểu tóc phổ biến nhất của người thời Văn Lang.
Nhà ở có nhiều kiểu cách như nhà sàn, nhà mái cong làm bằng gỗ, tre, nứa.
Trên trống đồng Đông Sơn ta thấy có 2 kiểu nhà: nhà sàn mái cong hình thuyền
và mái tròn hình mui thuyền, sàn thấp, mái rũ xuống như mái tranh đến tận sàn,
có cầu thang lên xuống. Mỗi công xã nông thôn bao gồm một số nhà sàn quần
tụ bên nhau trong một địa vực, hình thành những xóm làng định cư lâu dài mà
thời đó thường gọi là kẻ, chạ, chiềng. Trong sinh hoạt gia đình, các vật dụng rất
phong phú gồm rất nhiều loại khác nhau như bình, vì, thạp, mõm, chậu, bát
bằng đồ gốm hay bằng đồng. Ngoài ra, có những đồ đựng làm bằng tre, nứa,
mây, vỏ bầu v.v…
Phương tiện giao thông chủ yếu là thuyền bè trên các con sông, rạch. Thuyền có

thuyền độc mộc, thuyền ván với các kiểu loại khác nhau: thuyền chiến, thuyền
tải, thuyền bơi trải. Trên bộ còn sử dụng súc vật như voi, trâu, ngựa.
2. Đời sống tinh thần ,xã hội của cư dân Âu Lạc:
Cư dân Văn Lang – Âu Lạc đã đạt đến một trình độ thẩm mỹ, tư duy khoa học
khá cao- một biểu hiện của văn minh Văn Lang-Âu Lạc. Cư dân Văn Lang-Âu
Lạc rất giỏi nghề luyện kim. Những sản phẩm đẹp, tiêu biểu như trống đồng,
thạp đồng, đồ trang sức bằng đồng đã nói lên kỹ thuật luyện đồng đã đạt đến
đỉnh cao (từ cách xây dựng các lò đúc, khuôn đúc, nguyên liệu, pha chế hợp
kim, làm hoa văn...). Tuỳ theo chức năng sử dụng của từng loại công cụ mà tạo
9


nên một hợp kim và tỷ lệ giữa các hợp kim phù hợp trong chế tạo đồ đồng của
người Đông Sơn. Điều đó thể hiện khá rõ nét trình độ tư duy khá cao của họ.
Con người bấy giờ cũng đã biết luyện sắt bằng phương pháp hoàn nguyên trực
tiếp thành loại sắt xốp. Trong quá trình quy tụ các bộ lạc sống trên cùng một
phạm vi đất đai để hình thành lãnh thổ chung, quốc gia thống nhất đầu tiên được
mở rộng dần từ Văn Lang sang Âu Lạc, là sự biểu hiện thắng thế của xu hướng
tư tưởng thống nhất, đoàn kết, hoà hợp so với tư tưởng phân hóa, cục bộ trong
các cộng đồng cư dân bấy giờ trước yêu cầu của đất nước (làm thuỷ lợi để phát
triển nông nghiệp và chống ngoại xâm). Điều đó cũng nói lên bước tiến bộ, phát
triển về mặt tư tưởng, tư duy của cư dân Văn Lang-Âu Lạc. Từ ý thức cộng
đồng cũng đã nảy sinh tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, sùng bái các anh hùng, các
thủ lĩnh. Cư dân Văn Lang-Âu Lạc đều có ý thức cùng chung một cội nguồn,
một tổ tiên, một tập quán chung là nhuộm răng, ăn trầu. Bên cạnh tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên, người đương thời còn bảo lưu những tàn dư của các hình thức
tôn giáo nguyên thuỷ như tín ngưỡng vật tổ, ma thuật, phồn thực với những
nghi lễ cầu mong được mùa, giống nòi phát triển. Nhiều phong tục tập quán
được định hình đã nói lên sự phong phú và phát triển của đời sống tinh thần
trong xã hội Hùng Vương như tục ăn đất còn tồn tại ở Lập Thạc, Tam Dương,

Yên Lạc, Vĩnh Tường( Vĩnh Phúc ), uống nước bằng mũi còn tồn tại ở dân tộc
Kháng( Sơn La- Lai Châu ) , tục gió cối (để làm hiệu lệnh, truyền tin), tục cưới
xin, ăn hỏi, ma chay, chôn cất người chết (rất phong phú như mộ đất, mộ có
quan tài hình thuyền, chôn chồng lên nhau, chôn trong nồi vò úp nhau, chôn
theo đồ tuỳ táng bằng hiện vật). Lễ hội bấy giờ rất phổ biến và thịnh hành, là
một bộ phận quan trọng trong đời sống tinh thần của người Văn Lang-Âu Lạc.
Lễ hội được tiến hành rải rác quanh năm, trong đó đặc sắc nhất là ngày hội mùa
với nhiều nghi lễ như đâm trâu, bị và các hình thức diễn xướng dân gian (đoàn
người hoá trang, vừa đi vừa múa, tay cầm giáo, lao, nhạc cụ...). Bên cạnh đó,
còn có những hội thi tài, thi sức khoẻ, hội cầu nước, hội mừng năm mới... Trong
cuộc sống, cư dân Hùng Vương rất thích cái đẹp và hướng đẹp, luôn luôn cố
10


gắng để làm tăng thêm vẻ đẹp cho đời. Đồ trang sức, công cụ lao động và đồ
dùng trong sinh hoạt cũng như vũ khí không những hết sức phong phú, nhiều
hình, nhiều vẻ, mà còn đạt đến một trình độ kỹ thuật và mỹ thuật rất cao, có
những cái như là những tác phẩm nghệ thuật. Nghệ thuật Đông Sơn trở thành
đỉnh cao của nghệ thuật tạo hình thời Hùng Vương. Nghệ thuật đó vừa phản ánh
cuộc sống thường nhật của cư dân Việt cổ vừa thể hiện mối quan hệ giữa người
với thế giới chung quanh. Những đường nét có tính ước lệ, cách điệu và một bố
cục cân xứng, hài hồ trong nghệ thuật Đông Sơn đã thể hiện điều đó. Nghệ thuật
âm nhạc rất phát triển. Nhạc cụ gồm có nhiều loại (bộ gõ, bộ hơi,...). Trong các
nhạc cụ, tiêu biểu là trống đồng. Kết cấu trống đồng gồm có phần tang phình,
phần thân và chân trống loe ra giúp cho hình dáng trống đẹp mà có sức cộng
hưởng làm cho âm thanh vang xa. Cư dân bấy giờ biết sử dụng nhiều nhạc cụ
phối hợp trong các lễ hội. Trên trống đồng Đông Sơn có cảnh sử dụng dàn trống
đồng từ 2 đến 4 chiếc, dàn cồng từ 6 đến 8 chiếc và một tốp người vừa múa, vừa
sử dụng những nhạc khí khác nhau như chuông, khốn, sênh. Trên trống đồng có
hình ảnh người nhảy múa hoá trang và múa vũ trang. Có tượng đồng Đông Sơn

thể hiện hai người cõng nhau, vừa thổi khèn, vừa nhảy múa. Trống đồng Đông
Sơn là loại trống đồng sớm nhất, đẹp nhất, được sử dụng phổ biến với tư cách
là một nhạc khí quan trọng trong các buổi tế, lễ, hội hè, ca múa. Trống đồng
Đông Sơn còn được sử dụng làm hiệu lệnh trong chiến đấu, trong giữ gìn an
ninh hoặc làm đồ tuỳ tỏng. Ngoài ra trống đồng còn được dựng để trao đổi với
nước ngoài như Malaixia, Inđônêxia. Trống đồng Đông Sơn có cấu tạo hết sức
hài hồ, cân xứng. Mặt trống tròn, giữa có ngôi sao nhiều cánh, phần tang phình,
phần thân và chân loe ra làm cho trống có âm thanh vang xa và sức cộng hưởng,
từ những âm ban đầu được nhân lên về cường độ. Mặt trống và thân trống đều
được trang trí đẹp, thể hiện tài năng hội hoạ, óc thẩm mỹ của người Việt cổ, vừa
thể hiện kỹ thuật đúc đồng tinh xảo. Xung quanh ngôi sao nhiều cánh ở giữa
mặt trống là những vành tròn đều đặn, cách nhau bằng những đường nét viền
hoa văn khác nhau, cân đối, đẹp mắt. Trên mặt trống đồng có nhiều hình người
11


hoá trang lông chim đang múa, nhảy, hát, thổi khèn và các cảnh sinh hoạt khác
như giã gạo, đua thuyền, hoặc trang trí hình các con vật như hươu, nai... Những
hình trên mặt trống đồng thể hiện một không khí sôi động, hồ hởi trong sinh
hoạt của người Việt cổ. Đó là sự phản ánh khá trung thực cuộc sống văn hóa
hàng ngày của cư dân bấy giờ. Trống đồng (Đông Sơn, Ngọc Lũ) với những nét
đặc sắc nói trên, là một sản phẩm của lao dộng, một tác phẩm nghệ thuật tiêu
biểu cho trình độ trí tuệ, tài năng sáng tạo tuyệt vời của cư dân Văn Lang-Âu
Lạc, là một mặt biểu hiện rõ nét, tập trung của nền văn minh Việt cổ. Cùng với
trống đồng, công trình kiến trúc Cổ Loa cũng là một biểu hiện trình độ phát
triển cao của cư dân thời Văn Lang-Âu Lạc.
Tóm lại, sau một thời kỳ dài sống định cư và mở rộng lãnh thổ, phát triển nền
kinh tế, với nền nông nghiệp trồng lúa nước là chủ đạo, vượt qua nông nghiệp
dựng cuốc, tiến lên nông nghiệp dựng cày (bằng lưỡi cày đồng tiến lên lưỡi cày
sắt) có sức kéo là trâu bò được triển khai rộng khắp mọi miền của đất nước Văn

Lang-Âu Lạc, cùng với những tiến bộ khác trong đời sống xã hội, người Việt cổ
đã đưa xã hội vượt qua thời tiền sử, vượt qua hình thái kinh tế-xã hội nguyên
thuỷ sang hình thái kinh tế-xã hội đầu tiên thuộc phạm trù của thời đại văn
minh, của xã hội phân hóa giai cấp và có nhà nước. Đồng thời, người Việt cổ
cũng đã xây dựng nên một nền văn minh đầu tiên, đó là nền văn minh Văn
Lang-Âu Lạc (còn gọi là văn minh sông Hồng). Nền văn minh này có cội nguồn
lâu đời của một cư dân nông nghiệp trồng lúa nước ở vùng Bắc bộ và Bắc
Trung bộ mang tính bản địa đậm nét, kết tinh trong đó bản lĩnh, truyền thống,
cốt cách, lối sống và lẽ sống của người Việt cổ: Chung lưng đấu cật, đoàn kết
gắn bó với nhau trong công cuộc lao động và đấu tranh, tình làng, nghĩa nước
mặn nồng, tôn trọng người già và phụ nữ, biết ơn và tôn thờ tổ tiên, các anh
hùng, nghĩa sĩ v.v... Nền văn minh Văn Lang-Âu Lạc trải qua một quá trình
hình thành và phát triển lâu dài, bắt nguồn từ thời đại đồng thau đến sơ kỳ thời
đại sắt cùng với quá trình hình thành quốc gia và nhà nước Hùng Vương-An
12


Dương Vương vào những thế kỷ II-III tr.CN, đã trở thành cội nguồn của các
nền văn minh tiếp theo của dân tộc. Bản sắc dân tộc là cội nguồn sức mạnh tinh
thần để nhân dân Việt Nam vượt qua được mọi thử thách to lớn trong hơn một
nghìn năm Bắc thuộc.
VI. Thành tựu văn minh văn hóa thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc
Dựa vào những điều kiện tự nhiên thuận lợi và các thành tựu kinh tế đạt được,
những cư dân vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã, sông Cả – được gọi chung là
cư dân Việt cổ, đã phát huy sức lao động và óc phát minh, sáng tạo của mình để
đẩy mạnh sự phát triển của xã hội, vượt qua những hạn chế của thời nguyên
thuỷ, đạt đến thời đại văn minh vào khoảng các thế kỉ VII – VI TCN. Tồn tại
trong khoảng hơn 5 thế kỉ, nền văn minh đó được mệnh danh là văn minh Văn
Lang – Âu Lạc, tương ứng với 2 quốc gia nối tiếp tồn tại trên đất Bắc Việt Nam
đương thời.

Trong 5 thế kỉ tồn tại, văn minh Văn Lang – Âu Lạc đã đạt được một số thành
tựu về các mặt :
• Về chính trị , xã hội:
- Vào khoảng thế kỉ thứ VII – VI TCN, trên đất bắc Việt Nam với trung tâm là
vùng Phú Thọ ( nơi có đền vua Hùng ) đã hình thành một tổ chức chính trị –
một nhà nước, đứng đầu là một vị vua, cha truyền con nối. Nói cách khác, trên
cơ sở phát triển của kinh tế nông nghiệp và trao đổi sản phẩm, giao lưu văn hoá
đã nảy sinh một quá trình phân hoá xã hội và hợp nhất các cộng đồng nhỏ. Yêu
cầu bảo vệ đi đôi với phát triển sản xuất, duy trì an ninh cho các xóm làng, cho
sự trao đổi hàng hoá, chống nạn lũ lụt hàng năm cũng như chống lại các cuộc
xâm lấn của các bộ tộc phía Bắc đòi hỏi phải có một lực lượng, một tổ chức
quản lí, chỉ đạo và điều hành chung cho mọi cộng đồng nhỏ có cùng tiếng nói,
cùng cơ sở kinh tế và cùng trên 1 lãnh thổ nhất định. Do yêu cầu đó đã hình
13


thành một sự hợp nhất các làng bản với tên gọi Văn Lang và một tổ chức chịu
trách nhiệm chung, đó là nhà nước của các vua Hùng.
Nhà nước của các vua Hùng và quốc gia Văn Lang đã đưa toàn bộ xã hội của
các thị tộc, bộ lạc Việt cổ sang một thời đại mới. Như sử cũ ghi chép, đứng đầu
nhà nước là các vua Hùng hay đúng hơn là các chức Hùng, cha truyền con nối.
Con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mị Nương. Giúp việc Vua
Hùng có một số chức viên gọi là Lạc Hầu, Lạc Tướng.
Bộ máy chính quyền trung ương còn đơn giản được suy trì cho đến cuối đời An
Dương Vương, mặc dầu Âu Lạc là một quốc gia hợp nhất, rộng lớn hơn Văn
Lang. Dựa vào các phát hiện của khảo cổ học, chúng ta biết rằng cac vua Hùng,
các Lạc Hầu, Lạc Tường để thuộc lớp người giàu có nhiều của cải. Các vua
Hùng đều có nuôi nô tì phục vụ trong nhà. Chính quyền trung ương phụ trách
các công việc chung như bảo vệ quốc gia, giữa gìn an ninh trật tự, tổ chức các
làng bản, bảo vệ đồng ruộng mùa màng khi có thiên tai. Những công việc cụ thể

của địa phương gia cho các Lạc Tướng, người đứng đầu bộ. Văn Lang được
chia thành 15 bộ, mỗi bộ gồm nhiều bản hay chạ, do chức Bồ chính trông coi.
Làng, Chạ là đơn vị hành chính cơ sở, vốn là những cộng đồng thị tộc đã hình
thành từ lâu đời, nay tụ họp lại. Do đó, Làng, Chạ vẫn là những đơn vị kinh tế
hầu như độc lập, có những sinh hoạt văn hoá riêng của mình. Già làng vẫn là
một lớp người giữ vai trò quan trọng nhất trong Làng, Chạ.
Thời Âu Lạc, đất đai được mở rộng thêm về phía tây bắc. Vua gọi là An Dương
Vương, nhưng tổ chúc chính quyền nói chung không có gì thay đổi. Việc quản lí
đất nước chủ yếu theo tục lệ cổ truyền “ Dân không có thói gian dối”, “ Buộc
nút dây mà Làng chính sự” , mặc dầu sau này Mã Viện( giữa thế kỷ I ) tâu về
triều Hán: “ Luật Việt khác luật Hán hơn 10 việc”. Trong các Làng, Chạ, gia
đình một vợ chồng đã là một đơn vị tế bào, trình độ của lực lượng sản xuất và
kinh tế nông nghiệp đương thời cũng như truyện cổ tích được truyền lại đã
14


chứng tỏ điều này. Sách Tiền Hán Thư ( Trung Quốc) cũng cho biết, vào cuối
thế kỷ thứ I TCN, quận Giao Chỉ (Bắc Bộ) có 92.440 hộ, 746.273 khẩu, quận
Cửu Chân(Bắc Trung Bộ) có 35.743 hộ, 166.613 khẩu, có nghĩa là ở Giao Chi
trung bình mỗi hộ có 8 người ở Cửu Chân trung bình mỗi hộ có 4 người, tức là
những gia đình nhỏ.


Về kinh tế

Cơ sở kinh tế của văn minh Văn Lang- Âu Lạc là nông nghiệp lùa nước. Trên
cơ sở pháp triển nghề luyện đồng thau, lưỡi cày đồng ngày càng được sản xuất
nhiều hơn và có nhiều hình dạng hơn. Khảo cổ học đã tìm thấy gần 200 lưỡi cày
đồng ở nhiều địa phương khác nhau trên đất Bắc, có hình cánh bướm, hình thoi,
hình tam giác… Lưỡi cày đồng ra đời đã thúc đẩy nên nông nghiệp dùng cày

phát triển. Câu “ Ruộng lạc, theo nước thuỷ triều lên mà làm” của Giao Châu
ngoại vực ký chứng tỏ rằng người Việt cổ đã có được phương thức làm ruộng ở
ven sông, ven biển, tránh những ảnh hưởng xấu đến mùa màng. Lịch nông
nghiệp đã hình thành. Ngành luyện kim đồng thâu phát triển đến trình độ cao.
Người ta không chỉ sản xuất được nhiều loại sản phẩm khác nhau mà còn dần
dần công thức hoá tỉ lệ các chất kim loại trong hợp kim đồng thau tuỳ theo công
dụng của sản phẩm. Kĩ thuật nung cũng tiến bộ, từ 800o C của lò gốm cũng tăng
lên 1200-1250o C ở lò trên cơ sở phát triển kĩ thuật luyện kim đồng thâu, người
Việt cổ đã sáng tạo ra nghề nấu sắt bằng phương pháp hoàn nguyên. Từ việc
nung quăng để có được sắt xóp, người ta tiếp tục nung đỏ lên, rèn dập nhiều lần
để có được sắt chín cần cho việc làm công cụ. Chiếc rìu đúc tìm được trong mộ
ngôi mộ thuộc di chỉ Đông Sơn chưng tỏ rằng người Việt cổ đã biết đúc gang.
Nuôi tằm kéo tơ, dệt lụa thể hiện một trình độ phát triển kinh tế của người Việt
cổ, phục vụ yêu cầu trang phục.

15


• Sinh hoạt, trang phục:
Nhà ở phần lớn là nhà sàn mái cong lợp lá cọ hay rơm rạ, có cầu thang ở cửa
tường vách bằng tre, nứa, trát đất sét hoặc để nguyên. Trong nhà có chổ cất giữ
lúa thọc. Dưới sàn có chỗ nuôi trâu bò, gà lợn
Người Việt cổ ngày càng ăn mặc đẹp hơn, Nữ thường mặc váy, loại ngắn hoặc
dài có trang trí hoa văn ở trước bụng. Phụ nữ thường mặc áo yếm, áo cánh hoặc
áo chui đầu. Ngày lễ họ thường mặc váy xoè cấm thêm long chim hoặc cả lá
cây. Tóc ít khi để xoã họ thường búi lên ở đỉnh đầu hoặc tết theo nhiều kiểu
khác nhau. Nam thì thường cởi trần, mặc khố, đầu cạo trọc. Dân sống ven sông
thường có tục vẽ mình để tránh Giao Long làm hại. Các Lạc Hầu, Lạc Tướng có
áo giấp đồng hộ thang khi đi chiến đấu. Người Việt cổ thích trang sức các dây
chuyền bằng vỏ óc, hạt đá hoặc đeo hoa tai, vòng tay bằng đá

• Đạo đức, tín ngưỡng, lễ hội :
Xã hội Văn Lang- Âu Lạc đã chuyển sang chế độ phụ quyền. Người cha trong
gia đình nắm mọi quyền hành. Đặc biệt ở các gia đình Lạc Hầu, Lạc Tướng.
Tuy nhiên, vai trò của người phụ nữ cũng rất quan trong. Trong làng xóm người
già rất được tôn trọng và đóng vai trò là người dàn xếp các cuộc tranh chấp,
quyết định các mối quan hệ trong mỗi bộ cũng như đối ngoại. Hôn nhân một vợ
một chồng dần dần phổ biến, mặc dầu vẫn còn giữ chế độ hôn nhân anh em
chồng, tục bắt cóc con dâu… Nhuộm răng đen đã trở thành tục lệ chung. Tục ăn
trầu cũng phổ biến và được truyền từ đời này sang đời khác. Tục chôn người
chết sớm hình thành ở thời Bắc Sơn, Quỳnh Văn. Dưới thời Hùng Vương, việc
chôn người chết được tiến hành nghiêm túc kèm theo nghi lễ. Việc chôn theo
người chết các công cụ sản xuấn, vũ khí, đồ trang sức đã thể hiện một quan
điểm nhất định về sở hữu cá nhân, về sinh hoạt ở thế giới bên kia. Lễ hội là một
hoạt động vừa có ý nghĩa tín ngưỡng vừa có ý nghĩa sinh hoạt vui chơi tập thể

16


• Nghệ thuật:
Từ thời Bắc Sơn, Phùng Nguyên, Hoa Lộc quan niệm thẩm mỹ của người thời
cổ đã nảy sinh và ít nhiều đã có sắc thái riêng. Trí thẩm mĩ đó được nối tiếp và
phát triển ở thời Văn Lang - Âu Lạc, phản ánh một trình độ phát triển của nhận
thức. Ðiêu khắc tinh tế và bước đầu đạt đến trình độ mô típ hoá. Những hoa văn
trên các lưỡi rìu đồng, những hình người hoá trang, những con chim con nai...
trên mặt trống đồng, hình lưỡi rìu, mũi giáo v.v... đã nói lên điều đó. Nhiều mô
típ hoa văn đã trở thành dấu hiệu của văn minh Văn Lang - Âu Lạc.
Âm nhạc, nhảy múa đã trở thành một nhu cầu trong các buổi sinh hoạt lễ hội
hay giải trí. Những hình người hóa trang long chim, tay nắm tay nhau như đang
nhảy múa được in trên trống đồng Ngọc Lũ gọi lên một cảnh múa xòe của
người Thái ngày nay. Nhạc khí chiêng, cồng, trống, sênh, phách, khèn…đã nói

lên sự phong phú của âm nhạc đương thời. Không dùng lại ở nhảy múa ca hát,
họ còn tổ chức các cuộc đua tài mà trong những biểu hiện của nó là hình thành
những chiếc thuyền đua trên tang trống đồng. Những người chèo thuyền vui
khỏe sau những ngày lao động vất vả. Những cuộc đua thuyền vừa chuẩn bị cho
lao động , vừa là chuẩn bị cho chiến đấu giữ nước, giữ làng. Ý thức về tộc
người, về đất nước đã hình thành dù còn chưa vững chắc.
Tuy nhiên hiện vật tiêu biểu cho văn minh Văn Lang - Âu Lạc là trống đồng và
thành Cổ Loa.
- Trống đồng là sản phẩm của nghệ thuật trang trí và kĩ thuật đúc đồng đương
thời. Mặc dầu vào đầu công nguyên, các lực lượng xâm lược đã đến nhiều lần
thu vét trống đồng của người Việt Cổ đưa về nước hoặc phá đi. Nhưng đến nay
các nhà khảo cổ vẫn phát hiện được hơn 170 chiếc ở khắp nơi trên đất bắc Việt
Nam. Trống đồng thể hiện một trình độ cao của kỹ thuật luyện kim đương thời.
17


Kiểu dáng và các hình trang trí trên mặt trống, tang trống thể hiện một trình độ
nghệ thuật cao, óc thẩm mĩ tinh tế, một quan niệm nhất định về quan hệ giữa
người và thế giới xung quanh. Cấu tạo của trống hài hoà, cân đối. Kích thước
trống đa dạng, đường kính từ 30 cm đến 80 cm, cao từ 30 cm đến 70 cm. Giữa
mặt trống là hình ngôi sao, phần nhiều là sao 12 cánh (có thể là tượng trưng cho
12 tháng trong năm), xen giữa các cánh sao là họa tiết lông công hoặc những
đường vạch chéo có hình tam giác lồng vào nhau. Có những hình vẽ thể hiện
sinh hoạt của cộng đồng người Việt cổ như giã gạo, săn bắt, thờ cúng, trẻ em
chơi đùa... Bao quanh các ngôi sao có hình người, vật, động vật và hoa văn hình
học. Hoa văn hình học thường thấy là: đường chấm nhỏ, vành chỉ trơn, vòng
tròn chấm giữa tiếp tuyến, vòng tròn đồng tâm chấm giữa có tiếp tuyến, hoa văn
hình chữ ∫ gãy khúc, hoa văn răng cưa và vạch ngắn song song, và các chữ của
người Việt cổ. Thân trống thường có hình thuyền, hình vũ sĩ, hình một số chim,
thú thông thường thì chỉ có hoa văn hình học. Quai trống thường làm theo

hình dây thừng bện.. Hoa văn trên trống đồng phản ánh cả một bước tiến của
quan niệm thẩm mĩ của người thợ thủ công đương thời. Trống đồng Đông Sơn
được dùng trong lễ mai táng các quan lang Mường và các ngày hội hè của người
Mường tỉnh Hòa Bình, việc cúng tế hay chôn theo người chết như ở khu mộ
táng Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Trống đồng vừa là một nhạc khí vừa là một
hiện vật tượng trưng cho quyền uy của người thủ lĩnh.
- Thành Cổ Loa được xây từ thời An Dương Vương vào khoảng thế kỷ thứ III
TCN, được các nhà khảo cổ học đánh giá là "tòa thành cổ nhất, quy mô lớn vào
bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy
của người Việt cổ" Khi xây thành, người Việt cổ đã biết lợi dụng tối đa và khéo
léo các địa hình tự nhiên. Họ tận dụng chiều cao của các đồi, gò, đắp thêm đất
cho cao hơn để xây nên hai bức tường thành phía ngoài, vì thế hai bức tường
thành này có đường nét uốn lượn theo địa hình chứ không băng theo đường
thẳng như bức tường thành trung tâm. Người xưa lại xây thành bên cạnh con
18


sông Hoàng để dùng sông này vừa làm hào bảo vệ thành vừa là nguồn cung cấp
nước cho toàn bộ hệ thống hào vừa là đường thủy quan trọng. Chiếc Đầm Cả
rộng lớn nằm ở phía Đông cũng được tận dụng biến thành bến cảng làm nơi tụ
họp cho đến cả hàng trăm thuyền bè.
Chất liệu chủ yếu dùng để xây thành là đất, sau đó là đá và gốm vỡ. Đá được
dùng để kè cho chân thành được vững chắc. Các đoạn thành ven sông, ven đầm
được kè nhiều đá hơn các đoạn khác. Đá kè là loại đá tảng lớn và đá cuội được
chở tới từ các miền khác. Xen giữa đám đất đá là những lớp gốm được rải dày
mỏng khác nhau, nhiều nhất là ở chân thành và rìa thành để chống sụt lở. Các
cuộc khai quật khảo cổ học đã tìm thấy một số lượng gốm khổng lồ gồm ngói
ống, ngói bản, đầu ngói, đinh ngói. Ngói có nhiều loại với độ nung khác nhau.
Có cái được nung ở nhiệt độ thấp, có cái được nung rất cao gần như sành. Ngói
được trang trí nhiều loại hoa văn ở một mặt hay hai mặt.

Thành Cổ Loa theo tương truyền gồm 9 vòng xoáy trôn ốc, nhưng căn cứ trên
dấu tích hiện còn, các nhà khoa học nhận thấy thành có 3 vòng, trong đó vòng
thành nội rất có thể được làm về sau, dưới thời Ngô Quyền. Chu vi vòng ngoài
8 km, vòng giữa 6,5 km, vòng trong 1,6 km, diện tích trung tâm lên tới 2 km².
Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành
đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để
đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4 m-5 m, có chỗ
cao đến 8 m-12 m. Chân lũy rộng 20 m-30 m, mặt lũy rộng 6 m-12 m. Khối
lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu mét khối. ở trên bờ sông Hoàng (nay đã bị
lấp gần hết) thuộc châu thổ sông Hồng. Theo kết quả nghiên cứu hiện nay,
thành có hai vòng hình bầu dục, cao khoảng 12m, chân được kè đá vững chãi. ở
mạn đông, giữa thành ngoại và thành trong, có một cái hồ lớn xưa gọi là Ðầm
Cả. Ðầm Cả thông với các hào chạy quanh chân thành, do đó thuyền có thể đi từ
đây mà đi ra các cửa hoặc kiểm soát các mặt thành. Việc đắp thành diễn ra rất
khó khăn, phức tạp vì đây là một vùng đất khá lầy, trơn. ở giữa thành trong là
19


một vùng đất rộng, nơi đặt dinh thự của An Dương Vương và các lạc hầu, lạc
tướng. ở đây cũng có các trại binh, kho vũ khí. Do vị trí quan trọng của Cổ Loa,
sau này, khi xâm lược nước Âu Lạc, Mã Viện đã lấy nó làm trung tâm cho xây
thêm một thành mới, hình chữ nhật, gọi là Kiến Thành. Cổ Loa cũng là kinh đô
của Ngô Quyền ở thế kỷ X. Chính vì vậy, ngày nay rất khó xác định các di tích
cổ.Thành Cổ Loa vừa là một đô thành, vừa là một quân thành, một mô hình phổ
biến của các hoàng thành thời xưa. Ðầm Cả là nơi tập trung binh thuyền của An
Dương Vương cũng là nơi luyện tập thuỷ chiến. Những ngày thường, An
Dương Vương có thể cùng những người bảo vệ, các lạc hầu, lạc tướng theo
thuyền từ CổLoa ngược sông Hoàng lên sông Cầu hay xuôi ra sông Hồng để
quan sát, kiểm tra cuộc sống của nhân dân. Thời chiến, đoàn binh thuyền của
An Dương Vương cũng từ Ðầm Cả theo các hào ven chân thành tiến ra sống

Hoàng, ngược lên phía bắc chiến đấu chống quân xâm lược. Các trận đánh thời
Triệu Ðà xâm lược đã diễn ra ở vùng Tiên Sơn (Bắc Ninh) rồi sau đó rút về
thành Cổ Loa.
 Tóm lại:
- Sau một thời kì dài định cư và phát triển nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa
nước, trên vùng đồng bằng màu mỡ của các con sông lớn như sông Hồng, sông
Mã, sông Cả ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, những cư dân Việt cổ đã xây dựng cho
mình được một quốc gia, một nền văn minh riêng có tính bản địa sâu sắc, được
mệnh danh là văn minh Văn Lang – Âu Lạc. Đây là một nền văn minh có nguồn
gốc lâu đời ở những nền văn hoá hình thành trước đó, trong các thiên niên kỉ III
– II TCN và là sự hợp nhất, nâng cao những nền văn hoá đó.
- Những thành tựu chính của nền văn minh Văn Lang – Âu Lạc được thể hiện ở
tất cả các mặt hoạt động của người Việt cổ từ chính trị – xã hội đến kinh tế, kĩ
thuật sản xuất, đạo đức, tín ngưỡng, nghệ thuật. Nó cũng tạo ra những công
trình nghệ thuật mang tính biểu tượng mà lưu truyền lâu dài, làm nên cái gốc
20


của nền văn minh ở giai đoạn sau. Những thành tựu chính của nền văn minh
Văn Lang – Âu Lạc cũng thể hiện khá rõ tính chất bản địa của nó. Mặt khác, các
thành tự đó dù ở các lĩnh vực hoạt động khác nhau, vẫn phản ánh rõ tính chất
nông nghiệp lúa nước và gắn liền với nó là châu thổ của những dòng sông lớn.
Thời gian tồn tại, phát triển không dài, hơn nữa từ năm 179 TCN cho đến thế kỉ
X, nền văn minh đó không những chưa có điều kiện nâng cao và hoàn thiện mà
còn bị vùi dập bởi những ảnh hưởng mạnh mẽ của nền văn minh phương Bắc.
Mặc dầu vậy, người dân Việt sau này vẫn luôn tìm cách bảo vệ các di sản của tổ
tiên.

21




×