Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Phân tích vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân. Từ đó nhận xét về nghệ thuật khắc họa nhân vật của nhà văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (38.1 KB, 4 trang )

Bài làm
Trong vườn văn học Việt Nam, đặc biệt là trong trào lưu văn học lãng mạn 1930 – 1945 tỏa ngát những
bông hoa muôn màu, muôn sắc. Giữa vườn hoa ngàn sắc tía đó nổi lên một bông hoa ngát hương: Vang
bóng một thời của Nguyễn Tuân – tác phẩm viết về "một thời" đã qua nay chỉ còn "vang bóng". Trong
Vang bóng một thời, truyện ngắn Chữ người tử tù có một giá trị riêng, nổi bật. Ai đã từng đọc Chữ người
tử tù đều rung động, cảm phục, sùng kính trước vẻ đẹp của người anh hùng sa cơ lỡ vận mà hiên ngang,
bất khuất, có tài, có tâm, mến mộ nghĩa khí, đó là Huấn Cao. Huấn Cao là kết tinh, là hội tụ phẩm chất
của một con người có nhân, dũng, khí. Ông là tập hợp của tất cả những gì tinh túy nhất, thanh tao nhất,
tinh khiết nhất.
Huấn Cao là một hình tượng thẩm mĩ, một nét đẹp trong cuộc sống đời thường, là một người có nhân
cách vẹn toàn, vừa có tài văn, tài võ vừa là người có nghĩa khí. Huấn Cao phảng phất bóng dáng của Cao
Bá Quát, là linh hồn của nhà nho kiệt xuất. Cao Bá Quát đã từng sống một cuộc sống tung hoành ngang
dọc, là một người có tài, có đức, văn hay chữ đẹp, sống trong giai đoạn triều Nguyễn, dám đứng lên
chống lại bọn thực dân phong kiến, chống lại bọn cường quyền, đả kích xã hội phong kiến thối nát, bỉ ổi.
Phải chăng, Nguyễn Tuân đã mượn Huấn Cao để ngợi ca Cao Bá Quát và mặt khác dựa vào Cao Bá Quát,
khái quát lên một hình tượng Huấn Cao mà cái đẹp của tài hoa hòa hợp với cái đẹp của khí phách, tuy chí
lớn không thành nhưng vẫn coi thường hiểm nguy, gian khổ, xem khinh cái chết. Tư thế của Huấn Cao
hiên ngang lồng lộng toả sáng trên cái nền đen quánh của tù ngục. Nói đến vẻ đẹp của hình tượng Huấn
Cao trước phải nhắc tới cái tài. Huấn Cao là một người viết chữ đẹp: "Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông
lắm". Trong thị hiếu thẩm mĩ của người xưa, từ Trung Quốc đến Việt Nam thì viết chữ đẹp là cả một
nghệ thuật cao quí và chơi chữ đẹp là thú chơi thanh cao của các cụ đồ nho xưa. Viết chữ đẹp là biểu hiện
của con người có trí thức, một vẻ đẹp hoàn mĩ trong văn hóa truyền thông dân tộc. Nó như một sản phẩm
nghệ thuật, như một vật báu mà con người thèm muốn, khát khao. Ngoài ra, Huấn Cao còn có tài bẻ khóa
vượt ngục tù, coi nhà tù như nơi không người, ra vào như chơi. Điều đó thể hiện một con người khát khao
tự do, hoài bão tung hoành, luôn đấu tranh cho chính nghĩa, chống lại triều đình phong kiến mục nát. Tất
cả những tài năng đó làm thành một Huấn Cao có tầm lớn, đi vào trong lòng độc giả như một người anh
hùng, một trượng phu đã vượt lên trên tất cả cái bình thường, nhỏ nhoi, hẹp hòi của cuộc đời để vẫy vùng,
để "chọc trời khuây nước". Nhưng trong cái xã hội phong kiến người bóc lột người, nhân tài như lá mùa
thu ấy thì Huấn Cao hiện lên là một anh hùng thất thế. Nguyễn Du cũng đã từng viết về Từ Hải – một anh
hùng thời đó:
"Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn"


Song vị "hùm thiêng" Huấn Cao này tuy có sa cơ, lỡ nghiệp nhưng Huấn Cao của chúng ta vẫn hiên
ngang, bất khuất, vẫn dũng khí kiên cường. Đo đó, người đọc không chỉ nhận ra Huấn Cao là một người
có tài mà ông còn là một người có dũng khí, hiên ngang trước bạo lực cường quyền, trước cái chết đang
treo lơ lửng. Hết mực ca ngợi cái tài của Huấn Cao, đồng thời Nguyễn Tuân cũng hết sức trân trọng cái
tâm của Huấn Cao. Bởi “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” (Nguyễn Du) hay như Lạc Du, một nhà thơ
yêu nước của Trung Quốc thời nhà Tống, sau cuộc đời làm thơ của mình đã khuyên con:
Như quả dục học thi
Công phu tại thi ngoại
(Nếu như quả là con muốn học làm thơ thì công phu là ở ngoài việc chữ nghĩa)
Cái Tâm của ông cũng vuông vắn, cao khiết và đầy sức chinh phục như nét chữ của ông vậy. Có lẽ,
“phong cách tức là con người” đã được thể hiện rất rõ ở đây.
Mặc dù viết chữ Nho đẹp “Có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời” lẽ ra ông trung
thành với đạo thánh hiền, giữ mình theo lễ nghĩa Nho giáo, trung với vua, một lòng một dạ với triều đình.
Nhưng không! Huấn Cao không chịu vào luồn ra cúi, không chịu sống trong cảnh nhung hoa áo gấm “cá
chậu chim lồng”, thà làm “giặc triều đình” sống theo chính nghĩa mà mình đã vạch ra. Sự nghiệp dang dở,
bị bắt, bị kết vào mực án cao nhất là tử hình ông vẫn không hề tỏ ra run sợ, không mảy may tiếc nuối hối
hận. Huấn Cao – ngôi sao Hôm chính vị ấy – bước vào nhà ngục trong tư thế thật hiên ngang, khí phách,


ung dung. Trong con mắt của bọn lính ông thật cao thượng, bất khuất, kinh đời. Ngay cả với gông xiềng,
với cái án tử hình sắp đến gần, thái độ của ông vẫn ngang tàng, lạnh lùng. Huấn cao ung dung, lãnh đạm,
đỗ gông trước mặt chúng nó, không thèm chấp lời đe dọa của bọn lính”chúc mũi gông nặng, khom mình
thúc mạnh đầu thành gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Ông bìn thản ăn những món ăn do
quan ngục biệt đãi, “coi như mình có quyền hưởng thụ", ông làm việc theo ý mình, hoàn toàn tự chủ. Ông
ngước mắt nhìn lên nhà lao, lên những bộ mặt bất nhân nham nhở. Cái nhìn hiên ngang đó không hề run
sợ, không căm hờn, oán giận, không van xin, cầu khẩn. Đó là cái nhìn của một kẻ dám làm, dám chịu.
Thậm chí ông còn kinh bạc, nặng lời khi chưa rõ ý tốt của quản ngục: "Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ
muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân tay vào đây".
Con người "khuấy nước, chọc trời" này chẳng biết nể sợ ai. Nếu trong đời thường, "trừ chỗ tri kỉ, ông ít
chịu cho chữ", "nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đối bao giờ", thì

khi sa vào chốn giam cầm thì mấy chén rượu, vài bữa cơm thịt của hai con người vô danh tiểu tốt ở chốn
ngục tù bé nhỏ này làm sao mà lung lạc được ông hay vì quyền uy mà làm ông run sợ. Thật đúng là nhân
cách lí tưởng mà con người ngàn năm qua vẫn ao ước: “Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Cái
thái độ khinh đời ngang tàng đó phải chăng đã làm cho viên quản ngục ngây ngất, kính nể. Thái độ kính
phục của quản ngục gợi cho ta nhớ đến mootk trong những đoạn hay nhất của bộ tiểu thuyết Những người
khốn khổ của Victo Huygô, đoạn Người cầm quyền khôi phục uy quyền. Trong đó, kẻ có quyền hành
trong tay luôn bắt bớ, đánh đập, hành hạ, xúc phạm con người một cách không nương tay, không thương
tiếc là thanh tra Giave đã bị khuất phục trước vẻ đẹp nhân cách của người tù khổ sai mà hắn suốt đời săn
lùng là Giăng Van giăng. Thì ra quyền lực không phải là uy quyền, bạo lực, là gông cùm, xiềng xích.
Quyền lực là cái đẹp, phẩm chất Người, chủ nghĩa nhân đạo, là thiên lương vẫn có uy quyền riêng bất khả
chiến thắng. Chính vì thế, Huấn Cao đã mang đến cho chốn lao tù, cho cái địa ngục sống này một ánh
sáng kỳ ảo, huyền diệu, lung linh, chói lọi, soi sáng đạo lí làm người. Thiên lương cao đẹp của ông là một
vầng hào quang tỏa sáng rực rỡ trên bầu trời đầy u ám của nhà tù.
Huấn Cao – vầng hào quang chói lọi này không những là một người có dũng, trí mà còn là một con người
có trái tim nhân hậu. Khi biết được thiện ý của quản ngục, Huấn Cao đã rất cảm động.
Từ đó, ta thấy ông Huấn là người có lòng bao dung độ lượng, chia sẻ nỗi niềm cùng với hai người bạn
mới mà suýt nữa ông đã đánh mất: "Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta biết đâu
một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quí như vậy. Thiếu chút nữa, ta đi phụ mất
một tấm lòng trong thiên hạ". Sự biệt đãi bằng vật chất và thái độ ân cần không làm cho trái tim sắt đá kia
phải mềm lòng. Chính "cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài" và những "sở thích cao quí", hướng về văn minh,
văn hóa mới cảm hóa được trái tim dường như đựợc đúc bằng thép ấy. Thái độ "biệt nhỡn liên tài" của
Huấn Cao đối với quản ngục không phải là sự "liên tài" sự trả ơn đối với những người đã đối xử tử tế, biết
chơi chữ củaa mình mà là sự trân trọng, cảm động trước một nhân cách "Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi
bùn". Quản ngục sống giữa bùn nhơ nhớp nháp của lao tù mà vẫn giữ được Thiên lương, biết trọng người
tài, kính cái đẹp thì thật là đáng cảm phục. Đó cũng là một đóa sen trong bùn.
Ánh hào quang rực rỡ, vẻ đẹp tuyệt diệu tỏa ra rất rõ ở cảnh Huấn Cao cho chữ. Nó bộc lộ trọn vẹn nhất
vẻ đẹp của nhân cách Huấn Cao. Ở đây vẻ đẹp này tỏa hương thơm ngát hơn lúc nào hết. Dưới ngòi bút
tài ba Nguyễn Tuân, một cảnh tượng đầy kịch tính đã diễn ra, một cảnh tượng "xưa nay chưa từng có".
Đó là sự tương phản giữa một bên là gian nhà lao ẩm thấp, tối tăm bẩn thỉu, "một buồng tối chật hẹp, ẩm
ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân giận" với một bên là tấm lụa trắng tinh, căng

phẳng và với ánh sáng của một bó đuốc tẩm dầu đang cháy rừng rực. "Ba đầu người chăm chú trên một
tấm lụa bạch nguyên vẹn".
Nó là sự trái ngược của sự tàn bạọ, đánh đập, tra khảo dã man với ánh sáng của một nền văn minh, văn
hóa. Đó còn là sự mâu thuẫn giữa bóng tối và ánh sáng, cái xấu và cái đẹp, cái ác và cái thiện, cái chết và
cái sống, cái xấu xa đê tiện và cái trong trẻo cao thượng. Ngòi bút dựng cảnh, dựng người của Nguyễn
Tuân rất giàu tính chất tạo hình với trình độ nghệ thuật điêu luyện, sắc sảo như Vũ Ngọc Phan nhận xét:
"Gần đạt tới sự toàn mĩ".
Dưới ánh sáng của bó đuốc đỏ rực – bó đuốc của trí tuệ, của niềm tin, của hi vọng và trong khung cảnh


thật nghiêm trang, thật thiêng liêng này Huấn Cao dồn hết tâm linh, sinh lực vào từng nét chữ. Ông không
mảy may lưu ý gì đến cái xấu xa, cái hôi hám, bẩn thỉu đang tồn tại mà hoàn toàn bị thu hút, bị quyến rũ
vào một sự vật: tấm lụa bạch nguyên vẹn. Đúng thế, ở đây chỉ có cái đẹp, cái cao thượng mới thực sự tồn
tại. Chính tấm lụa trắng tinh này mà ông Huấn Cao đang cho ra đời những con chữ tuyệt tác ấy mới thực
sự có sức mạnh. Ớ đây, không còn là một Huấn Cao tử tù nữa. Chỉ còn là một Huấn Cao tự do nhất, sống
động nhất. Cái giá treo cổ kia cũng không còn nữa mà chỉ có cuộc sống vĩnh hằng của chân lí về cái đẹp.
Ngôi sao sáng – Huấn Cao – đang phát quang bừng tỉnh cái không gian u tối, phá vỡ cái màn đêm ngự trị
ngàn đời ở đây. Huấn Cao như đem đến nơi này một thế giới khác, thế giới văn hóa. Vẻ đẹp cao nhân đó
đã làm cho "viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa
óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực". Tự nhiên, ở nhà ngục này có sự thay bậc, đổi
ngôi, có sự chuyển hóa vị trí, vị thế xã hội của con người. Nó nổi lên một sự thật mà đầy tính lãng mạn.
Giờ phút này và tại nơi đây không phải quản ngục làm chủ mà người tù làm chủ. Sức mạnh, quyền lực
của cái đẹp và chân lí là thế. Cái đẹp và cái chân lí tồn tại trên đời, thể hiện sức mạnh quyền uy theo cách
riêngcủa nó.
Nó không khuất phục người ta bằng bạo lực, nó chinh phục người ta bằng tự bản chất của nó. Nó không
giày xéo, áp đặt con người để bắt người ta phải tuân theo nó, trái lại, nó vực con người ta vươn lên, đứng
dậy, tự nguyện đi theo nó để hướng tới cái chân, thiện, mĩ, trở nên trong sáng và tốt đẹp hơn: Và ở đây,
"cái đẹp đã lên ngôi thay thế cho cái xấu xa, thấp hèn, cái đẹp nâng đỡ con người” (Đôxtôiepxki). Cáỉ đẹp
đăng quang, cái xấu đã phải chìm xuống nhường chỗ cho cái đẹp. Cái đẹp đã tồn tại, sẵn sàng và rất cần
sự đánh thức cái Thiên lương (bản tính tốt đẹp sẵn có ở mỗi con người).

Huấn Cao cho chữ như chuyển giao một nhân cách – nhân cách tự do, chuyển giao cái đẹp để cái đẹp mãi
mãi sinh sôi nảy nở, đi vào cõi bất tử vĩnh hằng. Hình tượng nhân vật Huấn Cao được khắc họa bằng rigòi
bút lãng mạn cứ sừng sững, hiên ngang hiện lên như muốn cất bổng lên, phá vỡ chốn lao tù, phá vỡ cái
cuộc sống đang tràn ngập màn đêm, ngột ngạt trì trệ: "Tôi bảo thực đấy, thầy quản nên tìm về nhà quê mà
ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã (…). Ở đây, khó giữ được thiên lương cho lành vững…".
Phải chăng đó là quan niệm thẩm mĩ của Huấn Cao, hay cũng chính là của tác giả Nguyễn Tuân: cái đẹp
phải gắn với cái thiện, cái đẹp không thể ở chung với cái xấu, cái ác. Sự chân thành, bộc bạch giản dị đó
của Huấn Cao đã khiến cho ngục quản cảm động vái người tù một cái và nói một lời thật cảm động: "Kẻ
mê muội này xin bái lĩnh". Chính Cao Chu Thần cũng có một câu nói thật đẹp:
"Nhất sinh đè thủ bái mai hoa"
(Một đời chỉ biết cúi đầu vái lạy hoa mai).
Cái cúi đầu của quản ngục trước con người tài hoa, đầy dũng khí Huấn Cao này chẳng khác gì Cao Bá
Quát cúi đầu trước hoa mai vậy.
Nói tóm lại, Huấn Cao là một con người tích tụ những phẩm chất tốt đẹp nhất. Tuy bị cầm tù về nhân thân
nhưng lại rất tự do về nhân cách, đúng như Bác Hồ – vị Cha già kính yêu của dán tộc đã nói:
"Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao
Muốn nên sự nghiệp lớn
Tinh thần càng phải cao"
Trước cái chết kề cận, cái chết giáp bên nhưng con người nhân, trí, dũng đó vẫn hiên ngang anh dũng, lạc
quan, yêu đời, như chị Võ Thị Sáu – nữ chiến sĩ dũng cảm, anh hùng của dân tộc Việt Nam:
"Đi giữa hai hàng lính vẫn ung đung mỉm cười"
Hay nói khác đi, Huấn Cao dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân là biểu tượng cho cái đẹp trong bối cảnh lịch
sử đầy rẫy những xấu xa, tội ác, biểu tượng cho Thiên lương. Con người sống vượt lên trên những hiện
thực tầm thường tăm tối để tỏa sáng, để vĩnh cửu, để bất diệt, truyền cho người đời phẩm giá làm người,
những phẩm giá tiêu biểu cho đạo lí dân tộc.


Chung qui lại, dựng nên hình tượng ông Huấn Cao với vẻ đẹp rực rỡ, tráng lệ giữa chốn lao tù ẩm thấp,
chật chội, Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm cảm phục sâu sắc đối với những anh hùng xả thân vì nghĩa lớn.

Nhà văn đã sử dụng ngòi bút tả thực đầy kịch tính kết hợp việc khắc họa tính cách nhân vật và ngòi bút
miêu tả phong cảnh nặng tính hiện thực lẫn lãng mạn. Những chi tiết lãng mạn trong truyện có lẽ là lời
nhắn gửi của Nguyễn Tuân. Hãỵ vững tin vào cái đẹp như Biêlinski nhận xét về cảm hứng lãng mạn:
"Cảm hứng lãng mạn là khát vọng đối với tất cả những đẹp đẽ và cao quí”. Có thể nói Chữ người tử tù
với bút pháp sắc sảo khi dựng người dựng cảnh với ngôn ngữ văn xuôi giàu có và góc cạnh, với vẻ đẹp
tuyệt vời của Huấn Cao, tác phẩm xứng đáng là một áng văn chương một thời vang bóng và nó mãi mãi
"vang bóng" trong bạn đọc nhiều thời.



×