Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tiểu luận thuế nhóm phế liệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.27 KB, 17 trang )

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ PHẾ LIỆU PHẾ PHẨM
1. Khái niệm phế liệu, phế phẩm (PLPL)
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý, khái niệm phế liệu được định nghĩa lần đầu tiên tại
khoản 1 Điều 3 Quyết định số 03/2004/QĐ-BTNMT ngày 02/4/2004 của Bộ trưởng Bộ
Tài nguyên và Môi trường về việc ban hành Quy định về bảo vệ môi trường đối với
phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất: "Phế liệu – phế phẩm là sản phẩm, vật
liệu được loại ra từ quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng nhưng đáp ứng yêu cầu làm
nguyên liệu sản xuất". Khái niệm phế liệu tiếp tục được Luật Bảo vệ môi trường
2005 (Luật BVMT 2005) định nghĩa tại khoản 13 Điều 3: "Phế liệu –phế phẩm là sản
phẩm, vật liệu bị loại ra từ quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng được thu hồi để dùng làm
nguyên liệu sản xuất". Mặc dù có sự khác biệt về việc sử dụng một số từ ngữ trong hai
định nghĩa này nhưng giữa các định nghĩa này không có sự khác biệt về bản chất pháp
lý.
Theo các định nghĩa trên, vật chất sẽ trở thành phế liệu, phế phẩm khi đáp ứng đầy đủ
các tiêu chí sau:
Thứ nhất: Là sản phẩm hoặc vật liệu
Thứ hai: Bị loại ra từ quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng
Thứ ba: Được thu hồi dùng làm nguyên liệu
2. Thực trạng và vai trò
Phế liệu phế phẩm đang trở thành một nguồn nguyên liệu vô cùng quan trọng trong các
ngành sản xuất. Do sự bùng nổ của các ngành công nghiệp, nguồn nguyên liệu là phế
phẩm, phế liệu được loại ra ngày càng nhiều trên thế giới. Thêm vào đó , sự mất cân
đối giữa khả năng sản xuất và cung ứng nguyên vật liệu cũng là một trong những yếu
tố dẫn nâng tầm quan trọng của ngành kinh doanh PLPP.
Nguồn cung cấp phế liệu, phế phẩm: Có hai nguồn chính: thu mua trong nước và nhập
khẩu nước ngoài. Ở Việt Nam, trước đây tỷ lệ thu gom trong nước chiếm đa số. Tuy
nhiên tới thời điểm hiện tại, hầu như phế liệu phế phẩm được nhập khẩu từ nước ngoài
để đáp ứng đủ sản xuất của nhiều ngành khác nhau.
Có nhiều nhóm PLPP khác nhau, chủ yếu gồm nhóm kim loại, nhựa, giấy: PLPP từ
nhựa thường được sử dụng cho ngành xây dựng, đồ gia dụng hoặc lắp ráp các sản
phẩm điện tử; PLPP từ kim loại thương sử dụng cho ngành luyện kim ; và PLPP từ


giấy thường dung cho tái chế các sản phẩm từ giấy như sách vở, túi giấy v.v..
Không chỉ là nguồn nguyên vật liệu rẻ hơn so với khai thác và sử dụng nguyên vật liệu
nguyên sinh, sử dụng PLPP còn giúp hạn chế việc khai thác tài nguyên môi trường.
Ngoài ra, ngành kinh doanh PLPP cũng đã mở ra nhiều cơ hội nghề nghiệp cho nhiều
lao động và thậm chí là những nhà kinh doanh lớn.
Tuy nhiên, việc thiếu kiểm soát trong việc nhập khẩu PLPP khiến nhiều doanh nghiệp
nhập khẩu phế thải, rác thải trái phép gây ra vấn đề lớn cho môi trường trong nước. Để
tăng mức độ kiểm soát, đã có nhiều chính sách được đưa ra: Đối với kinh doanh trong
nước: Theo quy định, các cơ sở kinh doanh phế liệu phải đáp ứng những yêu cầu bắt


buộc- ngoài giấy phép kinh doanh, còn phải có giấy cam kết bảo vệ môi trường, có hệ
thống phòng chống cháy nổ. Đối với nhập khẩu : PLPP phải nằm trong danh mục được
cho phép nhập khẩu, đáp ứng các yêu tiêu chuẩn kỹ thuật do Bộ tài nguyên và môi
trường quy định và các thủ thục hải quan nghiêm ngặt.
CHƯƠNG II: CHÍNH SÁCH THUẾ HIÊN HÀNH ĐỐI VỚI NGÀNH HÀNG
PHẾ LIỆU PHẾ PHẨM VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NHỮNG CHÍNH SÁCH ĐÓ.
1. THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
Phù hợp với tình hình nước ta trong giai đoạn đang cất cánh, việc xuất nhập khẩu cũng
như kinh doanh phế phẩm phế liệu đang ngày càng phát triển, mang lại nhiều xu hướng
kinh tế tích cực. Doanh thu từ ngành phế liệu, phế phẩm rất cao và nó cũng đồng nghĩa
với việc thuế giá trị gia tăng mà nó đóng góp vào ngân sách nhà nước là không hề nhỏ.
Theo Luật số 45/2005/QH2011, phần Luật về Thuế GTGT, chương II “Căn cứ và
phương pháp đánh thuế” thì thuế giá trị gia tăng của HHNK = thuế suất* ( giá nhập
khẩu tại cửa khẩu + thuế nhập khẩu”, như vậy có thể thấy thuế GTGT đã tính lên cả
thuế nhập khẩu.
a) Thuế suất của thuế GTGT
Theo điều 11, thông tư 219/2013/tt-btc quy định về thuế suất 10% như sau : “Phế liệu,
phế phẩm được thu hồi để tái chế, sử dụng lại khi bán ra áp dụng mức thuế suất thuế
GTGT theo thuế suất của mặt hàng phế liệu, phế phẩm bán ra”. Như vậy mức thuế suất

của phế phẩm phế liệu đó khi bán ra áp dụng mức thuế suất của mặt hàng được tạo ra
từ phế phẩm, phế liệu đó, nói cách khác phế liệu phế phẩm cũng có 3 mức thuế suất
0%, 5% và 10%.
Căn cứ vào điều khoản trên, xác định thuế suất thuế GTGT của phế liệu thu hồi từ
quá trình luyện cán kéo bán ra được căn cứ theo mức thuế suất của sản phẩm luyện,
cán, kéo; cụ thể: Sản phẩm luyện, cán, kéo kim loại ở dạng thỏi, thanh, tấm, dây bán ra,
áp dụng thuế suất thuế GTGT 5%, nên khi bán phế liệu thu hồi từ quá trình này cũng
áp dụng thuế suất thuế GTGT 5%; Sản phẩm luyện cán kéo, như: Dây dẫn điện, dây
điện thoại… khi bán ra, áp dụng mức thuế suất thuế GTGT 10%, nên khi bán phế liệu
thu hồi từ quá trình này, áp dụng mức thuế suất thuế GTGT 10%
Với ngành bông phế phẩm, Tại Khoản 9, Điều 10, Thông tư số 219/2013/TT-BTC
ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Luật thuế GTGT và Nghị định
số 209/2013/NĐ-CP ngày 18/12/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật thuế GTGT (sau đây gọi tắt là Thông tư 219) quy định về
trường hợp áp dụng mức thuế suất thuế GTGT 5%:
Và theo điều 11 đã trích dẫn ở trên và kết hợp biểu thuế suất các mặt hàng đính kèm,
như vậy các mặt hàng bông thuộc mã 52.01, 52.02, 52.03 chịu mức thuế suất 5%,
ngoài ra sẽ chịu mức thuế 10%
b) Tác động của thuế GTGT tới việc kinh doanh mặt hàng phế phẩm


• Thuế GTGT là loại thuế gián thu áp dụng cho các cá nhân, tổ chức tiêu dùng
hay cung ứng mặt hàng phế liệu, phế phẩm, do đó đã tạo nguồn thu lớn, tăng
ngân sách nhà nước.
• Đối với việc xuất khẩu phế liệu, phế phẩm không những không phải nộp thuế
GTGT mà còn được khấu trừ hay hoàn lại thuế GTGT đầu vào. Việc này
khuyến khích xuất khẩu
• Thuế GTGT gắn liền với sự sửa đổi, bổ sung đối thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế
XNK do đó giúp hoàn thiện hệ thống thuế của Việt Nam
2. THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU

a. Thuế xuất khẩu
Xuất khẩu phế liệu phế phẩm ở Việt Nam hiện nay không còn là một lĩnh vực kinh
doanh mới mẻ mà đã tồn tại từ khá lâu. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu hàng hóa đặc
biệt này vẫn còn khá nhỏ, bó hẹp trong một số mặt hàng nhất định, mà chủ yếu là phế
liệu các loại kim loại thông thường, cơ bản.
Mức thuế suất hiện nay cho phế liệu và mảnh vụn sắt, phế liệu đúc lại từ sắt là 1517%, đặc biệt, một số kim loại cơ bản khác có mức thuế xuất khẩu lên tới 22% như
vonfram, maggie, coban,…Trong khi đó, các kim loại quen thuộc khác là 0% ( đồng,
niken, nhôm, …) [xem phụ lục bảng 2]
Có thể thấy rõ ràng, tồn tại một sự khác biệt rất lớn giữa phế liệu của nhóm kim loại
phổ biến mà thường tham gia vào rất nhiều quá trình sản xuất với tỷ lệ không nhỏ
(đồng, niken, nhôm,..) với phế liệu của sắt và nhóm kim loại cơ bản khác ( tantan,
coban, cadimi,..). Nguyên nhân có sự khác biệt này, là do chính sách bảo vệ tài nguyên
cùng với các cam kết của Việt Nam khi tham gia vào các tổ chức thương mại quốc tế
Trong quá trình công nghiệp hóa hiện nay, nâng cao sản xuất là điều không thể
tránh khỏi, đi cùng với đó là như cầu lớn về nguyên vật liệu các kim loại, gồm cả kim
loại thông thường và các kim loại hiếm, đặc biệt là với những ngành công nghiệp công
nghệ cao. Tuy nhiên, tài nguyên là có hạn, do đó, xu thế hiện nay của các nước phát
triển và các nước công nghiệp hàng đầu là “bảo toàn” tài nguyên khoáng sản trong
nước và tìm kiếm, khai thác nguồn nguyên liệu thô ở nước ngoài để đảm bảo nguồn
cung cho sản xuất trong nước. Bên cạnh đó, việc tái chế, sử dụng lại phế liệu phế phẩm
cũ cũng được nhiều nước đánh giá cao, do vừa không phải tìm cách xuất khẩu hay
thiêu hủy phế liệu mà chi phí nguyên vật liệu đầu vào rẻ hơn, trong khi cùng phải xử lý
lại nguyên liệu thô và phế liệu để có thể sử dụng được. Từ đó, xuất nhập khẩu phế liệu
phế phẩm trở thành một lĩnh vực tiềm năng. Tuy nhiên đối với các nước đang phát
triển như Việt Nam,nơi mà lượng nguyên liệu thô nhập khẩu chiếm tỷ lệ khá cao trong
giá trị hàng hóa, và giá trị gia tăng tạo được là không nhiều, thì việc xuất khẩu kim loại
phế liệu trong khi lại nhập chính những nguyên liệu đó có thể coi là một sự lãng phí tài
nguyên. Do đó, Nhà nước đã quy định mức thuế suất xuất khẩu khá cao cho phế liệu
kim loại.



Tuy nhiên, đi cùng với xu thế của quốc tế, Việt Nam cũng đang dần hòa nhập vào
thế giới, cả về kinh tế, văn hóa, chính trị, nên việc tham gia các tổ chức thương mại
quốc tế là không tránh khỏi. Khi trở thành thành viên các tổ chức kinh tế lớn, Việt Nam
thu đươc rất nhiều lợi ích kinh tế : thị trường tiềm năng, thuế suất ưu đãi, khoa học
công nghệ hiện đại tiên tiến,.. Nhưng đi cùng đó cũng là những thách thức : canh tranh
gay gắt, nguy cơ phụ thuộc nước ngoài, bãi rác công nghệ,… cùng với các cam kết liên
quan tới hoạt động thương mai quốc tế, trong đó có cam kết thuế quan. Theo cam kết
của Việt Nam khi gia nhập WTO, thuế suất đối với mặt hàng sẽ giảm đáng kể, trong đó
có cam kết về giảm thuế xuất từ 29% và 22% xuống 22% và 17% với phế liệu phế
phẩm từ sắt và các kim loại màu (tantan, maggie, coban,…).
Bảng 3. Thuế suất một số mặt hàng phế liệu phế phẩm từ năm 2011-2015 (Xem
phụ lục bảng 3)
Mức thuế suất giảm mạnh ( từ 33% năm 2011 xuống 22% năm 2012) khiến cho
tình hình xuất khẩu phế liệu phế phẩm có chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, dù đã giảm
đáng kể, nhưng thuế xuất khẩu phế liệu phế phẩm kim loại vẫn tương đối cao so với
các mặt hàng khác ( thông thường là 10%-17%, riêng mặt hàng là khoáng sản và tài
nguyên thiên nhiên là từ 25%-40%), dẫn tới họat động xuất khẩu phế liệu phế phẩm
kim loại ở Việt Nam không quá mạnh mẽ, giá trị xuất khẩu không lớn, điển hình là
năm 2014 chỉ xuất khẩu 1.434 tấn, trị giá hơn 141 tỷ VND, chiếm 0.0045 % tổng kim
ngạch xuất khẩu cả nước. mức thuế suất này đã phần nào hạn chế hoạt động xuất khẩu
phế phẩm . Tuy nhiên, khi không xuất khẩu được, thì lượng phế liệu đó cũng không
được đưa hết vào cho sản xuất trong nước. Các doanh nghiệp khi sử dụng nguyên liệu
tái chế, thường ít mặn mà với phế liệu phế phẩm trong nước, mà lại nhập khẩu mặt
hàng này về sử dụng. Nguyên nhân do đâu khiến cho các doanh nghiệp thà chấp nhận
nhập khẩu phế liệu để sản xuất với chi phí tăng thêm do quá trình vận chuyển, rủi ro về
chất lượng hàng hóa, và sự phụ thuộc và nhà cung cấp nước ngoài, hơn là nhập nguyên
liệu phế liệu phế phẩm trong nước? Câu trả lời nằm ở thuế giá trị gia tăng. Khi nhập
khẩu phế liệu từ nước ngoài về, doanh nghiệp sẽ có các chứng từ hóa đơn mua bán cho
phép doanh nghiệp được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào. Trong khi đó, nếu nhập

từ trong nước, việc cung cấp đủ chứng từ để được khấu trừ thuế gặp khó khăn khi mà
số phế liệu đó được gom bởi những người mua ve chai đơn lẻ và số ít những cơ sở thu
gom phế liệu lẻ tẻ. Thực tế cho thấy, phế liệu phế phẩm ở Việt Nam có giá trị thấp do
không được phân loại kỹ, số lượng thu gom tuy không ít nhưng lẻ tẻ, và được sơ chế
không hoàn toàn đảm bảo. Bên cạnh đó, hoạt động tái chế ở nước ta còn chưa phát
triển, chủ yếu là các xưởng gia đình công suất bé, cùng một vài nhà máy công suất vừa
và lớn như nhà máy luyện đồng Tằng Loỏng, nhà máy luyện kim màu Bản Lầu (Lào
Cai). Tất cả lý do trên khiến doanh nghiệp không muốn sử dụng phế liệu phế phẩm
trong nước. Không thể sử dụng trong nước, xuất khẩu lại gặp khó khăn về thuế, một
lượng không nhỏ phế liệu phế phẩm kim loại bị dồn ứ trong nước không xử lý được,
gây nên gánh nặng cho ngân sách Nhà nước khi phải tìm cách thiêu hủy hoặc tái chế
lại. Bên cạnh đó, sự tồn tại của nhưng phế liệu này trong lúc chờ được xử lý cũng gây
ảnh hưởng xấu tới mỹ quan, gây ô nhiễm môi trường


b. Thuế nhập khẩu
Hiện nay trên lãnh thổ Việt Nam có tổng cộng 349 cơ sở nhập khẩu và sử dụng phế
liệu.Trong đó, số lượng cơ sở đã NKPL để trực tiếp phục vụ sản xuất là 220 cơ sở; số
lượng doanh nghiệp nhập khẩu ủy thác là 94 doanh nghiệp.Có 35 cơ sở, doanh nghiệp
có Giấy chứng nhận đủ điều kiện NKPL nhưng không có hoạt động nhập khẩu.Các địa
phương có cơ sở NKPL số lượng lớn như: Hải Dương, Hải Phòng, Bắc Ninh, Bà RịaVũng Tàu. Một số loại phế liệu chính bao gồm: sắt, thép, nhựa. Sắt, thép chiếm tới
40% tổng số lượng phế liệu nhập khẩu trong năm 2014, khối lượng nhập khẩu là 2,55
triệu tấn với giá trị khoảng 11,5 triệu USD. Ngoài ra, mặt hàng phế liệu nhập khẩu năm
2014 tăng đột biến so với năm 2013 là nhôm phế liệu. Tuy nhiên, một số loại phế liệu
khác như giấy (giảm xấp xỉ 3 triệu tấn so với năm 2013), đồng, xỉ hạt nhỏ (xỉ cát), phế
liệu kim loại màu khác như crom, niken lại giảm so với năm 2013 (giảm xấp xỉ 1 triệu
tấn so với năm 2013).
Hiện có 2 nguồn phế liệu nhập khẩu, bao gồm: Nguồn phế liệu từ nước ngoài (phế
liệu sắt, thép được nhập khẩu từ Mỹ, Nhật Bản, Ôxtrâylia; phế liệu giấy được nhập
khẩu từ Hà Lan, Singapo, Nhật, Mỹ, Trung Quốc, Vương quốc Anh; phế liệu nhựa

được nhập khẩu từ Canađa, Hồng Công; phế liệu đồng được nhập khẩu từ Thái Lan,
Singapo) và nguồn phế liệu được nhập khẩu từ các doanh nghiệp chế xuất, doanh
nghiệp trong khu phi thuế quan.
Bảng 1. Thuế nhập khẩu ưu đãi các một số mặt hàng phế liệu năm 2015 (xem phụ lục
bảng 4)
Trên đây là biểu mức thuế suất nhập khẩu ưu đãi một số mặt hàng phế liệu, phế
phẩm trong năm 2015. Tuy nhiên mức thuế suất này cũng hầu như không khác của các
năm trước do chưa có sự thay đổi từ phía nhà nước của những mặt hàng này trong thời
gian vừa qua
Đối chiều giữa mức thuế suất nhập khẩu và xuất khẩu, có thể thấy rằng thuế suất
xuất khẩu luôn luôn cao hơn nhập khẩu. Một phần nguyên nhân là do nguồn nguyên
liệu trong nước phục vụ cho sản xuất còn hạn hẹp, chưa đáp ứng đủ nhu cầu. Do đó
nhà nước phải duy trì mức thuế nhập khẩu tương đối thấp đối với các mặt hàng phế
liệu để khuyến khích nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu sản xuất trong nước.
Trong biểu thuế nhập khẩu đối với phế liệu, mức thuế đánh vào sắt thép phế liệu,
kim loại phế liệu và giấy phế liệu hầu hết ở mức 0%, trong khi đó, phế liệu một số loại
phế liệu khác phải chịu mức thuế nhập khẩu từ 5-10%,thậm chí lên đến 20% (phế liệu
pin ắc qui,..). Có thể thấy nhà nước ưu đãi hơn đối với nhập khẩu sắt thép vì trong thời
gian gần đây, chính phủ đang triển khai rất nhiều dự án tái cấu trúc cơ sở hạ tầng đòi
hỏi nguồn nguyên vật liệu săt thép rất lớn. Bên cạnh đó, các nguồn phế liệu như tơ,
bông phục vụ cho ngành dệt may, hạt nhựa dùng cho ngành nhựa thì trong nước khá
sẵn có nên mức thuế cao hơn tránh nhập siêu, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp trong
nước. Phế liệu của pin, ắc quy thì có thể gây tác động xấu đến môi trường rất mạnh nếu


không được tái chế, xử lý đúng quy các. Do đó mức thuế suất cao (20%) có tác dụng
ngăn cản việc doanh nghiệp nhập khẩu tràn lan, không quản lý được gây ra ô nhiễm
môi trường.
Tuy nhiên, mức thuế suất 0% được duy trì trong những năm gần đây đối với kim
loại phế liệu, sắt thép phế liệu và giấy phế liệu dẫn đến tình trạng một số doanh nghiệp

lợi dụng mức thuế suất này nhập về ồ ạt sản phẩm phế liệu, dẫn đến tình trạng nhập
siêu phế liệu. Thu gom phế liệu trong nước cũng không phải đóng thuế nhập khẩu
nhưng vì nguồn phế liệu trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất cả về số
lượng lẫn chất lượng nên thay vì thu gom trong nước, các doanh nghiệp đã đồng loạt
nhập khẩu. Đặc biệt hơn, nếu doanh nghiệp nhập khẩu giấy phế liệu thì ngoài việc
không phải đóng thuế nhập khẩu doanh nghiệp còn được khấu trừ thuế giá trị gia tăng
đầu vào vì có hóa đơn mua hàng. Trong khi đó, doanh nghiệp thu gom giấy phế liệu
trong nước chỉ được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào nếu có hóa đơn. Và rất dễ
hiểu, hóa đơn cho nguồn giấy phế liệu vốn được thu gom từ những người mua ve chai
đơn lẻ là gần như không thể. Chính vì vậy mà nhiều doanh nghiệp chọn hình thức nhập
khẩu.
3. THUẾ KHÁC, PHÍ VÀ LỆ PHÍ
Nhập về ồ ạt nhưng có nhiều doanh nghiệp trong quá trình nhập khẩu, quản lý phế
liệu đã không tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường dẫn đến tình trạng ô nhiễm
môi trường trong diện rộng ở các nhà kho bãi chứa. Để ngăn chặn tình trạng trây ì, trốn
tránh trách nhiệm của một số doanh nghiệp nhập khẩu phế liệu sản xuất gây ô nhiễm
môi trường thì vừa qua, chính phủ đã ban hành nghị định 38 quy định: Từ ngày 15
tháng 6 năm 2015, các doanh nghiệp nhập khẩu phế liệu đều phải ký quỹ bảo vệ môi
trường. Mức ký quỹ giao động từ 10 đến 20% tổng giá trị lô hàng nhập khẩu. Doanh
nghiệp sau đó sẽ được hoàn trả lại số tiền ký quỹ và nhận thêm phần lãi suất tính theo
lãi suất của số tiền gửi không kì hạn
Xung quanh nghị quy định mới này, rất doanh nghiệp đang thắc mắc và có ý
kiến kiến nghị lên trên rằng quy định này là chưa phù hợp, đặc biệt là các doanh nghiệp
sản xuất sắt thép, giấy và nhựa. Doanh nghiệp đa phần sẽ phải đi vay ngân hàng để ký
quỹ do không có sẵn. Tiền ký quỹ sẽ được nhà nước hoàn trả cộng thêm tiền lãi, tuy
nhiên tiền lãi này là rất nhỏ so với lãi ngân hàng mà các doanh nghiệp phải trả . Theo
thống kê thì hiện nay ngành nhựa cần 30% nguyên liệu nhập khẩu là phế liệu để sản
xuất, ngành giấy là 70-80% và sắt thép là 90%. Nếu bắt buộc phải ký quỹ thì số tiền mà
doanh nghiệp nhập khẩu giấy phế liệu bị mất khoảng 10 tỷ đồng 1 năm, thậm chí lên
tới 4200 tỷ với toàn ngành sắt thép. Nhiều quan điểm chỉ ra rằng: “Ngoại trừ một số ít

doanh nghiệp làm ăn phi pháp thì hầu hết các doanh nghiệp đã bỏ tiền ra nhập khẩu
phế liệu về thì sẽ mua đúng sản phẩm , chất lượng tốt về để phục vụ sản xuất chứ
không ai mua rác về”. Rất nhiều doanh nghiệp, nhập khẩu phế liệu không gây hại cho
môi trường bao năm nay đột nhiên lại mất một khoản tiền lớn để ký quỹ sẽ gây ra thiếu
vốn để cho phục vụ sản xuất, mất đi chi phí cơ hội dùng số tiền ký quỹ cho việc đầu tư
khác; từ đó quy mô sản xuất có thể bị thu hẹp dần, ngăn cản sự phát triển của nền kinh
tế. Thực tế thì việc bảo vệ môi trường là rất cần thiết song cần có những chính sắt chặt


chẽ và cụ thể hơn nữa để tránh trường hợp những doanh nghiệp làm ăn nghiêm chỉnh,
chấp hành tốt quy định của nhà nước phải chịu thiệt.
CHƯƠNG III: KIẾN NGHỊ
1. Kiến nghị về thuế GTGT
Thuế suất GTGT: Trong kinh doanh nên chỉ sử dụng 2 loại thuế suất: 0% cho phế
liệu xuất khẩu và 5% cho phế liệu nhập khẩu, kinh doanh và tiêu dùng trong nước.
Việc xác định thuế suất rõ ràng sẽ giúp việc quản lí thuế của nhà nước dễ dàng hơn.
Phương pháp tính thuế GTGT: Nên chỉ sử dụng một phương pháp khấu trừ duy nhất,
loại bỏ phương pháp tính trực tiếp, để chỉ tồn tại một loại hóa đơn GTGT và tạo sự
công bằng cho các đối tượng tham gia nộp thuế.
Hoàn thiện khâu hoàn trừ thuế, khấu trừ thuế: Một số mặt hàng phế liệu phế phẩm
đang trong đối tượng không chịu thuế GTGT nên bị đánh thuế GTGT, thu hẹp phạm vi
không chịu thuế. Khi đó việc khấu trừ chỉ được dựa trên một cơ sở duy nhất đó là hóa
đơn chứng từ.
Nên đưa thêm vào các loại thuê như:
+ Thuế bảo vệ môi trường áp với từng loại hàng nhập khẩu vào Việt Nam xác
định mức độ ảnh hưởng đến môi trường Việt Nam
+ Thuế Thuế ô nhiễm môi trường bào gồm: thuế ô nhiễm không khí, thuế ô nhiễm
nguồn nước, đất
2. Kiến nghị về ký quỹ bảo vệ môi trường:
Điều chỉnh giảm mức ký quỹ và tăng lãi suất cho số ký quỹ môi trường lên tùy

theo lãi suất vay vốn cho các doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng làm vốn hoạt động
tái chế phế liệu khi nhập khẩu phế liệu vào trong nước. Mức ký quỹ là tương đối cao
(10-20% giá trị lô hàng), đa phần doanh nghiệp trong nước đều vay ngân hàng làm vốn
nên mức ký quỹ trên là hơi cao,thêm vào đó mức lãi suất ký quỹ thấp hơn nhiều so với
lãi suất vay ngân hàng nên gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp nhập khẩu. Số
lượng doanh nghiệp làm ăn phi pháp, hay quản lý không chặt chẽ trong việc nhập khẩu
phế liệu gây ô nhiễm môi trường là không nhiều nên nếu áp dụng việc ký quỹ cho tất
cả các doanh nghiệp thì sẽ gây thiệt hại lớn cho hầu hết các doanh nghiệp làm ăn
nghiêm chỉnh khác. Thay vào đó, cần lập ra danh sách những doanh nghiệp mà có dấu
hiệu hoặc xác suất gây ô nhiễm môi trường cao từ nguồn phế liệu nhập về, từ đó áp
dụng biện pháp ký quỹ. Nếu doanh nghiệp nào vi nhập phê liệu gây ảnh hưởng xấu đến
môi trường thì sẽ bị xử phạt dựa trên mức độ ô nhiễm đồng thời phải ký quỹ bảo vệ
môi trường 3 năm liên tiếp sau đó nếu nhập khẩu phế liệu.

3. Kiến nghị về thuế và chính sách quản lý nhập khẩu phế liệu
Vấn nạn nhập phế liệu, rác thải công nghiệp về VN đã từng nâng thành mức báo
động đỏ từ cách đây 5 năm. Thế nhưng, những biện pháp quản lý, ngăn ngừa đã áp
dụng từ trước đên giờ gần như không có hiệu lực. Hiện nay thực trạng “rác” nhập về
nước vẫn ào ạt, tồn đọng tại các cảng biển hoặc phân tán đi các vùng miền và gieo rắc


hiểm họa ô nhiễm môi trường rất lớn. Do đó nhà nước cần có những chính sách chặt
chẽ và chi tiết hơn để giảm thiểu được tối đa tình trạng ô nhiễm môi trường từ phế liệu
nhập khẩu như hiện nay. Bên cạnh đó cũng cần đưa ra những giải pháp, quy định giúp
doanh nghiệp trong nước có thể giảm bớt lượng phế liệu nhập khẩu mà vẫn đủ dùng
cho nhu cầu sản xuất. Cụ thể là:
Tăng thuế nhập khẩu sắt thép phế liệu, kim loại phế liệu lên mức cao hơn, có thể
là từ 5-7%. Việc tăng thuế nhập khẩu này sẽ giúp giảm thiểu việc doanh nghiệp nhập
“rác” về gây ô nhiễm môi trường. Điều này ít nhiều sẽ khiến lượng nhập khẩu phế liệu
để sản xuất thép giảm đi. Tuy nhiên mức tăng này cũng không phải là quá cao nên việc

nhập khẩu vẫn sẽ diễn ra; đồng thời lượng hàng còn tồn đọng trong các năm trước vẫn
còn tương đối nhiều nên sẽ không lo thiếu hụt sắt thép phục vụ nhu cầu trong nước.
Thuế nhập khẩu giấy phế liệu cũng nên tăng, có thể lên đến mức 10%. Công
nghiệp giấy là một trong những ngành công nghiệp gây ô nhiễm môi trường nặng nề
nhất, không chỉ gây ô nhiễm do phế liệu mà còn ô nhiễm do khí thải ra trong quá trình
sản xuất. Nhưng nếu doanh nghiệp dùng gỗ thay vì giấy phế liệu thì tình trạng ô nhiễm
môi trường có khi còn lớn hơn bởi lượng cây bị chặt là vô cùng lớn. Do đó ngoài việc
tăng thuế để hạn chế nhập khẩu bừa bãi, nhà nước cần có những biện pháp giúp các
doanh nghiệp có thể duy trì sản xuất với nguồn cung giấy phế liệu trong nước. Nhà
nước cần đưa quy định và tiêu chuẩn cho công nghiệp tái chế ở Việt Nam, điều chỉnh
lại và phát triển hệ thống pháp lý liên quan đến hoạt động thu gom vật liệu tái chế,
đồng thời cần có chính sách khuyến khích hoạt động thu gom và tái chế như giảm bớt
mức thuế giá trị gia tăng khi nhập khẩu giấy phế liệu trong nước
Nhựa phế liệu hiện nay đang ở mức thuế suất 10%. Nhà nước có thể giữ nguyên
mức thuế này hoặc tăng nhẹ nhưng hơn hết là phải có những quy định, chính sách thúc
đẩy việc thu gom nhựa phế liệu trong nước để hệ thống thu gom phế liệu trong nước
tập trung và có quy mô hơn, đạt yêu cầu về số lượng và chất lượng. Thêm vào đó là
những chính sách khuyến khích sử dụng nguồn phế liệu trong nước; từ đó các doanh
nghiệp sẽ dần dần hạn chế nhập khẩu và chuyển hướng sang dùng nguồn phế liệu trong
nước. Tóm lại, nếu tận dụng triệt để được nguồn phế liệu nội địa thì vấn đề môi trường
sẽ được cải thiện đáng kể đồng thời các doanh nghiệp dần dần sẽ tiết kiệm được chi phí
cho đầu vào sản xuất
4. Kiến nghị cho hoạt động kinh doanh phế liệu phế phẩm
- Căn cứ theo cam kết với WTO về thuế quan, việc tăng thuế xuất khẩu và giảm thuế
nhập khẩu đối với phế liệu phế phẩm được dùng làm nguyên liệu như sắt thép,
giấy,.. là tương đối khó. Tuy nhiên, trước thực trạng ô nhiễm môi trường và hoạt
động xử lý phế liệu phế phẩm không hiệu quả ở vn hiện nay, ta có thể tăng thuế bảo
vệ môi trường đối với phế liệu phế phẩm. Mức tăng bao nhiêu cần được xem xét kỹ
vì việc tăng thuế bvmt ảnh hưởng tới không chỉ phế liệu phế phẩm nhập khẩu mà
còn cả phế liệu phế phẩm trong nước. đồng thời vẫn đảm bảo cung cấp đủ nguyên

liệu cho sản xuất.
- Một trong những lý do khiến dn không muốn sử dụng phế liệu phế phẩm trong
nước là do việc nhập nguyên liệu thiếu bằng chứng chứng từ đầy đủ, khiến cho
khấu trừ VAT gặp khó khăn. Khắc phục tình trạng này, chúng ta cần có cơ chế
quản lý hoạt động thu gom phế liệu phế phẩm chặt chẽ hơn, kiểm soát các đầu mối


-

-

thu thập phế liệu phế phẩm lớn của thành phố, thị xã, giúp liên hệ các đầu mối với
các xưởng tái chế gia đình, các nhà máy. Khuyến khích, hỗ trợ các đầu mối thu
gom lớn thành lập dn nhỏ để dễ kiểm soát đầu ra cũng như tiêu thụ đầu ra trong
nước.
Kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu các hàng hóa phế liệu phế phẩm tại các cảng,
cửa khẩu, trong các phế liệu phế phẩm có thể có chất độc hại nghiêm trọng ảnh
hưởng tới môi trường và hệ sinh thái (Vi dụ: trong ác quy và pin cũ có hàm lượng
chì cao, axit độc) Kiểm tra đảm bảo an toàn vệ sinh môi trường với các cơ sở tái
chế nhằm đảm bảo sản phẩm tái chế không phải là “rác” hoặc sản phẩm độc hại.
Tăng mức phạt hành chính với các hành vi gây ô nhiễm môi trường như : không xử
lý hoặc tìm hướng tái chế cho chất thải là phế liệu phế phẩm, nhập khẩu phế liệu
phế phẩm độc hại ( mức phạt hiện nay đối với các hành vi sử dụng, lưu trữ, nhập
khẩu mua bán các chất độc hại chị cấm, hoặc không có giấy phép là từ 500.000 5.000.000 VND - Nghị định 163/2013/NĐ-CP).


PHỤ LỤC
Bảng 1: BIỂU THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
Tên mặt hàng


Thuế suất
GTGT

Phế liệu, phế phẩm từ ngành sản xuất thực phẩm, thức ăn gia súc đã chế biến

5%

Phế phẩm từ bông

5%

Phế liệu từ lông cừu, lông động vật hoặc lông mịn

5%

Phế liệu, phế phẩm của plastic và của các sản phẩm từ plastic

10%

Phế liệu, phế phẩm và mảnh vụn từ cao su

10%

Phế liệu, phế phẩm giấy

10%

Phế phẩm tơ tằm

10%


Phế phẩm từ bông mã 52.01, 52.02, 52.03

10%

Phế liệu, phế phẩm từ vải, quần áo đã qua sử dụng

10%

Phế liệu từ sắt, thép, niken, kẽm

10%

Máy móc hỏng

10%


Bảng 2: BIỂU THUẾ XUẤT KHẨU
Mã hàng

Mô tả hàng hóa

7204

Phế liệu, mảnh vụn sắt; thỏi đúc phế liệu nấu lại từ sắt
hoặc thép.

72041000 - Phế liệu và mảnh vụn của gang


Thuế xuất
khẩu

17

- Phế liệu và mảnh vụn của thép hợp kim:
72042100 - - Bằng thép không gỉ

15

72042900 - - Loại khác

17

72043000 - Phế liệu và mảnh vụn của sắt hoặc thép tráng thiếc

17

- Phế liệu và mảnh vụn khác:
- - Phoi tiện, phoi bào, mảnh vỡ, vảy cán, mạt cưa, mạt
72044100 giũa, phoi cắt và bavia, đã hoặc chưa được ép thành khối
hay đóng thành kiện, bánh, bó

0

72044900 - - Loại khác

17

72045000 - Thỏi đúc phế liệu nấu lại


17

74040000 Đồng phế liệu và mảnh vụn.

22

75030000 Niken phế liệu và mảnh vụn.

22

76020000 Nhôm phế liệu và mảnh vụn.

22

78020000 Chì phế liệu và mảnh vụn.

22

79020000 Kẽm phế liệu và mảnh vụn.

22

80020000 Phế liệu và mảnh vụn thiếc.

22


81019700


Phế liệu và mảnh vụn vonfram

22

81029700

Phế liệu và mảnh vụn Molypden

22

81033000 Phế liệu và mảnh vụn Tantan

22

81042000 - Phế liệu và mảnh vụn maggie

22

81053000 - Phế liệu và mảnh vụn coban

22

81060010 - Bismut chưa gia công; phế liệu và mảnh vụn; bột

22

81073000 - Phế liệu và mảnh vụn cadimi

22


81083000 - Phế liệu và mảnh vụn titan

22

81093000 - Phế liệu và mảnh vụn zircon

22

81102000 - Phế liệu và mảnh vụn antimon

22

81110000

Mangan và các sản phẩm làm từ mangan, kể cả phế liệu và
mảnh vụn.

22

81121300

Phế liệu và mảnh vụn beryli

22

81122200

Phế liệu và mảnh vụn crom

22


81125200

Phế liệu và mảnh vụn tali

22

81129200 Chưa gia công ; phế liệu và mảnh vụn; bột các loại khác
81130000

Gốm kim loại và các sản phẩm làm từ gốm kim loại, kể cả
phế liệu và mảnh vụn.

22
22


Bàng 3: Thuế suất một số mặt hàng phế liệu phế phẩm từ năm 2011-2015
Mã hàng

Mô tả hàng hóa

2015

2014

2013

2012


2011

7204

Phế liệu, mảnh vụn sắt; thỏi đúc
phế liệu nấu lại từ sắt hoặc thép.
17

17

17

17

25

72042100 - - Bằng thép không gỉ

15

15

15

15

25

72042900 - - Loại khác


17

17

17

17

25

- Phế liệu và mảnh vụn của sắt
17
hoặc thép tráng thiếc

17

17

17

25

- - Phoi tiện, phoi bào, mảnh vỡ,
vảy cán, mạt cưa, mạt giũa, phoi
72044100 cắt và bavia, đã hoặc chưa được ép 0
thành khối hay đóng thành kiện,
bánh, bó

17


17

17

0

72044900 - - Loại khác

17

17

17

17

25

72045000 - Thỏi đúc phế liệu nấu lại

17

17

17

0

74040000 Đồng phế liệu và mảnh vụn.


0

22

22

22

33

75030000 Niken phế liệu và mảnh vụn.

0

23

22

22

33

76020000 Nhôm phế liệu và mảnh vụn.

0

24

22


22

33

78020000 Chì phế liệu và mảnh vụn.

0

25

22

22

33

79020000 Kẽm phế liệu và mảnh vụn.

0

26

22

22

33

80020000 Phế liệu và mảnh vụn thiếc.


0

27

22

22

33

81019700

22

22

22

22

33

72041000 - Phế liệu và mảnh vụn của gang
- Phế liệu và mảnh vụn của thép
hợp kim:

72043000

- Phế liệu và mảnh vụn khác:


Phế liệu và mảnh vụn vonfram


81029700

22

22

22

22

33

81033000 Phế liệu và mảnh vụn Tantan

22

22

22

22

33

81042000 - Phế liệu và mảnh vụn maggie

22


22

22

22

33

81053000 - Phế liệu và mảnh vụn coban

22

22

22

22

33

- Bismut chưa gia công; phế liệu
22
và mảnh vụn; bột

22

22

22


33

81060010

Phế liệu và mảnh vụn Molypden

81073000 - Phế liệu và mảnh vụn cadimi

22

22

22

22

33

81083000 - Phế liệu và mảnh vụn titan

22

22

22

22

33


81093000 - Phế liệu và mảnh vụn zircon

22

22

22

22

33

81102000 - Phế liệu và mảnh vụn antimon

22

22

22

22

33

Mangan và các sản phẩm làm từ
81110000 mangan, kể cả phế liệu và mảnh 22
vụn.

22


22

22

33

81121300

Phế liệu và mảnh vụn beryli

22

22

22

22

33

81122200

Phế liệu và mảnh vụn crom

22

22

22


22

33

81125200

Phế liệu và mảnh vụn tali

22

22

22

22

33

81129200

Chưa gia công ; phế liệu và mảnh
22
vụn; bột các loại khác

22

22

22


33

Gốm kim loại và các sản phẩm
81130000 làm từ gốm kim loại, kể cả phế 22
liệu và mảnh vụn.

22

22

22

33


Bảng 4: BIỂU THUẾ HÀNG NHẬP KHẨU
Tên sản phẩm

Mức thuế suất ưu
đãi (%)

3915

Phế liệu, phế thải và mẩu vụn, của plastic.

10

40040000


Phế liệu, phế thải và mảnh vụn từ cao su (trừ
3
cao su cứng) và bột và hạt thu được từ chúng.

4706

Bột giấy từ giấy loại hoặc bìa loại thu hồi (phế
liệu và vụn thừa) hoặc từ vật liệu xơ sợi 0
xenlulo khác.

4707

Giấy loại hoặc bìa loại thu hồi (phế liệu và vụn
0
thừa).

50030000

Tơ tằm phế phẩm (kể cả kén không thích hợp
10
để quay tơ, xơ sợi phế liệu và xơ sợi tái chế).

50050000

Sợi kéo từ phế liệu tơ tằm, chưa đóng gói để
5
bán lẻ.

5103


Phế liệu lông cừu hoặc lông động vật loại mịn
hoặc loại thô, kể cả phế liệu sợi nhưng trừ 10
lông tái chế.

5202

Phế liệu bông (kể cả phế liệu sợi và bông tái
10
chế).

5505

Phế liệu (kể cả phế liệu xơ, phế liệu sợi và
3
nguyên liệu tái chế) từ xơ nhân tạo.

7112

Phế liệu và mảnh vụn của kim loại quý hoặc
kim loại dát phủ kim loại quý; phế liệu và
mảnh vụn khác chứa kim loại quý hoặc các 1
hợp chất kim loại quý, loại sử dụng chủ yếu
cho việc thu hồi kim loại quý.

7204

Phế liệu, mảnh vụn sắt; thỏi đúc phế liệu nấu
lại từ sắt hoặc thép.

72041000


- Phế liệu và mảnh vụn của gang

72043000

- Phế liệu và mảnh vụn của sắt hoặc thép tráng
0
thiếc

72045000

- Thỏi đúc phế liệu nấu lại

Mã hàng

3

3


74040000

Đồng phế liệu và mảnh vụn.

75030000

Niken phế liệu và mảnh vụn.

76020000


Nhôm phế liệu và mảnh vụn.

78020000

Chì phế liệu và mảnh vụn.

79020000

Kẽm phế liệu và mảnh vụn.

80020000

Phế liệu và mảnh vụn thiếc.

81110000

Mangan và các sản phẩm làm từ mangan, kể
0
cả phế liệu và mảnh vụn.

81130000

Gốm kim loại và các sản phẩm làm từ gốm
0
kim loại, kể cả phế liệu và mảnh vụn.

8548

Phế liệu và phế thải của các loại pin, ắc qui;
các loại pin và ắc qui điện đã sử dụng hết; một

20
số bộ phận điện của máy móc hay thiết bị

0
0
0
0
0
3


ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN NHÓM

STT MSV

Họ Tên

1

1311110333

Trần Văn Khoa

2

1211110329

Dương Thị Kim

3


1211110332

Hoàng Mạnh Lâm

4

1311110344

Nguyễn Trần Tùng Lâm

5

1211510044

Hán Thị Lê Na

6

1211120074

Lý Văn Nam

7

1311110469

Trương Thị Hằng Nga

Điểm đánh giá




×