Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

soạn bài bài ca ngắn đi trên bãi cát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.12 KB, 4 trang )

BÀI CA NGẮN ĐI TRÊN BÃI CÁT
(Sa hành đoản ca)-Cao Bá Quát
A.MỤC TIÊU BÀI HỌC
-Nắm được trong hoàn cảnh nhà Nguyễn trì trệ, bảo thủ, Cao Bá Quát tuy vẫn đi thi nhưng đã tỏ ra chán
ghét con đường mưu cầu danh lợi tầm thường. Bài thơ biểu lộ tinh thần phê phán của ông đối với học
thuật và sự bảo thủ trì trệ của chế độ nhà Nguyễn nói chung, góp phần lí giải hành động khởi nghĩa của
ông về sau vào năm 1854.
-Hiểu được mối quan hệ giữa nội dung nói trên và hình thức nghệ thuật cả bài thơ cổ thể về nhịp điệu,
hình ảnh…Các yếu tố hình thức này có đặc điểm riêng phục vụ cho việc chuyển tải nội dung
B. NỘI DUNG BÀI HỌC
I- TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả
-Là nhà thơ có tài năng và bản lĩnh.
-Thơ văn ông bộc lộ thái độ phê phán mạnh mẽ chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ và chứa đựng tư tưởng
khai sáng có tính chất tự phát, phản ánh nhu cầu đổi mới của xã hội Việt Nam trong giai đoạn giữa thế kỉ
XIX
=> Nửa đầu thế kỉ 19, CBQ là một trong những người nổi tiếng nhất. Nổi tiếng vì học giỏi, thơ hay, chữ
đẹp:Văn như Siêu Quát vô Tiền Hán, thiên hạ có 4 bồ chữ thì ông hai bồ…
Càng nổi tiếng nữa vì tư tưởng tự do phóng khoảng, bản lĩnh kiên cường trước cường quyền, vì lối sống
thanh cao, mạnh mẽ: nhất sinh đê thủ bái mai hoa
Không bằng lòng với thực tại, không chấp nhận và cũng không chịu thoả hiệp với thực tại, CBQ can án
chữa quyển thi, bị bắt giam, bị đưa cải tạo “dương trình hiệu lực”, bị đẩy là giáo thụ phủ Quốc Oai và rút
cuộc đi đến cuộc khởi loạn “châu chấu”.Thế rồi cuộc khởi loạn mà ông tham gia rốt cuôc không thành.
Trong một ý nghĩa nào đó, xét đến cùng, cuộc khởi loạn như một cách trả lời, một lần trả lời, một câu trả
lời đến tận độ để ông vĩnh viễn không còn phải băn khoăn vương vấn nữa. Suy xét từ căn rễ lịch sử-xã hội
đương thời có thể khẳng định CBQ đã trở thành một hiện tượng lịch sử, hiện thân cho dự cảm yêu cầu
một cuộc canh tân và là mầm mống báo hiệu cho sự ra đời nhưng tiếng nói canh tân quyết liệt của một thế
hệ nối tiếp ngay sau đó như Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Trường Tộ
=>Có thể coi ông là đứa con ngỗ nghịch của chế độ phong kiến đương thời.
2. Tác phẩm
-Hoàn cảnh sáng tác: khi ông đi thi Hội


-Thể loại: thể hành là một thể thơ cổ, có tính chất tự do phóng khoáng, không gò bó về số câu, độ dài của
câu, niêm luật, bằng trắc, vần điệu.


Chia đoạn tìm hiểu bài:
+Bốn câu đầu: hình ảnh bãi cát dài và người đi trên cát.
+Sáu câu tiếp:Tâm sự của nhà thơ.
+Sáu câu cuối: khúc ca về con đường cùng
II- ĐỌC –HIỂU VĂN BẢN
1.Hình ảnh bãi cát dài và người đi trên cát
-Không gian: bãi cát, lại bãi cát dài
->Điệp từ gợi ra không gian mênh mông cát trắng, hoang vắng đến rợn người
-Thời gian: mặt trời lặn
-Con người: đi một bước lại lùi một bước
-> Dường như cả không gian và thời gian như hùa với nhau làm tăng thêm nỗi vất vả nhọc nhằn của
người đi đường.
=> Tả cảnh bãi cát, sự việc đi trên bãi cát để dẫn dắt suy nghĩ về con đường công danh , rộng hơn là con
đường đời đầy chông gai, nhọc nhằn mà người đi trên cát-người trí thức thời phong kiến buộc phải dấn
thân để mưu cầu sự nghiệp, công danh cho bản thân, cho gia đình, cho dòng họ àLối cảm vật nhi động
thường thấy trong thơ trung đại.
-Từ tâm trạng của người đi trên cát, ta thấy được thái độ của nhà thơ: đã nhận ra sự mịt mờ của con
đường công danh mà mình đang đi, mệt mỏi, chán ngán, bế tắc
2. Tâm sự của người đi trên cát
Không học được tiên ông phép ngủ
Trèo non, lội suối, giận khôn vơi
-> Lời tự trách mình
+Tự trách mình không học được phép ngủ- đó chính là sự thờ ơ trước cuộc đời, nhắm mắt trước bao cảnh
trái tai gai mắt, bao cảnh lầm than của người dân do sự trì trệ bảo thủ của chế độ phong kiến mà nên. Lời
tự trách mình này cũng toả sáng nhân cách CBQ, một trí thức lớn không biết ngủ, luôn tỉnh táo trước việc
đời

+Đồng thời còn trách mình đã thấy con đường công danh là mịt mờ rồi mà vẫn phải vẫn vả đeo đuổi nó
Nhà thơ tự đặt ra một lối thoát là trong cuộc đi vô tận đó, nếu người ta có thể ngủ được theo phép thuỵ du
của những ông tiên thì may ra mọi nỗi thống khổ mới chấm dứt. Dường như nhà thơ tự trách mình vì
không có khả năng như người xưa, chán nản, mệt mỏi vì tự mình phải hành hạ thân xác mình trên con
đường đeo đuổi công danh
Nhưng tại sao CBQ lại tự trách mình cứ phải đeo đuổi mãi chuyện công danh? Công danh là hai tiếng vô
cùng quan trọng với các nhà nho thuở trước, vì họ quan niệm đã là thân nam nhi thì phải khẳng định được
vị thế tồn tại của mình giữa cuộc đời, phải phấn đấu lập công và lập danh
Công danh nam tử còn vương nợ


Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
Liệu có phải nhà thơ thấy chán nản mệt mỏi vì thi mãi không đỗ không, hay vì thấy con đường công danh
quá gian nan, quá vất vả. Ta sẽ lí giải được điều đó khi tìm hiểu 4 câu tiếp
– “Phường danh lợi” : những kẻ coi công danh là con đường tìm kiếm phú quý vinh hoa (mồi danh lợi,
bả công danh).
CBQ đã nhắc đến loại người này với sự chán ghét, khinh bỉ
-> từ ý thơ nói về phường danh lợi, người đọc hiểu ra niềm trăn trở của tác giả đối với chuyện công danh:
hai chữ công danh đã bị gắn liền với danh lợi, con đường tìm kiếm công danh trở thành con đường mưu
cầu danh lợi tầm thường
Bằng con mắt sắc sảo, ông đã nhận ra công danh đã bị biến tướng trong thời buổi điên đảo,trở thành một
miếng mồi ngon, có sức cám dỗ lớn đối với người đời.Vì danh lợi mà con người phải tất tả xuôi ngược,
khó nhọc mà vẫn đổ xô vào
-> Niềm trăn trở của tác giả trước hiện thực xã hội: công danh đã bị biến tướng, gắn liền với danh lợi, và
người đời đua chen nhau vì danh lợi
-Đầu gió hơi men thơm quán rượu
Người say vô số, tỉnh bao người
-> hình ảnh ẩn dụ: sự cám dỗ của danh lợi. Câu thơ là nhận xét có tính khẳng định : cả xã hội đang sống

giữa cơn say danh lợi và quá ít người tỉnh để nhận ra thực trạng đó ->toát ra niềm chua xót và nỗi u uất
của nhà thơ
=> CBQ đã nhận thấy tính chất vô nghĩa của lối học khoa cử, của con đường công danh theo lối cũ và tỏ
rõ thái độ chán ghét của mình, bộc lộ cái nhìn tỉnh táo, sắc sảo trước hiện thực.
3. Khúc ca về con đường cùng
-Trường sa, trường sa… ->Điệp từ kết hợp với câu hỏi tu từ đã thể hiện những trăn trở của nhà thơ về
bước đường đi tới
->Sự bế tắc của nhà thơ
-Hãy nghe ta hát khúc đường cùng
– Phía bắc núi bắc…
->Điển cố, điệp ngữ
->Tác giả đã cố gắng lựa chọn cho mình một con đường mới, một hướng đi mới nhưng vẫn lâm vào bế
tắc
-Bài thơ kết thúc bằng một câu hỏi tu từ: Anh đứng làm chi trên bãi cát?
Câu hỏi mang âm hưởng của một lời thúc giục: nhân vật trữ tình tự giục mình, từ bỏ con dường trước
mắt, con đường công danh mờ mịt, cần phải thoát khỏi cơn say danh lợi vô nghĩaàKhao khát thay đổi


cuộc sống.
=> Câu hỏi kết thúc đã gieo vào lòng độc giả niềm hi vọng, dù là thứ hi vọng khắc khoải, mong manh
III- TỔNG KẾT
1. Nội dung
-Biểu lộ sự chán ghét của một người trí thức đối với con đường danh lợi tầm thường đương thời và niềm
khao khát thay đổi cuộc sống.
-> làm hiện lên chân dung tinh thần một nhà trí thức lớn tỉnh táo trước hiện thực, nhân cách cứng cỏi, bản
lĩnh
2. Nghệ thuật
-Hình ảnh tượng trưng
-Nhịp điệu diễn tả nội dung
-Câu hỏi tu từ

IV- LUYỆN TẬP
Qua bài thơ này, hãy thử lí giải vì sao CBQ đã khởi nghĩa chống lại nhà Nguyễn ?
Bài thơ chứa đựng sự phản kháng âm thầm đối với trật tự hiện hành, cảnh báo sự thay đổi tất yếu trong
tương lai. Trong một bài thơ khác ông viết:
Từ khi vượt bể qua đất Ba Sơn
Mới cảm thấy vũ trụ là bao la
Chuyện văn chương trước đây thực là trò trẻ con
Trong thế giới này có ai thật là bậc tài trai
Mà lại phí cả một đời đọc mấy pho sách cũ
CBQ đã thấy phải làm được việc gì lớn lao hơn, có ích cho đời hơn. Đó là lí do dẫn ông đến cuộc khởi
nghĩa chống lại nhà Nguyễn



×