Tải bản đầy đủ (.pdf) (195 trang)

Giáo Trình Điều Dưỡng Cơ Bản 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.86 MB, 195 trang )

BỘ Y TẾ

ĐIỀU DƯỠNG CƠ BẢN 2
(DÙNG CHO ĐÀO TẠO CỬ NHÂN ĐIỀU DƯỠNG)
Mã số: Đ.34.Z.02

NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC
HÀ NỘI  2007

Chỉ đạo biên soạn :
VỤ KHOA HỌC VÀ ĐÀO TẠO  BỘ Y TẾ
Chủ biên :
PGS. TS. HOÀNG NGỌC CHƯƠNG
BSCKII. TRẦN ĐỨC THÁI


Những người biên soạn :
TS. LÊ VĂN AN
ThS. HỒ DUY BÍNH
BS. LÊ THỊ LỤC HÀ
ThS. TRẦN ĐÌNH HẬU
ThS. NGUYỄN THỊ KIM HOA
ThS. VÕ THỊ DIỆU HIỀN
TS. HOÀNG VĂN NGOẠN
ThS. PHAN THỊ TỐ NHƯ
BS. DƯƠNG THỊ NGỌC LAN
BS. NGUYỄN THỊ ANH PHƯƠNG
BSCKII. TRẦN ĐỨC THÁI
BS. ĐÀO NGUYỄN DIỆU TRANG
Tham gia tổ chức bản thảo :
ThS. PHÍ VĂN THÂM


ThS. LÊ THỊ BÌNH

 Bản quyền thuộc Bộ Y tế (Vụ Khoa học và Đào tạo)
874 - 2007/CXB/3 - 1918/GD

Mã số: 7G070M7 - DAI

Lời giới thiệu
Thực hiện một số điều của Luật Giáo dục, Bộ Giáo dục & Đào tạo và Bộ Y tế đã ban hành chương
trình khung đào tạo Cử nhân điều dưỡng. Bộ Y tế tổ chức biên soạn tài liệu dạy - học các môn cơ sở và
chuyên môn theo chương trình trên nhằm từng bước xây dựng bộ sách đạt chuẩn chuyên môn trong
công tác đào tạo nhân lực y tế.
Sách ĐIỀU DƯỠNG CƠ BẢN 2 được biên soạn dựa trên chương trình giáo dục của Trường Đại


học Y Dược Huế trên cơ sở chương trình khung đã được phê duyệt. Sách được các tác giả: TS. Lê
Văn An, ThS. Hồ Duy Bính, BS. Lê Thị Lục Hà, ThS. Trần Đình Hậu, ThS. Nguyễn Thị Kim Hoa, ThS.
Võ Thị Diệu Hiền, TS. Hoàng Văn Ngoạn, ThS. Phan Thị Tố Như, BS. Dương Thị Ngọc Lan, BS. Nguyễn
Thị Anh Phương, BSCKII. Trần Đức Thái, BS. Đào Nguyễn Diệu Trang biên soạn theo phương châm :
Kiến thức cơ bản, hệ thống; nội dung chính xác, khoa học; cập nhật các tiến bộ khoa học, kỹ thuật hiện
đại và thực tiễn ở Việt Nam.
Sách ĐIỀU DƯỠNG CƠ BẢN 2 đã được Hội đồng chuyên môn thẩm định sách và tài liệu dạy học chuyên ngành Điều dưỡng của Bộ Y tế thẩm định vào năm 2007. Bộ Y tế quyết định ban hành là tài
liệu dạy - học đạt chuẩn chuyên môn của ngành trong giai đoạn hiện nay. Trong thời gian từ 3 đến 5
năm, sách phải được chỉnh lý, bổ sung và cập nhật.
Bộ Y tế xin chân thành cảm ơn các tác giả TS. Lê Văn An, ThS. Hồ Duy Bính, BS. Lê Thị Lục Hà,
ThS. Trần Đình Hậu, ThS. Nguyễn Thị Kim Hoa, ThS. Võ Thị Diệu Hiền, TS. Hoàng Văn Ngoạn, ThS.
Phan Thị Tố Như, BS. Dương Thị Ngọc Lan, BS. Nguyễn Thị Anh Phương, BSCKII. Trần Đức Thái, BS.
Đào Nguyễn Diệu Trang và Hội đồng chuyên môn thẩm định đã giúp hoàn thành cuốn sách; Cảm ơn
ThS. Lê Thị Bình, ThS. Nguyễn Mạnh Dũng đã đọc và phản biện, để cuốn sách sớm hoàn thành kịp thời
phục vụ cho công tác đào tạo nhân lực y tế.

Lần đầu xuất bản, chúng tôi mong nhận được ý kiến đóng góp của đồng nghiệp, các bạn sinh viên
và các độc giả để lần xuất bản sau được hoàn thiện hơn.
VỤ KHOA HỌC VÀ ĐÀO TẠO - BỘ Y TẾ

Bài 1
CHĂM SÓC CÁC GIAI ĐOẠN
PHÁT TRIỂN CỦA CƠ THỂ
MỤC TIÊU
1. Trình bày được đặc điểm sinh lý và bệnh lý của từng giai đoạn phát triển của cơ thể.
2. Trình bày được kế hoạch chăm sóc điều dưỡng theo từng giai đoạn phát triển của cơ thể.

1. ĐẠI CƯƠNG
Cơ thể con người có những đặc điểm riêng về giải phẫu và sinh lý. Từ lúc thụ thai đến tuổi trưởng
thành và già đi, con người phải trải qua hai hiện tượng. Trước hết là sự tăng trưởng về lượng tức là sự
tăng trưởng tế bào ở các mô, dẫn đến sự trưởng thành. Hiện tượng thứ hai là sự thay đổi về chất (phát
triển) là sự thay đổi về cấu trúc của một số bộ phận, dẫn đến thay đổi về chức năng tế bào.
Quá trình tăng trưởng và phát triển của con người có tính chất toàn diện về thể chất, tinh thần và vận
động. Mỗi giai đoạn lớn lên và phát triển của con người có những đặc điểm riêng về sinh lý và bệnh lý.
Nhưng giữa các giai đoạn không có ranh giới rõ ràng, giai đoạn trước chuẩn bị cho giai đoạn sau, bao


gồm:
- Thời kỳ bào thai.
- Thời kỳ sơ sinh.
- Thời kỳ bú mẹ.
- Thời kỳ răng sữa.
- Thời kỳ thiếu niên.
- Thời kỳ dậy thì.
- Thời kỳ thanh niên.
- Thời kỳ trung niên.

- Thời kỳ tuổi già.
2. CÁC THỜI KỲ PHÁT TRIỂN CỦA CƠ THỂ VÀ CÔNG TÁC CHĂM SÓC
2.1. Thời kỳ phát triển trong tử cung (hay thời kỳ bào thai)
Từ lúc thụ thai cho đến khi trẻ chào đời. Sự phát triển bình thường trong khoảng 38 tuần đến 42
tuần, tính từ ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối.
2.1.1. Đặc điểm sinh lý
Đây là thời kỳ hình thành và phát triển thai nhi. Sự hình thành và phát triển của thai nhi phụ thuộc
hoàn toàn vào người mẹ. Thời kỳ này chia làm hai giai đoạn:
- Giai đoạn phát triển phôi thai được giới hạn trong 3 tháng đầu của thai kỳ, tức là giai đoạn thai nhi
định hình.
- Giai đoạn phát triển thai nhi kéo dài trong 6 tháng cuối của thời kỳ bào thai, giai đoạn này thai nhi
lớn nhanh về cân nặng và chiều cao. Ở tuần thứ 16 thai nhi cân nặng 100g, dài 17cm; đến tuần thứ 28
cân nặng đạt được 1.000g và dài 35cm. Lúc sinh cân nặng 2.800 - 3.000g và dài 48 - 50cm.
2.1.2. Đặc điểm bệnh lý
- Bệnh lý có thể gặp trong thời kỳ này là sự rối loạn hình
thành và phát triển thai nhi.
- Tất cả những yếu tố như hoàn cảnh sinh hoạt vật chất và
tinh thần, tình trạng bệnh tật, điều kiện lao động của bà mẹ đều
ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của thai nhi như: sinh non,
sẩy thai, suy dinh dưỡng bào thai, thai chết lưu, quái thai, dị tật
bẩm sinh (Down, sứt môi, hở hàm ếch...) (hình 1.1).
2.1.3. Chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng bệnh
Chủ yếu cho thai phụ.
- Bảo đảm chế độ lao động hợp lý, sinh hoạt điều độ, tinh
thần thoải mái.


- Khẩu phần ăn hằng ngày cần đầy đủ năng lượng, đạm, mỡ,
đường, vitamin, và muối khoáng.


Hình 1.1. Trẻ bị sứt môi, hở hàm ếch

- Bảo vệ và đề phòng các bệnh nhiễm khuẩn, nhiễm vi rút trong 3 tháng đầu của thai kỳ.
- Thận trọng khi dùng thuốc, tránh tiếp xúc với các yếu tố độc hại.
- Khám thai định kỳ, ít nhất 3 lần trong suốt thời kỳ thai nghén.
- Tiêm chủng đầy đủ để phòng các bệnh uốn ván, viêm gan.
2.2. Thời kỳ sơ sinh
Được tính từ lúc sinh cho đến hết 4 tuần tuổi (hình 1.2).

Hình 1.2. Trẻ sơ sinh

2.2.1. Đặc điểm sinh lý
- Trẻ bắt đầu thích nghi với môi trường sống ngoài tử cung, bắt đầu thở bằng phổi. Vòng tuần hoàn
chính thức hoạt động thay cho tuần hoàn nhau thai.
- Thay huyết sắc tố bào thai thành HbA1, giảm số lượng hồng cầu.
- Bộ máy tiêu hóa hoạt động, trẻ bú, nuốt và tiêu hóa được sữa mẹ.
- Hệ thần kinh phát triển chưa hoàn chỉnh nên trẻ ngủ hầu như suốt ngày.
- Sụt cân sinh lý, bong da, rụng rốn và có thể có vàng da.
- Ngay sau sinh trẻ không thích uống chất đắng, ngược lại thích chất ngọt. Trẻ có thể ngửi mùi sữa
mẹ, nên nhận được mẹ và tìm vú mẹ để bú.
2.2.2. Đặc điểm bệnh lý
- Các bệnh lý trước sinh: rối loạn sự hình thành và phát triển thai nhi như quái thai, teo ruột, hậu
môn không thủng, tim bẩm sinh...


- Các bệnh lý do sinh: sang chấn sản khoa, ngạt...
- Các bệnh mắc phải sau sinh: cơ thể non yếu nên trẻ dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn da, đường hô
hấp, đường tiêu hóa. Diễn tiến của bệnh thường nặng và dễ đưa đến nhiễm khuẩn huyết, do đó tỷ lệ tử
vong cao.
- Trẻ có thể bị xuất huyết não - màng não, vàng da tăng bilirubin tự do...

2.2.3. Chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng bệnh
- Cho trẻ bú sữa mẹ ngay sau khi sinh.
- Đảm bảo vệ sinh trong khu vực trẻ nằm như tã lót, môi trường thoáng mát, không nên ủ than và
đóng kín các cửa.
- Giữ vệ sinh da, chú ý sau mỗi lần trẻ đi đại tiện hoặc tiểu tiện.
- Giữ ấm khi trời lạnh.
- Tiêm chủng theo lịch.
- Tuyệt đối tránh các phương pháp chữa bệnh dân gian như chích, lễ.
- Mẹ phải rửa tay và vệ sinh vú trước khi cho trẻ bú.
- Mẹ ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng, vitamin, muối khoáng.
2.3. Thời kỳ bú mẹ
Tiếp theo sau thời kỳ sơ sinh cho đến hết 12 tháng.
2.3.1. Đặc điểm sinh lý
- Trong thời kỳ này cơ thể trẻ lớn rất nhanh. Thông thường sau 1 năm trẻ cân nặng gấp 3 lần lúc sinh
và chiều cao tăng gấp rưỡi, nên nhu cầu dinh dưỡng cao, nhu cầu năng lượng gấp 3 so với người lớn,
ước tính trung bình 120 - 130 kcalo/kg/ngày.
- Công thức tính cân nặng gần đúng của trẻ (1 tuổi):

với N < 6 tháng (Tuổi của trẻ tính bằng tháng).

với N > 6 tháng (Tuổi của trẻ tính bằng tháng).
- Chiều cao quý I mỗi tháng tăng thêm 3,5cm. Quý II mỗi tháng tăng thêm 2cm. Quý III mỗi tháng
tăng thêm 1,5cm. Quý IV mỗi tháng tăng thêm 1cm. Như vậy, đến 1 tuổi chiều cao của trẻ tăng thêm
được 24cm, trẻ cao khoảng 75cm.
- Song song với sự tăng trưởng về thể chất, sự phát triển về tinh thần - vận động cũng nhanh. Ở tuổi
sơ sinh trẻ có một số phản xạ bẩm sinh, sau đó trẻ biết hóng chuyện, mỉm cười. Thời gian thức và chơi
tăng dần. Trẻ có thể đón lấy những vật do người lớn đưa. Lăn từ ngửa sang nghiêng (tháng thứ 3). Dần
dần trẻ phát âm một vài phụ âm, biết lạ quen, có cảm xúc vui mừng, sợ hãi. Những tháng tiếp theo trẻ
biết vẫy tay chào, nói được "ma ma, ba ba", bắt đầu tập đi. Tháng 12, trẻ có thể đi được vài bước (hình



1.3).

a)

b)
Hình 1.3. Các đặc điểm phát triển sinh lý ở tuổi bú mẹ
a) Phát triển ngồi; b) Phát triển bò, đứng.

- Tuy vậy chức năng các bộ phận còn yếu, nhất là chức năng tiêu hóa, cho nên sữa mẹ là thức ăn tốt
nhất và phù hợp nhất cho trẻ trong giai đoạn này. Tình trạng miễn dịch thụ động giảm nhanh, trong khi
đó khả năng tạo globulin miễn dịch còn yếu.
2.3.2. Đặc điểm bệnh lý
- Do mâu thuẫn giữa nhu cầu dinh dưỡng cao, nhưng chức năng bộ máy tiêu hóa còn yếu nên trẻ dễ
bị rối loạn tiêu hóa, ỉa chảy, suy dinh dưỡng.
- Hệ xương phát triển nhanh, nếu không cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng thì trẻ dễ bị thiếu
Vitamin D và hậu quả sẽ bị còi xương.
- Trẻ dưới 6 tháng thường được bảo vệ bởi kháng thể của mẹ như IgG truyền sang cho con qua nhau


thai và IgA qua sữa nên trẻ ít bị mắc các bệnh truyền nhiễm. Sau 6 tháng, miễn dịch đó giảm dần
trong khi miễn dịch của trẻ còn yếu nên dễ bị mắc các bệnh trong diện tiêm chủng mở rộng, viêm phổi
và viêm màng não mủ.
2.3.3. Chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng bệnh
- Phải đảm bảo sữa mẹ đầy đủ cho trẻ.
- Thực hiện chế độ ăn bổ sung đúng phương pháp để phòng ngừa suy dinh dưỡng, còi xương và
thiếu máu.
- Áp dụng loại thức ăn bổ sung theo mô hình ô vuông thức ăn: Sữa mẹ là trung tâm; Nhóm thức ăn
cơ bản gồm ngũ cốc và khoai; Nhóm thức ăn cung cấp prôtêin như thịt, cá, trứng, tôm, đậu; Nhóm cung
cấp vitamin, muối khoáng gồm rau và hoa quả; Nhóm cung cấp năng lượng như dầu, mỡ, bơ, đường.

- Tiêm chủng đầy đủ theo lịch.
- Ngoài vệ sinh thân thể cần chú ý giúp trẻ phát triển về mặt tinh thần vận động.
2.4. Thời kỳ răng sữa
Thời kỳ này bắt đầu từ 1 tuổi đến hết 6 tuổi. Có thể chia thời kỳ này làm hai giai đoạn:
- Giai đoạn nhà trẻ: 1 - 3 tuổi.
- Giai đoạn mẫu giáo: 4 - 6 tuổi.
2.4.1. Đặc điểm sinh lý
 Chức năng các bộ phận hoàn thiện dần.
- Tốc độ tăng trưởng chậm hơn.
- Chức năng vận động phát triển nhanh, hệ cơ phát triển. Từ khi biết đi, trẻ dần dần biết chạy nhảy,
leo trèo, làm được những việc đơn giản tự phục vụ mình như đi giày, rửa tay, rửa mặt... Trẻ có khả năng
phối hợp các động tác khéo léo hơn.
- Trẻ thích tiếp xúc với bạn bè, người lớn; thích tìm hiểu môi trường
xung quanh.
- Trí tuệ phát triển nhanh đặc biệt là ngôn ngữ.
- Công thức tính cân nặng gần đúng của trẻ trên 1 tuổi:

N: Số tuổi của trẻ
- Công thức tính chiều cao gần đúng của trẻ trên 1 tuổi:

N: Số tuổi của trẻ
2.4.2. Đặc điểm bệnh lý


- Do tiếp xúc rộng rãi nên trẻ dễ mắc một số bệnh truyền
nhiễm như cảm cúm, sởi, bạch hầu, ho gà, bại liệt, lao... nếu
không tiêm chủng đầy đủ. Bên cạnh đó, trẻ cũng dễ bị các tai
nạn như ngộ độc, bỏng, điện giật, chấn thương... (hình 1.4).
- Trẻ cũng dễ mắc các bệnh dị ứng như hen, mẩn ngứa,
viêm cầu thận cấp...

2.4.3. Chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng bệnh
* Lứa tuổi nhà trẻ:
- Phải vệ sinh thân thể hằng ngày, rửa tay trước khi ăn.
- Hướng dẫn cho trẻ đi tiêu, đi tiểu đúng chỗ.
- Giáo dục cho trẻ dần dần có ý thức vệ sinh cá nhân và
giữ vệ sinh môi trường chung quanh.
- Sớm cách ly với những trẻ bị bệnh.

Hình 1.4. Trẻ dễ bị điện giật do chưa
phân biệt được các vật dụng nguy hiểm

- Tiêm chủng đúng lịch quy định.
- Không để những đồ dùng bén nhọn, dược phẩm, ổ cắm điện và các vật dụng nguy hiểm khác... vừa
tầm tay của trẻ.
- Cho trẻ tham gia sinh hoạt tập thể.
* Lứa tuổi mẫu giáo:
- Có chế độ dinh dưỡng hằng ngày phù hợp với sự phát triển của trẻ.
- Tiêm chủng nhắc lại theo lịch quy định.
- Cho trẻ tham gia hoạt động vui chơi giải trí ngoài trời.
- Giáo dục cho trẻ tinh thần lễ phép trong gia đình và ngoài xã hội.
- Tránh không cho trẻ tiếp xúc hay chứng kiến những hành vi thiếu đạo đức hay không lành mạnh ở
môi trường xung quanh.
2.5. Thời kỳ thiếu niên
Được tính từ 7 - 15 tuổi.
2.5.1. Đặc điểm sinh lý
- Chức năng các bộ phận đã trưởng thành. Trí tuệ phát triển nhanh, trẻ tiếp thu dễ dàng các kiến
thức, biết suy nghĩ và có thể phán đoán được.
- Hệ thống cơ phát triển nhanh. Vận động khéo léo, biết chơi các môn thể thao, nhảy múa sinh hoạt
tập thể.
- Răng vĩnh viễn thay thế dần cho răng sữa.

- Các đặc điểm giới tính phát triển.
2.5.2. Đặc điểm bệnh lý


- Bệnh lý ở thời kỳ này gần giống như người lớn. Do tiếp xúc nhiều với cộng đồng nên trẻ dễ mắc
các bệnh nhiễm trùng nhưng thường là nhẹ.
- Trẻ dễ bị mắc bệnh thấp tim, đây là bệnh rất nguy hiểm ở lứa tuổi này.
- Trẻ dễ bị viêm amydales.
- Hệ thống xương đang phát triển, các dây chằng cột sống chưa ổn định vững chắc do đó trẻ dễ mắc
các bệnh về tư thế như gù, vẹo cột sống; ngoài ra trẻ cũng dễ bị cận thị và một số tật về mắt.
2.5.3. Chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng bệnh
- Luôn luôn chú ý các trường hợp viêm khớp nhằm phát hiện sớm bệnh thấp tim để dự phòng và
điều trị một cách tích cực.
- Nếu bị thấp tim thì phải thực hiện đúng theo chương trình phòng thấp.
- Chú ý, có tư thế ngồi học thích hợp và ánh sáng đầy đủ tại bàn học cũng như trong lớp học.
2.6. Thời kỳ dậy thì
Giới hạn tuổi ở thời kỳ này có thay đổi tùy theo giới, môi trường sống, nguồn gốc về sắc tộc và hoàn
cảnh kinh tế xã hội. Vì vậy, người ta chia ra như sau:
- Trẻ gái bắt đầu dậy thì lúc 13 - 14 tuổi và kết thúc lúc 17 - 18 tuổi.
- Trẻ trai bắt đầu dậy thì lúc 15 - 16 tuổi và kết thúc lúc 19 - 20 tuổi.
Trẻ em thành phố thường dậy thì sớm hơn trẻ em nông thôn. Trẻ em được nuôi dưỡng đầy đủ dậy thì
sớm hơn trẻ có hoàn cảnh kinh tế khó khăn.
2.6.1. Đặc điểm sinh lý
- Trẻ lớn nhanh và biến đổi nhiều về tâm - sinh lý.
- Hoạt động tuyến nội tiết và sinh dục chiếm ưu thế.
- Chức năng sinh dục đã trưởng thành.
2.6.2. Đặc điểm bệnh lý
- Sự phát triển về tâm thần kinh - nội tiết chưa ổn định nên tính tình thường hay thay đổi, dễ lạc quan
nhưng đồng thời cũng dễ bi quan, thất vọng. Do đó trẻ dễ bị rối loạn tâm thần.
- Trẻ thường suy nghĩ nhiều nhưng không lôgic, không chín chắn nên đôi khi đưa đến những quyết

định táo bạo, những hành vi phạm pháp hoặc những hành động không lường trước được.
- Những bệnh khác tương tự như người lớn.
2.6.3. Chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng bệnh
- Phải giáo dục cho trẻ biết yêu thích và tập luyện thể dục thể thao như bóng đá, bóng chuyền, bơi
lội, cờ tướng, cờ vua, thể dục dụng cụ...
- Giáo dục cho trẻ tham gia hoạt động đoàn thể và công ích xã hội.


- Giáo dục sự trong sáng và lành mạnh trong quan hệ nam, nữ.
- Đặc biệt chú trọng giáo dục các bệnh nguy hiểm do quan hệ tình dục, do nghiện hút ma túy gây
nên...
2.7. Thời kỳ thanh niên
Được tính từ 20 - 39 tuổi.
2.7.1. Đặc điểm sinh lý
- Giai đoạn thanh niên là giai đoạn hoàn tất việc tăng trưởng về mặt sinh lý ở tuổi 20, ngoại trừ phụ
nữ mang thai và cho con bú.
- Phát triển và hoàn thiện về mặt tư duy và ngôn ngữ, về các hành vi tâm lý và xã hội.
- Tình dục: sự phát triển đầy đủ về mặt sinh lý cơ thể giúp thanh niên có một đời sống tình dục hoàn
chỉnh cả về tâm lý và thể chất.
2.7.2. Đặc điểm bệnh lý
- Ít gặp các bệnh lý nghiêm trọng như ở những người lớn tuổi. Tuy nhiên lứa tuổi này thường có
khuynh hướng bỏ qua các triệu chứng thực thể và thường trì hoãn việc điều trị.
- Các nguy cơ về sức khoẻ ở lứa tuổi này bao gồm:
+ Do tiền sử gia đình: có thể đặt thanh niên vào mối nguy cơ phát triển bệnh lý vào thời kỳ trung
niên hay tuổi già. Một thanh niên có bố và ông bị nhồi máu cơ tim thì bản thân thanh niên đó đến thời kỳ
trung niên hoặc tuổi già cũng có nguy cơ bị nhồi máu cơ tim. Sự hiện diện của một bệnh lý mạn tính nào
đó trong gia đình cũng làm tăng nguy cơ bị bệnh của các thành viên trong gia đình.
+ Do thói quen vệ sinh cá nhân: cũng như đối với các nhóm tuổi khác, những thói quen vệ sinh cá
nhân không tốt có thể trở thành những yếu tố nguy cơ gây bệnh như: dùng chung dụng cụ đựng thức ăn
với những người bị bệnh truyền nhiễm; vệ sinh răng miệng kém làm tăng nguy cơ bệnh răng miệng, đặc

biệt là sâu răng và viêm nha chu.
+ Tử vong và chấn thương do bạo lực: bạo lực là nguy cơ tử vong cao nhất trong mô hình bệnh tật
của tuổi thanh niên. Tử vong có thể xảy ra do hành hung, tai nạn giao thông và tự tử. Đói nghèo, bố mẹ
ly hôn, lạm dụng tình dục và bỏ rơi trẻ em, bạo hành gia đình lặp đi lặp lại là những nguy cơ làm gia
tăng tình trạng bạo lực dẫn đến hậu quả là chấn thương và tử vong.
+ Lạm dụng chất gây nghiện: các chất bị lạm dụng có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến tỷ lệ tử
vong và mô hình bệnh tật ở lứa tuổi thanh niên. Thanh niên say rượu là nguyên nhân dẫn đến các tai nạn
giao thông nghiêm trọng dẫn đến tử vong hoặc thương tật vĩnh viễn cho bản thân hay cho người khác.
Chất gây nghiện hay chất kích thích cũng làm tăng nguy cơ lây truyền các bệnh qua đường máu, bệnh lý
thần kinh....
- Quan hệ tình dục sớm và bừa bãi ở lứa tuổi này là nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng các bệnh lây
truyền qua đường tình dục như giang mai, chlamydia, lậu, herpes sinh dục, HIV/AIDS... cũng như có
tình trạng có thai ngoài ý muốn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ và chất lượng cuộc sống, đặc
biệt là cho nữ thanh niên.
- Các yếu tố môi trường và nghề nghiệp: các yếu tố nguy cơ từ môi trường hay nghề nghiệp có thể
gây ra một số bệnh như bệnh phổi và ung thư. Các bệnh phổi như bệnh bụi phổi do silic, bệnh khí phế


thủng do hít phải khói bụi. Các bệnh ung thư gây ra do các yếu tố nghề nghiệp liên quan đến các cơ
quan như phổi, gan, não, máu hoặc da...
2.7.3. Chăm sóc điều dưỡng
Nhìn chung, thời kỳ thanh niên là khoảng thời gian có sức khoẻ tinh thần và thể chất tốt nhất. Vai trò
chính của người điều dưỡng trong việc tăng cường sức khoẻ cho lứa tuổi này là xác định các nguy cơ
bệnh lý và hỗ trợ, cung cấp các giáo dục, tư vấn cần thiết để hạn chế và thay đổi các hành vi không có
lợi cho sức khoẻ.
Các nguy cơ sức khoẻ tiềm ẩn ở tuổi thanh niên chủ yếu liên quan đến lối sống. Các chăm sóc cấp
thời đối với lứa tuổi này thường liên quan đến tai nạn, lạm dụng thuốc kích thích và chất gây nghiện, các
bệnh lý do căng thẳng tâm lý, nhiễm khuẩn hô hấp, viêm dạ dày... Sự bó buộc và phụ thuộc vào các chế
độ điều trị cũng là một yếu tố có thể gây sang chấn tâm lý (stress) cho những người trẻ tuổi. Người điều
dưỡng cần phải nhận định một cách tỉ mỉ và toàn diện về hành vi sức khoẻ, tiền sử bị lạm dụng và hậu

quả, trình độ học vấn, nghề nghiệp, các hệ thống hỗ trợ và phúc lợi xã hội, phát hiện các yếu tố nguy cơ
bạo lực và luôn phải xem xét trên bình diện từng cá thể. Cần phải lưu ý đến các yếu tố về đạo đức, giới
và giai cấp có ảnh hưởng xã hội và tâm lý lên đời sống của thanh niên.
Các bệnh lý mạn tính ít xảy ra ở những người trẻ tuổi nhưng không phải là không thể xảy ra. Tăng
huyết áp, bệnh mạch vành hoặc đái đường có thể khởi phát khi bệnh nhân còn trẻ mà bệnh nhân không
phát hiện được cho đến lúc lớn tuổi. Các bệnh lý này có thể ảnh hưởng đến sự hoàn thành các quá trình
phát triển quan trọng ở thời kỳ trưởng thành và có thể gây tàn phế cho bệnh nhân. Đây cũng là nguyên
nhân dẫn đến sự thay đổi về mục tiêu sống cá nhân, gia đình và nghề nghiệp. Can thiệp điều dưỡng là
phải giúp bệnh nhân đối mặt với thực trạng của bệnh tật, tư vấn cho bệnh nhân các nghề nghiệp, hành vi
phù hợp với sức khoẻ hiện tại.
- Cần giáo dục sức khoẻ cho lứa tuổi thanh niên về:
+ Tác hại của việc lạm dụng các chất kích thích và gây nghiện, các biện pháp cai nghiện.
+ Tầm quan trọng của thể thao đối với sức khoẻ. Hướng dẫn và tư vấn cho bệnh nhân những môn
thể thao hay các bài tập thể dục phù hợp.
+ Kiến thức về sức khoẻ sinh sản, các biện pháp thực hiện an toàn tình dục.
+ Các biện pháp phòng chống stress trong công việc, gia đình và cuộc sống.
+ Nhận thức được tầm quan trọng của các kỹ thuật và cách kết hợp các test sàng lọc thường quy, các
hoạt động tự kiểm tra vào hoạt động hằng ngày.
2.8. Thời kỳ trung niên
Thường được bắt đầu tính từ sau 40 tuổi.
2.8.1. Đặc điểm sinh lý
Các thay đổi chính về sinh lý xảy ra ở lứa tuổi 40 - 60. Thay đổi bề ngoài có thể dễ nhìn thấy nhất là
tóc bạc dần, da có nếp nhăn và tăng vòng eo. Thính lực và thị lực bắt đầu giảm. Chức năng nhận thức
của người ở tuổi trung niên hiếm khi thay đổi trừ khi bị bệnh hay chấn thương. Ở lứa tuổi này vẫn có thể
học các kỹ năng và thông tin mới.
Thay đổi lớn nhất trong thời kỳ này là mãn kinh ở phụ nữ và suy giảm khả năng tình dục ở nam.
Kinh nguyệt và quá trình rụng trứng theo chu kỳ ở phụ nữ có từ thời kỳ thanh niên đến trung niên.


Mãn kinh là sự phá vỡ chu kỳ này, thường do hệ thống hormone thần kinh mất khả năng hoạt động

để duy trì các ảnh hưởng có tính giai đoạn của nó lên hệ nội tiết. Buồng trứng không còn khả năng sản
xuất oestrogen, progesteron, và nồng độ các chất này trong máu giảm đáng kể.
Mãn kinh thường xuất hiện vào tuổi 45 - 60. Khoảng 10% phụ nữ không có các triệu chứng mãn
kinh nào khác ngoài việc ngừng kinh nguyệt; 70 - 80% ý thức được có sự thay đổi nhưng không ảnh
hưởng lớn đến sức khoẻ; khoảng 10% có những thay đổi khá nghiêm trọng gây trở ngại đến hoạt động
hằng ngày.
Suy giảm khả năng tình dục xảy ra ở nam giới trong độ tuổi cuối 40 đến 50 tuổi. Nguyên nhân là do
giảm nồng độ androgen. Trong giai đoạn này và thời gian sau đó, nam giới vẫn có khả năng sản xuất
tinh trùng và làm bố. Tuy nhiên, sự cương cứng của dương vật giảm, xuất tinh không thường xuyên, ảnh
hưởng đến chất lượng sinh hoạt tình dục.
Tình dục và các mối quan hệ tình dục có sự thay đổi trong giai đoạn trung niên. Đối với một số
người, việc chỉ có một bạn tình dẫn đến tăng thỏa mãn về tình dục. Đối với một số người khác, các mối
quan hệ với bạn tình mới được tạo lập. Ảnh hưởng về vấn đề tình dục ở lứa tuổi này còn chịu ảnh hưởng
của các thay đổi về sinh lý của cơ thể.
Thời kỳ mãn kinh ở phụ nữ và thời kỳ suy giảm chức năng tình dục ở đàn ông có nhiều ảnh hưởng
đến sức khoẻ tình dục của cả hai giới. Ngoài ra những căng thẳng trong công việc, hạn chế về sức khoẻ
của một trong hai người, việc dùng thuốc như hạ huyết áp có những tác dụng phụ ảnh hưởng đến mong
muốn và chức năng tình dục.
2.8.2. Đặc điểm bệnh lý
- Các bệnh lý cấp tính và các điều kiện mắc phải ở tuổi trung niên cũng tương tự như ở tuổi thanh
niên. Chấn thương và các bệnh lý cấp tính ở tuổi trung niên cần thời gian hồi phục dài hơn bởi sự chậm
lại của các quá trình hồi phục. Cũng như vậy, các bệnh lý cấp tính và chấn thương trong thời kỳ trung
niên có thể trở thành các bệnh lý mạn tính. Do lứa tuổi trung niên này thuộc thế hệ ở giữa (sandwich
generation) các mức độ stress có thể tăng lên khi họ cố gắng cân bằng giữa trách nhiệm về công việc,
cuộc sống gia đình, chăm sóc con cái, chăm sóc bố mẹ già; hoặc trong giai đoạn hồi phục sức khoẻ sau
các chấn thương hoặc bệnh lý cấp tính.
- Các bệnh lý mạn tính như đái đường, tăng huyết áp, thấp khớp, các bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính,
hoặc bệnh xơ cứng lan toả có thể ảnh hưởng đến vai trò và trách nhiệm của người ở tuổi trung niên.
Căng thẳng trong quan hệ gia đình, thay đổi trong hoạt động của gia đình, sự gia tăng các nhiệm vụ
chăm sóc sức khoẻ, tăng stress về mặt tài chính, nhu cầu về thay đổi nhà ở cho phù hợp, cô lập xã hội,

các mối quan tâm về y tế và sự đau buồn có thể có do các bệnh mạn tính. Các mức độ tàn phế và nhận
thức của bệnh nhân về bệnh tật và tàn phế quyết định phạm vi ảnh hưởng đến cuộc sống.
- Các thay đổi về tâm lý hay các stress liên quan đến việc thay đổi chỗ làm ngoài ý muốn, thay đổi
tình trạng hôn nhân (ly hôn, tái hôn, sống độc thân...), các thay đổi trong gia đình như con cái ra ở riêng
là những stress tâm lý cần phải thích ứng.
- Trầm cảm: mặc dù tuổi thường mắc trầm cảm là 25 - 44 tuổi nhưng bệnh lý này cũng phổ biến ở
tuổi trung niên, tỷ lệ mắc bệnh ở nữ giới gấp đôi nam giới (Haber và cộng sự  1997). Các nguyên nhân
gồm có: thất vọng hay mất mát trong công việc hoặc trong các mối quan hệ gia đình; hụt hẫng và trống
vắng do con cái tách riêng, tiền sử gia đình. Những bệnh nhân trầm cảm nhẹ có các triệu chứng như cảm
thấy buồn, chán nản, thất vọng, suy sụp và đầy nước mắt. Các triệu chứng khác có thể gặp là thay đổi về
giấc ngủ như khó ngủ (insomnia) hoặc ngủ nhiều (hypersomnia), cáu gắt, mất cảm giác quan tâm đến
môi trường xung quanh, giảm chú ý. Các thay đổi về mặt sinh lý như giảm cân, tăng cân, đau đầu, hoặc
cảm giác mệt không liên quan đến bệnh lý hay công việc có thể là những triệu chứng của bệnh trầm
cảm.


Thay đổi trạng thái tinh thần và trầm cảm là những hiện tượng phổ biến trong thời kỳ mãn kinh. Lạm
dụng rượu và các chất gây nghiện khác có thể làm trầm cảm nặng thêm.
2.8.3. Chăm sóc điều dưỡng
Người điều dưỡng phải nhận định các thay đổi chính trong cuộc sống có ảnh hưởng đến tình trạng
sức khoẻ của bệnh nhân. Các yếu tố tâm lý của cá nhân như khả năng đương đầu với bệnh tật và khó
khăn, các nguồn hỗ trợ và phúc lợi xã hội. Đi cùng với tình trạng sức khoẻ hiện tại của bệnh lý mạn tính
ở tuổi trung niên, người điều dưỡng phải nhận định được thông tin sức khoẻ cơ bản dựa trên cả bệnh
nhân và gia đình họ. Cần có sự kết hợp giữa phương pháp điều trị và chăm sóc, phục hồi chức năng, các
dịch vụ xã hội và cộng đồng để đưa ra biện pháp tối ưu cho bệnh nhân.
Trong quá trình đánh giá, người điều dưỡng thường phải thu thập được dữ liệu về các hành vi có lợi
hay bất lợi cho sức khoẻ từ bệnh nhân. Các ví dụ về hành vi có lợi cho sức khoẻ như tập thể dục đều
đặn, tôn trọng triệt để các thói quen tốt về ăn uống, tránh dùng quá mức các loại thức uống có cồn, tham
gia các cuộc kiểm tra sàng lọc thường quy và các test chẩn đoán cho việc dự phòng và nâng cao sức
khoẻ, các thay đổi về lối sống để làm giảm stress. Trong bước lập kế hoạch, thực hiện và lượng giá kế

hoạch, người điều dưỡng phải giúp cho bệnh nhân duy trì các thói quen có lợi cho sức khoẻ và cung cấp
các thay đổi có lợi cho việc nâng cao sức khoẻ trong cuộc sống hằng ngày.
Nhận định điều dưỡng về trầm cảm trung niên cần phải tập trung vào các dữ liệu liên quan đến tiền
sử cá nhân và gia đình về trầm cảm, thay đổi trạng thái tinh thần, nhận thức, hành vi và quan hệ xã hội,
cả về mặt sinh lý. Cần thu thập thông tin của bản thân và cả gia đình bệnh nhân.
Xây dựng các chương trình chăm sóc sức khoẻ cộng đồng dành cho lứa tuổi trung niên với mục tiêu
chống lại bệnh tật, tăng cường sức khoẻ và phát hiện các bệnh lý ở giai đoạn sớm. Người điều dưỡng
cộng đồng cần tích cực và năng động trong việc thực hiện chương trình sàng lọc và giáo dục sức khoẻ
cho cộng đồng cũng như hỗ trợ để cộng đồng phát triển tính chủ động của chính mình. Liên kết với các
dịch vụ chăm sóc sức khoẻ khác, các tổ chức trong cộng đồng và các doanh nghiệp là vai trò không thể
thiếu của người điều dưỡng cộng đồng.
Nâng cao sức khoẻ ở tuổi trung niên đòi hỏi phải có chế độ nghỉ ngơi hợp lý, bổ sung các hoạt động
thư giãn, tập thể dục thường xuyên, đảm bảo chế độ dinh dưỡng đầy đủ, phù hợp, giảm hoặc bỏ thuốc lá
và đồ uống có cồn, thường xuyên kiểm tra sức khoẻ. Cần lưu ý đến môi trường xã hội và các mối quan
hệ giao tiếp như quan hệ với bố mẹ, con cái, đồng nghiệp...
Các biện pháp nâng cao sức khoẻ:
- Kiến thức về stress và các biện pháp làm giảm stress.
- Tạo các thói quen tốt cho sức khoẻ: tập thể dục, đánh răng mỗi ngày.
- Giáo dục và tư vấn về sức khoẻ: hướng dẫn để cải thiện các thói quen không có lợi cho sức khoẻ.
Người điều dưỡng càng hiểu biết sâu sắc về động lực của hành vi và thói quen thì các can thiệp về điều
dưỡng sẽ càng giúp cho bệnh nhân đạt đến hoặc duy trì được các thói quen tốt, giúp nâng cao sức khoẻ.
Để giúp bệnh nhân thiết lập, duy trì được các thói quen tốt, người điều dưỡng không những phải trở
thành một giáo viên mà còn phải là một hướng dẫn viên. Người điều dưỡng phải biết lắng nghe để tìm
hiểu các mối quan tâm của bệnh nhân, những điều mà họ thích hoặc không thích, thảo luận các biện
pháp can thiệp về sức khỏe và các kết quả có thể đạt được. Cần phải ghi nhớ rằng, chỉ có bệnh nhân là
người có khả năng thay đổi hành vi và kết hợp các thói quen mới hoặc các hành động mới vào trong
cuộc sống hằng ngày.
Ví dụ: Hướng dẫn cho bệnh nhân về các thói quen tập thể dục để tăng cường sức khoẻ.



- Mục tiêu: Bệnh nhân tập thể dục với hình thức đi bộ hằng tuần để giảm cân và tăng cường chức
năng hô hấp tuần hoàn.
- Các chiến lược giảng dạy:
+ Ôn lại cho bệnh nhân thời gian biểu hoạt động hằng ngày và xác định thời gian có thể tập thể dục.
+ Thông báo cho bệnh nhân về hiệu quả của tập thể dục trong việc kiểm soát cân nặng và tăng
cường chức năng tuần hoàn.
+ Kiến tập cho bệnh nhân cách xác định nhịp tim chuẩn và cách đếm mạch chính xác.
+ Cung cấp các bài tập khởi động, thư giãn và kiến tập cách thực hiện.
+ Hướng dẫn cho bệnh nhân sử dụng các loại giày hỗ trợ đi bộ.
- Lượng giá:
+ Để bệnh nhân ghi nhật ký hằng ngày về thời gian tập thể dục.
+ Để bệnh nhân trình diễn lại cách đếm mạch.
+ Để bệnh nhân trình diễn lại các bài tập khởi động và thư giãn.
+ Xem xét chân bệnh nhân để xem có chỗ đau hoặc phồng rộp nào không?
+ Các trở ngại về vấn đề thay đổi hành vi?
+ Các trở ngại từ bên ngoài? (Định kiến xã hội về các hoạt động sức khoẻ, nguồn lực cộng đồng bao
gồm không gian xanh và môi trường an toàn, thiếu sự hỗ trợ của xã hội, thiếu các nguồn nguyên liệu).
+ Các trở ngại của bản thân: Mâu thuẫn về các vấn đề ưu tiên và mục tiêu, động lực, thiếu kiến thức
và kỹ năng, các mối quan tâm thuộc tâm lý học...
2.9. Tuổi già
2.9.1. Các đặc điểm sinh lý
Có các thay đổi bình thường của lứa tuổi.
2.9.1.1. Da
- Màu sắc da: lốm đốm ở những vùng phơi ra ánh sáng, xanh xao ở những vùng thiếu máu.
- Độ ẩm: khô, có vảy.
- Nhiệt độ: giảm ở các đầu chi; giảm tiết mồ hôi.
- Bề mặt: giảm tính đàn hồi, có nếp nhăn, lõm, gấp.
- Mô mỡ: giảm ở các đầu chi, tăng ở bụng.
- Lông, tóc: tóc mỏng, bạc; rụng lông ở nách và xương mu, các chi; rụng lông, râu ở mặt đàn ông; ở
cằm và môi trên phụ nữ.

- Móng: giảm tốc độ phát triển.
2.9.1.2. Đầu và cổ


- Mất lông mày ở phụ nữ, lông mày rậm ở đàn ông.
- Mắt giảm thị lực, giảm nhạy cảm với bóng đêm, nhưng nhạy cảm với ánh sáng loá.
- Tai giảm phân biệt âm sắc, hạn chế nhẹ phản xạ, giảm độ nhạy của nghe.
- Mũi và các xoang: tăng lông mũi; giảm khứu giác.
- Miệng và hầu họng: giảm vị giác, phì đại các nhú lưỡi.
- Cổ: có thể có u nhỏ tuyến giáp, lệch nhẹ khí quản do phì đại cơ.
2.9.1.3. Ngực và phổi
Tăng đường kính trước sau, tăng nhịp thở, giảm độ giãn nở phổi, tăng sự cản trở hô hấp.
2.9.1.4. Tim mạch
Tăng đáng kể huyết áp tâm thu, tăng nhẹ huyết áp tâm trương, thay đổi đáng kể nhịp tim khi nghỉ
ngơi, thường có tiếng thổi tâm thu, dễ dàng bắt mạch ngoại biên, mạch chi dưới yếu hơn và chậm hơn,
đặc biệt là ban đêm.
2.9.1.5. Vú
Giảm mô vú, vú xệ và nhẽo.
2.9.1.6. Hệ tiêu hoá
Giảm tiết nước bọt, làm nuốt khó khăn hơn, giảm nhu động ruột, giảm sản xuất các men tiêu hoá:
HCl, pepsin và men tuỵ, dễ táo bón.
2.9.1.7. Hệ sinh dục
- Phụ nữ: Giảm oestrogen, giảm kích thước tử cung, giảm tiết, tăng sinh niêm mạc âm đạo.
- Đàn ông: Giảm testosteron, giảm số lượng tinh trùng, giảm kích thước tinh hoàn.
2.9.1.8. Hệ tiết niệu
Giảm chức năng lọc cầu thận và giảm chức năng thận, mất prôtêin qua đường tiểu, hay đi tiểu đêm,
giảm khả năng chứa của bàng quang, tăng tình trạng tiểu không tự chủ.
2.9.1.9. Hệ cơ xương khớp
Giảm khối lượng và độ rắn chắc của cơ, loãng xương (thường ở phụ nữ), hẹp khe khớp, giảm vận
động khớp, giảm biên độ khớp, tăng cường các chỗ xương lồi.

2.9.1.10. Hệ thần kinh
Giảm các phản xạ tự động và không điều kiện, giảm khả năng đáp ứng với các đa kích thích, ngủ ít
hoặc mất ngủ.


2.9.2. Đặc điểm bệnh lý
Có rất nhiều yếu tố góp phần vào việc giảm sức khoẻ theo năm tháng của những người lớn tuổi và
những yếu tố này cần được tính đến trong nhận định của điều dưỡng. Hút thuốc lá là nguy cơ lớn nhất
cho bệnh lý ở người lớn tuổi, tiếp theo là tăng huyết áp; Các nguy cơ khác bao gồm: uống rượu nhiều, ít
hoạt động, tăng cholesterol máu, ăn không đủ chất rau và trái cây...
Điều quan trọng là các yếu tố nguy cơ này không nhất thiết là nguyên nhân gây bệnh, nhưng chúng
có thể đặt một cá nhân vào nguy cơ có bệnh. Các yếu tố nguy cơ thường cùng tồn tại, vì thế không có gì
bất thường khi nhận định của điều dưỡng có liên quan đến nhiều yếu tố nguy cơ. Tuy nhiên, ở mọi lứa
tuổi có thể tăng cường sức khoẻ thông qua việc xử trí phù hợp các yếu tố nguy cơ cùng với sự phòng
bệnh sớm.
- Trọng lượng cơ thể: Những người thừa cân có nguy cơ tử vong và bệnh tật cao hơn nếu bị đái
đường týp 2, bệnh mạch vành, bệnh đường hô hấp, một số loại ung thư, bệnh lý bàng quang, loãng
xương, và các tai biến thiếu máu. Nhìn chung, tỷ lệ thừa cân ở người lớn tuổi cao hơn ở những người
trẻ. Giảm cân ở những người thừa cân làm giảm tỷ lệ và tính nghiêm trọng của bệnh tăng huyết áp, tăng
cholesterol máu, đái đường, loãng xương và một số loại ung thư khác.
- Tăng cholesterol máu: là yếu tố nguy cơ chính của bệnh mạch vành và một số các tai biến khác.
Các axít béo no trong chế độ ăn là yếu tố chính của việc tăng cholesterol máu.
- Tăng huyết áp: là nguyên nhân chính gây ra bệnh mạch vành, tai biến mạch máu não, suy tim, các
bệnh mạch máu ngoại biên, suy thận. Tỷ lệ tăng huyết áp thường gặp ở những người lớn tuổi. Theo
nghiên cứu của Viện Sức khoẻ và Trợ cấp Xã hội Úc (2002), trên 75% những người trên 75 tuổi bị tăng
huyết áp. Nguy cơ này cao hơn đối với những người không chịu vận động cơ thể, thừa cân hoặc có chế
độ ăn mặn.
- Giảm dung nạp glucose máu: thường gặp ở những người thừa cân, ít vận động cơ thể, phổ biến ở
những người lớn tuổi. Khi tuổi lớn, các tế bào tuỵ sản xuất insulin- hormone chuyển hoá glucose của cơ
thể thành năng lượng trở nên giảm hiệu quả. Một khi kèm theo với việc lười vận động sẽ đưa đến tăng tỷ

lệ đường máu (đái đường týp 2) ở những người lớn tuổi. Giảm dung nạp glucose cũng là yếu tố nguy cơ
của bệnh mạch vành.
- Hút thuốc lá: Đây là nguy cơ lớn nhất cho các loại bệnh. Hút thuốc lá tăng nguy cơ bị ung thư phổi,
bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, thiếu máu cơ tim và các bệnh lý khác. Các nhà khoa học đã chứng minh
rằng việc bỏ thuốc đem lại lợi ích cho mọi lứa tuổi.
- Tiêu thụ các chất có cồn: việc uống nhiều chất có cồn trong một thời gian dài liên quan đến các
bệnh gan, viêm tuỵ, đái đường, động kinh, và một số bệnh ung thư. Sự dung nạp của cơ thể đối với các
loại đồ uống có cồn giảm dần theo tuổi. Tuy nhiên có bằng chứng cho thấy với lượng thấp hoặc trung
bình, các loại đồ uống có cồn có thể giúp cho việc chống lại các bệnh tăng huyết áp, thiếu máu...
- Ít hoặc không vận động cơ thể: là yếu tố nguy cơ độc lập của bệnh lý tim mạch và cũng có liên
quan đến các yếu tố nguy cơ khác như tăng huyết áp, tăng cholesterol máu và thừa cân. Việc tăng cường
các hoạt động luyện tập cơ thể ở những người lớn tuổi có thể đem lại ích lợi cho việc tăng cường sức
khoẻ về cơ xương khớp, sức khoẻ tinh thần. Các hoạt động cơ thể còn giúp việc phòng và điều trị đái
đường týp 2, đặc biệt là những người đã có nguy cơ.
2.9.3. Chăm sóc điều dưỡng
Đánh giá về sức khoẻ và sự khoẻ mạnh là một quá trình phức tạp. Các khuynh hướng về sinh lý và
tâm lý của tuổi tác có mối liên quan chặt chẽ với nhau. Đối với những người lớn tuổi, giảm khả năng đối
phó với những stress, đã trải qua nhiều mất mát và kèm theo các thay đổi sinh lý của tuổi tác có thể kết


hợp tạo nên những nguy cơ cao về bệnh tật và suy giảm chức năng. Mặc dù những phản ứng về mặt
sinh lý và tâm lý có thể nghiêm trọng, người điều dưỡng không nên cho rằng tất cả những người lớn tuổi
đều có dấu hiệu, triệu chứng hoặc hành vi chứng tỏ có sự hiện diện của bệnh tật và suy sụp. Tuổi tác
không phải lúc nào cũng dẫn đến bệnh tật và tàn phế, hơn thế nữa, tuổi tác làm giảm các dự trữ về mặt
sinh lý của cơ thể. Sức khoẻ tổng quát của người lớn tuổi là kết quả của:
- Phản ứng của các ảnh hưởng tuổi tác.
- Các quá trình bệnh tật.
- Sự phơi nhiễm có hại cho sức khỏe của con người trong cuộc sống như là thuốc lá, rượu (Fonda và
Gee, 2001).
Sức mạnh và khả năng của những người trưởng thành cũng phải được xác định trong quá trình nhận

định của điều dưỡng. Bằng các ưu điểm của việc sống lâu và sống sót trong cuộc sống cho thấy các bệnh
nhân lớn tuổi đã phát triển các cơ chế thích nghi và đương đầu với bệnh tật. Giảm các chức năng sinh lý,
tăng tỷ lệ mắc bệnh, đặc biệt ở những người già, là do sự suy giảm các khả năng phản ứng với stress.
Nguyên nhân do thiếu hụt các chất giúp cho quá trình thích nghi cũng như các phản ứng có ảnh hưởng
lớn nhất lên chức năng của hệ nội tiết - thần kinh.
Tuổi tác không phải là một bệnh. Tuy nhiên, phản ứng giữa sự khoẻ mạnh theo tuổi tác và bệnh lý là
rất phức tạp. Chúng ta vẫn chưa hiểu hết những gì gọi là "bình thường" ở người lớn tuổi. Nhiều chuyên
gia tin rằng, nên xem xét và điều trị bệnh nhân trong độ tuổi này theo từng cá nhân để bù đắp cho sự
thiếu hụt về các tiêu chuẩn định nghĩa chuẩn và các giá trị cho một khoảng tuổi quá rộng. Sự khác biệt
giữa bình thường và bệnh lý ở những người lớn tuổi là một thách thức trong công việc của các bác sĩ và
người điều dưỡng. Người điều dưỡng nên so sánh tình trạng sức khoẻ và chức năng của bệnh nhân trong
quá khứ và hiện tại để quyết định kế hoạch chăm sóc sức khoẻ toàn thể.
Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh lý có thể không có, bị thay đổi hoặc không điển hình ở những
người lớn tuổi (Lueckenote, 1996) và có thể rất khác so với những dấu hiệu thường gặp ở các lứa tuổi
khác (Whitehead và Finucane, 1995). Một người lớn tuổi bị viêm phổi có thể có nhịp chậm, khó thở
chậm, và lú lẫn thay vì sốt và ho có đờm, là những triệu chứng vốn được xem là phổ biến. Thay vì đau
ngực ở phần dưới xương ức và toát mồ hôi, người lớn tuổi bị nhồi máu cơ tim có thể hoàn toàn không
đau, hoặc chỉ khó chịu vùng thượng vị, kích thích, hạ huyết áp, lú lẫn. Một người lớn tuổi bị nhiễm trùng
đường tiết niệu có thể có triệu chứng lú lẫn, chán ăn, dễ bị ngã và đái không tự chủ, thay vì sốt, bí tiểu
thường xuyên hay cấp tính (Brown, 2002).
Đạt được nhận định toàn diện và sâu sắc về người lớn tuổi mất nhiều thời gian hơn so với những
người trẻ tuổi bởi vì tuổi lớn hơn và bệnh sử phức tạp hơn. Trong quá trình lập kế hoạch nên dành thêm
thời gian cho phần lượng giá. Trong suốt quá trình lượng giá, người điều dưỡng khi cần thiết phải dành
thời gian nghỉ ngơi hoặc cần phải xây dựng quá trình lượng giá theo nhiều giai đoạn để đỡ tốn năng
lượng và giới hạn việc chịu đựng của các bệnh nhân già, yếu.
Các thay đổi về giác quan có thể ảnh hưởng đến việc thu thập số liệu. Sử dụng kỹ năng giao tiếp có
thể bị ảnh hưởng bởi các suy giảm và hư hỏng về chức năng nghe, nhìn ở người lớn tuổi. Ví dụ, nếu
bệnh nhân lớn tuổi khó khăn trong khi nghe các câu hỏi của người điều dưỡng sẽ dẫn đến những câu trả
lời không chính xác làm cho người điều dưỡng hiểu nhầm là bệnh nhân bị lú lẫn.
Bảng 1.1. Các kỹ năng nhận định khi người lớn tuổi gặp các vấn đề về giác quan

Các thay đổi
về giác quan
Rối loạn thị lực

Các kỹ năng nhận định
 Phải chọn vị trí trong tầm nhìn bao quát của bệnh nhân.


 Chọn nơi có đầy đủ ánh sáng, tránh bị loá mắt.
 Phải chắc chắn bệnh nhân đang đeo kính, kính có chất lượng tốt.
 Đối mặt với bệnh nhân khi nói, hoặc đặt câu hỏi, không được che miệng.
Không nghe rõ

Nói trực tiếp, rõ ràng, tốc độ vừa phải, giọng trầm; không che miệng; phát
âm các phụ âm rõ ràng, nói lại nếu bệnh nhân không hiểu được câu hỏi;
nói ở phía tai nghe tốt của bệnh nhân, giảm các tiếng ồn xung quanh, bảo
đảm bệnh nhân mang các dụng cụ trợ thính và các dụng cụ này làm việc
chính xác.

Các suy giảm về trí nhớ có thể ảnh hưởng đến tính chính xác và hoàn chỉnh của các thông tin thu
được. Các thông tin do gia đình hoặc những người chăm sóc cung cấp rất cần thiết để bổ sung cho việc
thu thập các thông tin về bệnh sử, tiền sử của bệnh nhân (tiền sử dị ứng, miễn dịch...). Cần phải bảo đảm
sự tế nhị và kín đáo khi phỏng vấn.
Các can thiệp hỗ trợ sức khoẻ tâm lý của người lớn tuổi cũng có sự tương đồng với các nhóm khác.
Tuy nhiên, một số can thiệp chủ yếu đặc thù cho những người lớn tuổi bị cô lập về mặt xã hội suy giảm
nhận thức; hoặc các stress liên quan đến tình trạng hưu trí, thay đổi chỗ ở hoặc đang đối mặt với cái
chết. Những can thiệp này bao gồm liệu pháp giao tiếp, tiếp xúc, định hướng thực tế, liệu pháp về giá trị,
hồi tưởng và can thiệp để cải thiện hình ảnh của cơ thể.
Liệu pháp giao tiếp: người điều dưỡng phải nhận thức và tôn trọng tính cá nhân và duy nhất của
bệnh nhân. Người điều dưỡng không thể đơn giản đi vào thế giới của người già và ngay lập tức thiết lập

các mối quan hệ vì mục đích điều trị, mà cần phải có hiểu biết và kỹ năng trong khi giao tiếp với bệnh
nhân. Nếu giao tiếp có hiệu quả, điều dưỡng sẽ được chấp nhận như là người có thể chia sẻ những mối
quan tâm của bệnh nhân.
Tiếp xúc trực tiếp: trong cuộc sống, các tiếp xúc dịu dàng, thân thiện có sức ảnh hưởng rất lớn. Một
cái nắm tay mạnh mẽ có thể đem lại cảm giác an toàn. Những người già bị cô lập, bị bỏ rơi, hoặc cảm
thấy bị phụ thuộc do bệnh tật, sợ chết, hoặc thiếu sự tự tin thường cần sự vỗ về. Người điều dưỡng phải
nhận diện được nhu cầu an ủi vỗ về của bệnh nhân lớn tuổi, những bệnh nhân này có thể biểu hiện bằng
cách tiến đến cầm tay điều dưỡng viên. Sự vỗ về phải có tính tôn trọng và nhạy cảm, không nên thực
hiện các hành động theo kiểu vỗ nhẹ lên đầu bệnh nhân. Đây là một công cụ điều trị mà người điều
dưỡng sử dụng để làm cho bệnh nhân thoải mái, thư giãn, định hướng bệnh nhân về với thực tế và sự
quan tâm đến giao tiếp.
Các định hướng thực tế cho bệnh nhân: là một kỹ năng giao tiếp dùng để giúp bệnh nhân nhận thức
về thời gian, nơi chốn và con người. Mục tiêu của việc này là khôi phục các cảm giác về thực tế, tăng
cường khả năng nhận thức, tăng cường tính hoà nhập xã hội, tăng sự độc lập, hạn chế lú lẫn, mất định
hướng và thoái hoá cơ thể.
Mặc dù người điều dưỡng có thể sử dụng kỹ năng định hướng thực tế cho bệnh nhân ở bất kỳ hình
thức chăm sóc điều dưỡng nào, nhưng tốt nhất là trong các trường hợp cấp cứu. Các bệnh nhân lớn tuổi
trải qua các thay đổi của môi trường, phẫu thuật, bệnh tật hoặc các stress về tình cảm có nguy cơ bị mất
định hướng. Thay đổi về môi trường, như quá sáng, tiếng ồn lạ, thiếu cửa sổ ở những đơn vị điều trị đặc
biệt của bệnh viện, sự vắng mặt của các điều dưỡng viên quen thuộc thường dẫn đến việc mất định
hướng và lú lẫn. Khi sử dụng các thuốc gây mê, an thần, giảm đau, các thuốc ức chế sinh lý, có khả năng
tăng sự mất định hướng. Quan trọng là phải theo dõi sự mất định hướng và lú lẫn như là những hậu quả
có thể xảy ra của việc nhập viện, chuyển chỗ, phẫu thuật, mất mát hoặc bệnh tật, để kết hợp các can
thiệp dựa trên việc định hướng thực tế cho bệnh nhân vào kế hoạch chăm sóc.
Then chốt của liệu pháp này là phải thường xuyên nhắc bệnh nhân về thời gian, nơi chốn và con
người; sử dụng các dụng cụ hỗ trợ như đồng hồ, lịch, các nhân viên. Giao tiếp luôn luôn phải có tính tôn


trọng, kiên nhẫn và bình tĩnh. Trả lời các câu hỏi của bệnh nhân một cách đơn giản và trung thực với
một thái độ chu đáo và nhạy cảm.

Hồi tưởng: là biện pháp tái hiện quá khứ. Nhiều bệnh nhân lớn tuổi cảm thấy vui khi được chia sẻ
các kinh nghiệm trong quá khứ. Với vai trò là một liệu pháp điều trị, hồi tưởng sử dụng sự tái hiện quá
khứ để hiểu hiện tại và giải quyết các mâu thuẫn hiện tại. Việc hồi tưởng giúp bệnh nhân nhớ lại các
thành công khi đương đầu với khó khăn và bệnh tật trong quá khứ, giúp họ có các giải pháp có lợi cho
hiện tại.
Đây cũng là một hình thức biểu lộ tính đặc thù cá nhân. Phản ánh các thành công trong quá khứ giúp
cho việc nâng cao lòng tự trọng của bệnh nhân. Trong quá trình nhận định, người điều dưỡng dùng hồi
tưởng để đánh giá sự tự trọng của bệnh nhân, chức năng nhận thức, trạng thái tình cảm, các mâu thuẫn
không được giải quyết, khả năng đương đầu với các thử thách, và mong muốn về tương lai. Việc hồi
tưởng xảy ra trong các hoạt động chăm sóc trực tiếp. Bỏ thời gian để hỏi về các kinh nghiệm quá khứ và
lắng nghe một cách chú ý, chuyển tải sự chân thành và tôn trọng bệnh nhân của người điều dưỡng.
Mặc dù hồi tưởng được sử dụng phổ biến trong quan hệ một đối một giữa điều dưỡng viên và bệnh
nhân, hồi tưởng cũng có thể được sử dụng trong liệu pháp điều trị nhóm bị suy giảm nhận thức hoặc
trầm cảm. Người điều dưỡng tổ chức nhóm và lựa chọn các giải pháp. Quy mô, cấu trúc, quá trình, mục
tiêu và hoạt động phải phù hợp với nhu cầu của từng cá nhân.
Các can thiệp cải thiện hình ảnh cơ thể: cách mà các người lớn tuổi giới thiệu bản thân họ là có tác
động đáng kể của thể hình và cảm giác bị cô lập. Một số tính chất của tuổi già như tóc bạc, nếp nhăn,
chứng tỏ sự làm việc chăm chỉ. Tuy nhiên, xã hội thường nhìn nhận những người già như những người
không có năng lực, béo phì. Ngoài ra bệnh tật, các xét nghiệm chẩn đoán, điều trị cũng góp phần làm
thay đổi hình ảnh cơ thể bệnh nhân. Người điều dưỡng với việc chuẩn bị và vệ sinh phải giúp cho việc
giữ gìn vẻ bề ngoài cho bệnh nhân.

LƯỢNG GIÁ
1. Câu hỏi đúng/sai:
STT

Nội dung

1


Giai đoạn phát triển phôi thai được giới hạn trong 3 tháng đầu của
thai kỳ.

2

Trong mô hình ô vuông thức ăn, sữa mẹ luôn ở vị trí trung tâm.

3

Trẻ dưới 6 tháng thường được bảo vệ bởi kháng thể như IgA của
mẹ truyền sang cho con qua nhau thai và IgG qua sữa.

Đúng/Sai

2. Các biện pháp nâng cao sức khỏe ở tuổi trung niên bao gồm:
- ..........................................................................................................
- ..........................................................................................................
- Giáo dục và tư vấn về sức khoẻ.
3. Câu nào sau đây là sai:
A. Nếu không cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng thì trẻ dễ bị thiếu Vitamin D và hậu quả sẽ bị
còi xương.


B. Thời kỳ sơ sinh được tính từ lúc sinh cho đến hết 4 tuần tuổi.
C. Thời kỳ trung niên thường được bắt đầu tính từ sau 50 tuổi.
D. Thời kỳ răng sữa được tính bắt đầu từ 1 tuổi đến hết 6 tuổi.
E. Tăng cholesterol máu là yếu tố nguy cơ chính của bệnh mạch vành và một số các tai biến khác.
4. Trình bày cách chăm sóc điều dưỡng đối với tuổi già.

Bài 2

ĐO DẤU HIỆU SỐNG
MỤC TIÊU
1. Trình bày được quy tắc hướng dẫn đo dấu hiệu sống.
2. Trình bày được các quy trình theo dõi nhiệt độ, mạch, huyết áp, nhịp thở.
3. Trình bày được ý nghĩa các giá trị sinh lý và bệnh lý của dấu hiệu sống.

1. ĐẠI CƯƠNG
Trong đánh giá sức khoẻ, đặc biệt là của bệnh nhân, nhân viên y tế sử dụng các thông số như nhiệt
độ, mạch, huyết áp, và tần số thở. Các thông số này là những dấu hiệu chỉ điểm về sự hoạt động hiệu
quả của chức năng hô hấp, tuần hoàn và nội tiết của cơ thể. Do tầm quan trọng đặc biệt này mà chúng
được gọi là các dấu hiệu sống (vital signs). Dấu hiệu sống chịu sự tác động của nhiều yếu tố môi trường,
sức khoẻ, bệnh tật dẫn đến sự thay đổi về mặt giá trị, nhiều lúc vượt ra khỏi giới hạn bình thường.
Đo dấu hiệu sống là một phương pháp nhanh và hiệu quả nhằm theo dõi bệnh nhân, cung cấp các dữ
liệu để quyết định xem tình trạng sức khoẻ của bệnh nhân như thế nào (các số liệu cơ bản) cũng như đáp
ứng đối với các sang chấn (stress) sinh lý, bệnh lý, liệu pháp điều trị và chăm sóc. Sự thay đổi dấu hiệu
sống chỉ ra sự thay đổi các chức năng sinh lý của cơ thể cần đến sự can thiệp điều trị và điều dưỡng.
Người điều dưỡng phải nhận thức được các yếu tố ảnh hưởng đến dấu hiệu sống và mối liên quan giữa
sự thay đổi dấu hiệu sống và các chức năng khác của cơ thể, thì mới có thể đưa ra những quyết định
chính xác và có giá trị cho sức khoẻ bệnh nhân.
Các kỹ năng cơ bản: quan sát, bắt mạch và nghe được sử dụng để đo các dấu hiệu sống. Các kỹ năng
này tuy đơn giản, nhưng không ước lượng được kết vì đây được xem là nền tảng của việc giải quyết các
vấn đề sức khoẻ. Đánh giá các dấu hiệu sống cho phép người điều dưỡng nhận định và đưa ra các chẩn
đoán điều dưỡng, thực hiện các kế hoạch can thiệp điều dưỡng và lượng giá khi các dấu hiệu sống trở về
bình thường hoặc ở mức độ chấp nhận được.
2. QUY TẮC HƯỚNG DẪN ĐO DẤU HIỆU SỐNG


- Dấu hiệu sống là một phần của dữ liệu sức khoẻ cơ bản mà người điều dưỡng phải thực hiện trong
quá trình nhận định. Người điều dưỡng phải thực hiện kỹ thuật đo dấu hiệu sống chính xác, hiểu và nhận
định được các giá trị đo được, báo cáo kịp thời và can thiệp đúng lúc.

- Người điều dưỡng chịu trách nhiệm đo dấu hiệu sống của bệnh nhân, phân tích và diễn giải các kết
quả để cho y lệnh can thiệp điều dưỡng. Việc phân tích kết quả không được uỷ thác cho người khác.
- Các dụng cụ phải đảm bảo đúng chức năng, phù hợp về kích cỡ, tuổi tác và điều kiện của bệnh
nhân để bảo đảm cho kết quả chính xác, ví dụ: máy đo huyết áp với kích cỡ người lớn không thể đo cho
trẻ em.
- Người điều dưỡng phải biết được giới hạn bình thường về dấu hiệu sống của bệnh nhân, giới hạn
chuẩn theo tuổi và theo tình trạng sức khoẻ. Các giá trị bình thường của bệnh nhân được sử dụng như là
nền tảng để so sánh với các kết quả gần nhất. Người điều dưỡng phải phát hiện sự thay đổi theo thời
gian và sự sai lệch so với bình thường.
- Người điều dưỡng cần nắm vững bệnh sử, các phương pháp điều trị, các thuốc đã dùng của bệnh
nhân. Một số bệnh lý và thuốc có thể làm thay đổi các dấu hiệu sống vì thế người điều dưỡng cần nhận
định được sự cần thiết để đo dấu hiệu sống kịp thời. Ví dụ, chỉ định của một số thuốc tim mạch
(digoxin) phụ thuộc vào giá trị tần số mạch của bệnh nhân, đòi hỏi người điều dưỡng phải kiểm tra mạch
của bệnh nhân trước và trong thời gian dùng thuốc.
- Số lần đo dấu hiệu sống: người điều dưỡng có thể phối hợp với bác sĩ trong việc quyết định số lần
đo dấu hiệu sống. Khi theo dõi các phẫu thuật hoặc các can thiệp điều trị cần phải đo dấu hiệu sống một
cách thường xuyên để phát hiện sớm các biến chứng. Tuy nhiên, trong tất cả mọi tình huống, người điều
dưỡng phải chịu trách nhiệm cho việc phán đoán xem khi nào cần phải đo dấu hiệu sống. Ví dụ, điều
kiện của một bệnh nhân đang xấu đi, cần thiết phải theo dõi dấu hiệu sống 5 - 15 phút/lần, bình thường
đo dấu hiệu sống 2 lần/ngày.
- Tiếp xúc với bệnh nhân: cách thức tiếp xúc với bệnh nhân có thể làm thay đổi kết quả đo dấu hiệu
sống. Người điều dưỡng phải thực hiện quy trình một cách bình tĩnh, chu đáo và chứng tỏ được khả
năng sử dụng thành thạo các dụng cụ cần thiết để đo dấu hiệu sống.
- Phương pháp đo: người điều dưỡng phải hạn chế tối đa các yếu tố môi trường có thể ảnh hưởng
đến kết quả đo. Trước khi đo dấu hiệu sống bệnh nhân phải được nghỉ ngơi ít nhất 10 - 15 phút. Trong
khi thực hiện đo dấu hiệu sống, không được làm các thủ thuật khác như tiêm, truyền..., trừ trường hợp
bệnh quá nặng hay cấp cứu. Mỗi quy trình kỹ thuật đòi hỏi phải tuân theo thứ tự các bước để bảo đảm
tính chính xác. Cần phải tổ chức việc kết hợp đo các dấu hiệu sống sao cho đạt hiệu quả nhất.
- Phân tích kết quả: không nên tách riêng các giá trị dấu hiệu sống để phân tích mà người điều
dưỡng phải biết tổng hợp các dấu hiệu và triệu chứng thực thể để nhận định tình trạng sức khoẻ hiện tại

và tiếp diễn của bệnh nhân. Phải báo cáo các thay đổi có ý nghĩa về dấu hiệu sống cho các điều dưỡng,
bác sĩ có trách nhiệm và phải lưu trữ kết quả đo được vào bệnh án. Khi các dấu hiệu có sự bất thường,
cần có một điều dưỡng hay một bác sĩ khác kiểm tra lại kết quả.
- Giáo dục bệnh nhân: người điều dưỡng phải xây dựng một kế hoạch giảng dạy để hướng dẫn bệnh
nhân hoặc những người chăm sóc bệnh nhân trong việc đánh giá các dấu hiệu sống.
3. CHUẨN BỊ DỤNG CỤ
- Máy đo huyết áp, ống nghe, nhiệt kế, đồng hồ bấm giây hoặc đồng hồ có kim giây.
- Dầu trơn, bông có tẩm cồn, gạc, găng tay sạch.
- Bảng theo dõi dấu hiệu sống hoặc sổ có ghi rõ họ tên bệnh nhân, số giường, số phòng, chẩn đoán


bệnh.
- Bút xanh, đỏ, thước kẻ để ghi kết quả.
4. THEO DÕI MẠCH
4.1. Cấu trúc của thành động mạch và mạch đập
Thành động mạch gồm ba lớp: Lớp trong cùng là nội mạc, lớp ngoài là lớp mô liên kết, lớp giữa là
những sợi cơ chun và cơ trơn (lớp này là quan trọng nhất).
Nhờ có cấu trúc như trên nên các mạch máu có tính đàn hồi và co giãn. Tính đàn hồi nghĩa là khi
giãn rộng ra rồi lại có thể thu về hình dạng, kích thước cũ. Động mạch lớn đàn hồi nhiều hơn động mạch
nhỏ. Nhờ tính đàn hồi của động mạch, tim tống máu ra từng đợt theo mỗi lần co bóp, dần dần chuyển
thành một dòng máu chảy liên tục và đều đặn.
Vị trí nào có động mạch nằm trên xương và dưới một lớp da, khi ta để ngón tay lên chỗ đó, ấn nhẹ
vào động mạch sẽ thấy mạch đập. Mạch đập không phải do máu chảy tới nơi bắt mạch mà chính là do
làn sóng rung động phát sinh ở động mạch chủ, dưới ảnh hưởng của tâm thất bóp lan truyền tới. Làn
sóng rung động này càng lan xa càng yếu dần và đến đầu hệ mao mạch thì không còn nữa. Do đó hiện
tượng mạch đập không thấy ở trên tĩnh mạch.
4.2. Tần số
Tần số mạch tương đương với tần số tim bóp. Tần số mạch có thể khác nhau giữa người này với
người khác và bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố.
4.2.1. Tần số mạch bình thường ở các lứa tuổi

Lứa tuổi

Tần số mạch/phút

Trung bình

Sơ sinh

100 - 170

140

1 tuổi

80 - 170

120

3 tuổi

80 - 130

110

6 tuổi

70 - 115

100


10 tuổi

70 - 110

90

14 tuổi

60 - 110

85 - 90

Người lớn

60 - 100

72

4.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến tần số mạch
- Mạch nhanh khi:
+ Nhiệt độ cơ thể tăng.
+ Vận động tập luyện trong thời gian ngắn.
+ Sử dụng các chất kích thích như cà phê, thuốc lá...
+ Cơn đau cấp.


+ Lo lắng.
+ Bệnh cường giáp, bệnh cơ tim, bệnh phổi.
+ Mất máu.
+ Một số thuốc làm tăng tần số mạch như atropin.

+ Trung bình nữ giới có tần số mạch cao hơn nam giới.
- Mạch chậm khi:
+ Nhiệt độ cơ thể giảm.
+ Tập luyện trong thời gian dài.
+ Tư thế nằm mạch chậm hơn so với đứng, ngồi.
+ Đau mạn tính hoặc đau nặng.
+ Bệnh suy giáp.
+ Một số thuốc làm giảm tần số mạch như nhóm digitalis, chẹn beta.
4.3. Đếm tần số mạch
4.3.1. Những vị trí thường dùng để đếm tần số mạch
Về lý thuyết, mạch có thể sờ thấy ở bất kỳ vị trí nào mà động mạch ngoại biên nằm ngay sát dưới da
và đi trên một tổ chức chắc như xương. Có 9 vị trí thông thường để bắt mạch: động mạch thái dương
nông, cảnh chung, mỏm tim, cánh tay, quay, đùi, khoeo, chày sau, mu chân (hình 2.1). Trên thực tế
mạch quay được sử dụng nhiều nhất vì dễ xác định, tiện lợi ở hầu hết mọi người; mỏm tim cũng thường
được sử dụng.
Vị trí mạch

Lý do sử dụng

Mạch quay

Thuận tiện, dễ thấy, được sử dụng thường xuyên.

Mạch thái dương nông

Sử dụng khi không bắt được mạch quay, thường dùng
để bắt mạch ở trẻ em.

Mạch cảnh


Xác định tuần hoàn tới não, sử dụng trong bắt mạch trẻ
em, khi ngừng tim.

Mỏm tim

Sử dụng cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ hơn 1 tuổi, phân biệt
sự khác nhau giữa mạch quay và mỏm tim khi loạn nhịp.

Cánh tay

Đo huyết áp.

Đùi

Trong trường hợp ngừng tim, xác định tình trạng tuần
hoàn chi dưới, ở trẻ em.

Khoeo

Đo huyết áp chi dưới.

Chày sau

Xác định tuần hoàn ở vùng cẳng bàn chân và mắt cá.

Mu chân

Xác định tình trạng tuần hoàn tới bàn chân và các ngón
chân.



Hình 2.1. Các vị trí có thể bắt mạch trên cơ thể

4.3.2. Kỹ thuật đếm mạch
4.3.2.1. Mạch quay
- Giải thích cho bệnh nhân biết việc sắp làm.
- Đặt bệnh nhân ở tư thế thoải mái, có thể ngồi hoặc nằm. Nếu nằm, tay duỗi dọc theo thân, hoặc đặt
cẳng tay lên ngực, lòng bàn tay úp xuống.
- Đặt đầu các ngón tay 2 - 3 - 4 lên trên vị trí động mạch quay (hình 2.2).
- Ấn các ngón tay nhẹ nhàng, chống lại động mạch với mức độ vừa phải để cảm nhận được mạch,
nếu ấn mạnh quá sẽ làm mất mạch.
- Sử dụng đồng hồ bấm giây hoặc đồng hồ có kim giây để đếm mạch. Nếu mạch đều, đếm trong 30
giây rồi nhân 2 để có tần số trong một phút, nếu mạch không đều đếm trong 60 giây.
- Ghi nhận tần số, nhịp điệu và cường độ của mạch.
- Ghi kết quả vào bảng theo dõi: dùng bút màu đỏ, chấm vào giao điểm giữa thời gian đo và giá trị
mạch. Dùng thước nối các giao điểm lại để theo dõi biểu đồ mạch.


×