Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Chuyên đề tư tưởng cải cách của phan bội châu, phan châu trinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.19 KB, 23 trang )

Chuyên đề: Tư tưởng cải cách của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh
và những tác động đến xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX
MỞ ĐẦU
Cuối thế kỉ XIX, các cuộc đấu tranh vũ trang chống Pháp, tiêu biểu nhất là phong trào
Cần Vương đã thất bại. Đây là sự kiện cuối cùng đánh dấu chấm hết đối với con đường cứu
nước theo ngọn cờ phong kiến ở Việt Nam. Cũng sự kiện này đánh dấu sự hoàn thành căn bản
công cuộc bình định của thực dân Pháp ở nước ta. Chúng đã đặt được ách cai trị lên toàn lãnh
thổ nước ta và tiến hành cuộc khai thuộc địa quy mô lớn. Đất nước Việt Nam thay đổi hoàn
toàn về bản chất: Việt Nam thực sự đã trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Thực dân
Pháp trở thành kẻ thù dân tộc của Việt Nam. Nhiệm vụ lịch sử đặt ra lúc này là giải phóng dân
tộc.
Sự thất bại của phong trào Cần Vương đã cho thấy sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối
cứu nước Việt Nam. Lịch sử dân tộc đang đứng trước những khó khăn thách thức mới. Nhiều
câu hỏi được đặt ra: ai, giai cấp nào sẽ lãnh đạo công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở nước
ta, con đường đấu tranh đó sẽ đi theo hướng nào, các biện pháp đấu tranh là gì....
Lúc này, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc Châu Á đang diễn ra mạnh mẽ và đã
tác động vào Việt Nam, theo đó các tư tưởng tiến bộ dội vào nước ta, nó đang hướng cả dân
theo con đường đấu tranh cứu nước mới.
Cuộc khai thác thuộc địa của Pháp đã tác động một cách toàn diện lên xã hội Việt Nam,
dù muốn hay không muốn, nó làm cho xã hội chuyển biến, tạo nên những cơ sở xã hội cho
công cuộc giải phóng dân tộc. Lịch sử dân tộc Việt Nam lúc này đã sản sinh ra một lớp người,
đó chính là các sĩ phu Nho học trẻ tiến bộ, họ là những người được đào tạo trong nền giáo dục
cũ , nhưng đã tự mình thoát khỏi những tư tưởng phong kiến lỗi thời, nỗ lực vươn lên bắt kịp
theo tiến bộ của thời đại. Bộ phận này đã tiếp nhận tư tưởng tiến bộ và khuynh hướng cứu
nước mới, lãnh sứ mệnh lãnh đạo công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam: Họ khởi
xướng tư tưởng canh tân và tiến hành một cuộc vận động yêu nước theo khuynh hướng dân
chủ tư sản ở Việt Nam đầu thế kỉ XX.
Đại diện tiêu biểu cho tư tưởng canh tân ở Việt Nam lúc này là Phan Bội Châu và Phan
Châu Trinh. Phong trào cải cách do họ lãnh đạo đã góp phần quan trọng sự chuyển biến xã hội
Việt Nam trên mọi mặt: tư tưởng chính trị, kinh tế, văn hoá – xã hội, tạo cơ sở cho cuộc đấu
tranh giải phóng theo khuynh hướng vô sản Việt Nam sau này. Phong trào này là sự tiếp nối


1


truyền thống yêu nước của dân tộc, là một mắt xích quan trọng trong sợi chỉ đỏ của truyền
thống yêu nước Việt Nam. Tìm hiểu tư tưởng canh tân của họ cũng cho chúng ta những bài
học kinh nghiệm quan trọng cho công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay. Từ những ý nghĩa
trên cho thấy đây là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Tư tưởng canh tân và phong trào dân chủ tư sản đầu thế kỉ XX trở thành đề tài của nhiều
công trình khoa học, nhiều chuyên đề chuyên sâu và nó được nghiên cứu ở nhiều phương diện,
nhiều góc độ, nhưng để phục vụ thiết thực cho công tác ôn luyện học sinh giỏi, chúng tôi
muốn nhìn thấy một cách toàn diện tư tưởng canh tân và các tác động của tư tưởng, phong trào
canh tân trên nhiều lĩnh vực. Việc tìm hiểu chuyên đề này sẽ giúp cho chúng tôi và học sinh có
cái nhìn bao quát, đa chiều về tư tưởng canh tân và thấy được những mối liên hệ gần gũi, sự
tác động qua lại giữa tư tưởng canh tân với cách phong trào dân chủ tư sản đầu thế kỉ XX.

2


NỘI DUNG
I. Tư tưởng cải cách của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đầu thế kỉ XX
1.1. Hoàn cảnh lịch sử
1.1.1. Sự thất bại của phong trào yêu nước dưới ngọn cờ phong kiến.
Cuối thế kỉ XIX, phong trào vũ trang chống thực dân Pháp dưới danh nghĩa Cần Vương
thất bại. Phong trào đấu tranh tự phát của một số thổ hào vẫn được còn nhưng phải duy trì
trong điều kiện hết sức khó khăn, dần tự tan rã. Lúc này chỉ có cuộc đấu tranh của nghĩa quân
Yên Thế là còn tồn tại nhưng cũng đang ở giai đoạn cầm cự. Có thể nói cuối thế kỉ XIX, sự
thất bại của phong trào Cần Vương đã cho thấy ngọn cờ phong kiến không còn đủ khả năng để
lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi. Cách mạng Việt Nam lâm vào
khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Lịch sử cách mạng Việt Nam đặt ra yêu cầu cần
tìm ra một con đường cứu nước mới cho dân tộc Việt Nam. Làm thế nào và đi theo con đường

cứu nước nào vừa là câu hỏi, vừa là động lực thúc giục các sĩ phu yêu nước đầu thế kỉ XX
mạnh dạn tiếp thu những khuynh hướng tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài dội vào.
1.1.2. Những biến đổi về kinh tế - chính trị - xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX
Khi đã căn bản hoàn thành công cuộc bình định Việt Nam, thực dân Pháp bắt tay ngay
vào công cuộc khai thác thuộc địa Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung một cách
quy mô trên tất cả các lĩnh vực từ chính trị, kinh tế, xã hội đến văn hoá, giáo dục, tư tưởng và
quân sự.
Cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX đã làm cho
cơ cấu kinh tế Việt Nam có những chuyển biến quan trọng. Phương thức bóc lột tư bản chủ
nghĩa bắt đầu du nhập vào nước ta, thâm nhập vào các khu vực kinh tế nông nghiệp, công
nghiệp, thương nghiệp, kết hợp với phương thức sản xuất phong kiến (do thực dân Pháp cố
tình duy trì) đã dẫn tới hình thành phương thức bóc lột thuộc địa, đảm bảo siêu lợi nhuận tối
cao cho thực dân Pháp và phong kiến tay sai. Trong bối cảnh đó, xã hội Việt Nam từ đầu thế kỉ
XX bắt đầu có sự thay đổi nhanh chóng.
- Các giai cấp cũ phân hóa. Các giai cấp địa chủ được thực dân Pháp nâng đỡ nên thế lực
kinh tế và chính trị của giai cấp này tăng lên. Giai cấp nông dân bị bần cùng hoá thành bần cố
nông, một bộ phận đã phải chuyển sang làm thuê các đồn điền, hầm mỏ, xí nghiệp… của tư
bản Pháp.
3


- Một số giai cấp và tầng lớp mới ra đời như giai cấp công nhân. Tuy nhiên, giai đoạn này
công nhân nước ta còn đang trong giai đoạn tự phát. Ngoài giai cấp công nhân, còn xuất hiện
tầng lớp tư sản và tiểu tư sản thành thị. Vì bị thực dân Pháp chèn ép nặng nề, tư sản Việt Nam
phát triển chậm chạp về mọi mặt, chưa đủ điều kiện để hình thành một giai cấp. Tuy vậy, sự
phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa nói chung và sự lớn lên của tầng lớp tư sản dân tộc nói
riêng đã trở thành cơ sở thuận lợi cho sự tiếp thu các trào lưu tư tưởng cách mạng từ bên
ngoài.
1.1.3. Những tác động từ bên ngoài
Những tác động bên ngoài vào Việt Nam chính là sự thức tỉnh của Châu Á và sự truyền

bá Tân thư, Tân văn vào Việt Nam.
Sự thức tỉnh của Châu Á là khái niệm của Lênin đầu thế kỉ XX dùng để chỉ những trào
lưu tư tưởng muốn thoát khỏi chế độ phong kiến để vươn tới những nền văn minh mới ở Châu
Âu. Phong trào ấy bắt đầu ở Nga với xu hướng cải tổ nhằm thủ tiêu chế độ Nga Sa hoàng, thiết
lập chế độ tư bản chủ nghĩa ở Nga. Sau đó trào lưu tư tưởng này xuất hiện ở Nhật Bản, Trung
Quốc, Mianma, Ấn Độ, Indonesia, Việt Nam … , nó trở thành một trào lưu cứu nước mới của
các dân tộc châu Á.
Ở Việt Nam, trào lưu tư tưởng tư sản dội vào chủ yếu qua ảnh hưởng của Nhật Bản và
Trung Quốc.
Trước hết tấm gương tự cường của Nhật Bản đã làm cho các sĩ phu Nho học trẻ Việt
Nam ngưỡng mộ. Đặc biệt, sự kiện Nhật, một nước châu Á da vàng, đánh thắng đế quốc da
trắng Nga (1904), làm cho Nhật Bản trở thành một hiện tượng của châu Á, họ tự hào về thắng
lợi của nước Nhật “đồng văn, đồng chủng”, tất cả các dân tộc bị áp bức ở châu Á, trong đó có
Việt Nam đều hướng về Nhật, họ muốn học tập theo tấm gương Nhật Bản và cũng mong muốn
nhận được sự giúp đỡ của Nhật Bản trong sự nghiệp đấu tranh chống đế quốc phương Tây.
Ngoài Nhật Bản, thời kì này, các sự kiện của Trung Quốc cũng tác động đến Việt Nam.
Đối với Việt Nam, Trung Quốc là một nước láng giềng lớn có ảnh hưởng sâu đậm về tư tưởng
Nho. Lúc này Trung Quốc là một nước “đồng bệnh” với Việt Nam. Nhân dân Trung Quốc
cũng phải tiến hành cuộc đấu tranh nhằm đưa Trung Quốc thoát khỏi sự ảnh hưởng, lệ thuộc
của các đế quốc phương Tây. Họ đã tiếp nhận tư tưởng dân chủ tư sản, học tập cách cuộc cách
mạng tư sản ở phương Tây. Các sách báo về tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây được dịch
sang chữ Hán. Tiếp thu luồng tư tưởng này, ở Trung Quốc đã diễn phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản, tiêu biểu là cuộc vận động biến pháp của
4


các Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu nhằm đưa Trung Quốc thành nước quân chủ lập hiến hay
cuộc vận động đấu tranh của tổ chức Hưng Trung Hội nhằm thiết lập chế độ cộng hoà tư sản
do Tôn Trung Sơn lãnh đạo.
Từ những sự kiện trên, các sĩ phu yêu nước Việt Nam thấy khuynh hướng cách mạng dân

chủ tư sản họ là con đường cứu nước mới (đối với các nước châu Á) mà Việt Nam cần học
tập. Các sĩ phu yêu nước cũng tiếp thu, tiếp nhận tư tưởng dân chủ tư sản, nhưng do hạn chế
về trình độ, họ chỉ có thể tiếp nhận một cách gián tiếp thông qua sách báo Hán tự Trung Quốc.
Các nhà Nho Việt Nam yêu nước đầu thế kỉ XX đã say mê Tân Thư không phải là để
thỏa mãn lòng yêu thích cái mới lạ, mà là để tìm phương sách giải quyết vấn đề dân tộc. Họ đã
vận dụng các học thuyết mà họ tiếp thu được từ Tân thư vào sự nghiệp cứu nước.
Như vậy, ở Việt Nam khuynh hướng dân chủ tư sản xuất hiện như là một nhu cầu khách
quan tất yếu nhằm hướng tới thay thế xã hội quân chủ bằng một thể chế cộng hòa tư sản, lúc
đầu là quân chủ lập hiến rồi đến dân chủ cộng hòa.
+ Khuynh hướng dân chủ tư sản bắt nguồn từ nhu cầu nội tại sự phát triển của xã hội Việt
Nam.
+ Xuất hiện từ nhu cầu của công cuộc giải phóng dân tộc.
1.2. Nội dung tư tưởng cải cách của Phan Bội Châu và Phân Châu Trinh theo khuynh
hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam đầu thế kỉ XX
Như đã trình bày ở trên, luồng tư tưởng dân chủ tư sản sau khi vào nước ta đã được các sĩ
phu yêu nước tiến bộ tiếp nhận và họ đã khởi xướng một phong trào đấu tranh vì độc lập dân
tộc và phong trào cải cách vì tiến bộ xã hội. Nội dung phong trào này được thể hiện ở những
mặt cơ bản: chính trị tư tưởng, kinh tế và văn hóa – xã hội.
1.2.1. Về tư tưởng chính trị
* Đoạn tuyệt với tư tưởng phong kiến chuyên chế, đề cao tư tưởng dân chủ
Chứng kiến thất bại của phong trào Cần Vương yêu nước chống Pháp cuối thế kỉ XIX và
sự đầu hàng nhục nhã, cam tâm làm nô lệ cho thực dân Pháp của triều đình phong kiến
Nguyễn, đồng thời được tận mắt chứng kiến sự tiến bộ hơn hẳn về mọi mặt của nước Pháp và
cũng như sự chuyển mình của các nước trong khu vực, các sĩ phu Việt Nam, những con người
đang ngày đêm trăn trở với sự nghiệp cứu nước, cứu dân, phải tự kiểm điểm con đường cứu
nước đã qua. Từ những sự kiện trên, họ nhận thức được sự lỗi thời, thối nát của chế độ phong
kiến chuyên chế, họ đã lên án và đi tới muốn thủ tiêu chế độ phong kiến. Với Phan Châu
Trinh, phong kiến là sâu mọt của dân, đục khoét của dân, là thủ phạm làm cho nước Nam lụi
5



bại và mất độc lập. Do vậy, ông chủ trương trước hết phải tiêu diệt nọc độc phong kiến. Theo
ông, “Nếu không đập tan được nền quân chủ thì dầu có khôi phục lại được nước thì cũng
không phải là hạnh phúc cho dân” [172; 3]
Phan Bội Châu cũng là người nhận thấy sự lỗi thời của chế độ phong kiến và con đường
cứu nước theo ngọn cờ phong kiến, nhưng trong giai đoạn đầu hoạt động cách mạng, ông vẫn
chưa lên án mạnh mẽ đối với chế độ quân chủ. Mà sau này, trong thời gian hoạt động ở nước
ngoài, nhất là sau sự kiện ghé qua Trung Quốc trên đường sang Nhật, ông đã chứng kiến sự
thối nát trong giới quan chức Trung Hoa. Ông đã thốt lên: “Triều đình chuyên chế không có
người nào ra gì. Mãn triểu Trung Quốc và Nguyễn triều Việt Nam cũng một phường chó chết
như nhau mà thôi” [218;3]. Từ đây trong thơ của Phan Bội Châu bắt đầu xuất hiện lời lẽ tố
cáo sự thờ ơ của vua quan đầu hàng, thân Pháp trước nỗi khổ của nhân dân:
“Cơm ngự thiện bữa nghìn quan
Ngoài ra dân đói, dân tàn mặc dân…”
…“Khi giặc đến người trong phản trước,
Đem của dân vạch trước hoa thân.
Dần lâu các tỉnh mất dần,
Mười phần thổ địa nhân dân còn gì” [218; 3].
Đồng thời với việc phê phán, lên án và đoạn tuyệt với chế độ quân chủ, các ông đã đề cao
vai trò của nhân dân. Phan Châu Trinh cho rằng: “Dân ta là thánh là thần, bền gan, chắc dạ,
quỷ thần cũng kiêng” [173;3]. Theo ông việc cứu nước tuỳ thuộc vào người dân, tuỳ thuộc vào
sự giác ngộ của nhân dân. Nhưng muốn có được điều đó thì phải “Khai dân trí, chấn dân khí,
hậu dân sinh”. Đối với Phan Bội Châu, ông cũng nhận thức được vai trò của nhân dân trong
sự nghiệp giành độc lập dân tộc. Do đó, sự nghiệp của anh hùng cũng là sự nghiệp của nhân
dân. Với các ông, tư tưởng phong kiến “Trung quân ái quốc” đã lỗi thời và chuyển sang bàn
nhiều đến vấn đề “dân quyền”, “dân chủ”, về mối quan hệ giữa dân và nước, “dân là dân của
nước, còn nước là nước của dân” [219;3], trái hẳn với các quan niệm phong kiến cũ, đây là
một tư tưởng tiến bộ trong nhận thức tư tưởng dân chủ tư sản của các nhà cải cách.
* Vấn đề chính thể và xây dựng nhà nước pháp quyền
Việc thiết lập chính quyền nhà nước sau một cuộc cách mạng là vấn đề cốt tử, nó cũng là

yếu tố quan trọng giúp ta xác định tính chất của một cuộc cách mạng xã hội.
Vấn đề chính quyền mô hình nhà nước tương lai của Việt Nam sau khi đánh bại Pháp là
một vấn đề chưa được các nhà duy tân này quan tâm đúng mực. Nhưng trong quá trình lãnh
6


đạo phong trào Đông Du, Duy Tân…, các nhà cải cách này cũng đã thể hiện quan điểm của
mình về vấn đề thể chế nhà nước, trong đó có sự chuyển biến từ thể chế quân chủ lập hiến, tiến
tới thể chế dân chủ cộng hoà. Phải khẳng định rằng cả Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đều
không còn tha thiết với nhà nước phong kiến, ngay cả với Phan Bội Châu, người được cho
rằng còn nhiều lưu luyến với chế độ quân chủ.
Trong những năm đầu thế kỉ, Phan Bội Châu chủ trương thành lập tổ chức để lãnh đạo
cuộc đấu tranh bạo động chống Pháp. Phan Bội Châu và các đồng chí của mình quyết định
chọn một người thuộc dòng dõi hoàng tộc (Cường Để) để làm chủ Duy Tân hội. Vậy có phải
chủ trương của Duy Tân hội là sẽ lập lại chế độ phong kiến chuyên chế sau khi đánh đuổi thực
dân Pháp thắng lợi. Trong tác phẩm “Tân Việt Nam”, Phan Bội Châu nói rõ: “Cường Để sau
này sẽ đóng một vai trò đại diện trong các chế độ, ở đây toàn bộ chính quyền nằm trong ba
viện, tất cả mọi nghị quyết đều phải lệ thuộc vào phiếu bầu của Hạ viện trong tổng tuyển cử
của của công dân bầu ra… Trên là vua, nên để hay nên truất, nên thăng hay nên giáng, dân ta
đều có quyền quyết đoán cả…” [163;3]. Những điều này được coi như là một nguyên lí của
chế độ quân chủ lập hiến chứ không phải là nền quân chủ chuyên chế kèm theo một nghị viện
bù nhìn. Trong thâm tâm của các ông lúc này giai cấp phong kiến vẫn còn đủ tư cách để đứng
trên vũ đài chính trị, giai cấp này vẫn có thể tổ chức, đoàn kết được toàn thể dân tộc, góp được
nhiều của, mua sắm vũ khí vào cuộc đấu tranh chống Pháp. Hơn nữa để có thể tranh thủ sự
viện trợ của Nhật, một nước quân chủ, thì theo đường lối quân chủ vẫn hơn. Vậy là việc dựa
vào một người thuộc dòng dõi hoàng tộc của Phan Bội Châu để làm hội chủ Duy Tân hội chỉ
là biện pháp mang tính chất sách lược, là phương tiện để đạt được mục đích chứ không phải là
mục đích.
Sau này, khi cách mạng Tân Hợi (1911) của Trung Hoa thắng lợi, tư tưởng về một nhà
nước dân chủ tư sản của Phan Bội Châu rõ nét hơn. Năm 1912, Phan Bội Châu đã tuyên bố

giải tán Duy Tân hội, thành lập Việt Nam quang phục Hội. Mục đích của tổ chức cách mạng
mới là đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục lại Việt Nam, thành lập một chính thể mới: chính
thể dân chủ cộng hoà. Có thể nói, Việt Nam quang phục Hội ra đời đã đánh dấu sự cáo chung
của chế độ quân chủ ở nước ta.
Với Phan Châu Trinh, ông là người kiên định và kiên quyết nhất trong việc muốn xoá bỏ
hoàn toàn chế độ quân chủ. Phan Chu Trinh kịch liệt phản đối chế độ quân chủ là ông gọi là
“quân trị” và đòi thực hiện chế độ cộng hoà tư sản mà ông gọi là chế độ “dân trị”. So sánh
chế độ “quân trị” và “dân trị”, ông khẳng định: “… cái chủ nghĩa dân trị hơn cái chủ nghĩa
7


quân trị nhiều”, bởi vì “theo cái chủ nghĩa dân trị, thì tự lập ra quốc dân hiếp pháp, luật lệ,
đặt ra các cơ quan để để lo việc chung mọi người. Lòng quốc dân muốn thế nào thì được thế
ấy…”. “Ngày nay, bên Đức, bên Pháp, bên Nga, tuy chính thể của họ tuy có khác nhau chút
đỉnh nhưng đều thực hành cái chủ nghĩa dân chủ cả”.
Năm 1922, trong Thất điều thư gửi Khải Định, Phan Châu Trinh cực lực công kích vị
vua này và qua đó lên án chế độ quân quyền độc tôn, quân chủ chuyên chế, áp bức nhân dân.
Ông luôn kiên trì theo đuổi mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền của mình. “Quân trị chủ
nghĩa và dân trị chủ nghĩa” là bài diễn thuyết cuối cùng trong cuộc đời hoạt động cách mạng
của Phan Chu Trinh nói ở Sài Gòn năm 1925. Trong bài nói chuyện này, ông đã đòi nhà cầm
quyền áp dụng một chế độ tam quyền phân lập ở Việt Nam, cụ thể là xây dựng ở Việt Nam
một hệ thống chính trị bao gồm: hai viện, Tổng thống, Chính phủ và các bộ trưởng. Tổng
thống, Chính phủ cũng từ hai viện ấy.
Trong nước có hiếp pháp, mọi người phải tôn trọng hiến pháp. Nếu vi phạm luật thì từ
Tổng thống đến người nhà quê cũng phải trừng trị như nhau. Các quan án ở một viện riêng gọi
là Viện Tư pháp.
Quyền tư pháp, hành pháp của Chính phủ và quyền lập pháp của Nghị viện đều đứng
riêng. Những người trong hệ thống chính trị ấy đều do quốc dân lựa chọn qua bầu cử [175;3].
Tư tưởng dân chủ tư sản của Phan Châu Trinh là một tổng thể các giá trị, nhưng nổi bật
lên là tư tưởng dân quyền và dân quyền được đảm bảo bằng pháp luật, ông hướng tới xã hội

công dân.
Ta nhận thấy rằng Phan Chu Trinh là người yêu nước chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tư
tưởng dân chủ tư sản qua Tân thư. Con đường cứu nước của ông khác với Phan Bội Châu ở
điểm cơ bản là ông chủ trương xoá bỏ chế độ quân chủ phong kiến, thực hiện dân chủ, khai
thông dân trí, mở mang công thương nghiệp. Không bạo động, không cầu viện mà nhờ vào
chính quyền thực dân để làm chính trị công khai, mưu dân quyền, dân chủ, hạnh phúc cho
nhân dân. Cho nên, có thể nói lý tưởng dân quyền là tư tưởng căn bản quyết định hành động
cách mạng của Phan Châu Trinh
* Vấn đề đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế chống chủ nghĩa thực dân
Tư tưởng đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế được thể hiện rõ ràng nhất trong tư tưởng
của Phan Bội Châu. Sau lần tổ chức đánh thành Nghệ An (1904) không thành, Phan Bội Châu
đã nhận ra một điều: đánh đuổi thực dân Pháp không phải “một tay, một chân” là được mà
8


phải là sức lực của nhiều người. Phan Bội Châu đã liên kết với nghĩa quân Yên Thế, kêu gọi
mười giới đồng tâm và hô hào:
“Nghìn muôn, ức, triệu người chung góp,
Xây dựng nên cơ nghiệp nước nhà” [117; 6]
Trong lịch sử đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc giải phóng dân tộc, cho tới đây chưa
có lúc nào có được sự vận động quần chúng sâu rộng như vậy. Một hình ảnh mặt trận dân tộc
thống nhất đã xuất hiện tuy còn mờ nhạt. Do nhãn quan chính trị còn hạn chế, Phan Bội Châu
chưa thấy công - nông là quân lực của cách mạng, là cơ sở của mặt trận dân tộc thống nhất,
nhưng tư tưởng đoàn kết của Phan Bội Châu đã phần nào biểu thị được nguyện vọng đoàn kết
giết giặc cứu nước của toàn dân. Đồng thời, trước âm mưu chia cắt đất nước, chia rẽ dân tộc
của kẻ thù, Phan Bội Châu đã bước đầu gắn được đấu tranh cho độc lập dân tộc với đấu tranh
cho thống nhất đất nước, ông kêu gọi:
“Sao cho Nam Bắc hiệp hoà
Bốn mươi lăm triệu mà ra một người” [ 168;6].
Vấn đề đoàn kết quốc tế để đấu tranh chống kẻ thù đế quốc được Phan Bội Châu đặt ra

từ rất sớm. Năm 1908, Phan Bội Châu cùng các nhà lãnh đạo của các nước Trung Quốc, Triều
Tiên,… thành lập Hội Đông Á đồng minh nhằm mục đích liên lạc giữa các tổ chức cách mạng,
dìu dắt, giúp đỡ các dân tộc này nổi dậy lật đổ ách thống trị của đế quốc phương Tây.
Ngoài việc tổ chức trên, Phan Bội Châu đã tìm cách liên hệ, đoàn kết, tập hợp lưu học
sinh ở các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam để thành lập Hội Điền - Quế - Việt liên
minh. Vì ông nhận thấy vị trí, ảnh hưởng to lớn của phong trào cách mạng Trung Quốc đối
với Việt Nam, nhận thức được mối quan hệ qua lại, khăng khít của Trung Quốc với Việt
Nam… Chủ trương này đã được các lưu học sinh Trung Quốc ở Nhật Bản tán thành, ủng hộ.
Hai tổ chức này sau đó bị chính phủ Pháp cấu kết với chính phủ Nhật, chính phủ Mãn Thanh.
Nhưng không phải vì thế mà Phan Bội Châu nản trí, hễ có cơ hội để hoạt động và đấu tranh
cho giải phóng dân tộc thì ông đều không bỏ lỡ. Vì thế, khi được tin Cách mạng Tân Hợi
(1911) bùng nổ, Chính phủ Trung Hoa dân quốc được thành lập, ông lại hướng về cách mạng
Tân Hợi và tiếp tục sự nghiệp đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế chống đế quốc. Phan Bội
Châu đã tích cực vận động thành lập Việt Nam Quang Phục Hội và thành lập Hội Chấn Hoa
Hưng Á với mục đích liên hiệp những người cách mạng Trung Quốc trở thành trung tâm cách
mạng châu Á, rồi viện trợ cho Việt Nam và các nước khác đánh được kẻ thù xâm lược.
9


Như vậy, bằng việc thành lập Hội Đông Á đồng minh, Hội - Điềm Quế - Việt liên minh,
Hội Trấn Hoa Hưng Á… Phan Bội Châu đã thể hiện rõ tư tưởng đoàn kết quốc tế nhằm giải
phóng dân tộc thoát khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp.
1.2.2. Về kinh tế
Trong tư tưởng canh tân của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh, kinh tế có vị trí vô
cùng quan trọng. Như Phan Châu Trinh, ông nhận thấy rằng trên một nghìn năm trước, lối tư
duy kinh tế phong kiến "trọng nông, ức thương", coi thường kỹ nghệ đã lạm suy yếu kinh tế
của đất nước. Một trong ba nội dung cải cách của ông thì kinh tế chính là “hậu dân sinh”. Ông
kêu gọi nhân dân làm kinh tế, lập các hội trồng cây, dệt vải, hội buôn, các cơ sở sản xuất hàng
hóa và buôn bán hàng nội hóa nhằm khôi phục và chấn hưng thực nghiệp. Tư tưởng và hành
động của ông không chỉ là những lời tuyên truyền, kêu gọi mà thật sự đã để lại những kinh

nghiệm điển hình rất sinh động. Tại tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Thuận, Nghệ An, Hà
Nội có rất nhiều hội hợp cổ, hợp quần, hùn vốn để phát triển "quốc thương", “lợi nước ích
nhà" làm thay đổi mạnh mẽ các quan điểm lạc hậu về kinh tế.
Tuy chưa đi tới những nhận thức về tính quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc
thượng tầng, nhưng Phan Châu Trinh đã nhìn thấy sức mạnh phục hưng độc lập dân tộc là phụ
thuộc vào sức mạnh của chấn hưng thực nghiệp, nâng cao tiềm lực kinh tài cho đất nước.
Trong thư gửi Toàn quyền Bô, Phan Châu Trinh này đã khôn khéo lựa chiều, dựa vào các
chính sách khai thác thuộc địa của thực dân để đề xướng ra các yêu sách về kinh tế. Trong chủ
kiến này ông có tính đến khả năng vận động được nhóm chính khách Pháp có cảm tình và
muốn thực dân khai hóa thuộc địa. Tuy vậy, ý đồ này đã vấp phải sự phản ứng của bọn thực
dân tàn bạo. Cả phong trào Duy tâm rầm rộ, cũng như chính những người khởi xướng nó đã bị
dìm vào máu lửa. Đó là điều Phan Chu Trinh đã không tính đến.
Đối với phong trào cải lương hợp pháp, Phan Bội Châu tưởng như xa lạ, không quan tâm
tới. Nhưng thực ra bên trong và đằng sau giữa hai xu hướng vẫn có liên hệ mật thiết. Mùa thu
năm 1905, khi từ Nhật Bản trở về nước lần thứ nhất, nhận thức của Phan Bội Châu về tầm
quan trọng của việc chấn hưng kinh tế phục vụ cuộc vận động cách mạng đã được xác lập rõ
rệt hơn. Thời gian ở Nhật Bản đã tác động tư tưởng của Phan Bội Châu. Nhận thức rõ tình
trạng chậm trễ, lạc hậu của đất nước và cho rằng chính tình trạng xấu ấy đã làm đất nước mình
bị hèn yếu, nên khi nhiệm vụ “cầu viện quân sự” bị thất bại, Phan Bội Châu đã thấy cần phải
thay đổi kế hoạch. Phan Bội Châu thấy cần phải có một thời kì chuẩn bị khá dài để “tạo nên
một cơ sở thực sự vững chắc”. Vì vậy, nhiệm vụ canh tân đất nước, đưa nước nhà tiến kịp
10


trình độ các nước văn minh phải được đặt ra một cách bức thiết và coi đó là một sự hỗ trợ
không thể thiếu được đối với nhiệm vụ “đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục độc lập dân tộc cho
Tổ quốc Việt Nam”.
Đến đầu năm 1906, sau khi Đặng Nguyên Cẩn đề nghị Phan Bội Châu lập các hội Nông,
Thương, Học thì ông chấp nhận ngay và khuyến khích lập Triêu Dương thương quán ở Vinh.
Đến khoảng 6-1906, khi trở về Hương Cảng, Phan Bội Châu lại lập ra “Việt Nam thương đoàn

công hội” (tồn tại khoảng 1 năm), vừa là để “kinh doanh lợi chung”, vừa là trạm nghỉ chân cho
các đoàn Đông Du. Những hoạt động trên đã đánh dấu sự chuyển hướng tư tưởng của Phan
Bội Châu về phát triển kinh tế.
1.2.3 Về văn hoá – giáo dục
* Về văn hóa
Từ nửa cuối thế kỷ XIX, văn hóa Việt Nam cổ truyền đã và đang phải đối mặt với trào
lưu văn hóa phương Tây. Sự thật lịch sử đã chỉ ra rằng ở Việt Nam đã sớm có một dòng tư
tưởng canh tân, khởi đầu là Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Phú Thứ, Đặng Huy
Trứ... Đầu thế kỷ XX, tư tưởng này vẫn được tiếp nối với các nhà cải cách tiêu biểu là Phan
Bội Châu và Phan Châu Trinh…. Trong đó Phan Châu Trinh là người tiêu biểu hơn cả.
Sau hơn bốn chục năm kể từ khi thực dân Pháp nổ súng ở Đà Nẵng mở đầu cho hành
động cưỡng đoạt độc lập tự do của nước ta, cho tới thời điểm đầu thế kỷ XX, trên thực tế thực
dân Pháp đã đồng thời áp đặt nền văn hóa thực dân lên nền văn hóa cổ truyền của Việt Nam.
Văn hóa cổ truyền của dân tộc dường như đứng trước hoạ lai căng, mất gốc.
Phan Châu Trinh sớm trăn trở bởi câu hỏi lớn: làm thế nào để đưa dân tránh được hiểm
họa ghê gớm đó? Nhờ tiếp xúc nhiều với những người khách trú, những nhà buôn Nhật Bản,
và nhất là từ những năm 1902 ông đã được đọc các Tân thư, Tân văn mà trong óc đã nảy nở ra
hai vấn đề quan yếu:
Thứ nhất, đó là vấn đề thời đại "mưa Âu, gió Mỹ ", trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam
và khu vực, việc tiếp nhận văn hóa phương Tây là một xu thế không cưỡng nổi.
Thứ hai, trong quy luật "cường thắng, liệt bại” thì muốn dân tộc thoát khỏi diệt chủng
chỉ có cách tự canh tân về mọi mặt, tự lực tự cường, vươn lên sánh vai với nước khác trên
trường quốc tế một cách chủ động tích cực. Nói cách khác tức là bảo lưu, phát huy những giá
trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc đồng thời tiếp nhận những giá trị văn hóa mới của
thời đại để đáp ứng yêu cầu phát triển dân tộc mình.
11


Có thể nói, với con mắt quan sát đặc biệt của mình Phan Châu Trinh đã nhìn thấy tình thế
khẩn cấp nước sôi lửa bỏng phải đổi mới toàn diện chính trị - kinh tế - văn hóa xã hội Việt

Nam. Hiểu đó là những bước canh tân khó khăn, vì chưa quen thuộc đối với nhận thức, thói
quen, phong cách sinh sống của người mình, nên ông đã kiên tâm, bền chí để đưa ý thức này
đến với quần chúng thông qua hoạt động Duy Tân.
* Giáo dục
Nói đến giáo dục Việt Nam thời kì này phải nói ngay đến những đóng góp về giáo dục
của Phan Chu Trinh. Ngay từ những năm 1902 ông đã thấy tệ hại của lối giáo dục phong kiến
cũ. Ông cho rằng muốn khôi phục quốc hồn thì phải sửa đổi phép thi, thay đổi nền giáo dục cũ
bằng nền giáo dục lấy kiến thức thực dụng làm nội dung, dạy con người nắm được tri thức cần
thiết cho đời sống dân sinh. Ông cực lực phản đối lối học từ chương bát cổ, sáo rỗng, hình
thức làm suy đồi tâm trí của người dân nước.
Ông đã nhiều lần đòi chính phủ bảo hộ bỏ lối thi cũ, mở mang trường học, dạy kiến thức
mới cho người dân Việt. Ông kêu gọi người trong nước: "Đồng bào ơi! chi cho bằng học?".
Ông không quản khó khăn vất vả vào Nam, ra Bắc để khuếch trương mở rộng các trường dân
lập, riêng ở tỉnh Quảng Nam, ông đã mở được tới 40 trường, đồng thời viết văn thơ cổ động
cho tân học, tài liệu ở các trường nghĩa thục chủ yếu là Tân thư, Tân văn và các văn bản do
ông và các đồng chí trước tác. Trong đó tác phẩm “Tỉnh quốc hồn ca" nổi bật những tư tưởng
giáo dục mới. Có thể nói ông là người đầu tiên xây dựng một nền giáo đục mới chú trọng nội
dung thực tiễn đáp ứng cho nhu cầu phát triển và canh tân đất nước, không chỉ dừng ở tư
tưởng mà xây dựng các điển hình theo định hướng canh tân ấy một cách có hiệu quả trong
thực tế.
Khác biệt với sự mạnh dạn khi phân tích phê phán những tệ nạn của nền giáo dục khoa
cử cũ, ông hết sức trân trọng bảo vệ những giá trị nhân đạo gần với tư tưởng dân chủ của
phương Tây trong di sản Nho học.
Với Phan Bội Châu, sau chuyến đi sang Nhật, khuyên của Lương Khải Siêu là nên thực
sự chú trọng việc giáo dục và thức tỉnh nhân dân mình trước những tiến bộ của thế giới. Trong
tư tưởng của Phan Bội Châu đã có sự chuyển biến, ông không còn kiên định một biện pháp
cách mạng là bạo động nữa mà bên cạnh bạo động, ông đã biết kết hợp với hoạt động cải cách
kinh tế, giáo dục… để tạo nên tiềm lực thực sự cho đất nước, là điều kiện cho bạo động vũ
trang chống Pháp. Ông đã sáng tác rất nhiều các tác phẩm, nhiều tác phẩm của ông đã trở
thành nội dung cho học tập.

12


II. Những tác động của phong trào cải cách duy tân đến xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX
Cả Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh đã không dừng lại ở việc chỉ nêu ra những tư
tưởng canh tân đất nước. Bằng nỗ lực của mình, các ông đã biến những tư tưởng canh tân
thành thực tiễn, đã tạo nên một phong trào dân chủ tư sản diễn ra sôi nổi đầu thế kỉ XX trên
mọi lĩnh vực.
2.1. Về chính trị - xã hội
Tư tưởng cải cách canh tân của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đã tạo nên một
cuộc cải cách xã hội sâu rộng, từ những tư tưởng cải cách đã được hiện thực hoá bằng các
phong trào cụ thể trong thực tiễn. Các phong trào Đông Du, Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục,
phong trào đấu tranh chống thuế ở Trung Kì…, thực sự là những hoạt động cách mạng thực sự
và nó tác động động trực tiếp đến đời sống chính trị của nhà nước thuộc địa, nửa phong kiến.
Các phong trào đã tuyền bá được phần nào tư tưởng dân chủ, dân quyền vào quần chúng, có
tác dụng thức tỉnh nhân dân và là nguồn cổ vũ nhân dân đấu tranh theo khuynh hướng dân chủ
tư sản.
Các cuộc vận động về kinh tế của phong trào Đông Du, Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa
Thục đã góp phần làm xã hội Việt Nam chuyển biến mạnh mẽ hơn. Qua việc hô hào “chấn
hưng thực nghiệp”, các sĩ phu yêu nước Việt Nam là những người tiên phong, đi đầu làm
gương trong phong trào làm kinh tế. Hàng loạt các hội buôn, các công ty được thành lập đã
làm cho bộ phận tư sản dân tộc tăng lên đáng kể, góp phần làm cho tư sản trở thành giai cấp
sau Chiến tranh Thế gới thứ nhất (1914 - 1918). Theo sự gia tăng tầng lớp tư sản dân tộc, là sự
gia tăng về số lượng của giai cấp công nhân. Sự gia tăng của các giai cấp, tầng lớp này là cơ sở
xã hội quan trọng cho cuộc đấu tranh rộng khắp sau này, cũng như điều kiện xã hội để tiếp thu
luồng tư tưởng, con đường cách mạng mới: con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam sau này.
2.2. Về kinh tế
Những tư tưởng canh tân về kinh tế của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đã có tác
động tích cực đến bộ mặt kinh tế Việt Nam, một phong trào kinh doanh nhằm phát triển kinh

tế Việt Nam và phục vụ trực tiếp cho công đấu tranh chống đế quốc đã diễn ra một cách sôi
nổi khắp trong Nam, ngoài Bắc.
Ở Bắc kì, do ảnh hưởng của Đông Kinh Thục, các nho sĩ Bắc Hà hưởng ứng chấn hưng
công nông, thương nghiệp. Ở Hà Nội, Đỗ Chân Thiết cùng các đồng chí mở Hưng Lợi Tế, Tuỵ
Phương để kinh doanh hàng nội hoá và thuốc bắc. Học tập theo Đỗ Châu Thiết, các nhà nho tư
13


sản hoá cũng thực hiện hoạt động kinh doanh. Hàng loạt các công ti lần lượt ra đời như công ti
Đông Thành Xương (Hoàng Tăng Bí, Nguyễn Quyền), công ti Quảng Hưng Long, Hồng Tân
Hưng, Nghiêm Xuân Quảng… Các công ti dần lan ra các tỉnh: Phúc Lợi Tế ở Phúc Yên,
Hưng Lợi Tế ở Hưng Yên, Sơn Thọ ở Việt Trì, Phượng Lâu (Thanh Hoá)…
Ở Trung Kì, nơi diễn ra phong trào Duy Tân sôi nổi nhất nên ở đây ảnh hưởng của phong
trào Duy Tân cũng rất sâu đậm. Thương nghiệp là lĩnh vực được chú trọng phát triển khá
mạnh trong các ngành kinh tế của phong trào Duy Tân. “Dĩ thương hợp quần”, lấy buôn bán
để tập hợp nhau lại cùng lo việc nước; buôn bán còn để kiếm lời để nuôi dưỡng các hoạt động
khác như mở trường học, nuôi thầy giáo, cung cấp sách vở cho học sinh. Vì vậy gọi buôn bán
là “Quốc thương” và việc lập những hội buôn chung (hợp thương) được đặc biệt chú ý.
Thương cuộc Hội An (Quảng Nam) là thương cuộc đầu tiên của phong trào, được thành
lập vào những tháng cuối năm 1905 hoặc đầu năm 1906. Lúc bấy giờ Hội An là địa điểm
thuận lợi nhất, là thành phố lớn, sầm uất, thương khách đông đảo, có cả khách buôn người
nước ngoài nhất là người Trung Hoa. Hội An cũng là nơi giao thương của các thuyền bè, chở
hàng hóa ở các đường sông, đường bộ, đường biển đổ về. Hội An cũng có nhiều thuận lợi
trong việc tiếp nhận những sách báo mới tiến bộ từ Bắc, Nam và từ Trung Hoa vào. Các nhà
lãnh đạo Duy Tân đã chọn đúng vị trí đột phá này để từ đó phát triển dần dần ra các nơi khác.
Cùng với thương cuộc Hội An, “Hiệp thương Diên Phong và nghĩa thục Diên Phong do
Phan Thúc Duyện tổ chức và điều hành đã được đánh giá là hai cơ sở tầm cỡ nhất ở Quảng
Nam.Ngoài hai thương cuộc nổi tiếng trên, ở Quảng Nam lúc này còn có nhiều hàng hiệu của
sĩ phu với quy mô nhỏ hơn.
Sau chuyến Nam du của Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, năm

1906, Nguyễn Trọng Lội cùng Nguyễn Quý Anh, Hồ Tá Bang, Trần Lệ Chất, Ngô Văn
Nhượng lập Công ti Liên Thành buôn nước mắm đặt trụ sở ở Phan Thiết, Sài Gòn… Ngoài
Liên Thành, nhiều công ti buôn bán được thành lập ở Bình Thuận nhưng quy mô nhỏ hơn.
Tại Nghệ An, Hà Tĩnh thành lập Triêu Dương thương quán (6/1906) với sự góp vốn của
Đặng Nguyên Cẩn và Ngô Đức Kế.
Về nông nghiệp, một số sĩ phu mở các hội khai khẩn đất hoang làm ruộng, thường gọi là
“nhàn điền”, trồng lúa, ngô, đậu, chè…
Vùng đất Quảng Nam có nguồn lợi lớn do quế mang lại, các chủ vườn đua nhau sửa sang
vườn quế, chung nhau tìm thêm đất để trồng quế, chè, tiêu. Chính Phan Châu Trinh cũng góp
14


phần vào công cuộc khuếch trương vườn quế bằng cách hùn vốn với các nhà kinh doanh khác.
Các Hội nông trồng quế theo Huỳnh Thúc Kháng đều được thành lập từ năm 1906.
Ở Quảng Ngãi, Hội nông có cơ sở chính tại khu rừng thuộc làng Tình Phú, huyện Nghĩa
Hành với vài chục mẫu khẩn hoang, chuyên trồng đỗ, khoai lang, số hội viên khoảng 70 người
do Nguyễn Bá Loan làm Hội trưởng.
So với thương nghiệp thì hoạt động về nông nghiệp gặp nhiều khó khăn hơn vì phải đối
phó với cảnh “sơn nam chướng khí”, nhân công tại chỗ thiếu phải đi thuê mướn liên xã. Đã
thế, các nhà Nho còn bị hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm lập đồn điền nên kết quả về vật
chất chưa có gì đáng kể.
Ở Nam kì, hoạt động mạnh mẽ của phong trào ở đây là sự hưởng ứng phong trào Đông
Du, với số học sinh chiếm một nửa trong số 200 thanh niên Việt Nam đi Đông Du lúc bấy giờ.
Để đưa học sinh đi du học, Nguyễn Thần Hiến đã thành lập “Khuyến du học hội”. Số tiền ủng
hộ Đông Du từ trong nước gửi ra thì Nam Kì chiếm nhiều nhất. Nhiều phụ huynh học sinh của
Nam Kì đã sang Nhật động viên du học sinh.
Kinh doanh công, thương nghiệp cũng đã diễn ra sôi nổi. Nguyễn Thành Út, Trần Chánh
Chiểu thành lập Minh Tân công nghệ xã (6/1908). Đây là một công ty cổ phần có điều lệ gần
giống như các công ty Pháp lúc bấy giờ. Trụ sở chính của công ty đặt tại chợ Mỹ Tho, kinh
doanh các ngành nghề: kéo sợi, dệt vải, làm xà phòng, thuộc da, chế tạo đồ pha lê, sản xuất

diêm. Một số hàng hóa của công ty như diêm, xà phòng đã có thể cạnh tranh trên thị trường,
song đến cuối tháng 10-1908, Trần Chánh Chiểu bị bắt, công ty ngừng hoạt động.
Ngoài Minh Tân công nghệ xã, Trần Chánh Chiểu còn lập Minh Tân khách sạn ở Mĩ Tho
và Nam Trung khách sạn ở Sài Gòn. Đây vừa là cơ sở kinh doanh, đồng thời cũng là nơi hội
họp của những người cùng chí hướng. Những tác phẩm của Phan Bội Châu như Kỉ niệm lục,
Sùng bái giai nhân… được phổ biến gần như công khai tại đây.
Nguyễn An Khương đã tích cực ủng hộ phong trào Đông Du, hô hào kinh doanh công,
thương nghiệp và lập ra Chiêu Nam Lầu (gần chợ Sài Gòn). Cơ sở của doanh nghiệp gồm ba
tầng kinh doanh ăn uống (cả bình dân và thượng lưu) và khách sạn.
Ngoài các cơ sở kinh doanh nêu trên, việc lập quán ăn, các cửa hàng bán lúa gạo, lập nhà
in, bào chế thuốc Bắc, vận tải đường sông, cho vay nhẹ lãi, diễn ra phổ biến ở Sài Gòn và rải
rác khắp các tỉnh Nam Kì.
Hoạt động tuyên truyền chấn hưng thực nghiệp và ra đời của hàng loạt các hội buôn, các
công ti đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế tư sản dân tộc non trẻ phát triển.
15


2.3. Về văn hoá – giáo dục
* Về văn hoá
Lĩnh vực văn hoá – giáo dục là lĩnh vực hoạt động sôi nổi nhất trong phong trào cải cách,
là đóng góp tiêu biểu nhất của các nhà canh tân đầu thế kỉ XX.
Về văn hoá, nổi bật lên vấn để văn hoá thời kì này là tập trung chống tư tưởng phong
kiến thối nát, thực hiện cuộc cải cách tư tưởng văn hoá, xã hội. Hô hào thực hiện nếp sống
mới, văn minh. Cũng lần đầu tiên, những tệ nạn của xã hội như rượu chè, mê tín dị đoan, nếp
sống thiếu văn minh bị đả kích kịch liệt.
Cách hình thức hoạt động nhằm thực hiện duy tân trên lĩnh vực văn hoá rất phong phú đa
dạng, như thông qua các buổi diễn thuyết, bình văn, thông qua các sách báo tiến bộ của nước
ngoài , qua các sách, bài văn thơ yêu nước, kêu gọi duy tân của các nhà cách mạng trong
nước…
Nhằm thức tỉnh quốc dân, Phan Bội Châu và các nhà lãnh đạo Duy Tân Hội đã sáng tác

nhiều thơ văn, như: Việt Nam vong quốc sử (1905), Khuyến quốc dân tự trợ du học văn
(1906), Hải ngoại huyết thư (1906), Kính cáo toàn quốc phụ lão (1906), Đề tỉnh quốc dân hồn
(1907)…
Sách báo nước ngoài được dịch, được in ấn và truyền bá rộng rãi. Đông Kinh Nghĩa Thục
biên soạn những bài ca theo thể “lục bát”, như Bài ca dư địa và Lịch sử nước nhà, Kêu gọi
hồn nước…, ngoài ra Đông kinh nghĩa Thục có một Thư viện có nhiều sách Tân thư nhập từ
Trung Quốc, Nhật Bản để học viên và độc giả ở ngoài mượn về đọc.
Tại Bình Thuận, một Thư xã được thành lập (1905) được gọi là nhà giảng sách đặt tại
đình Phú Tài. Tại Thư xã, những tư tưởng của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, những tư
tưởng về dân chủ, tự cường lần lượt được giới thiệu.
Hình thức hoạt động có tính chất độc đáo của phong trào Duy Tân ở Nam Kì là xuất bản
tờ báo Lục tỉnh tân văn bằng chữ Quốc ngữ do Trần Chánh Chiểu làm chủ bút. Báo ra mỗi
tuần một số, đều đặn từ tháng 11-1907 đến 11-1908, được 52 số với sự cộng tác của nhiều
nhân sĩ Việt Nam ở Nam Kì, Nam Trung Kì và Campuchia. Báo công khai cổ xúy cho phong
trào Duy Tân: hô hào bỏ cờ bạc, hút sách…, giảm bớt nghi thức khi cưới xin, ma chay, thực
hiện thuần phong mĩ tục, kêu gọi giành quyền lợi kinh tế trong thương mại, dịch vụ, đấu
thầu…, đang nằm trong tay Hoa kiều và Ấn kiều được Chính phủ Pháp bảo trợ. Mặt khác, Lục
tỉnh tân văn còn lên án bọn quan lại tham nhũng, kêu gọi đồng bào hợp quần, tương thân
16


tương ái, có thể nói đây là tờ báo đối lập đầu tiên của làng báo Việt Nam ra đời trong hoàn
cảnh chính trị, kinh tế đặc biệt của xứ Nam Kì.
Công tác tuyên truyền tinh thần yêu nước, tư tưởng dân chủ diễn ra sôi nổi, ở Bắc kì các
hoạt động diễn thuyết, bình văn do trường Đông Kinh Nghĩa Thục tổ chức. Các buổi diễn
thuyết ở Đông Kinh nghĩa thục, các diễn giả đọc hoặc bình luận các bài báo in trên Đăng cổ
tùng báo và Đại việt tân báo, hoặc nói chuyện về một số đề tài lịch sử truyền thống hào hùng
của dân tộc hoặc lịch sử các cuộc cách mạng tư sản phương Tây. Các diễn giả cũng thường
xuyên nói về đề tài xây dựng nếp sống văn minh, hô hào mọi người bài trừ hủ tục, dùng hàng
nội hoá… Các bài thơ ái quốc, kêu gọi duy tân do nhà trường sáng tác, hoặc do Phan Bội

Châu từ Nhật gửi về như Hải ngoại huyết thư, Á tế á ca… là những nội dung chính trong các
buổi bình văn.
“Buổi diễn thuyết người đông như hội,
Kì bình văn khách đến như mưa” [120;6]
Những câu thơ trên trong một bài văn thời đó đã cho chúng ta thấy sức thu hút của những
hoạt động truyền bá tư tưởng tư sản ở Bắc Kì và sự ủng hộ của nhân dân đối với hoạt động
này.
Ở Trung, Nam kì các hoạt động duy tân do nhóm Duy Tân của Phan Bội Châu tiến hành.
Cuộc vận động đổi mới “phong hóa”, cải cách lối sống là một hoạt động độc đáo của phong
trào Duy Tân. Phong trào còn sôi động hơn khi phái Duy Tân mở cuộc vận động cắt tóc ngắn,
để răng trắng, theo lối sống mới:
“Phen này cắt tóc đi tu,
Tụng kinh độc lập ở chùa Duy Tân”.
Phong trào phát triển mạnh mẽ đến nỗi thực dân Pháp gọi phong trào này và phong trào
chống thuế ở Trung Kỳ năm 1908 là “Phong trào cắt tóc ngắn”.
Các sĩ phu yêu nước của phong trào còn tuyên truyền, vận động chống chế độ sưu cao,
thuế nặng. Ví như vào đầu năm 1908, khi thực dân Pháp thay đổi chế độ xâu thuế, các sĩ phu
duy tân ở Nam – Ngãi đã tổ chức những buổi diễn thuyết tại các xóm làng, tố cáo gánh nặng
thuế khóa và sự hà lạm của quan lại, khơi dậy lòng phẫn nộ trong nhân dân, nhằm dẫn đến các
cuộc đấu tranh của nhân dân sau này.
* Về giáo dục
Trong phong trào Duy Tân đầu thế kỉ XX, giáo dục là vấn đề được quan tâm hàng đầu, là
hoạt động trọng tâm của phong trào cải cách giai đoạn này.
17


Đối với Phan Bội Châu, sau chuyến sang Nhật năm 1905, ông nhận thấy: “Nhân đây tôi
nghĩ dân trí nước mình còn thấp, mà nhân tài cũng thiếu, không có. Chừng đó, tôi tự ăn năn
việc mình lo toan lúc trước là nông nổi, chỉ bo bo vấn đề quân giới nào có phải cái kế hay để
mưu tính công việc độc lập cho nước minh đâu”. Từ đây, Phan Bội Châu đã nhận thấy, muốn

đạt được mục đích giải phóng dân tộc cần phải có sự chuẩn bị vững chắc. Ông cùng đồng chí
của mình đã thay đổi phương pháp đấu tranh từ bạo động để chuyển sang kết hợp bạo động và
canh tân, coi canh tân là điều kiện để bạo động, trong canh tân vấn đề giáo dục được tiến hành
sớm hơn cả. Từ việc muốn cầu viện Nhật Bản, ông đã chuyển sang hoạt động Đông du. Cuối
năm 1905, Phan Bội Châu và các đồng chí của mình bắt đầu đưa các thanh niên Việt Nam
sang Nhật học tập. Nhiều thanh niên yêu nước du học như Đặng Tiểu Mẫn, Lương Lập Nham,
Lương Nghị Khánh, Đoàn Kì Sinh, Hoàng Trọng Mậu, Trần Hữu Lực, Lâm Quán Trung… đã
trở thành những chiến sĩ tận tụy với sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Phong trào Đông du diễn ra từ năm 1905 đến năm 1908 thì bị đế quốc Pháp và đế quốc
Nhật cấu kết với nhau dập tắt. Nhưng trong một thời gian ngắn, phong trào đã thu hút được
hơn 200 thanh niên Việt Nam sang Nhật học tập và hoạt động tiêu biểu này đã cổ vũ phong
trào học tập trong nước.
Do ảnh hưởng của phong trào Đông Du và chủ trương “khai dân trí” của Phan Châu
Trinh, hàng loạt các trường học đã được các nhà yêu nước thành lập như ở Bắc kì nổi lên là
Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội và các cơ sở của nó có mặt khắp các tỉnh Bắc kì, ở miền
Trung các trường học được thành lập với số lượng rất nhiều, tiêu biểu như trường Diên Phong,
Phú lâm, trường Dục Thanh…
Các trường học này đều có nội dung, phương pháp học tập mới, nó có tác dụng to lớn
trong việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, cổ vũ tinh thần yêu nước, đề cao chữ Quốc
ngữ, tuyên truyền tư tưởng dân chủ tư sản vào quảng đại quần chúng nhân dân và những nội
dung giáo dục mới tiến bộ, những phương pháp học tập mới là cơ sở nền tảng cho nền giáo
dục hiện đại sau này tiếp thu và học tập.
Các hoạt động của phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, Duy Tân ở Trung Kì, Đông
Kinh Nghĩa Thục ở Bắc Kì đã bị thực dân Pháp đàn áp, dập tắt vào năm 1908, bởi chúng nhận
thấy những hoạt động mang tính chất hòa bình, hợp pháp của các phong trào này có chứa đựng
những nguy cơ tiềm ẩn đe doạ đến nền thống trị của chúng ở Việt Nam. Chúng coi Đông Kinh
Nghĩa Thục là “lò phiến loạn Bắc Kì”, còn phong trào Duy tân ở miền Trung, chính quyền
thực dân và phong kiến khẳng định: “Bọn hiếu sự ở Nam – Ngãi mưu ngầm xúi giục làm loạn,
18



trước thì dụ dân cắt tóc cải trang, kế thì đặt trường diễn thuyết, sau hết thì mê hoặc nhân dân
bằng việc kêu giảm thuế, cùng nhau tụ tập xướng làm dân quyền… mà tỉnh phủ huyện quan sở
tại không ngăn chặn được” [25; TL 2, 12].
Quả thực nhưng tư tưởng dân chủ của các phong trào, tổ chức này khi đi vào quần chúng
nó đã biến thành cuộc bạo động vũ trang tiêu biểu là phong trào đấu tranh chống sưu thuế ở
Trung Kỳ
2. 4. Phong trào đấu tranh chống sưu thuế ở Trung Kỳ (1908)
Chính quyền nhân dân cưỡng bức nhân dân Việt Nam tự bỏ tiền, gạo ra đi phu đào sông,
đắp đường vận tải liên miên. Riêng trong hai năm 1892 – 1893, chúng đã huy động được 23
triệu rưỡi ngày công đào sông, đắp đường. Từ năm 1898 trở đi, dưới ách thống trị của thực dân
Pháp, gánh nặng sưu thuế đè lên nhân dân ta ngày càng nặng nề và chế độ sưu thuế thay đổi
liên tục và không đồng nhất.
Trong bối cảnh nhân dân Trung Kỳ đang rên xiết dưới chế độ sưu thuế nặng, tư tưởng
duy tân cải cách của các sĩ phu yêu nước tiến bộ được truyền bá vào quần chúng đã làm trỗi
dậy ý thức dân tộc, dân chủ, làm cho họ giác ngộ về quyền sống, quyền tự do, quyền làm
người và trước hết phải chống sưu cao, thuế nặng.
Phong trào bùng nổ vào tháng 3/1908, mở đầu là cuộc đấu tranh của của hàng trăm nông
dân huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam (trung tâm của phong trào Duy Tân ở Trung Kỳ) đòi
phân bổ xâu thuế cho công bằng.
Phối hợp với cuộc biểu tình bao vây tòa sứ, nhân dân các huyện của Quảng Nam cũng kế
tục nhau nổi dậy. Tại các phủ Điện Bàn, Thăng Bình, Tam Kì, Hòa Vang, Duy Xuyên, tình
hình cũng diễn ra tương tự như ở tỉnh thành. Cuộc đấu tranh ngày càng mang tính chất bạo
động. Tại các chợ, trang trại, nhân viên thu thuế bị truy đuổi, quần chúng tiến hành vây bắt
những tên Việt gian tay sai để trừng trị. Các tên Tri phủ, Tri huyện phải bỏ công đường chạy
trốn.
Mặc dù thực dân Pháp đã tìm mọi cách để phong toả phong trào chống sưu thuế Quảng
Nam, song phong trào nhanh chóng lan truyền sang các tỉnh lân cận.
Cuộc đấu tranh chống sưu thuế của nhân dân miền Trung trong thời gian dài đã làm tê
liệt bộ máy chính quyền thực dân, phong kiến ở nông thôn.

Trước sức đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân các tỉnh miền Trung, thực dân Pháp đã huy
động quân đội ở Bắc Kì và Trung Kì hợp sức đàn áp. Cùng với việc đàn áp, giải tán những
đoàn biểu tình, lùng sục, bắt bớ, bắn giết những người cắt tóc ngắn, thực dân Pháp còn giải tán
19


những hội buôn, đập phá những trường học do các thân sĩ đứng tên xin phép lập. Những người
lãnh đạo phong trào Duy Tân bị kết tội là những kẻ cầm đầu, xúi giục phản loạn. Trần Quý
Cáp, Lê Khiết, Nguyễn Bá Loan, Ông Ích Đường, Trịnh Khắc Lập bị kết án tử hình. Hàng
chục người bị đày ra Côn Đảo như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Thúc Duyên,
Trần Cao Vân, Ngô Đức Kế… Hàng trăm người khác bị đày ở Lao Bảo, còn chết ở các lao
tỉnh không kể.
Tóm lại, với mục tiêu trực tiếp là chống sưu thuế, cuộc nổi dậy của nhân dân miền Trung
năm 1908 thực chất là một phong trào quần chúng công khai đầu tiên ở Việt Nam, được dấy
lên bởi những tư tưởng dân tộc, dân quyền do các sĩ phu duy tân đầu thế kỉ XX truyền bá. Đây
là một hiện tượng lịch sử mới chưa từng xảy ra trong cuộc đấu tranh chống Pháp trước đó về
phương diện quy mô, tính chất, hình thức đấu tranh, buộc thực dân Pháp phải thay đổi một vài
loại thuế và có ảnh hưởng lâu dài về sau, đồng thời làm chấn động chính trường nước Pháp.

20


KẾT LUẬN
Cuộc vận động yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do chịu ảnh hưởng tư tưởng
canh tân của hai lãnh tụ tiêu biểu là Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh cuối cùng thất bại. Sự
thất bại của phong trào dân chủ tư sản này xuất phát từ nhiều nguyên nhân: Những nhân tố
mới xuất hiện trong xã hội Việt Nam phát triển chưa đủ mạnh để tạo dựng ra một giai cấp, một
bộ máy lãnh đạo đủ khả năng lãnh đạo, dẫn dắt đấu tranh.
Trình độ dân trí của người Việt Nam còn thấp, chưa có khả năng am hiểu sâu sắc, đầy đủ,
hệ thống của tư tưởng dân chủ tư sản ở châu Âu.

Còn bộ phận tư sản mới ra đời cũng cón rất non yếu, năng lực hạn chế. Chưa hình thành
một giai cấp, chưa đủ khả năng để đứng ra lãnh sứ mệnh lãnh đạo công cuộc đấu tranh giải
phong dân tộc,cải cách xã hội.
Tư tưởng dân chủ tư sản ở đầu thế kỉ XX phần lớn tiếp thu qua Tân thư, Tân văn nên
không tránh khỏi sự bớt xén, lệch lạc. Chính vì thế dẫn đến những sai lầm của các nhà canh
tân về nhận định kẻ thù, nhận định về chủ nghĩa đế quốc, về phương phương pháp cách mạng,
về vai trò của quần chúng, vấn đề chính quyền trong cách mạng... nó cũng là một trong những
nguyên nhân gây thất bại của phong trào.
Cuộc vận động yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản bị thất bại còn vì nó động
chạm đến quyền lợi của thực dân Pháp ở Đông Dương và phần nào đó ảnh hưởng đến đường
lối kinh tế, chính trị của Pháp ở Việt Nam. Cho nên cả xu hướng bạo động và cải cách trong
con mắt của thực dân Pháp đều nguy hiểm giống nhau và đều phải đàn áp.
Cho dù bị thực dân Pháp đàn áp nhưng xu hướng cách mạng dân chủ tư sản ở Việt Nam
đầu thế kỉ XX có ý nghĩa cực kì quan trọng.
Đánh dấu bước phát triển mới trong tư duy yêu nước Việt Nam trong thời đại mới, đoạn
tuyệt với phong kiến, chuyển sang lập trường dân chủ tư sản, làm nảy sinh nhiều hình thức
phong phú đa dạng: bạo động, cải cách, công khai, bí mật, đồng thời tạo dựng được cơ sở cho
sự xuất hiện một lớp người mới có tư duy mới để tiếp tục đưa phong trào yêu nước phát triển ở
giai đoạn sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Làm thức tỉnh ý thức dân tộc trong quảng đại quần
chúng nhân dân trong việc xác định rõ đâu là bạn đâu là thù, phương thức đấu tranh, thể chế
chính trị, cách thức tổ chức lực lượng.
Tư tưởng canh tân và phong trào dân chủ tư sản đầu thế kỉ XX để lại nhiều bài học kinh
nghiệm quý báu cho cách mạng sau này: Có đóng góp rất quan trọng về mặt tư tưởng, chính
trị, văn hóa. Cảnh tỉnh chế độ thống trị của thực dân Pháp, buộc chính quyền thực dân cải cách
21


trên một số lĩnh vực có lợi cho nhân dân Việt Nam và điều chỉnh đường lối cai trị từ chủ
trương đồng hóa sang hợp tác kéo dài từ đầu thế kỉ XX cho đến 1945 (mở trường đại học, tiến
hành cải cách giáo dục, nới lỏng độc quyền).

Với ý nghĩa to lớn đó, phong trào dân chủ tư sản đầu thế kỉ XX đã có vị trí xứng đáng
trong cuộc vận động đấu tranh chống chủ nghiã đế quốc, giải phóng dân tộc nói riêng và công
cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc nói chung.

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Nguyễn Ngọc Cơ, (2007), Phong trào dân tộc trong đấu tranh chống Pháp ở Việt Nam
1885 – 1918, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.

2.

Nguyễn Ngọc Cơ (chủ biên), (2007), Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến 1918, Nxb Đại học
sư phạm, Hà Nội.

3.

Trần Bá Đệ (chủ biên), (2002) Một số chuyên đề lịch sử Việt Nam, NXB Đại học Quốc
gia, Hà Nội.

4.

Trần Văn Giàu, (1957), Lịch sử Việt Nam từ 1897 đến 1914, Nxb Xây dựng, Hà Nội.

5.

Đinh Xuân Lâm (chủ biên), (1999), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 2, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

6.

Nguyễn Khánh Toàn (chủ biên), (1985), Lịch sử Việt Nam, tập 2. NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội

23



×