Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

Hợp đồng tín dụng của ngân hàng nhà nước Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.88 KB, 51 trang )

Lời mở đầu
Toàn cầu hóa là một xu hướng trong tất cả mọi lĩnh vực của thế giới ngày nay
văn hóa, ngôn ngữ mà đặc biệt là kinh tế. Giống như một xu hướng khách quan khi
mà một nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu lưu thông vốn càng vươn lên một
mức cao hơn, chính vì nguyên nhân đó dẫn đến một hệ quả là càng ngày sẽ càng có
nhiều tổ chức tín dụng ra đời. Hệ quả này có mặt tốt là nó sẽ giúp đáp ứng được
những nhu cầu về tài chính mà đặc biệt là vốn của các thành phần trong nền kinh tế,
thế nhưng mặt xấu sẽ xảy ra một khi chúng ta không thể quản lý được những hoạt
động tài chính ngày càng phức tạp hơn đang diễn ra như hiện nay. Tài chính có thể
được xem như “mạch máu” của một nền kinh tế, khi “mạch máu” vỡ chắc hẳn các bạn
cũng biết nó sẽ để lại những hậu quả cũng như những di chứng gì, một bài học mới
nhất cho chúng ta vẫn còn được nhắc đến cho đến ngày hôm nay – Khủng hoảng tài
chính Mỹ 2007-2008. Hoạt động tài chính ngày nay, mà đặc biệt là hoạt động tín
dụng vô cùng đa dạng và phức tạp, cùng với sự xuất hiện ngày càng nhiều những tổ
chức tín dụng thì việc quản lý là vô cũng khó khăn và nhiều thách thức. Đa số các
quốc gia đều cố gắng tạo ra những khung pháp lý hoàn chỉnh nhất để tạo điều kiện
cho sự phát triển của hoạt động tín dụng nhưng đồng thời cũng có thể quản lý, kiểm
soát nó. Vậy thì Việt Nam ta đã có những biện pháp, những hành động gì để đưa hoạt
động tín dụng phát triển một cách lành mạnh và hoạt động có hiệu quả?
Ngày 01/01/2011, sẽ là ngày mà Luật các tổ chức tín dụng 2010 chính thức có
hiệu lực. Vậy với những quy định mới, những điều được sửa đổi, bổ sung so với Luật
các tổ chức tín dụng 1997 (sửa đổi, bổ sung 2004) thì nó sẽ có tác động như thế nào
đến hoạt động tín dụng trong thực tế? Và nó đã thật sự khắc phục được những bất
cập của Luật các tổ chức tún dụng 1997 hay chưa? Đó là những câu hỏi mà nhóm
chúng tôi sẽ trả lời trong bài tiểu luận “ So sánh, phân tích, đánh giá Luật các tổ chức
tín dụng 1997 và 2010 về hợp đồng tín dụng cho vay”. Bài tiểu luận sẽ cho các bạn
những cái nhìn tổng quan về một vấn đề rất thời sự khi mà cái mốc ngày 01/01/2011
đang đến rất gần, đồng thời nó sẽ giúp các bạn hiểu và nhận biết được những điểm
mới, những tiến bộ cũng như những bất cập còn tồn tại trong Luật các tổ chức tín
dụng 2010.
Với những ý kiến chủ quan, kiến thức cũng như tài liệu tham khảo còn có


nhiều hạn chế, rất mong các thầy, cô cũng như các bạn quan tâm đóng góp ý kiến để
bài tiểu luận này được hoàn chỉnh hơn, và nó sẽ trở thành một tài liệu thật sự có giá
trị về mặt nghiên cứu cũng như thực tế cho tất cả những ai quan tâm đến vấn đề này.
Xin chân thành cảm ơn.
1
Nhận xét của giảng viên
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................

..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................................
2
Phụ lục viết tắt
TCTD Tổ chức tín dụng
BLDS Bộ Luật dân sự 2005
BLTTDS Bộ Luật tố tụng dân sự
NHNN Ngân hàng nhà nước
LDN Luật doanh nghiệp
HĐTD Hợp đồng tín dụng
DN Doanh nghiệp
NHTM Ngân hàng thương mại
HĐDS Hợp đồng dân sự
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
HĐBĐ Hợp đồng bảo đảm
3
Mục lục
4
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
1.1 Khái niệm
Quan hệ tín dụng vay mượn giữa TCTD (bên cho vay) và các chủ thể khác
trong nền kinh tế (bên đi vay) là quan hệ kinh tế nhằm chuyển giao và sử dụng tạm

thời các nguồn vốn tiền tệ nhất định giữa TCTD và bên đi vay theo nguyên tắc có
hoàn trả cả vốn và lãi vay. Để tham gia quan hệ này, các bên phải kí với nhau một văn
bản nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Việc xác lập các quyền và nghĩa vụ
này phải tuân theo quy định của pháp luật, phải được pháp luật thừa nhận. Văn bản
này được gọi là HĐTD.
Vậy, HĐTD là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa một bên là TCTD (bên cho vay)
với một bên là các tổ chức và cá nhân (bên đi vay) nhằm xác lập các quyền và nghĩa
vụ nhất định của các bên trong quá trình vay tiền, sử dụng và thanh toán tiền vay.
1.2 Những nguyên tắc đối với hợp đồng tín dụng
Khi thực hiện giao kết HĐTD cần đảm bảo những nguyên tắc sau đây:
1.2.1 Tự do giao kết hợp đồng nhưng không trái pháp luật
Nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể tham gia giao kết HĐTD có thể thoả mãn
nhu cầu vật chất cũng như tinh thần, các chủ thể được tự do giao kết hợp đồng. Dựa
trên nguyên tắc này, mọi cá nhân, tổ chức khi có đủ các điều kiện tư cách chủ thể đều
có thể tham gia giao kết bất kỳ HĐTD nào, nếu muốn. Tuy nhiên, hợp đồng chỉ có hiệu
lực pháp luật, được pháp luật công nhận và bảo vệ khi ý chí của các bên giao kết hợp
đồng phù hợp với ý chí của nhà nước. Hay nói cách khác, sự tự do ý chí giao kết hợp
đồng của các chủ thể phải nằm trong khuôn khổ, giới hạn nhất định – giới hạn lợi ích
của các cá nhân khác, lợi ích chung của xã hội và trật tự công cộng. Nếu để các bên tự
do vô hạn, thì HĐTD sẽ trở thành phương tiện để đầu cơ trục lợi và sẽ là nguy cơ đối
với lợi ích chung của xã hội. Chính vì vậy, trong xã hội Việt Nam – xã hội xã hội chủ
nghĩa, lợi ích chung của toàn xã hội (lợi ích cộng đồng) và đạo đức xã hội không cho
phép bất cứ cá nhân, tổ chức nào được lợi dụng ý chí tự do để biến những hợp đồng
thành công cụ trục lợi. Như vậy, cả hai bên cho vay và đi vay đều có quyền lựa chọn
đối tác, tự do thỏa thuận hợp đồng, tự do về việc áp dụng các biện pháp bảo đảm
thực hiện hợp đồng… nhưng những thỏa thuận đó không được trái với pháp luật.
Nếu trái với pháp luật thì những thỏa thuận đó vô hiệu.
1.2.2 Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng
Nguyên tắc này được quy định nhằm bảo đảm trong việc giao kết hợp đồng
không ai bị cưỡng ép hoặc bị những cản trở trái với ý chí của mình, đồng thời thể

hiện bản chất của quan hệ pháp luật dân sự. Quy luật giá trị đòi hỏi các bên chủ thể
khi tham gia các quan hệ tín dụng phải bình đẳng với nhau, không ai được viện lý do
khác biệt về hoàn cảnh kinh tế, thành phần xã hội, dân tộc, giới tính hay tôn giáo… để
tạo ra sự bất bình đẳng trong quan hệ tín dụng. Hơn nữa, ý chí tự nguyện của các bên
chủ thể tham gia hợp đồng chỉ được bảo đảm khi các bên bình đẳng với nhau trên
mọi phương diện. Chính vì vậy, pháp luật không thừa nhận những HĐTD được giao
kết thiếu sự bình đẳng và ý chí tự nguyện của một trong các bên đi vay hoặc bên cho
vay. Tuy nhiên, trên thực tế thì việc đánh giá một hợp đồng có được giao kết bảo đảm
ý chí tự nguyện của các bên hay chưa, trong một số trường hợp lại là một công việc
5
hoàn toàn không đơn giản và khá phức tạp bởi nhiều nguyên do chủ quan và khách
quan khác nhau, đòi hỏi sự dung hòa lợi ích giữa các bên.
Ý chí tự nguyện là sự thống nhất giữa ý chí chủ quan bên trong và sự bày tỏ ý
chí ra bên ngoài của chủ thể. Chính vì vậy, sự thống nhất ý chí của chủ thể giao kết
hợp đồng với sự bày tỏ ý chí đó trong nội dung hợp đồng mà chủ thể này đã giao kết
chính là cơ sở quan trọng để xác định một hợp đồng đã đảm bảo nguyên tắc tự
nguyện hay chưa. Hay nói cách khác, việc giao kết hợp đồng chỉ được coi là tự nguyện
khi hình thức của hợp đồng phản ánh một cách khách quan, trung thực mong muốn,
nguyện vọng của các bên chủ thể tham gia hợp đồng. Do đó, theo quy định của pháp
luật thì tất cả những hợp đồng được giao kết do bị nhầm lẫn, lừa dối hay bị đe doạ
đều không đáp ứng được nguyên tắc tự nguyện khi giao kết và do đó bị vô hiệu.
1.3 Hình thức của hợp đồng tín dụng
Có thể nói hoạt động cho vay là hoạt động cơ bản nhất của các TCTD vì nó
mang lại nguồn lợi nhuận chủ yếu cho các tổ chức này. Thế nhưng việc cho vay luôn
luôn tồn tại rủi ro dù thấp hay cao, chính vì vậy các TCTD luôn đặt ra một mục tiêu
hàng đầu đó là bảo toàn nguồn vốn tín dụng của mình. Để thực hiện được điều này
thì quyền và nghĩa vụ của các bên (TCTD và bên đi vay) phải cụ thể.
HĐTD bản chất là một hợp đồng kinh tế được ký kết giữa các pháp nhân hay
cá nhân để thỏa mãn nhu cầu về vốn. Do đó, pháp luật quy định các chủ thể khi tham
gia vào quan hệ tín dụng phải thỏa thuận bằng văn bản gồm cả văn bản viết và văn

bản điện tử dưới dạng thông điệp dữ liệu và dù HĐTD ký kết đưới hình thức nào trên
đây đều có giá trị pháp lý ngang nhau và đều là chứng cứ trong quá trình giao dịch
1
1
.
Việc pháp luật quy định HĐTD phải được ký kết dưới hình thức văn bản cùng với sự
chấp nhận cả hai hình thức nói trên có thể xem là nổ lực rất đáng kể của các nhà lập
pháp vừa nhằm đảm bảo sự tiện ích vừa đảm bảo an toàn pháp lý cho các chủ thể
tham gia ký kết HĐTD. Như vậy, mọi thỏa thuận dưới mọi hình thức không phải bằng
văn bản về việc cho vay giữa TCTD với bên đi vay đều không có giá trị pháp lý.
Hiện nay không có một mẫu HĐTD chính thức nào do pháp luật quy định mà
HĐTD là hợp đồng mẫu do các TCTD soạn thảo dựa trên quy định của pháp luật và
phù hợp với quy chế cho vay của TCTD. Đây cũng là điều dễ hiểu vì mỗi TCTD có
những quy định riêng về hoạt động cho vay, ngoài ra cũng có rất nhiều các phương
thức cho vay và ngày càng được mở rộng, do đó việc quy định một mẫu HĐTD chung
là điều khó có thể làm được. Thế nhưng, điều mà mọi HĐTD đều phải đảm bảo đó là
các điều khoản thiết kế trong HĐTD phải đảm bảo xác định cụ thể quyền và nghĩa vụ
của bên cho vay và bên đi vay. Khi các bên đã thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ
của mình trong hợp đồng thì các bên phải có nghĩa vụ thực hiện đúng những điều đã
cam kết. Nếu một trong hai bên vi phạm cam kết gây thiệt hại cho bên kia, họ phải có
trách nhiệm bồi thường cho bên bị vi phạm. Như vậy khi giải quyết tranh chấp, HĐTD
là bằng chứng để quy trách nhiệm cho các bên.
So với hợp đồng thương mại, HĐTD thường có điểm khác là thường rất nhiều
văn bản có các yếu tố như một hợp đồng, như đơn đề nghị vay vốn, HĐTD, khế ước
1 Xem Khoản 1 Điều 124 BLDS 2005, Điều 51 Luật các TCTD và Điều 11, 12, 13, 14 Luật giao dịch diện tử
năm 2005
6
nhận nợ (giấy nhận nợ),... Chẳng hạn trong đơn đề nghị vay vốn có nhiều nội dung cơ
bản của HĐTD như số tiền vay, mục đích vay, thời hạn vay, lãi suất vay và cam kết của
bên vay. Trường hợp ngân hàng ký chấp thuận những nội dung đó, thì hoàn toàn có

thể thay thế cho một bản HĐTD. Tương tự, khế ước nhận nợ cũng thường liệt kê lại
một cách đầy đủ những điểm chủ yếu của HĐTD, nên trong nhiều trường hợp cũng
đồng nghĩa với một HĐTD. Do HĐTD được làm kỹ như vậy, nên rất ít khi xảy ra tranh
chấp về chính HĐTD, mà thường là tranh chấp liên quan đến việc xử lý tài sản bảo
đảm để trả nợ.
Đi cùng với các HĐTD thường có các hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh
bằng tài sản. Hiện nay theo quy định thì các HĐBĐ tiền vay là các hợp đồng cầm cố,
thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản phải được lập thành văn bản; có thể lập thành văn
bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính
2
.
1.4 Phân loại hợp đồng tín dụng
1.4.1 Căn cứ vào tính chất có đảm bảo của khoản vay
HĐTD có đảm bảo bằng tài sản: là hợp đồng có sự thoả thuận để cho khách
hàng vay được sử dụng một số tiền của mình trong một thời hạn nhất định với điều
kiện có hoàn trả trên cơ sở đảm bảo bằng tài sản cầm cố, thế chấp của bên vay hoặc
có sự bảo lãnh của người thứ ba.
HĐTD không có đảm bảo bằng tài sản: là sự thỏa thuận cho khách hàng vay
vốn không kèm theo điều kiện bên vay phải có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc được bảo
lãnh bằng tài sản mà chỉ dựa vào uy tín của khách hàng.
Theo Điều 52 luật các TCTD quy định “các TCTD nhà nước được cho vay không
có bảo đảm theo chỉ thị của chính phủ”; bên cạnh đó theo nghị định 178/1999/NĐ-CP
quy định tại Điều 20 và 21 rằng “TCTD được lựa chọn khách hàng để cho vay không
có bảo đảm bằng tài sản khi cho vay vốn ngắn hạn, dài hạn để thực hiện các dự án
đầu tư phát triển hoặc phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống đối với
khách hàng vay”.
Như vậy sự khác biệt giữa HĐTD không có đảm bảo và HĐTD có đảm bảo
bằng tài sản đó là điều kiện bắt buộc về tài sản đảm bảo tiền vay.Trong thực tiễn kí
kết và thực hiện HĐTD, ta có thể linh hoạt chuyển hóa từ quan hệ HĐTD không có
đảm bảo bằng tài sản thành quan hệ HĐTD có bảo đảm bằng tài sản.

1.4.2 Căn cứ vào bản chất pháp lý
HĐTD có bản chất pháp lý là hợp đồng kinh tế (chỉ có giá trị phân biệt đối với
những hợp đồng được ký kết trước ngày 01-01-2006) khi được ký kết bằng văn bản
giữa TCTD với pháp nhân (các tổ chức kinh tế) hoặc cá nhân nhằm thỏa mãn nhu cầu
vốn kinh doanh.
HĐTD là hợp đồng dân sự khi được ký kết bằng văn bản giữa TCTD và khách
hàng không thỏa mãn các điều kiện mà pháp luật quy định đối với hợp đồng kinh tế
3
.
2 Khoản 1, Điều 10 Nghị định số 165/1999/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm
3 Quy định về hợp đồng dân sự được thể hiện hiện tại Điều 388 BLDS 2005
7
1.4.3 Căn cứ theo chủ thể ký kết
Dựa theo dấu hiệu chủ thể ký kết hợp đồng có thể phân chia HĐTD thành :
- HĐTD được ký kết giữa TCTD với tổ chức kinh tế là pháp nhân ( các DN
nhà nước, hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, DN
có vốn đầu tư nước ngoài…có điều lệ,chịu trách nhiệm dân sự bằng tài
sản của mình).
- HĐTD được ký kết giữa TCTD với cá nhân, hộ gia đình.
1.4.4 Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay
- Cho vay để kinh doanh, sản xuất
- Cho vay tiêu dùng ( dịch vụ, đời sống…)
1.4.5 Căn cứ theo thời hạn cho vay
- Cho vay ngắn hạn dưới 12 tháng.
Hình thức này chủ yếu đáp ứng nhu cầu về vốn lưu động của khách hàng trong
hoạt động kinh doanh hoặc thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng trong ngắn hạn.
- Cho vay trung hạn từ 12 tháng đến 60 tháng.
- Cho vay dài hạn từ trên 60 tháng trở lên.
Hình thức cho vay trung hạn và dài hạn được sử dụng để thỏa mãn nhu cầu
mua sắm tài sản cố định của khách hàng trong kinh doanh hoặc thỏa mãn nhu cầu

sinh hoạt, tiêu dùng như mua sắm nhà ở, phương tiện đi lại.
Việc phân loại các HĐTD như trên có ý nghĩa thực tiễn như sau:
• Xác định đúng bản chất quan hệ tranh chấp là tranh chấp từ quan hệ vay
vốn hay quan hệ bảo đảm tiền vay, quan hệ hợp đồng kinh tế hay quan hệ
hợp đồng dân sự.
• Xác định đúng thẩm quyền của tòa án và luật áp dụng để giải quyết tranh
chấp.
8
CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ NHỮNG BỔ SUNG, SỬA ĐỔI CỦA LUẬT CÁC TCTD 2010
VỀ NỘI DUNG CỦA HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG SO VỚI LUẬT CÁC TCTD 1997 SỬA
ĐỔI, BỔ SUNG 2004
2.1 Các chủ thể tham gia hợp đồng tín dụng
2.1.1 Các chủ thể tham gia hợp đồng tín dụng
Các chủ thể tham gia vào HĐTD thông thường là chính phủ, cơ quan nhà nước,
ngân hàng, tổ chức quốc tế, DN, cá nhân,… tùy thuộc vào các quan hệ tín dụng, cụ thể
như sau:
2.1.1.1 Tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng phát sinh giữa các ngân hàng, các
TCTD với các đối tác kinh tế - tài chính của toàn xã hội, bao gồm DN, cá nhân, tổ chức
xã hội, cơ quan nhà nước.
2.1.1.2 Tín dụng nhà nước
Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng giữa nhà nước với DN, các tổ chức
kinh tế - xã hội và các cá nhân. Tín dụng nhà nước xuất hiện nhằm thỏa mãn những
nhu cầu chi tiêu của ngân sách nhà nước trong điều kiện nguồn thu không đủ để đáp
ứng; nó còn là công cụ để nhà nước hỗ trợ cho các ngành kinh tế yếu kém, ngành mũi
nhọn và khu vực kinh tế kém phát triển, và là công cụ quan trọng để nhà nước quản
lý, điều hành vĩ mô.
2.1.1.3 Tín dụng tiêu dùng
Tín dụng tiêu dùng là quan hệ tín dụng giữa dân cư với DN, ngân hàng và các
công ty cho thuê tài chính. Trong đó dân cư là người đi vay; ngân hàng, công ty cho

thuê tài chính, DN là người cho vay.
2.1.1.4 Tín dụng thuê mua
Tín dụng thuê mua là quan hệ phát sinh giữa các công ty cho thuê tài chính với
DN, tổ chức kinh tế và cá nhân dưới hình thức cho thuê tài chính.
Chủ thể là công ty cho thuê tài chính (người cho thuê), và DN, tổ chức kinh tế
và cá nhân (người đi thuê).
2.1.1.5 Tín dụng quốc tế
Tín dụng quốc tế là mối quan hệ giữa các nhà nước, giữa các cơ quan nhà
nước với nhau, hoặc với ngân hàng quốc tế và các tổ chức quốc tế, các cá nhân người
nước ngoài và giữa các DN của các nước với nhau.
2.1.2 Những hạn chế đối với đối tượng đi vay
TCTD là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tiền tệ. Nó là một loại tổ chức
trung gian tài chính trong nền kinh tế, có chức năng chu chuyển vốn từ những chủ
thể thừa vốn nhưng thiếu cơ hội đầu tư, đến những chủ thể thiếu và cần vốn. Với
những đặc điểm như vậy, TCTD có ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ sự tồn tại và phát
triển của một nền kinh tế. Nhưng hoạt động của các TCTD luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro,
liên quan đến nhiều đối tượng trong nền kinh tế, vì vậy việc đảm bảo an toàn trong
hoạt động của các TCTD là điều rất quan trọng. Trong khi đó, hoạt động cho vay là
hoạt động kinh doanh chủ yếu của các TCTD, cho nên muốn đảm bảo an toàn trong
9
hoạt động của các TCTD trước hết phải có những biện pháp đảm bảo an toàn trong
hoạt động cho vay.
2.1.2.1 Những trường hợp không được cho vay
Trên tinh thần, đảm bảo an toàn hoạt động của các TCTD là đảm bảo sự ổn
định và phát triển của nền kinh tế, Luật các TCTD 1997 cấm các TCTD (trừ các TCTD
là hợp tác) cho các đối tượng sau vay
- Thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát của các TCTD
- Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc) của TCTD
- Bố, mẹ, vợ, chồng, con của các đối tượng trên
- Người thẩm định, xét duyệt cho vay

4
Thông thường, để cho một đối tượng vay, các TCTD phải thực hiện thẩm tra
những người đi vay theo nhiều tiêu chí nhất định như về tài sản đảm bảo, về khả
năng trả nợ trong tương lai,… Các đối tượng như thành viên hội đồng quản trị, tổng
giám đốc (giám đốc), phó tổng giám đốc (phó giám đốc), ban kiểm soát của các TCTD
có thể là chủ sở hữu của TCTD hoặc là những người trực tiếp quản lý, điều hành,
kiểm tra giám sát hoạt động của TCTD. Như thế, nếu cho các đối tượng này hoặc
những người thân của họ vay có thể dẫn đến tình trạng những người thẩm định, xét
duyệt cho vay không thực hiện đúng quy trình thẩm tra người đi vay, và đồng ý cho
vay mặc dù không đảm bảo những điều kiện cần thiết, từ đó có thể tạo ra nhiều rủi ro
hơn cho các TCTD.Vì vậy, để hạn chế các hoạt động cho vay trong nội bộ một TCTD,
không cho phép một hoặc một số cá nhân, tổ chức có thể thao túng hoạt động của
TCTD, tạo ra một môi trường bình đẳng trên thị trường tiền tệ để các tổ chức tín
dụng phát triển, hạn chế được việc khép kín trong ngành, bảo đảm nguyên tắc cạnh
tranh bình đẳng trong nền kinh tế thị trường, đảm bảo an toàn trong hoạt động cho
vay, tránh tình trạng lạm quyền trong các TCTD, luật các TCTD 1997 cấm cho vay đối
với các đối tượng trên.
Ngoài việc không cho phép các đối tượng trên vay, luật các TCTD năm 1997
còn không cho vay đối với những khách hàng được các đối tượng trên bảo lãnh
5
.
Ngoài ra, điều này không áp dụng đối với các TCTD là hợp tác vì loại hình các TCTD
này là tương trợ vốn giữa các thành viên
6
. Do đó, đã là thành viên của TCTD hợp tác
đều có thể vay tại TCTD đó.
Tuy nhiên, việc quy định như vậy, có nhiều điểm là chưa rõ ràng, gây khó khăn
khi áp dụng. Thứ nhất, do việc xác định các loại hình TCTD
7
còn thiếu nên dẫn đến

việc xác định các đối tượng quản lý, điều hành TCTD là chưa đầy đủ. Cho nên, khi áp
dụng, nếu các TCTD có người quản lý, điều hành không thuộc các chức danh trên sẽ
khó lòng chịu sự điều chỉnh của luật pháp. Ví dụ như đối với thành viên hội đồng
thành viên của TCTD là công ty TNHH.
4 Điều 77, khoản 1, Luật các TCTD số 07/1997/QHX
5 Điều 77, khoản 3, Luật các TCTD số 07/1997/QHX
6 Điều 77, khoản 2, Luật các TCTD số 07/1997/QHX
7 Điều 12, khoản 1, Luật các TCTD số 07/1997/QHX
10
Thứ hai, những thành viên trong hội đồng quản trị hay ban kiểm soát có thể là
cá nhân góp vốn hoặc người đại diện của tổ chức góp vốn. Do đó, khi thành viên là
người đại diện thì việc quy định cấm cho vay như trên không xác định được rõ là chỉ
cấm cho vay đối với những người đại diện cho pháp nhân hay cấm cho vay với cả
những tổ chức góp vốn cử người đại diện. Trên thực tế khi áp dụng, điều này thường
được hiểu là cấm cho vay đối với cả hai đối tượng trên.
Thứ ba, đối với các đối tượng là người thẩm định xét duyệt cho vay, luật quy
định như trên là chưa rõ ràng. Bởi vì có nhiều cách hiểu khác nhau về người thẩm
định và xét duyệt cho vay như: (i) là chính người thẩm định, xét duyệt cho vay khoản
vay đó, (ii) là tất cả những người thẩm định, xét duyệt cho vay trong mỗi chi nhánh
của TCTD, (iii) là tất cả những người làm công việc thẩm định, xét duyệt cho vay
trong mỗi TCTD; (iv) là tất cả những người làm công việc thẩm định, xét duyệt cho
vay của mọi TCTD. Chính vì quy định thiếu chặt chẽ và thiếu cụ thể như vậy, đã dẫn
đến trong thực tế, các TCTD phải tránh cho vay đối với tất cả những người làm công
việc thẩm định, xét duyệt cho vay trong TCTD mình, mặc dù hầu hết trong số đó
không có vai trò ảnh hưởng gì đến việc xem xét, quyết định cho vay.
So với quy định về những đối tượng cấm cho vay trong luật các TCTD năm
1997, luật các TCTD năm 2010 đã có một số sửa đổi khắc phục được những hạn chế
nêu trên. Cụ thể, luật các TCTD năm 2010 đưa thêm thành viên hội đồng thành viên
vào các đối tượng cấm cho vay (là người có quyền điều hành, quản lý trong mô hình
công ty TNHH), sử dụng thêm cụm từ “các chức danh tương đương” để đảm bảo việc

không cho vay đối với những người có quyền điều hành, quản lý trong các TCTD, và
đồng thời cũng quy định rõ ràng việc cấm cho vay với các tổ chức góp vốn có người
đại diện là thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát, thành viên góp vốn, chủ sở
hữu của TCTD là công ty cổ phần hay là công ty TNHH và những người có quan hệ
gia đình (Cha, mẹ, vợ, chồng, con) với các đối tượng trên. Hơn nữa, luật cũng đã bỏ
đối tượng người thẩm định, xét duyệt cho vay ra khỏi các đối tượng bị cấm cho vay
8
.
Việc quy định như vậy, rõ ràng là cụ thể, chặt chẽ, phù hợp hơn với tình hình thực tế.
Ngoài ra đối với các loại hình quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô, luật các
TCTD năm 2010 không áp dụng việc cấm cho vay với các đối tượng đã nêu
9
thay cho
TCTD là hợp tác ở luật các TCTD năm 1997.
Bên cạnh những điểm sửa đổi, luật các TCTD năm 2010 cũng bổ sung một số
điểm mới rất chặt chẽ nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay của các TCTD.
Ngoài việc không chấp nhận cho vay đối với những khách hàng được đảm bảo bởi
các đối tượng không được phép cho vay như luật các TCTD năm 1997, luật các TCTD
năm 2010 còn không cho phép các TCTD đảm bảo cho các đối tượng này đi vay tại
các TCTD khác.
Trên tinh thần bảo đảm hoạt động của các TCTD, luật các TCTD năm 2010 còn
bổ sung thêm một số đối tượng không được phép cho vay mà hoàn toàn không được
8 Điều 126, khoản 1, Luật các TCTD năm 2010
9 Điều 126, khoản 2, Luật các TCTD năm 2010
11
nhắc đến trong luật các TCTD năm 1997. Cụ thể, điều 126, khoản 4, khoản 5, khoản 6
quy định như sau:
4. TCTD không được cấp tín dụng cho doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực kinh doanh chứng khoán mà TCTD nắm quyền kiểm soát.
5. TCTD không được cấp tín dụng trên cơ sở nhận bảo đảm bằng cổ

phiếu của chính TCTD hoặc công ty con của TCTD.
6. TCTD không được cho vay để góp vốn vào một TCTD khác trên cơ sở
nhận tài sản bảo đảm bằng cổ phiếu của chính TCTD nhận vốn góp.
2.1.2.2 Những đối tượng hạn chế cho vay
Để tránh tình trạng đối tượng đi vay dựa vào lợi thế của mình gây áp lực, buộc
các TCTD đồng ý cho vay với điều kiện ưu đãi, luật các TCTD 1997 ra đời giúp cho các
TCTD tiến hành cho vay một cách khách quan hơn, hạn chế tối đa rủi ro xảy ra trong
quá trình cho vay của các TCTD. Theo khoản 1 Điều 78 luật các TCTD 1997 (sửa đổi
bổ sung 2004) quy định rằng các TCTD không được cấp tín dụng không có bảo đảm,
cấp tín dụng với những điều kiện ưu đãi cho các đối tượng là:
- Tổ chức kiểm toán, Kiểm toán viên đang kiểm toán tại TCTD
- Kế toán trưởng, Thanh tra viên
- Các cổ đông lớn của TCTD
- Doanh nghiệp có một trong những đối tượng bị cấm cho vay (được quy
định tại khoản 1 Điều 77 luật các TCTD) sở hữu trên 10% vốn Điều lệ
của doanh nghiệp đó.
Ngoài ra luật còn quy định tổng dư nợ cho vay đối với các đối tượng trên
không được vượt quá 5% vốn tự có của TCTD.
Trên đây có một vấn đề không thống nhất đó là cổ đông lớn của ngân hàng
theo Luật các TCTD là cổ đông sở hữu hoặc có quyền biểu quyết trên 10% vốn điều lệ
hoặc nắm giữ trên 10% vốn cổ phần có quyền bỏ phiếu của ngân hàng (khoản 6 Điều
20 luật các TCTD 1997, sửa đổi bổ sung 2004). Nhưng Luật chứng khoán thì lại quy
định cổ đông lớn là cổ đông sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp từ 5% trở lên số cổ phiếu
có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành (khoản 9 Điều 6 luật chứng khoán).
Ngoài ra, luật không chỉ rõ kế toán trưởng là người của ngân hàng hay của
doanh nghiệp vay vốn. Đồng thời cũng không nói rõ thanh tra viên là của ngân hàng
hay của cơ quan nào. Trên thực tế, đang được hiểu là hạn chế cấp tín dụng đối với kế
toán trưởng của chính ngân hàng cho vay. Còn thanh tra viên thì lại phải hiểu là
người của các cơ quan nhà nước đang thanh tra tại ngân hàng đó và tương tự như
đối với kiểm toán viên.

Từ sự bất cập này, tại khoản 1 Điều 127 luật các TCTD 2010 đã quy định cụ thể
hơn và bổ sung thêm về các đối tượng hạn chế cấp tín dụng:
- Tổ chức kiểm toán, kiểm toán viên đang kiểm toán tại TCTD, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài; Thanh tra viên đang thanh tra tại TCTD, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài;
- Kế toán trưởng của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
- Người thẩm định, xét duyệt cấp tín dụng;
12
- Các công ty con, công ty liên kết của TCTD hoặc doanh nghiệp mà TCTD
nắm quyền kiểm soát.
Bên cạnh đó, luật quy định việc cấp tín dụng đối với những đối tượng hạn chế
cấp tín dụng phải được Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên của tổ chức tín dụng
thông qua và công khai trong TCTD. Tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với “một” công
ty con, công ty liên kết của TCTD hoặc doanh nghiệp mà TCTD nắm quyền kiểm soát
không được vượt quá 10% vốn tự có của TCTD; đối với “tất cả” các đối tượng này
không được vượt quá 20% vốn tự có của TCTD.
Như vậy điều 127 luật các TCTD 2010 đã quy định rõ ràng hơn so với Điều 78
luật các TCTD 1997 (sửa đổi bổ sung 2004) nhưng vẫn tồn tại một số bất cập như tại
điểm c khoản 1 của điều này, quy định về các cổ đông vẫn chưa được cụ thể. Một vấn
đề khác luật 2010 đã bổ sung thêm nhưng vẫn chưa rõ ràng đó là ở điểm đ khoản 1
“người thẩm định, xét duyệt cấp tín dụng”. Ở đây, luật các TCTD năm 2010 đã đưa
“người thẩm định, xét duyệt cấp tín dụng” từ đối tượng cấm cho vay trở thành đối
tượng hạn chế cho vay, tuy nhiên vẫn chưa giải thích rõ ràng về đối tượng này.
Một vấn đề mới phát sinh ở đây là theo luật các TCTD 2010, việc xác định lãi
suất cho vay là theo thoả thuận với rất nhiều mức khác nhau chứ không chỉ có một
mức lãi suất cứng nhắc như trước đây. Vậy nếu cho các đối tượng nói trên vay với
mức lãi suất thuộc loại thấp thì khó có thể kết luận là đã ưu đãi hay không ưu đãi về
lãi suất. Do đó, cần quy định cụ thể hơn về lãi suất cấp tín dụng cho những đối tượng
này.
2.1.2.3 Giới hạn cấp tín dụng

Luật quy định về giới hạn cấp tín dụng nhằm hạn chế sự tập trung rủi ro quá
mức của TCTD vào một hay một nhóm khách hàng, cũng như hạn chế sự ảnh hưởng
của một hay một nhóm khách hàng đó đối với TCTD.
Tại khoản 1 điều 79 luật các TCTD năm 1997 (sửa đổi bổ sung 2004) quy định
về giới hạn cho vay đối với một khách hàng như sau:
- Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15%
vốn tự có của TCTD, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ
các nguồn vốn ủy thác của Chính phủ, của các tổ chức, cá nhân hoặc
trường hợp khách hàng vay là TCTD khác.
- Trường hợp nhu cầu vốn của khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của
TCTD hoặc khách hàng có nhu cầu huy động vốn từ nhiều nguồn thì các
TCTD được cho vay hợp vốn theo quy định của Thống đốc Ngân hàng
nhà nước;
- Trong các trường hợp đặc biệt, để thực hiện nhiệm vụ kinh tế-xã hội mà
khả năng hợp vốn của các TCTD chưa đáp ứng được yêu cầu vay vốn
của một khách hàng thì Thủ tướng Chính phủ có thể quyết định mức
cho vay tối đa với từng trường hợp cụ thể.
Hơn nữa, theo khoản 2 của Điều này còn quy định mức bảo lãnh đối với một
khách hàng và tổng mức bảo lãnh của một TCTD không được vượt quá tỷ lệ so với
vồn tự có của TCTD do Thống đốc Ngân hàng nhà nước quy định.
13
Về cơ bản, luật các TCTD 2010 về giới hạn cấp tín dụng là các quy định kế thừa
từ luật các TCTD 1997 có sửa đổi bổ sung 2004. Tuy nhiên, khái niệm cấp tín dụng đã
được làm rõ hơn bao gồm tất cả các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính,
bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác. Điều 128
luật các TCTD 2010 đã quy định rõ hơn và có một số thay đổi, bổ sung nhằm làm
tăng tính chặt chẽ của luật:
- Theo khoản 1, giới hạn cấp tín dụng của một khách hàng và người có
liên quan không được vượt quá 25% vốn tự có của ngân hàng thương
mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức

tài chính vi mô. Quy định này nhằm tránh trường hợp một khách hàng
sử dụng tên của nhiều người để vay vốn.
- Một quy định mới khác so với luật các TCTD 1997 có sửa đổi 2004 được
nêu tại khoản 2 điều 128 là “Tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một
khách hàng không được vượt quá 25% vốn tự có của tổ chức tín dụng
phi ngân hàng; tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng và
người có liên quan không được vượt quá 50% vốn tự có của tổ chức tín
dụng phi ngân hàng”. Điều này cho thấy tổng mức dư nợ cấp tín dụng
đối với một khách hàng và tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một
khách hàng và người có liên quan áp dụng đối với tổ chức tín dụng phi
ngân hàng được quy định cao hơn so với các mức áp dụng đối với ngân
hàng thương mại. Quy định này phù hợp với thông lệ quốc tế và thực
tiễn hoạt động của các TCTD vì các TCTD phi ngân hàng không nhận
tiền gửi của cá nhân và cung cấp dịch vụ thanh toán qua tài khoản của
khách hàng nên mức độ rủi ro ảnh hưởng đến hệ thống TCTD thấp hơn
nhiều so với các ngân hàng thương mại. Quy định này sẽ tạo điều kiện
cho các TCTD phi ngân hàng phát triển và hoạt động hiệu quả hơn.
- Ngoài ra, theo khoản 4, mức dư nợ cấp tín dụng quy định tại khoản 1 và
khoản 2 Điều này bao gồm cả tổng mức đầu tư vào trái phiếu do khách
hàng phát hành.
- Và theo khoản 8, tổng các khoản cấp tín dụng của một tổ TCTD, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài trong các trường hợp đặc biệt do Thủ
tướng Chính phủ quyết định mức cấp tín dụng không được vượt quá
bốn lần vốn tự có của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài.
Luật các TCTD 2010 đã nới lỏng hơn về hạn mức cấp tín dụng của các công ty
tài chính so với các NHTM (quy định cụ thể trong khoản 1,2). Việc nới lỏng này sẽ
giúp các công ty tài chính có điều kiện phát triển hơn, phù hợp với thực tế hiện nay.
Quy định này cũng nhằm hướng đến mục tiêu xây dựng các công ty tài chính thành
định chế tài chính mạnh hơn, với vai trò chủ yếu là môi giới tiền tệ, làm đầu mối để

thu xếp các khoản cấp tín dụng lớn cho các tập đoàn, tổng công ty.
Những mặt hạn chế theo quy định tại khoản 1, điều 128, luật các TCTD 2010:
Thứ nhất: Hiện nay Việt Nam vẫn đang cần thu hút vốn nước ngoài để phát
triển kinh tế; mặt khác theo cam kết gia nhập WTO của Việt Nam, từ 01/01/2011, chi
14
nhánh ngân hàng nước ngoài được đối xử bình đẳng quốc gia, do đó, được nhận tiền
gửi bằng VND từ khách hàng như các NHTM trong nước. Vì vậy, các chi nhánh ngân
hàng nước ngoài cũng phải bình đẳng như các NHTM trong nước trong việc áp dụng
các giới hạn về cấp tín dụng để bảo đảm an toàn cho TCTD cũng như cho hệ thống
ngân hàng. Khoản 1, Điều 128 dường như là một phần của việc bảo hộ, bao cấp ưu
đãi cho các tổ chức tín dụng trong nước và sẽ không tạo thành một môi trường cạnh
tranh lành mạnh cho hoạt động ngân hàng tại Việt Nam.
Thứ hai: Với nội dung của khoản 1, Điều 128, luật các TCTD 2010 thì Các chi
nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ phải đứng trước ba lựa chọn:
(1) Tăng thêm vốn tự có của chi nhánh để duy trì tổng mức dư nợ cấp
tín dụng đối với khách hàng như hiện tại. Trong bối cảnh bất ổn về tài chính
toàn cầu như hiện nay thì các tổ chức tín dụng đều phải hết sức thận trọng,
việc tăng vốn tự có của chi nhánh là một quyết định lớn và khó thực hiện.
(2) Chuyển khoản vay hiện có cho chi nhánh tại quốc gia khác, điều này
đồng nghĩa với các khoản vay nợ trong nước sẽ chuyển thành nợ nước ngoài,
do đó có khả năng làm tăng phần “nợ” đối với cán cân thanh toán của Việt
Nam. Điều này có thể khiến các quốc gia tài trợ hay các nhà đầu tư nước ngoài
quan ngại về tình hình tài chính của Việt Nam.
(3) Thu hồi nợ trước hạn.
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài có lợi thế hơn các tổ chức tín dụng khác về
nguồn vốn ngoại tệ. Việc giảm bớt hạn mức cấp tín dụng của chi nhánh của ngân
hàng nước ngoài nhiều khả năng sẽ dẫn đến việc thiếu hụt về nguồn vốn ngoại tệ cho
vay trên thị trường do việc các khách hàng hiện vay nợ ngoại tệ của chi nhánh ngân
hàng nước ngoài phải tìm kiếm nguồn vay ngoại tệ khác từ các ngân hàng trong
nước, làm tăng thêm căng thẳng cho nền kinh tế, gây ra các bất ổn không cần thiết.

Bà Đô Thị Thanh Thủy, đại diện cho Ngân hàng Ngoại hối Hàn Quốc (Korea Exchange
bank) - chi nhánh Hà Nội nói rằng hiện có ba ngân hàng Hàn Quốc hoạt động tại Việt
Nam với tổng vốn pháp định là 60 triệu đô la Mỹ. Trên thực tế, 15% của số vốn này
không đủ giải ngân cho một khách hàng của họ, hiện đã được giải ngân tới 20 triệu
đô la Mỹ vào một dự án ở Dung Quất. “60% khách hàng của ngân hàng chúng tôi có
dư nợ trên 4 triệu đô la Mỹ/khách. Do đó, điều khoản trên gần như không thể thực
hiện”
10
.
Thứ ba: Nếu xét ở góc độ pháp lý chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam
không phải là một pháp nhân độc lập mà là đơn vị phụ thuộc của ngân hàng chính
quốc, được ngân hàng nước ngoài bảo đảm chịu trách nhiệm về mọi nghĩa vụ, cam
kết của chi nhánh tại Việt Nam, song lại bị giới hạn mức cấp tín dụng trong phạm vi
vốn được cấp, đồng thời lại phải có cam kết về bảo lãnh và bảo đảm trách nhiệm của
ngân hàng mẹ tại chính quốc. Những điều này có thể gây ra mâu thuẫn về mặt pháp
10 />15
lý và không khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
Từ những hạn chế nêu trên nhóm có kiến nghị về quy định lại khoản 1, điều
128:
- Thứ nhất: Giữ nguyên quy định của Luật hiện hành, theo đó tổng mức
dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng của chi nhánh ngân hàng
nước ngoài không vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng chính quốc.
- Thứ hai: Quy định tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng
của chi nhánh ngân hàng nước ngoài không vượt quá 15% vốn tự có
của chi nhánh ngân hàng nước ngoài cộng với vốn vay từ ngân hàng
chính quốc hoặc không vượt quá 25% vốn tự có của chi nhánh ngân
hàng nước ngoài. Hiện nay có một số nước trong khu vực cũng có quy
định về giới hạn cho vay của chi nhánh ngân hàng nước ngoài như ý
kiến chẳng hạn Singapore, Thái Lan, Philipin quy định là 25% vốn được
cấp của chi nhánh cộng vốn vay từ ngân hàng chính quốc; Hàn Quốc

quy định là 20% vốn được cấp của chi nhánh cộng vốn vay từ ngân
hàng chính quốc và lợi nhuận được giữ lại…
Về quy định tại khoản 2, điều 128 có một số ý kiến cho rằng: “Tổng mức dư nợ
tín dụng đối với một khách hàng không vượt quá 25% của một tổ chức tín dụng phi
ngân hàng, tổng mức dư nợ tín dụng đối với một khách hàng và người liên quan
không quá 50%” là cao. Hiện nay đang có một xu hướng các công ty lớn, các tập đoàn
lớn thành lập ra ngân hàng, cũng như thành lập ra các tổ chức tín dụng để huy động
vốn và cho vay chính trong nội bộ của mình, do đó việc quy định tỉ lệ giới hạn cấp tín
dụng cao như vậy sẽ dẫn tới nguy cơ tập trung rủi ro quá mức của TCTD vào một hay
một nhóm khách hàng. Nhóm chúng tôi không đồng ý với ý kiến này, bởi luật không
cho phép tổ chức phi ngân hàng thực hiện hai nghiệp vụ rất quan trọng là các hoạt
động nhận tiền gửi của cá nhân và cung ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản
của khách hàng
11
, như vậy hoạt động của tổ chức tín dụng phi ngân hàng bị bó hẹp,
do vậy quy mô vốn sẽ không lớn, mức độ rủi ro ảnh hưởng đến hệ thống các TCTD
thấp hơn NHTM. Nếu như tỉ lệ giới hạn cấp tín dụng ngang bằng 15% thì các tổ chức
tín dụng phi ngân hàng sẽ khó khăn,việc nới lỏng các giới hạn này nhằm tạo điều
kiện cho các công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính phát triển.
Giới hạn để cấp tín dụng với một khách hàng của chi nhánh ngân hàng nước
ngoài, giới hạn cho vay của tổ chức tín dụng đối với các hệ thống phi ngân hàng hay
khách hàng có liên quan là những quy định đòi hỏi các ngân hàng thương mại, các tổ
chức tín dụng phải thực hiện rất nghiêm, đây là một yếu tố an toàn cho các ngân
hàng thương mại, luật quy định có tính chất thông thoáng hơn, mở ra hơn theo thông
lệ quốc tế, phải được phổ biến cụ thể và kịp thời.
11 Khoản 4, điều 4, luật các TCTD 2010
16
2.2 Nội dung hợp đồng tín dụng
2.2.1 Điều kiện vay vốn
Khi thỏa thuận điều khoản này, các bên phải ghi rõ trong HĐTD những tiêu

chuẩn cụ thể mà bên vay phải thỏa mãn thì HĐTD mới có hiệu lực. Một số điều kiện
vay vốn thường gặp nhất trong các HĐTD, chẳng hạn:
- Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách
nhiệm dân sự theo quy định của Pháp luật.
- Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp
- Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ (gốc và lãi) cho TCTD trong thời
hạn cam kết.
- Thực hiện đảm bảo tiền vay theo đúng quy định của Chính phủ, hướng
dẫn của NHNN Việt Nam và của bên cho vay.
- Đặc biệt đối với các khách hàng là DN bên cho vay có thể yêu cầu
khách hàng phải có mức vốn nhất định để tham gia vào phương
án/dự án xin vay vốn của mình.
Tùy từng hợp đồng mà tiêu chuẩn cụ thể khác nhau, tuy nhiên điều kiện về năng
lực chủ thể là điều kiện không thể thiếu trong bất kỳ HĐTD nào.
2.2.2 Cấp tín dụng, phương thức cho vay
2.2.2.1 Cấp tín dụng
Theo Luật các TCTD 1997 ( sửa đổi năm 2004) quy định:
Điều 20 Khoản 10 giải thích: “ Cấp tín dụng việc TCTD thoả thuận để khách
hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay,
chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác”.
Điều 49 quy định: “TCTD được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình
thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài
chính và các hình thức khác theo quy định của NHNN”.
Nhận thấy rằng về vấn đề này luật TCTD 1997 (sửa đổi 2004) không bao quát
được loại hình cấp tín dụng bởi vì:
- Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho
thuê máy móc thiết bị, phương tiên vận chuyển và các động sản khác trên cơ
sở hợp đồng cho thuê giữa các TCTD và khách hàng, qua đó khách hàng có thể
sử dụng tài sản thuê và thanh toán dần tiền thuê trong suốt thời hạn đã được
thoả thuận. Vì vậy, ta thấy TCTD chỉ thỏa thuận để khách hành sử dụng tài sản

của mình chứ không phải thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền.
- Về nghiệp vụ bảo lãnh nhân hàng, vào thời điểm phát hành thư bảo lãnh thì
TCTD chưa thực sự giải ngân bằng tiền. Chỉ khi khách hàng không thực hiện
được nghĩa vụ thì TCTD mới thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Do đó luật TCTD
1997 ( sửa đổi 2004) sử dụng thuật ngữ “Cấp tín dụng việc TCTD thoả thuận
để khách hàng sử dụng một khoản tiền” là chưa thật sự đầy đủ. Vì vậy, luật
2010 ra đời nhằm khắc phục những nhược điểm mà luật 1997 sửa đổi 2004
chưa làm được.
17
Điều 4 Khoản 14, Luật các TCTD 2010 quy định: “Cấp tín dụng là việc thỏa
thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng
một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho
thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng
khác.”
Luật 2010 giải thích rõ ràng và đầy đủ hơn : “sử dụng một khoản tiền hoặc
cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền”.
Tuy nhiên về vấn đề này ở luật 2010 nên giải thích một cách đầy đủ hơn về các
nghiệp vụ để cho người đọc hiểu tận tình vấn đề, đỡ phải mất nhiều thời gian trong
việc áp dụng các quy định, điều lệ ban hành kèm theo.
2.2.2.2 Phương thức cho vay
Điều 16 – QĐ số 1627/2001/QĐ-NHNN (Đã sửa đổi bổ sung theo QĐ 127 và QĐ 783
của NHNN quy định:
TCTD thoả thuận với khách hàng vay việc áp dụng các phương thức cho vay:
1. Cho vay từng lần: mỗi lần vay vốn khách hàng và TCTD thực hiện thủ tục
vay vốn cần thiết và ký kết HĐTD.
2. Cho vay theo hạn mức tín dụng: TCTD và khách hàng thỏa thuận một
hạn mức tín dụng duy trì một khoảng thời gian nhất định.
3. Cho vay theo dự án đấu tư: TCTD cho khách hàng vay vốn để thực hiện
các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư
phục vụ đời sống.

4. Cho vay hợp vốn: Một nhóm TCTD cùng cho vay với một dự án vay vốn
hoặc phương án vay vốn của khách hàng, trong đó có một TCTD làm đầu mối
dàn xếp, phối hợp với các TCTD khác.
5. Cho vay trả góp: khi vay vốn, TCTD và khách hàng xác định và thỏa
thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo
nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay.
6. Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: TCTD cam kết đảm bảo sãn
sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định.
TCTD và khách hàng thỏa thuận về thời hạn hiệu lực của hạn mức tính dụng
dự phòng, mức phí chi trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.
7. Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sự dụng thẻ tín dụng: TCTD
chấp thuận cho khách hàng được sử dụng vốn vay trong phạm vi hạn mức tín
dụng để thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút
tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt đại là lý của TCTD. Khi cho vay phát
hành và sử dụng thẻ, TCTD và khách hàng phải tuân theo quy định của chính
phủ và NHNN việt nam vế phát hành và sử sụng thẻ tín dụng.
8. Cho vay theo hạn mức thấu chi: là việc cho vay mà TCTD thỏa thuận
bằng văn bản chi vượt quá số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách
hàng phù hợp với quy định của chính phủ và NHNN Việt Nam về hoạt động
thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
9. Các phương thức cho vay khác: những phương thức mà pháp luật không
cấm, phù hợp với điều kiện hoạt động kinh doanh của TCTD và đặc điểm
khách hàng.
18
Qua đó ta thấy các tiện ích, sản phẩm của các TCTD rất đa dạng, không còn là
một nền kinh tế chỉ dựa vào tiền mặt mà rất nhiều các phương thức cho vay ra đời
nhằm khuyến khích quá trình cạnh tranh bình đẳng của các TCTD, phù hợp với sự
phát triển của thế giới.
Về cơ bản thì luật các TCTD năm 1997 (sửa đổi 2004) và 2010 đều thể hiện sự
đa dạng hóa các hình thức cấp tín dụng đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu kinh tế, nâng

cao năng lực cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới. Tuy nhiên trước thách thức lớn của nền kinh tế phát triển và hội nhập thì luật
TCTD 2010 cần phải mở rộng và đa dạng hóa hơn nữa các nghiệp vụ tín dụng và
phương thức cho vay để nền kinh tế Việt Nam ngày càng đi lên và ngày càng hội nhập
sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
2.2.3 Mục đích sử dụng vốn vay
Ngày nay, các DN muốn tồn tại và phát triển thì cần phải tìm ra những ý
tưởng mới và các dự án đầu tư mới. Một dự án đầu tư mới có tính khả thi hay không
cần phải được xem xét và đánh giá một cách chính xác và đầy đủ về dự án đó. Để từ
đó DN mới có thể quyết định có nên đầu tư hay không. Tuy nhiên, các dự án đầu tư
thường đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn mà không phải DN nào cũng có khả năng
tài chính để thực hiện dự án đầu tư mà họ đưa ra. Lúc đó các DN cần phải tìm nguồn
tài trợ cho dự án bằng cách đi vay vốn.
Để một một DN có thể tiến hành thực hiện việc đi vay ở các TCTD thì DN đó
phải thực hiện đầy đủ các thủ tục pháp lý mà các TCTD yêu cầu.
Theo khoản 1 điều 53 luật các TCTD 1997 (sửa đổi bổ sung 2004) cũng đồng
thời được quy định trong khoản 1 điều 94 luật TCTD 2010 : “TCTD được yêu cầu
khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh phương án kinh doanh khả thi, khả năng
tài chính của mình và của người bảo lãnh trước khi quyết định cho vay”. Có nghĩa là
DN đi vay phải cung cấp dự án đầu tư và những giấy tờ liên quan đến bảo đảm cho
khoản vay của mình.
Xét về mặt hình thức thì dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một
cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động, chi phí theo một kế hoạch để đạt được
những kết quả và thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai. Xét về
mặt nội dung, nó là một tập hợp các hoạt động có liên quan với nhau được kế hoạch
hoá nhằm đạt được các mục tiêu đã định bằng việc tạo ra các kết quả cụ thể trong
một thời gian nhất định, thông qua việc sử dụng các nguồn lực xác định.
Dự án đầu tư là căn cứ quan trọng để các TCTD xem xét tính khả thi của dự
án, từ đó sẽ đưa ra quyết định có nên tài trợ cho dự án hay không và nếu tài trợ thì
tài trợ đến mức độ nào để đảm bảo rủi ro ít nhất cho nhà tài trợ. Khi thực hiện, dự án

sẽ mang lại những lợi ích gì cho đất nước nói chung và cho bản thân chủ đầu tư nói
riêng. Kết quả mang lại phải cụ thể, có thể định lượng, được tạo ra từ các hoạt động
khác nhau của dự án. Đây là điều kiện cần thiết để thực hiện các mục tiêu của dự án.
Đồng thời chứng minh tài chính cũng là một yếu tố quan trọng để TCTD quyết
định có nên cho vay hay không đối với khách hàng đó. DN chứng minh tài chính thông
qua báo cáo tài chính. Ngoài ra DN cũng phải cung cấp cho các TCTD những tài liệu
19
liên quan đến DN để các nhân viên của TCTD chấm điểm tín dụng, song song với việc
thẩm định tính khả thi của dự án đầu tư nhằm giảm rủi ro cho các TCTD.
Nếu thực sự khách hàng có thể đáp ứng được yêu cầu trên thì mới xét xem có
nên cho vay hay không.
Sau khi quá trình xét duyệt cho vay được hoàn tất thì khách hàng có thể sử
dụng vốn vay vào việc kinh doanh của mình nhưng phải đúng với mục đích kinh
doanh đã cam kết với TCTD.
Đối với vay vốn dân sự hoặc thương mại thông thường, thì hầu như bên cho
vay không quan tâm đến mục đích sử dụng vốn vay, trong khi đối với HĐTD thì lại là
một trong điều kiện quan trọng nhất.
Để bảo đảm được việc sử dụng vốn vay đúng mục đích và việc trả nợ đúng
hạn, ngân hàng có trách nhiệm và có quyền kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn
vay và trả nợ. Đây cũng là điều hầu như không xuất hiện trong các hợp đồng vay vốn
trong các quan hệ giữa cá nhân và các DN. Điều này được quy định tại khoản 3 của
điều 53 luật TCTD 1997 (sửa đổi bổ sung năm 2004): “TCTD có trách nhiệm và có
quyền kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách
hàng”.
Tại điều 94 luật TCTD 2010 cũng có những thay đổi nhỏ so với điều 53 luật
TCTD 1997(sửa đổi bổ sung 2004) đó là : “TCTD có quyền, nghĩa vụ kiểm tra, giám
sát việc sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng”. Tuy nhiên chỉ là thay đổi về cách
sử dụng từ thay cụm từ “trách nhiệm và quyền” thành “quyền, nghĩa vụ”, nội dung
hoàn toàn không thay đổi.
Về bản chất, quá trình sử dụng vốn vay và sử dụng vốn tự có của DN đều được

thể hiện trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ bởi vì trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ sẽ
thể hiện sự chuyển động của hình thái tiền trong DN sang hình thái sản xuất kinh
doanh khi DN sử dụng vốn. Các TCTD nơi cho vay có trách nhiệm kiểm tra, giám sát
quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng, nhằm đôn đốc khách
hàng thực hiện đúng và đầy đủ những cam kết đã thỏa thuận trong HĐTD, nội dung
kiểm tra như sau:
- Kiểm tra trước khi cho vay: là việc thẩm định, tái thẩm định các điều
kiện vay vốn. Theo như quy định khách hàng phải có năng lực pháp luật
dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự, có khả
năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. Có dự án đầu tư,
phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả; hoặc có
dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy
định của pháp luật hay không…
- Kiểm tra trong khi cho vay: là việc kiểm tra tính đầy đủ, hợp pháp, hợp
lệ của hồ sơ khách hàng, hồ sơ vay vốn, hồ sơ tài sản bảo đảm tiền vay
và các yếu tố chứng từ; sự khớp đúng giữa chứng minh thư và người
vay, giữa người nhận tiền và người có tên trên giấy đề nghị vay vốn…
- Kiểm tra sau khi cho vay: Kiểm tra sử dụng vốn vay theo mục đích đã
ghi trong HĐTD; kiểm tra tiến độ thực hiện dự án, phương án; kiểm tra
hiện trạng tài sản bảo đảm tiền vay.
20
Các quy trình xây dựng và thực hiện kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử
dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng phù hợp với đặc điểm hoạt động của TCTD và
tính chất của khoản vay, nhằm bảo đảm hiệu quả và khả năng thu hồi vốn vay; gửi
quy trình kiểm tra giám sát vốn vay của khách hàng cho thanh tra NHNN.
Chính việc giám sát vốn vay có hiệu quả sẽ giúp cho các TCTD tăng khả năng
thu hồi nợ cao, bảo đảm việc sử dụng vốn vay có hiệu quả sinh lời cao, giảm đi việc sử
dụng vốn vay trái mục đích kinh doanh có thể dẫn đến không có khả năng trả nợ khi
đáo hạn. Thực tế cho thấy nhiều ngân hàng đã thành lập hẳn một ban giám sát vốn
vay, điều này giúp cho ngân hàng chủ động trong việc kiểm soát lượng vốn vay tránh

tình trạng vỡ nợ ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của ngân hàng. Tuy nhiên không
phải ban kiểm tra giám sát nào cũng làm việc có hiệu quả, trung thực. Yếu tố kiểm tra
giám sát ở đây còn chịu tác động của một số yếu tố ảnh hưởng khác...
Lấy thí dụ như việc cho vay của các TCTD đối với Vinashin. Chính việc giám sát
vốn vay không chặt chẽ dẫn đến việc Vinashin sử dụng vốn vay không đúng mục đích
vay. Như chúng ta đã biết Vinashin vốn là tập đoàn kinh tế với chức năng chính là
chuyên đóng tàu, vận tải biển, tuy nhiên họ lại sử dụng vốn vay đầu tư vào lĩnh vực
không đúng ngành nghề kinh doanh như đầu tư vào bất động sản, đầu tư sang các
lĩnh vực khác, nhất là những lĩnh vực đầu tư dàn trải như bia, xi măng…Mặt khác
lãnh đạo Vinashin có năng lực quản trị DN yếu kém, báo cáo không đúng thực trạng
về sử dụng vốn, về đầu tư, về phát triển thêm DN, ngành nghề kinh doanh và tình hình
hoạt động sản xuất kinh doanh, mỗi lần báo cáo số liệu khác nhau,kinh doanh lỗ thì
họ lại báo có lãi…Điều này dẫn đến Vinashin vẫn chưa thể trả số tiền nợ quá hạn vay
tại các TCTD, khiến cho tổng số tiền vay và lãi tiếp tục tăng lên, theo ước tính số tiền
nợ các tổ chức có thể lên tới hơn 80000 tỷ đồng, không chỉ nợ các tổ chức Vinashin
còn đang nợ chồng chất lương và thu nhập của cán bộ, nhân viên tại hàng loạt nhà
máy, công ty con, công ty thành viên. Việc Vinashin vẫn còn thuộc sở hữu của nhà
nước, theo đó chính phủ vẫn bảo lãnh các khoản nợ cho Vinashin không chỉ các
khoản nợ thuộc vốn nhà nước mà còn những khoản nợ liên quan đã phát sinh và sẽ
phát sinh đối với mọi chủ nợ khác. Một số lãnh đạo trong Vinashin cứ quan niệm đầu
tư thì cứ đầu tư lỗ thì đã có nhà nước bảo lãnh. Việc Vinashin hưởng quá nhiêu đặc
quyền, vô hình trung đã tách rời trách nhiệm lãnh đạo tập đoànvà nghĩa vụ trả nợ .
Chính điều này làm cho các TCTD thu hồi nợ và lãi gặp nhiều khó khăn.
12
Ngoài ra điểm khác biệt của điều 94 của luật TCTD 2010 là có thêm khoản thứ
4 :“TCTD có quyền yêu cầu khách hàng vay báo cáo việc sử dụng vốn vay và chứng
minh vốn vay được sử dụng đúng mục đích vay vốn” hoàn toàn không có trong luật
TCTD 1997 (sửa đổi bổ sung năm 2004). Sự thay đổi này làm tăng thêm quyền lực
cho các TCTD, các TCTD có thêm sự linh hoạt trong hoạt động kiểm tra giám sát
nguồn vốn cho vay của chính mình, có thể thông qua việc báo cáo về tình hình sử

dụng vốn, chứng minh vốn vay sử dụng đúng mục đích để nắm bắt kịp thời những DN
sử dụng vốn vay sai mục đích và trái pháp luật gây thiệt hại cho TCTD nói riêng và
nền kinh tế nói chung.
12 Nguồn : “Vinashin lấy tiền đâu trả nợ 80000 tỷ” – Thời báo Lao động, “sử dụng vốn sai mục đích của
Vinashin” – Thời báo xã luận
21
Về nguyên tắc, bên vay vốn được sử dụng vốn vay vào bất kỳ mục đích nào, nếu
không bị pháp luật cấm. Tuy nhiên, có những trường hợp không bị pháp luật cấm,
như việc vay vốn để trả nợ ngân hàng khác hoặc trả nợ chính ngân hàng vay, nhưng
lại rất khó được chấp nhận, vì nó được coi như một hoạt động đảo nợ. Trước đây,
việc đảo nợ bị cấm, sau đó được quy định là “Việc đảo nợ được thực hiện theo quy
định của Chính phủ” tại Khoản 4 Điều 54 Luật TCTD 1997. Tuy nhiên từ năm 1997
đến nay, vẫn không có văn bản cụ thể nào nào của Chính phủ hay NHNN giải thích về
nội dung này. Luật TCTD 2010 cũng không hề đề cập đến nội dung đảo nợ này.
Đảo nợ ở đây được hiểu là cho vay một khoản vay mới để trả nợ khoản vay cũ
đến hạn thanh toán lại cho ngân hàng. Tuy nhiên đảo nợ không nên chỉ đơn giản là
lấy khoản tiền vay mới trả cho khoản tiền vay cũ mà nó còn ẩn chứa những nghiệp vụ
phức tạp. Khách hàng phải tiến hành vay nóng ở những tổ chức đáo hạn. Sau đó,
khách hàng phối hợp ngân hàng sẽ hợp thức hóa hồ sơ vay vốn và tiến hành vay tại
chính ngân hàng đó và dùng số tiền vay được thanh toán lại cho các tổ chức đáo hạn
bên ngoài. Việc đáo hạn như vậy hoàn toàn không mang lại lợi ích kinh tế cho cả
khách hàng và cả phía ngân hàng. Và hình thức này hiện nay diễn ra rất phổ biến tại
các NHTM, nhiều trường hợp hoàn toàn không tuân theo sự hướng dẫn của NHNN
mà diễn ra một cách tự phát và mang tính chất tiêu cực. Đảo nợ không mang lại lợi
ích cho ngân hàng tuy nhiên việc đảo nợ lại phổ biến ở các NHTM là do :
Thứ nhất, khi xét một người vay nợ ngân hàng nhưng do làm ăn không hiệu
quả dẫn đến mất khả năng trả nơ khi đáo hạn. Họ không có tiền để trả nợ cho Ngân
hàng, trước hết ngân hàng sẽ bị thiệt do không thu hồi nợ đúng hạn, nhiều khách
hàng sẽ bị liệt vào danh sách nợ xấu, ngân hàng phải trích dự phòng cao dẫn đến
nguồn vốn khả dụng thực sự để cho vay của ngân hàng sẽ giảm xuống, lúc đó lợi

nhuận của ngân hàng sẽ giảm xuống theo. Khách hàng được áp dụng hình thức đảo
nợ này thường là những khách hàng tốt (khách hàng có giao dịch lớn, có đóng góp
cao, trả nợ đều đặn và là khách hàng tiềm năng lớn …), nên ngân hàng không muốn
liệt những khách hàng này vào danh sách nợ xấu vì sẽ ảnh hưởng đến những giao
dịch của khách hàng này và ngân hàng sau này. Nói chung, về nguyên tắc thì cách này
không tốt và cực kì nguy hiểm, bởi khách hàng làm ăn không hiệu quả mà “tái vay”
thì lại càng nguy hiểm.
Thứ hai, khách hàng đang làm ăn tốt, khi món nợ đáo hạn nhưng khách hàng
chưa thu tiền về kịp khi đó họ sẽ vay ở những nguồn vốn bên ngoài trước, sau đó trả
nợ và xin vay lại vì đang làm ăn tốt. Khi tiền về họ trả và tiếp tục tái kinh doanh.
Cuối cùng là việc Chính phủ đưa ra chính sách hỗ trợ lãi suất 4%, áp dụng cho
các khoản vay mới kể từ ngày 1/2/2009
13
đã tạo lý do cho các đề xuất đảo nợ. Khi
đảo nợ thì khách hàng qua đó trả được những khoản vay cũ với lãi suất cao, gánh
nặng nợ nần sẽ giảm đi, mặt khác tình trạng và khả năng xảy ra nợ xấu với các ngân
hàng cũng sẽ giảm.
Một nền kinh tế chấp nhận cho vay đảo nợ tức là chấp nhận cách làm ăn
không mang lại hiệu quả, đồng thời gây thất thoát tài sản và gây rối ren cho công tác
quản lý. Nhưng thực sự đối với nền kinh tế hiện nay của nước ta thì việc không có
13 Điều 3, khoản 3 quyết định số 131/QD-TTG do Thống đốc NHNN ban hành về việc hỗ trợ lãi suất 4% cho
các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất – kinh doanh.
22
đảo nợ là điều không thể bởi vì việc đảo nợ vẫn còn đem lại cho cả khách hàng và
ngân hàng một số lợi ích nhất định. Hơn nữa luật TCTD 2010 sẽ được ban hành trong
năm tới cũng chưa có bất cứ quy định cụ thể nào cấm đảo nợ.
Tóm lại, đảo nợ là một vấn đề hết sức nhạy cảm nên cần phải thận trọng trong
khi quyết định có cho phép đảo nợ hay không. Phân tích khía cạnh rủi ro đạo đức cho
thấy đảo nợ nếu không được kiểm soát tốt có thể làm xấu đi tính lành mạnh của hệ
thống tài chính. Thay vì cho phép đảo nợ thì Chính phủ nên có chính sách khuyến

khích các ngân hàng cơ cấu lại nợ vay cho DN, điều chỉnh lại lãi suất và xem xét giảm
lãi cho DN. Nhà nước nên cho phép ngân hàng có một hệ thống đánh giá rủi ro và
phân loại nợ riêng chứ không chỉ phụ thuộc vào quy định của NHNN. Lúc đó, việc lách
luật, né luật sẽ không còn nữa và chất lượng tín dụng cũng sẽ được cải thiện theo
hướng rõ ràng, minh bạch hơn.
Đối với trường hợp ngân hàng phát hiện khách hàng sử dụng vốn vay không
đúng mục đích đã thỏa thuận, thì ngân hàng lập tức được quyền chấm dứt hợp đồng,
phạt vi phạm và thu hồi nợ trước hạn, căn cứ vào khoản 1 điều 54 luật TCTD 1997
(sửa đổi bổ sung 2004) cũng được quy định tại khoản 1 điều 95 luật TCTD 2010 đó
là: “TCTD có quyền chấm dứt việc cấp tín dụng, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện
khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm các quy định trong hợp đồng cấp
tín dụng”.
Tín dụng vẫn là nguồn thu nhập lớn nhất đối với các ngân hàng nhưng bài
toán rủi ro tín dụng vẫn là bài toán hóc búa của các TCTD. Việc các nguồn vốn đi sai
đường sẽ không đem lại hiệu quả cho nền kinh tế.
Vì vậy, để việc cho vay đúng mục đích và mang lại hiệu quả kinh tế thì phải có
sự hướng dẫn kịp thời và chính xác của Nhà nước và các TCTD. Việc sử dụng hiệu
quả nguồn vốn vay chính là nguồn thu lớn nhất đối với Ngân sách Nhà nước.
2.2.4 Thời hạn cho vay
Trong quan hệ tín dụng nói chung, và quan hệ vay mượn giữa các TCTD và
khách hàng nói riêng, việc xác định thời hạn tín dụng hay thời hạn cho vay là điều hết
sức quan trọng. Bởi vì, các TCTD (người cho vay) sẽ dựa vào thời hạn cho vay để xác
định cấu trúc kỳ hạn của lãi suất và mức bù kỳ hạn từ đó đưa ra một mức lãi suất
thích hợp; hơn nữa thời hạn này sẽ giúp khách hàng (người đi vay) xác định được
thời hạn sử dụng vốn vay, xây dựng kế hoạch sử dụng vốn có hiệu quả, đảm bảo hoàn
trả nợ đúng hạn. Trong khi đó, HĐTD là một văn bản pháp lý điều chỉnh các quan hệ
tín dụng. Chính vì thế thời hạn cho vay là một trong những điều khoản không thể
thiếu được quy định trong HĐTD.
Theo điều 3, khoản 2, Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng ban hành
theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN thì thời hạn cho vay là khoảng thời gian

được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc
và lãi vốn vay đã được thoả thuận trong HĐTD giữa TCTD và khách hàng.
Một trong những nguyên tắc cơ bản của HĐDS nói chung và HĐTD nói riêng là
nguyên tắc thỏa thuận. Theo pháp luật quy định, thời hạn cho vay của HĐTD được
thỏa thuận dựa vào chu kỳ sản xuất, kinh doanh, thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu
23
tư, khả năng trả nợ của khách hàng và nguồn vốn cho vay của các TCTD
14
. Quy định
này là cơ sở pháp lý giúp người đi vay và cho vay xác định thời hạn cho vay một cách
chính xác nhất. Ngoài ra, việc xác định thời hạn cho vay dựa trên nguyên tắc thỏa
thuận nhằm đảm bảo lợi ích của cả hai bên, cũng như đạt được sự đồng thuận cao
nhất trong HĐTD.
Ngoài ra, để đảm bảo việc hoàn trả nợ của khách hàng, tránh rủi ro cho các
TCTD, pháp luật không cho phép thời hạn cho vay vượt quá thời hạn hoạt động còn
lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép hoạt động tại Việt Nam của các tổ chức
Việt Nam và nước ngoài, cũng như không cho phép thời hạn cho vay vượt quá thời
hạn được phép sinh sống, hoạt động tại Việt Nam của các cá nhân là người nước
ngoài.
Một yếu tố khác cần được nhắc đến trong thời hạn cho vay là kỳ hạn trả nợ.
Theo điều 3, khoản 3, Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng ban hành theo
Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN thì kỳ hạn trả nợ là các khoảng thời gian trong
thời hạn cho vay đã được thoả thuận giữa TCTD và khách hàng mà tại cuối mỗi
khoảng thời gian đó khách hàng phải trả một phần hoặc toàn bộ vốn vay cho TCTD.
Theo khái niệm trên, nếu xét về mặt ngôn từ thì kỳ hạn trả nợ và thời hạn cho
vay có điểm giống nhau đó là đều là căn cứ để xác định thời điểm khách hàng thực
hiện nghĩa vụ trả nợ của mình. Nhưng về bản chất hai khái niệm này có những điểm
khác nhau. Thời hạn cho vay là một thời gian, còn kỳ hạn là các khoảng thời gian
nằm trong thời hạn cho vay đó. Cho nên, khi hết thời hạn cho vay, khách hàng phải
trả hết nợ gốc và lãi, còn đến kỳ hạn trả nợ thì khách hàng có thể chỉ phải trả một

phần trong toàn bộ tài sản vay. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về kỳ
hạn trả nợ thì thời hạn cho vay và kỳ hạn trả nợ là trùng nhau. Nhưng nếu các bên có
thỏa thuận khác về kỳ hạn trả nợ thì hai thời điểm này hoàn toàn khác nhau.
Trên thực tế, đôi khi các khách hàng có thể không có khả năng trả nợ đúng
hạn, nghĩa là đã vi phạm HĐTD. Trong trường hợp này, pháp luật cho phép hai bên
được thỏa thuận thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ. Theo điều 3, khoản 4, Quy chế
cho vay của TCTD đối với khách hàng ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-
NHNN được sửa đổi bổ sung bởi quyết định số127/2005/QĐ – NHNN thì việc cơ cấu
lại thời hạn trả nợ bao gồm hai phương thức là điều chỉnh kỳ hạn trả nợ và gia hạn
nợ vay, cụ thể như sau:
- Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ là việc TCTD chấp thuận thay đổi kỳ hạn trả
nợ gốc và/hoặc lãi vốn vay trong phạm vi thời hạn cho vay đã thoả
thuận trước đó trong HĐTD, mà kỳ hạn trả nợ cuối cùng không thay
đổi.
- Gia hạn nợ vay là việc TCTD chấp thuận kéo dài thêm một khoảng thời
gian trả nợ gốc và/hoặc lãi vốn vay, vượt quá thời hạn cho vay đã thoả
thuận trước đó trong HĐTD.
Như vậy, có thể thấy điều khoản về thời hạn cho vay là điều khoản quan trọng
trong HĐTD, nó đóng một vai trò lớn trong quan hệ tín dụng nói chung, quan hệ vay
14() Điều 10, Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-
NHNN ngày 31/12/2001 của thống đốc NHNN
24
mượn nói riêng. Các bên tham gia trong hợp đồng, bắt buộc phải thực hiện điều
khoản về thời hạn cho vay thế nhưng điều khoản này cũng mang tính linh hoạt, trong
một số trường hợp nhất định, với những điều kiện cụ thể, pháp luật cho phép gia hạn
nợ vay tức là kéo dài thời gian trả nợ vượt quá thời hạn cho vay.
2.2.5 Lãi suất
Trong nền kinh tế thị trường, chính sách tiền tệ của một nước sẽ được thực
hiện thông qua việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ, đặc biệt là việc NHNN
sử dụng nghiệp vụ thị trường mở để tác động đến các mức lãi suất ngắn hạn, qua đó,

tác động đến tỷ lệ tăng cung tiền và tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Trong
quá trình này, thông thường NHNN đưa ra một tín hiệu rõ ràng về mức lãi suất cho
vay mà mình mong muốn. Dựa vào đó, các NHTM đưa ra mức lãi suất cho vay thích
hợp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn cũng như đảm bảo hoạt động của chính
mình.
Luật các TCTD 2010, tại khoản 1 và điều 91, quy định về lãi suất trong hoạt
động kinh doanh của TCTD như sau:“TCTD được quyền ấn định và phải niêm yết
công khai mức lãi suất huy động vốn, mức phí cung ứng dịch vụ trong hoạt động kinh
doanh của TCTD.”
Đây mà một điểm mới mà không có trong luật các TCTD 1997 (sửa đổi, bổ
sung năm 2004). Theo quy định này, TCTD được quyền ấn định và phải niêm yết công
khai mức lãi suất huy động vốn, mức phí cung ứng dịch vụ trong hoạt động kinh
doanh của TCTD. Cũng theo quy định này NHNN sẽ trao quyền cho TCTD ấn định mức
lãi suất, phí cấp tín dụng trong các hoạt động ngân hàng của TCTD, không phụ thuộc
vào quy định của BLDS vì bản chất hoạt động kinh doanh ngân hàng của TCTD khác
về bản chất với hoạt động cho vay trong quan hệ dân sự thông thường. Việc cho phép
các TCTD được tự công bố lãi suất của mình, theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, không
có nghĩa là lãi suất được tự do thả nổi trên thị trường. Lãi suất mà các TCTD đưa ra
phải nằm trong giới hạn theo quy định của pháp luật.
Trong luật các TCTD 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2004), các quy định về lãi
suất cho vay được đặt chung với các điều khoản trong HĐTD, cụ thể là tại điều 51
luật các TCTD 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2004) quy định về lãi suất cho vay như
sau:“Việc cho vay phải được lập thành HĐTD. HĐTD phải có nội dung về điều kiện
vay, mục đích sử dụng tiền vay, hình thức vay, số tiền vay, lãi suất, thời hạn vay, hình
thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác
được các bên thoả thuận.”.
Quy định trên có nghĩa là lãi suất cho vay được các bên thỏa thuận với nhau
khi kí HĐTD. Tuy nhiên, lãi suất thỏa thuận còn phải chịu điều chỉnh bởi điều 476
BLDS cho nên lãi suất cho vay do các bên thoả thuận không được vượt quá 150% lãi
suất cơ bản do NHNN công bố. Quy định này thực ra không nhằm áp đặt chế độ trần

lãi suất đối với các TCTD, mà đưa ra mốc lãi suất để chống cho vay nặng lãi. Như vậy,
mức lãi suất hai bên thỏa thuận không được cao hơn 150% lãi suất cơ bản mà NHNN
đưa ra tại thời điểm kí HĐTD.
25

×