Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác trong Hồn Trương Ba, Da Hàng Thit

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (53.24 KB, 3 trang )

Lưu Quang Vũ được đánh giá là nhà viết kịch xuất sắc trong thời kỳ hiện đại. Đương thời khi còn sống,
kịch của anh luôn có mặt trên sàn diễn của nhiều đoàn nghệ thuật trong cả nước. Trong lịch sử sân khấu
nước ta, thời kỳ kịch của Lưu Quang Vũ có lẽ là thời kỳ sôi động, giàu sức sống nhất. Những năm 80,
kịch của Lưu Quang Vũ xuất hiện đã làm thay đổi t*ư duy của người biểu diễn cũng như của công chúng
yêu sân khấu. Nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu phê bình đã đánh giá cao tài năng, tâm huyết và
những đóng góp của Lưu Quang Vũ đối với nền sân khấu nói riêng và với nền văn học nói chung. Anh
cũng là một trong những "người đi trước” trong phong trào đổi mới văn hoá văn nghệ, dùng ngòi bút của
mình góp phần đem lại những điều tốt đẹp cho con người và xã hội.
Kịch bản của Lưu Quang Vũ dù được sáng tác nhanh với một số lượng lớn: hơn 50 vở kịch trong khoảng
thời gian ch*ưa đầy 10 năm, nhưng hầu hết đều đạt đến một chất lượng nghệ thuật nhất định. Ngay cả
những vở được coi là không thành công khi đã lên sàn diễn cũng có một giá trị văn học không thể phủ
nhận. Chúng ta đều biết rằng vở diễn nếu tách rời khỏi hoạt động sân khấu sẽ mất đi phần “động" chỉ còn
lại phần “tĩnh”. Sân khấu đem đến cho kịch một đời sống thứ hai, sống động, hấp dẫn và sân khấu cũng
quy định cho kịch những đặc tính nhất định, nên kịch có những đặc tr*ưng riêng khác hẳn với thơ và tiểu
thuyết. Trước khi đến với sân khấu Lưu Quang Vũ đã là người làm thơ, viết văn có phong cách riêng.
Anh đã kết hợp và phát huy được những thế mạnh của mình khi đến với loại hình nghệ thuật có ý nghĩa
tổng hợp như sân khấu. Từ thơ và chất thơ trong văn xuôi, rồi từ chất văn xuôi của đời sống, Lưu Quang
Vũ đã chuyển sang viết kịch và đã gặt hái được những thành công rực rỡ. Ở đó vẫn tiếp tục những nguồn
mạch được khai mở từ khá sớm nhưng Lưu Quang Vũ đã chín chắn, tỉnh táo hơn. Kịch là nơi Lưu Quang
Vũ có thể bộc lộ trực tiếp hơn những khám phá và nhận thức của anh, là nơi anh có thể đóng góp tích cực
hơn cho đời sống. Lưu Quang Vũ đã nói lên những suy nghĩ của mình trong lời tự bạch, trước khi mất:
“Trong quan niệm của tôi, thơ và kịch rất gần nhau. Đó là hai thể loại lớn của văn học, là cuộc sống và
thế giới tinh thần của con người được biểu hiện ở dạng tinh chất nhất, mạnh mẽ nhất, tuy ngôn ngữ nghệ
thuật của chúng có những điểm khác biệt. Tôi say mê sân khấu từ nhỏ và làm thơ cũng từ nhỏ, nhưng chỉ
mãi đến khi hơn ba mươi tuổi, tôi mới dám cầm bút viết vở kịch đầu tiên. Tôi cho rằng nghề viết kịch đòi
hỏi người ta phải có sự từng trải khá dày dạn về đời sống và một sự am tường nhất định về sân khấu. Đã
có khá nhiều thi sĩ thành đạt từ thuở thiếu niên nhưng hình như khó có ai thành công về viết kịch khi chưa
đến 30 tuổi… Động lực xui giục tôi viết kịch cũng là những động lực khiến tôi làm thơ, đó là khát vọng
muốn được bày tỏ, muốn được thể hiện tâm hồn mình và thế giới xung quanh, muốn được tham dự vào
dòng chảy mãnh liệt của đời sống, được trao gửi và dâng hiến”(1).
Kịch của Lưu Quang Vũ khai thác nhiều đề tài, đi vào khám phá mọi mặt của đời sống xã hội và con


người. Có thể phân chia, sắp xếp kịch Lưu Quang Vũ ra làm nhiều loại căn cứ vào cốt truyện của kịch
bản. Cha ông ta có câu “có tích mới dịch nên trò”. Có thể hiểu nôm na “tích” chính là cốt truyện, phải có
cốt truyện mới tạo dựng thành tác phẩm, sân khấu mới có kịch để diễn. Kịch của Lưu Quang Vũ thường
được xây dựng trên một cốt truyện chắc chắn, chủ yếu tập trung vào các vấn đề, các sự kiện quan trọng
trong đời sống. Việc khai thác các mô típ dân gian, dựa vào đó để viết kịch bản mang đậm dấu ấn cá nhân
và phong cách của mình đã tạo cho kịch Lưu Quang Vũ một chiều sâu đáng kể. Nó tạo cho kịch của anh
sự phong phú về đề tài, hấp dẫn ở cốt truyện, lôi cuốn ở nghệ thuật xây dựng nhân vật.
Trong số kịch bản của Lưu Quang Vũ, khối lượng những vở khai thác trực tiếp từ cốt truyện dân gian
không nhiều, nhưng hầu hết những vở kịch đó đều đạt tới hiệu quả nghệ thuật tương đối cao. Tiêu biểu
nhất là vở Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Vở kịch này được viết từ năm 1984, nhưng cho đến năm 1987,
trong không khí đổi mới dân chủ, mới được ra mắt công chúng. Giới nghiên cứu phê bình cho rằng đây là
một trong những vở kịch hay nhất của Lưu Quang Vũ. Ngay khi mới công diễn, vở kịch đã gây chấn
động d*ư luận, tạo ra một không khí tranh luận sôi nổi trên báo chí và trong giới sân khấu. Với sự dàn
dựng của đạo diễn Nguyễn Đình Nghi và lớp diễn xuất có nghề của Nhà hát Kịch Việt Nam, vở diễn đã
thể hiện sâu sắc tính đa nghĩa của một kịch bản có cấu trúc chặt chẽ, giàu trí tuệ. Một cốt truyện dân gian
quen thuộc, chẳng mấy ai tranh luận về ý nghĩa của truyện, vậy mà khi Lưu Quang Vũ đ*ưa lên sân khấu,
vở kịch không chỉ dừng lại ở những giá trị ban đầu mà nó còn đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ. Vở kịch không
chỉ nói đến sự hoà hợp và ý thức đạo lý về phần hồn và phần xác con người mà còn đề cao cuộc đấu tranh
cho sự hoàn thiện nhân cách con người. Qua những lời đối thoại ngắn gọn, súc tích, các nhân vật trong
thế giới dân gian xưa cũ trở nên gần gũi, quen thuộc, như đang cùng tham dự với cuộc sống đương đại
của chúng ta. Vở kịch không chỉ đề cập đến chuyện của một thời mà còn đề cập đến chuyện của muôn
đời. Đó là triết lý nhân sinh về lẽ sống, lẽ làm người. Những rắc rối đổ vỡ bắt nguồn từ sự sống vay mượn


của Trương Ba trong xác anh hàng thịt đã khiến cho chúng ta thấy: Cuộc sống thật là đáng quý nhưng
không phải sống thế nào cũng được. Sống vay mượn, chắp vá, không có sự hài hoà giữa hồn và xác chỉ
đem lại bi kịch cho con người. Cuộc sống chỉ có giá trị khi con người được sống đúng là mình, được sống
trong một thể thống nhất. Vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt không chỉ đề cập đến đời sống một cá
nhân mà còn đặt ra những vấn đề của xã hội. Thói quan liêu, vô trách nhiệm của Nam Tào Bắc Đẩu đã
t*ước đi mạng sống của người dân vô tội và gây nên bao nhiêu chuyện rắc rối. Sự sửa sai chắp vá của Đế

Thích lại là tiền đề bất hạnh cho cuộc đời hồn nọ xác kia không hoàn chỉnh của ông Trương Ba. Mọi sự
sửa sai không đúng chỗ đều chứa trong nó nhiều bi kịch hơn là niềm vui. Quyết định vĩnh viễn từ bỏ cuộc
sống vay mượn giả tạo của Trương Ba ở phần kết là một sự phản kháng mãnh liệt và đau đớn.
Trích đoạn Hồn Trương Ba da hàng thịt đưa vào dạy trong SGK Ngữ văn lớp 12 là một phần thuộc Cảnh
VII – cũng là cảnh cuối cùng của vở kịch, được đặt tên là Thoát ra nghịch cảnh(2). Trọng tâm của lớp
kịch là cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác Trương Ba. Do đó lời thoại ở đây vừa có thể coi là độc thoại vừa
có thể coi là đối thoại. Nó là một lời thoại đặc biệt, vừa chứa đựng mâu thuẫn vừa mang tính hành động,
thúc đẩy tình huống kịch phát triển đến mức cao nhất. Cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác là đỉnh cao tư
tưởng triết lý của vở kịch. Cuộc đối thoại đó cùng với thái độ và những lời đối thoại của những người ruột
thịt thân yêu nhất đã dẫn đến hành động quyết liệt - kiên quyết chối từ một cuộc sống chắp vá hồn nọ xác
kia của Trương Ba. Lưu Quang Vũ đã để cho nhân vật của mình chọn một con đường tưởng như tiêu cực
nhưng hết sức cần thiết và đúng đắn: Rời bỏ cõi đời này để được đúng là mình, để giữ trong ký ức những
người thân kỷ niệm tốt đẹp về mình. Có nhà nghiên cứu cho rằng “cuộc vật lộn giữa “Hồn Trương Ba” và
“Da Hàng thịt” thực chất là cuộc giao tranh giữa hai linh hồn trong một thân xác”(3).
Lưu Quang Vũ đã kế thừa tư tưởng của truyện cổ dân gian. Anh cũng nhấn mạnh vai trò quan trọng hơn
của linh hồn so với thể xác. Hàng loạt nhân vật phụ được hư cấu đã phát ngôn cho tư tưởng đó của tác
giả. Trong khi tất cả những người thân, kể cả người vợ, phủ nhận, xa lánh Trương Ba trong xác anh hàng
thịt, thì cô con dâu lại càng thông cảm với ông hơn. Mặc dù cô cũng nhận ra bao nhiêu điều ngang trái
xuất hiện nơi con người Trương Ba. Bằng những lời mộc mạc, giản dị, cô đã nói khá đúng, khá cơ bản về
linh hồn: “Thày vẫn dạy chúng con: cái bề ngoài có quan trọng gì, chỉ có tấm lòng yêu thương và trí tuệ
cao sáng của con người ta là đáng kể”; “Đã gọi là hồn làm sao có hình thù, bởi nó không là vuông hay
tròn, mà là vui, buồn, mừng, giận, yêu, ghét…”(4). Qua hàng loạt lời thoại của các nhân vật, nhà viết kịch
đã thể hiện một cái nhìn biện chứng đối với mối quan hệ Hồn - Xác. Người sống mượn hồn hay xác của
kẻ khác thì cũng đều bất ổn như nhau, đều không còn là mình nữa. Một linh hồn dù tốt đẹp khi trú ngụ
trong thân xác khác cũng sẽ bị biến dạng, bởi nó bị chi phối theo thói quen và bản năng của thân xác đó,
hơn nữa nó luôn bị dằn vặt trong mặc cảm giả dối và ích kỉ. Chưa kể còn hàng loạt những hệ luỵ, rắc rối
khác như đã xảy ra ở các màn kịch trước. Cuộc đấu tranh này cũng cảnh báo khả năng lấn át của thể xác,
của những nhu cầu tầm thường đối với khát vọng sống cao đẹp.
Cuộc sống chắp vá hồn nọ xác kia là một bi kịch cho Trương Ba và càng đau đớn hơn nữa khi ông ý thức
được rằng sự vay mượn này còn đem lại bao đau khổ cho những người thân của mình. Nó còn đáng sợ

hơn cả cái chết. Hồn Trương Ba đã nói với cô con dâu: “Thày đã làm u khổ. Có lẽ cái ngày u chôn xác
thày xuống đất, tưởng thày đã chết hẳn, u cũng không khổ bằng bây giờ”(5). Có lẽ đây cũng là một
nguyên nhân khiến Trương Ba đi đến chấp nhận cái chết, trả lại xác anh hàng thịt. Từ tư tưởng triết lý
đúng về quan hệ giữa hồn và xác, Lưu Quang Vũ đã đi đến một quan niệm đẹp về cách sống: sống chân
thật đúng là mình, sống vì mọi người, vì hạnh phúc và sự tốt đẹp của con người. Trương Ba chết nhưng
ông vẫn sống, sống trong tình cảm, trong “cõi nhớ” của mọi ngưòi, sống trong Sự sống, không cần phải
mượn đến thân xác của người khác. Đó là suy nghĩ vừa biện chứng vừa lạc quan và cao thưọng. Ý tưởng
sâu sắc đó, sau này lại được Lưu Quang Vũ thể hiện đậm nét trong vở Người trong cõi nhớ - một vở diễn
đạt Huy chương vàng Hội diễn Sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc năm 1985. Kịch bản này có một lối kết
cấu khá độc đáo. Các nhân vật xuất hiện đồng thời theo các bình diện không gian khác nhau. Những
người đang sống và những người đã chết. Đã chết như chỉ là mất đi cái phần thân xác, những tư tưởng,
tinh thần, những khát vọng, ước mơ cao đẹp của họ vẫn sống. Sống trong sự nghiệp, trong nỗi nhớ thường
ngày của những người đang sống hôm nay. Qua lời của một nhân vật kịch, Lưu Quang Vũ đã bộc lộ quan
niệm của anh về sự sống chết: Con người tồn tại ở ba cõi. Đó là thế giới của những người đang sống và
cõi lặng im. Cõi thứ ba: Cõi của những người đang sống TRONG TRÍ NHỚ CỦA NGƯỜI KHÁC,
những người không bị lãng quên... Và có thể nói quan niệm này đã chi phối hàng loạt các vở kịch khác
của anh.


Hồn Trương Ba da hàng thịt là một tác phẩm đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Lưu Quang Vũ. Năm
1990, tại Liên hoan Sân khấu Quốc tế lần I tổ chức tại Mátxcơva, lần đầu tiên xuất ngoại, vở diễn đã được
đánh giá xuất sắc nhất Liên hoan. Năm 1998 vở Hồn Trương Ba da hàng thịt đã đi lưu diễn tại Mỹ trong
chương trình giao lưu sân khấu Việt - Mỹ (V.A.T.E.I) được đánh giá là sự kiện văn hoá lớn. Nhà văn Hồ
Anh Thái - người được chứng kiến không khí sôi động của đêm diễn trên đất Mỹ sau này đã tái hiện lại
qua bài viết Đêm không ngủ ở Seattle (mượn tên một bộ phim nổi tiếng của điện ảnh Mỹ)(6). Tác giả
Phan Ngọc cũng đã có những lời đánh giá cao đối với tác giả vở diễn này: “Theo tôi nghĩ, Lưu Quang Vũ
là nhà viết kịch lớn nhất thế kỷ này của Việt Nam, là một nhà văn hóa... Có một Kịch pháp Lưu Quang
Vũ mà cả Đông Nam Á có thể tiếp thu. Vũ là một Prôtê, vị thần trong thần thoại có thể thay hình đổi dạng
tuỳ theo sở thích… Không ai bằng Vũ trong biệt tài nêu lên cái muôn đời trong cái bình thường, biến cổ
tích, huyền thoại thành chuyện thời sự, dùng cái hư để nói cái thực, dùng cái thô lỗ để khẳng định cái cao

quý



×