BO Y TE - Dieu duong co ban 1
Page 1 of 168
BỘ Y TẾ
ĐIỀU DƯỠNG CƠ BẢN 1
(DÙNG CHO ĐÀO TẠO CỬ NHÂN ĐIỀU DƯỠNG)
Mã số: Đ.34.Z.01
NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC
HÀ NỘI 2007
Chỉ đạo biên soạn:
VỤ KHOA HỌC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
Chủ biên:
PGS. TS. PHẠM VĂN LÌNH
TS. LÊ VĂN AN
Những người biên soạn:
TS. LÊ VĂN AN
ThS. HỒ DUY BÍNH
BS. LÊ THỊ LỤC HÀ
ThS. TRẦN ĐÌNH HẬU
TS. NGUYỄN THỊ KIM HOA
file://C:\Windows\Temp\ffpvjdbupf\dieu_duong_co_ban.htm
04/01/2013
BO Y TE - Dieu duong co ban 1
Page 2 of 168
ThS. VÕ THỊ DIỆU HIỀN
BS. DƯƠNG THỊ NGỌC LAN
PGS. TS. PHẠM VĂN LÌNH
TS. HOÀNG VĂN NGOẠN
ThS. PHAN THỊ TỐ NHƯ
BS. NGUYỄN THỊ ANH PHƯƠNG
BSCKII. ĐINH VĂN TÂM
BSCKII. TRẦN ĐỨC THÁI
ThS. ĐÀO NGUYỄN DIỆU TRANG
Tham gia tổ chức bản thảo:
ThS. PHÍ VĂN THÂM
ThS. LÊ THỊ BÌNH
Bản quyền thuộc Bộ Y tế (Vụ Khoa học và Đào tạo)
874 - 2007/CXB/2 - 1918/GD
Mã số: 7G069M7 - DAI
Lời giới thiệu
Thực hiện một số điều của Luật Giáo dục, Bộ Giáo dục & Đào tạo và Bộ Y tế đã ban hành
chương trình khung đào tạo Cử nhân điều dưỡng. Bộ Y tế tổ chức biên soạn tài liệu dạy - học các
môn cơ sở và chuyên môn theo chương trình trên nhằm từng bước xây dựng bộ sách đạt chuẩn
chuyên môn trong công tác đào tạo nhân lực y tế.
Sách ĐIỀU DƯỠNG CƠ BẢN 1 được biên soạn dựa trên chương trình giáo dục của Trường
Đại học Y Dược Huế trên cơ sở chương trình khung đã được phê duyệt. Sách được các tác giả TS.
Lê Văn An, ThS. Hồ Duy Bính, BS. Lê Thị Lục Hà, ThS. Trần Đình Hậu, TS. Nguyễn Thị Kim Hoa,
ThS. Võ Thị Diệu Hiền, BS. Dương Thị Ngọc Lan, PGS. TS. Phạm Văn Lình, TS. Hoàng Văn Ngoạn,
ThS. Phan Thị Tố Như, BS. Nguyễn Thị Anh Phương, BSCKII. Đinh Văn Tâm, BSCKII. Trần Đức
Thái, ThS. Đào Nguyễn Diệu Trang biên soạn theo phương châm: Kiến thức cơ bản, hệ thống; nội
dung chính xác, khoa học; cập nhật các tiến bộ khoa học, kỹ thuật hiện đại và thực tiễn ở Việt Nam.
Sách ĐIỀU DƯỠNG CƠ BẢN 1 đã được Hội đồng chuyên môn thẩm định sách và tài liệu dạy học chuyên ngành Điều dưỡng của Bộ Y tế thẩm định vào năm 2007. Bộ Y tế quyết định ban hành là
tài liệu dạy - học đạt chuẩn chuyên môn của ngành trong giai đoạn hiện nay. Trong thời gian từ 3
đến 5 năm, sách phải được chỉnh lý, bổ sung và cập nhật.
file://C:\Windows\Temp\ffpvjdbupf\dieu_duong_co_ban.htm
04/01/2013
BO Y TE - Dieu duong co ban 1
Page 3 of 168
Bộ Y tế xin chân thành cảm ơn các tác giả và Hội đồng chuyên môn thẩm định đã giúp hoàn
thành cuốn sách; Cảm ơn ThS. Lê Thị Bình, ThS. Nguyễn Mạnh Dũng đã đọc và phản biện, để cuốn
sách sớm hoàn thành kịp thời phục vụ cho công tác đào tạo nhân lực y tế.
Lần đầu xuất bản, chúng tôi mong nhận được ý kiến đóng góp của đồng nghiệp, các bạn sinh
viên và các độc giả để lần xuất bản sau được hoàn thiện hơn.
VỤ KHOA HỌC VÀ ĐÀO TẠO - BỘ Y TẾ
Bài 1
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN NGÀNH ĐIỀU DƯỠNG
MỤC TIÊU
1. Trình bày được định nghĩa và tình trạng nghề nghiệp điều dưỡng.
2. Trình bày được lịch sử ngành Điều dưỡng trên thế giới và ở Việt Nam.
1. ĐẠI CƯƠNG
Ngày nay, ngành Điều dưỡng đã phát triển khá xa so với điều dưỡng năm mươi năm về trước.
Bước vào thế kỷ XXI, ngành Điều dưỡng ngày càng tiến bộ. Để hiểu ngành Điều dưỡng ngày nay và
chuẩn bị cho tương lai, chúng ta phải hiểu những sự kiện đã xảy ra, đang xảy ra và những yếu tố xã
hội ảnh hưởng đến nó.
Thật khó và phức tạp để định nghĩa ngành Điều dưỡng bởi vì người điều dưỡng làm quá nhiều
việc. Nếu ở lớp học, khi bạn hỏi sinh viên hoàn thành câu: "Ngành Điều dưỡng là..." thì sẽ có rất
nhiều câu trả lời khác nhau, bởi vì mỗi người sẽ trả lời dựa trên những kinh nghiệm và kiến thức
khác nhau của mình về ngành Điều dưỡng. Khi bạn tiếp xúc với chương trình điều dưỡng, sự định
nghĩa về ngành Điều dưỡng của bạn sẽ thay đổi, bạn sẽ biết và hiểu thêm về ngành Điều dưỡng là gì.
Bài này giới thiệu về ngành Điều dưỡng, bao gồm định nghĩa ngành Điều dưỡng và sơ lược lịch
sử điều dưỡng trong thời điểm hiện tại. Chương trình giáo dục, nghề nghiệp và hướng dẫn thực hành
nghề điều dưỡng dựa trên sự hiểu biết điều dưỡng là gì và tổ chức nó như thế nào. Bởi vì điều dưỡng
là một phần của một xã hội luôn đổi thay.
2. ĐỊNH NGHĨA
Đã có nhiều định nghĩa đã được đưa ra, một số định nghĩa đã nêu sai về vai trò và con người của
ngành Điều dưỡng. Ví dụ theo Tạp chí The New Lexicon Wesbter’s đã định nghĩa: "Người điều
dưỡng là người phụ nữ được huấn luyện để chăm sóc những người ốm đau". Tuy nhiên, ngày nay có
nhiều nam giới đã chọn nghề Điều dưỡng. Những người điều dưỡng này được cung cấp những kỹ
năng chăm sóc bảo vệ bệnh nhân tốt qua một chương trình đào tạo.
Florence Nightingale đã đưa ra một định nghĩa về ngành Điều dưỡng cách đây hơn 100 năm:
"Điều dưỡng là một hành động thiết thực bảo vệ môi trường chung quanh bệnh nhân để giúp cho
bệnh nhân bình phục". Trong thuyết đầu tiên này, Florence Nightingale đã đề cao vai trò của công
tác điều dưỡng. Người điều dưỡng không những được huấn luyện để chăm sóc bệnh nhân ốm đau mà
còn được huấn luyện như những người nội trợ.
Virginia Henderson là một trong những người điều dưỡng đầu tiên nêu ra định nghĩa điều dưỡng
file://C:\Windows\Temp\ffpvjdbupf\dieu_duong_co_ban.htm
04/01/2013
BO Y TE - Dieu duong co ban 1
Page 4 of 168
(1960): "Chức năng của điều dưỡng là giúp đỡ các cá thể, đau ốm hoặc khoẻ mạnh, giúp họ cải
thiện chất lượng cuộc sống và bình phục nhanh chóng. Người điều dưỡng cần thiết phải có sức khoẻ,
thông minh, có kiến thức và có phong thái làm việc càng nhanh càng tốt". (Henderson, 1966, p.3).
Henderson cho rằng người điều dưỡng cần phải chăm sóc bệnh nhân không kể họ ốm đau hay khoẻ
mạnh. Bà còn đề cập đến việc giáo dục và ủng hộ vai trò của người điều dưỡng.
Canadian Nurses Association (CAN, 1984) đã nêu một định nghĩa về ngành Điều dưỡng như
sau: "Điều dưỡng nghĩa là phải chăm sóc bệnh nhân phù hợp với bệnh tật của họ bao gồm cả việc
luyện tập về tinh thần, chức năng và phục vụ bệnh nhân trực tiếp hoặc gián tiếp, giúp cho người bệnh
cải thiện sức khỏe, ngăn chặn ốm đau, hoà nhập vào cộng đồng và xã hội".
Bước vào thế kỷ XXI, người ta đã cố gắng trả lời câu hỏi: "Nếu không có ngành Điều dưỡng thì
cái gì sẽ mất?". Người ta đã xem ngành Điều dưỡng như là một nghệ thuật, một môn khoa học. Điều
dưỡng liên quan đến sức khỏe quá khứ, hiện tại và tương lai. Điều dưỡng là một ngành, nghề chăm
sóc người bệnh.
3. ĐIỀU DƯỠNG MỘT NGHỀ NGHIỆP NỔI BẬT TỪ NỀN VĂN MINH CỔ ĐẠI CHO
ĐẾN THẾ KỶ THỨ XX
Ngành Điều dưỡng có một lịch sử phát triển đáng tự hào. Những người phụ nữ ngày xưa với vai
trò làm vợ, làm mẹ, họ bao gồm cả việc chăm sóc và nuôi nấng những thành viên của gia đình. Xã
hội ngày càng phát triển, dân cư ngày càng đông đúc, có nhiều người đau ốm và họ có thể chăm sóc
bản thân, gia đình và xã hội. Từ đó, những người phụ nữ trong gia đình đã tham gia vào các công
việc của xã hội. Trong xã hội đã xuất hiện các cá nhân, những tổ chức giúp đỡ những người đau ốm
cần chăm sóc và ngành Điều dưỡng ra đời.
3.1. Ngành Điều dưỡng trong nền văn minh cổ đại
Ngành Điều dưỡng chưa bao giờ tồn tại một cách riêng biệt. Trong thời gian đầu, vai trò của
người điều dưỡng đã được xác định bởi những cấu trúc xã hội mà con người đang sinh sống. Chăm
sóc sức khỏe và điều dưỡng như chúng ta đã biết ngày nay chịu ảnh hưởng bởi những gì đã xảy ra
trong quá khứ.
Ở nền văn hoá nguyên thuỷ, con người nghĩ rằng đau ốm là do một nhân vật siêu phàm gây nên.
Để giúp giải thích những điều chưa biết này, thuyết duy linh đã mô tả rằng "mọi vật trong tự nhiên
sống dưới một thế lực và khả năng không thấy được, những linh hồn tốt sẽ mang lại điều may mắn,
những linh hồn tội lỗi sẽ bị ốm đau và chết" (Dolan, 1978). Suốt thời gian này, vai trò của những
thầy thuốc và điều dưỡng tồn tại tách biệt. Người thầy thuốc điều trị bệnh tật qua việc cầu kinh, lo sợ
hoặc sự tuyệt vọng làm thế nào để giải thoát những linh hồn tội lỗi. Người điều dưỡng thông thường
là những người mẹ, người mà thường chăm sóc chính gia đình họ khi bị ốm đau bằng những chăm
sóc y tế, hoặc những phương thuốc thảo mộc. Vai trò chăm sóc này của người điều dưỡng tiếp tục
được duy trì cho đến bây giờ.
Khi mà những bộ lạc trở nên văn minh hơn, những đền thờ trở thành trung tâm của những chăm
sóc y tế, bởi vì người ta tin rằng, sự đau ốm được gây ra bởi những dấu hiệu không hài lòng của
Chúa. Những vị linh mục, thầy tu được xem như là những người thầy thuốc bậc cao, cuộc sống của
những người đàn ông và phụ nữ không có giá trị trong xã hội. Những người điều dưỡng như là
những nô lệ, họ thực hiện những nhiệm vụ của những người đầy tớ dựa trên những mệnh lệnh của
những thầy thuốc linh mục. Trái lại, suốt thời kỳ này, người Hebrews cổ đại đã đưa ra những luật lệ
về những mối quan hệ đạo đức của con người, về sức khỏe tâm trí và về sự điều khiển bệnh tật thông
qua 10 điều răn của Đức Chúa Trời. Người điều dưỡng chăm sóc ốm đau tại nhà và tại cộng đồng và
cũng thực hiện như vai trò của nữ hộ sinh (Dolan, 1978).
Trong thời kỳ cổ đại, con người có rất ít kiến thức để chăm sóc trong lúc ốm đau. Suốt thời gian
này họ tin tưởng nhiều vào Chúa, Thần linh. Khi xã hội ngày càng phát triển hơn, nhiều phương
pháp điều trị bệnh ra đời và người ta đã biết rằng, việc chăm sóc lúc ốm đau là cần thiết. Đặc biệt
trong giai đoạn này vai trò của người hộ sinh là quan trọng. Họ chăm sóc cả mẹ và con suốt quá trình
file://C:\Windows\Temp\ffpvjdbupf\dieu_duong_co_ban.htm
04/01/2013
BO Y TE - Dieu duong co ban 1
Page 5 of 168
thai nghén và sinh nở. Họ hướng dẫn cho sản phụ cách chăm sóc con, cho con bú và cách tự
chăm sóc cho chính bản thân.
Ở nền văn hoá cổ đại tại Châu Phi, chức năng của người điều dưỡng là bao gồm cả vai trò người
hộ sinh, chăm sóc trẻ em và người già.
Ở Ấn Độ, có nhiều bệnh viện với đội ngũ điều dưỡng nam, những người điều dưỡng nam này
phải hội đủ 4 điều kiện:
- Có kiến thức cơ bản về thuốc.
- Thông minh.
- Hết lòng vì bệnh nhân.
- Có sức khỏe tốt.
3.2. Lịch sử phát triển ngành Điều dưỡng thế giới
Vào thế kỷ thứ III ở Rome, phụ nữ không đảm nhiệm vai trò này mà là những người đàn ông, gọi
là Parabolani Brotherhood. Nhóm những người đàn ông này chăm sóc những ai đau ốm.
Ở thời Crusades, đã có nhiều bệnh viện từ thiện được xây dựng. Những bệnh viện này dùng để
chăm sóc những trẻ mồ côi, goá phụ, người nghèo và những người đau ốm.
Năm 60, bà Phoebe (Hylạp) đã đến từng gia đình có người ốm đau để chăm sóc. Bà được
ngưỡng mộ và suy tôn là người nữ điều dưỡng tại gia đầu tiên của thế giới.
Thế kỷ thứ IV, bà Fabiola (Lamã) đã tự nguyện biến căn nhà sang trọng của mình thành bệnh
viện, đón những người nghèo khổ đau ốm về để tự bà chăm sóc nuôi dưỡng.
Suốt từ năm 500 - 1500 sau Công nguyên, nhiều tổ chức quân đội gồm cả nam và nữ được thành
lập để chăm sóc những người đau ốm.
Ở thế kỷ thứ XVI, Camillus De Lellis đã thành lập những nhóm người để chăm sóc người nghèo,
người đau ốm và những người tù. Năm 1633, Sisters Chariting đã thành lập Saint Vincent De Paul
tại Pháp. Đó là tổ chức đầu tiên dưới thời Giáo Hoàng dùng để chăm sóc người đau ốm. Tổ chức đã
gởi những người điều dưỡng này đi khắp nơi trên thế giới, họ đã thành lập thêm nhiều bệnh viện ở
Canada, Mỹ và Úc.
Thời kỳ viễn chinh ở Châu Âu, bệnh viện được xây dựng để chăm sóc số lượng lớn những người
hành hương bị đau ốm. Cả nam và nữ đều thực hiện việc chăm sóc sức khỏe cho tất cả mọi người.
Nghề điều dưỡng trở thành nghề được coi trọng.
Vào thời điểm bắt đầu có đạo Cơ đốc, người điều dưỡng có vai trò quan trọng và rõ ràng hơn.
Dẫn đầu bởi niềm tin về tình yêu và sự chăm sóc những cá nhân khác là quan trọng, tổ chức đầu tiên
về chăm sóc những người đau ốm được thực hiện bởi những người phụ nữ, gọi là "những người trợ
tế". Trong suốt cuộc viễn chinh ở Châu Âu, những bệnh viện đã được xây dựng để chăm sóc một số
lượng những người hành hương cần chăm sóc sức khỏe và người điều dưỡng được kính trọng hơn.
Đến cuối thế kỷ thứ XVI, chế độ nhà tù ở Anh và Châu Âu bị bãi bỏ. Các tổ chức tôn giáo bị giải
tán, dẫn đến sự thiếu hụt trầm trọng người chăm sóc bệnh nhân. Những người phụ nữ phạm tội, bị
giam giữ được tuyển chọn làm điều dưỡng, thay vì thực hiện án tù; còn những người phụ nữ khác chỉ
chăm sóc gia đình mình thôi. Bối cảnh này tạo ra những quan niệm và thái độ xấu của xã hội đối với
điều dưỡng.
Giữa thế kỷ XVIII đầu thế kỷ thứ XIX, việc cải cách xã hội đã thay đổi về vai trò người điều
dưỡng. Vai trò của người phụ nữ trong xã hội nói chung cũng được cải thiện. Trong thời kỳ này, một
phụ nữ người Anh đã được thế giới tôn kính và suy tôn là người sáng lập ra ngành Điều dưỡng. Đó
là Florence Nightingale (1820 - 1910). Bà sinh ra trong một gia đình giàu có ở Anh nên được giáo
dục chu đáo. Bà biết nhiều ngoại ngữ, đọc nhiều sách triết học, tôn giáo, chính trị. Ngay từ nhỏ, bà
đã thể hiện thiên tính và hoài bão được giúp đỡ người nghèo khổ. Bà đã vượt qua sự phản kháng của
gia đình để vào học và làm việc tại bệnh viện Kaiserwerth (Đức) năm 1847. Sau đó bà học thêm ở
Paris (Pháp) vào năm 1853. Những năm 1854 - 1855, chiến tranh Crimea nổ ra, bà cùng 38 phụ nữ
file://C:\Windows\Temp\ffpvjdbupf\dieu_duong_co_ban.htm
04/01/2013
BO Y TE - Dieu duong co ban 1
Page 6 of 168
Anh khác được phái sang Thổ Nhĩ Kỳ để phục vụ các thương binh của quân đội hoàng gia Anh.
Tại đây bà đã đưa ra lý thuyết về khoa học vệ sinh trong các cơ sở y tế và sau 2 năm bà đã làm giảm
tỷ lệ nhiễm trùng từ 42% xuống còn 2%. Đêm đêm, Florence cầm ngọn đèn dầu đi thăm bệnh, chăm
sóc thương binh, đã để lại hình tượng người phụ nữ với cây đèn trong trí nhớ những người thương
binh hồi đó. Chiến tranh chưa kết thúc, Florence phải trở lại nước Anh. Cơn "sốt Crimea" và sự căng
thẳng của những ngày ở mặt trận đã làm cho bà mất khả năng làm việc. Bà được dân chúng và những
người lính Anh tặng món quà 50.000 bảng Anh để chăm sóc sức khỏe. Vì sức khỏe không cho phép
tiếp tục làm việc ở bệnh viện, Florence đã lập ra hội đồng quản lý ngân sách 50.000 bảng Anh để
thành lập trường đào tạo điều dưỡng đầu tiên trên thế giới ở nước Anh vào 1860. Trường điều dưỡng
Nightingale cùng với chương trình đào tạo một năm đã đặt nền tảng cho hệ thống đào tạo điều dưỡng
không chỉ ở nước Anh mà còn ở nhiều nước trên thế giới.
Để tưởng nhớ công lao của bà và khẳng định quyết tâm tiếp tục sự nghiệp mà Florence đã dày
công xây dựng. Hội đồng Điều dưỡng thế giới đã quyết định lấy ngày 12 - 5 hằng năm, ngày sinh
của Florence Nightingale, làm ngày điều dưỡng quốc tế. Bà đã trở thành người mẹ tinh thần của
ngành Điều dưỡng thế giới.
Hiện nay ngành Điều dưỡng của thế giới đã được xếp là một ngành nghề riêng biệt, ngang hàng
với các ngành, nghề khác. Có nhiều trình độ điều dưỡng khác nhau: đại học, trên đại học. Nhiều cán
bộ điều dưỡng đã có bằng thạc sĩ, tiến sĩ... và các học hàm phó giáo sư, giáo sư...
4. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN NGÀNH ĐIỀU DƯỠNG VIỆT NAM
4.1. Trước thời Pháp thuộc
4.1.1. Vai trò của ngưòi mẹ
Cũng như thế giới, từ xa xưa các bà mẹ Việt Nam đã chăm sóc, nuôi dưỡng con cái và gia đình
mình. Bên cạnh những kinh nghiệm chăm sóc của gia đình, các bà đã được truyền lại các kinh
nghiệm dân gian của các lương y trong việc chăm sóc người bệnh, biết dùng các cây thuốc nam để
chữa bệnh,...
4.1.2. Người đặt nền móng cho y học cổ truyền Việt Nam
Hai danh y nổi tiếng thời xưa của dân tộc ta là Tuệ Tĩnh (thế kỷ XIV) và Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (thế kỷ XVIII) đã sử dụng phép dưỡng sinh để trị bệnh, đã phát hiện ra hàng trăm vị
thuốc để điều trị bệnh có hiệu quả. Hai danh y này đã để lại cho nền y học nước ta một gia sản có giá
trị lớn về y đức, y thuật Việt Nam.
4.1.3. Vai trò của các tôn giáo trong công tác điều dưỡng
Cuối thế kỷ XV, nhiều đoàn giáo sĩ phương Tây đã đến Việt Nam vừa truyền đạo, vừa chữa bệnh
cho các tín đồ. Một số giáo sĩ được mời vào cung vua để chữa bệnh cho các vua quan trong triều
đình. Cuối thế kỷ XVII, linh mục Vachet người Pháp và linh mục Coffler người Bồ Đào Nha là hai
giáo sĩ đầu tiên đặt nền móng y học và điều dưỡng phương Tây ở nước ta. Sau đó, các tu viện được
thành lập, các trại chăm sóc cho người nghèo, trẻ mồ côi do các nữ tu đảm nhiệm. Việc chăm sóc
mang tính nhân đạo, tự nguyện và không đòi hỏi thù lao.
4.2. Dưới thời Pháp thuộc
Thời kỳ Pháp thuộc, người Pháp đã xây dựng nhiều bệnh viện. Trước năm 1900, họ đã ban hành
chế độ học việc cho những người muốn làm việc tại bệnh viện. Việc đào tạo không chính quy mà chỉ
là cầm tay chỉ việc. Họ là những người giúp việc thạo kỹ thuật, vững tay nghề và chỉ phụ việc bác sĩ
mà thôi.
Năm 1901, mở lớp nam y tá đầu tiên tại bệnh viện Chợ Quán, nơi điều trị bệnh tâm thần và bệnh
file://C:\Windows\Temp\ffpvjdbupf\dieu_duong_co_ban.htm
04/01/2013
BO Y TE - Dieu duong co ban 1
Page 7 of 168
phong.
Ngày 20-12-1906, Toàn quyền Đông Dương ban hành nghị định thành lập ngạch nhân viên điều
dưỡng bản xứ.
Năm 1910, lớp học dời về bệnh viện Chợ Rẫy để đào tạo y tá đa khoa.
Ngày 1-12-1912, Công sứ Nam Kỳ ra nghị định mở lớp nhưng mãi đến năm 1923 mới mở
Trường Y tá và ban hành ngạch bậc y tá bản xứ. Do chính sách của thực dân Pháp không tôn trọng
người bản xứ và coi y tá chỉ là người giúp việc nên về lương bổng chỉ được xếp ở ngạch hạ đẳng.
Năm 1924, Hội Y tá ái hữu và Nữ hộ sinh Đông Dương thành lập, người sáng lập là cụ Lâm
Quang Thiêm, nguyên Giám đốc bệnh viện Chợ Quán. Chánh hội trưởng là ông Nguyễn Văn Mân.
Hội đã đấu tranh với chính quyền thực dân Pháp yêu cầu đối xử công bằng với y tá bản xứ, chấp
nhận cho y tá được thi chuyển ngạch trung đẳng, nhưng không được tăng lương mà chỉ được phụ cấp
đắt đỏ.
Năm 1937, Hội Chữ thập đỏ Pháp tuyển sinh lớp nữ y tá đầu tiên ở Việt Nam. Lớp học tại 38 Tú
Xương (hiện là Trung tâm điều trị trẻ suy dinh dưỡng).
4.3. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954)
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà vừa mới thành
lập đã phải bước ngay vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Ngành Y tế non trẻ mới ra đời,
với vài chục bác sĩ và vài trăm y tá được đào tạo thời Pháp thuộc. Lớp y tá đầu tiên được đào tạo 6
tháng do giáo sư Đỗ Xuân Hợp làm hiệu trưởng được tổ chức tại quân khu X (Việt Bắc). Những y tá
vào học lớp này được tuyển chọn tương đối kỹ lưỡng. Sau đó liên khu III cũng mở lớp đào tạo y tá.
Năm 1950, ta mở nhiều chiến dịch. Vì vậy nhu cầu chăm sóc thương bệnh binh tăng mạnh. Việc đào
tạo y tá cấp tốc (3 tháng là phổ biến) đã cung cấp nhiều y tá cho kháng chiến. Để đáp ứng công tác
quản lý, chăm sóc và phục vụ người bệnh trong những năm 1950. Cục Quản lý cũng đã mở một số
lớp đào tạo y tá trưởng, nhưng chương trình chưa được hoàn thiện. Mặt khác, kháng chiến rất gian
khổ, cơ sở vật chất nghèo nàn, thuốc men cũng rất hạn chế, nên việc điều trị cho bệnh nhân chủ yếu
dựa vào chăm sóc và chính nhờ điều dưỡng mà nhiều thương, bệnh binh bị chấn thương, cắt cụt, vết
thương chiến tranh, sốt rét ác tính,... đã qua khỏi.
4.4. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975)
Năm 1954, kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Đất nước ta bị chia làm 2 miền. Miền Bắc bắt tay
vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục chịu sự xâm lược của đế quốc Mỹ. Tuy vậy, mỗi
miền có những bước phát triển riêng về công tác điều dưỡng.
4.4.1. Ở miền Nam
Năm 1956 có trường điều dưỡng đào tạo điều dưỡng 3 năm. Cô Lâm Thị Hạ, là nữ giám học đầu
tiên.
Năm 1968, do thiếu điều dưỡng trầm trọng nên đã mở thêm ngạch điều dưỡng sơ học 12 tháng
chính quy tại các trường điều dưỡng. Từ những năm 1960 đã có Sở Điều dưỡng tại Bộ Y tế.
Năm 1970, Hội Điều dưỡng Việt Nam được thành lập, cô Lâm Thị Hai là chánh sự vụ Sở Điều
dưỡng đầu tiên kiêm Chủ tịch hội.
Năm 1973, mở lớp điều dưỡng y tế công cộng 3 năm tại Viện Quốc gia Y tế công cộng.
4.4.2. Ở miền Bắc
Năm 1954, Bộ Y tế đã xây dựng chương trình đào tạo y tá sơ cấp hoàn chỉnh để bổ túc cho lớp y
tá học cấp tốc trong chiến tranh.
Năm 1968, Bộ Y tế xây dựng tiếp chương trình đào tạo y tá trung cấp, lấy học sinh tốt nghiệp lớp
file://C:\Windows\Temp\ffpvjdbupf\dieu_duong_co_ban.htm
04/01/2013
BO Y TE - Dieu duong co ban 1
Page 8 of 168
bảy phổ thông đào tạo y tá 2 năm 6 tháng. Khoá đầu tiên mở lớp y tá cạnh bệnh viện Bạch Mai,
sau đó đưa vào các trường trung học trực thuộc Bộ. Đồng thời Bộ gửi giảng viên của hệ này đi tập
huấn ở Liên Xô, Ba Lan, Cộng hoà Dân chủ Đức,...
Việc đào tạo điều dưỡng trưởng cũng đã được quan tâm. Ngay từ năm 1960, một số bệnh viện và
Trường Trung học Y tế trung ương đã mở lớp đào tạo y tá trưởng như lớp trung học y tế bệnh viện
Bạch Mai. Tuy nhiên chương trình và tài liệu giảng dạy chưa được hoàn thiện.
Ngày 21 tháng 11 năm 1963, Bộ trưởng Bộ Y tế ra quyết định về chức vụ y tá trưởng ở các cơ sở
điều trị bệnh viện, viện điều dưỡng, trại phong, bệnh xá từ 30 giường bệnh trở lên.
4.5. Công tác điều dưỡng từ năm 1975 đến nay
Năm 1975, kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, đất nước được thống nhất, Bộ Y tế đã thống nhất
chỉ đạo công tác chăm sóc và điều trị bệnh nhân ở cả 2 miền. Từ đó, nghề điều dưỡng bắt đầu có
tiếng nói chung giữa 2 miền Nam - Bắc.
Từ năm 1975, tiêu chuẩn tuyển chọn vào y tá trung học cần trình độ văn hoá cao hơn, học sinh
được tuyển chọn bắt buộc phải tốt nghiệp trung học phổ thông hay bổ túc văn hoá và chương trình
đào tạo cũng hoàn thiện hơn.
Ngày 27 tháng 11 năm 1979, Bộ Y tế ra công văn số 4839 về chế độ phụ cấp trách nhiệm đối với
y tá trưởng khoa và bệnh viện.
Năm 1982, Bộ Y tế ban hành chức danh y tá trưởng bệnh viện và y tá trưởng khoa.
Năm 1985, một số bệnh viện đã xây dựng phòng điều dưỡng, phòng này tách ra khỏi phòng y vụ.
Ngày 14 tháng 7 năm 1990, Bộ Y tế ban hành quyết định số 570/BYT-QĐ thành lập phòng điều
dưỡng trong các bệnh viện có trên 150 giường bệnh.
Khởi đầu, ông Phạm Đức Mục, trưởng phòng điều dưỡng Viện Nhi Thụy Điển làm việc 100%;
bà Lê Thị Sửu, giáo viên trường Trung học Y tế Hà Nội và bà Lê Thị Bình, giáo viên Trung học Y tế
Bạch Mai làm 50% tại phòng Điều dưỡng Bộ Y tế được đặt trong Vụ Quản lý sức khỏe, nay là Vụ
Điều trị Bộ Y tế để phát triển công tác điều dưỡng trong cả nước thời đó.
Ngày 14 tháng 3 năm 1992, Bộ trưởng Bộ Y tế ra quyết định thành lập Phòng Y tá của Bộ đặt
trong Vụ Quản lý sức khỏe.
Ngày 10 tháng 6 năm 1993, Bộ Y tế ra quyết định số 526 kèm theo quy định về chế độ trách
nhiệm của y tá trong việc chăm sóc bệnh nhân tại bệnh viện. Cùng ngày đó, vụ Quản lý sức khỏe
(nay là Vụ Điều trị) ra công văn số 3722 về việc triển khai thực hiện quy định trên.
Về đào tạo, năm 1985, Bộ Y tế được Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp cho phép tổ chức
khoá đào tạo đại học điều dưỡng đầu tiên tại Trường Đại học Y Hà Nội, năm 1986 mở tại Trường
Đại học Y - Dược thành phố Hồ Chí Minh. Đây là mốc lịch sử quan trọng trong lĩnh vực đào tạo Đại
học điều dưỡng của nước ta.
Tổ chức Y tế thế giới rất hoan nghênh chủ trương này, vì từ đây Bộ Y tế đã xác định được hướng
đi của ngành Điều dưỡng, coi đây là một ngành nghề riêng biệt, chứ không suy nghĩ như trước đây
cho y tá giỏi học chuyên tu thành bác sĩ.
Năm 1994, Bộ Giáo dục Đào tạo và Bộ Y tế lại tiếp tục cho phép đào tạo cử nhân cao đẳng, nữ
hộ sinh, kỹ thuật viên y học khoá III tại Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh và
Trường Cao đẳng Y tế Nam Định.
Năm 1998, Trường Đại học Y khoa Huế mở lớp điều dưỡng cao đẳng đầu tiên tại khu vực miền
Trung.
Vào những năm 60 của thế kỷ XX đã đào tạo điều dưỡng trưởng tại Bệnh viện Bạch Mai để cung
cấp Điều dưỡng trưởng cho các Bệnh viện Trung ương nhưng chưa được bài bản. Năm 1990, lớp đầu
tiên đào tạo điều dưỡng trưởng được Bộ Y tế cho phép là Trường Trung học Kỹ thuật Y tế trung
ương I phối hợp với chuyên gia Thụy Điển mở 3 lớp "Điều dưỡng trưởng Bệnh viện": lớp thứ nhất
file://C:\Windows\Temp\ffpvjdbupf\dieu_duong_co_ban.htm
04/01/2013
BO Y TE - Dieu duong co ban 1
Page 9 of 168
tại Bệnh viện Uông Bí - Thụy Điển. Sau đó lớp thứ hai mở tại Trường Cao đẳng Y tế Nam Định,
lớp thứ 3 tại Trường Đại học Y Dược Hồ Chí Minh.
Đến nay khoảng 50% điều dưỡng trưởng khoa, điều dưỡng trưởng bệnh viện đã được đào tạo
qua các lớp quản lý điều dưỡng trưởng.
Năm 1986, Hội Điều dưỡng khu vực thành phố Hồ Chí Minh mở đại hội. Năm 1989, Hội Điều
dưỡng thủ đô Hà Nội và Hội Điều dưỡng tỉnh Quảng Ninh ra đời. Sau đó lần lượt một số tỉnh thành
khác cũng thành lập Hội Điều dưỡng, thôi thúc sự ra đời của Hội Điều dưỡng cả nước. Ngày 26
tháng 10 năm 1990, Hội Y tá Điều dưỡng Việt Nam mở đại hội lần thứ nhất tại hội trường Ba Đình
lịch sử. Nhiệm kỳ thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương (BCHTW) Hội là 3 năm (1990 - 1993).
BCH có 31 ủy viên ở cả 2 miền. Bà Vi Thị Nguyệt Hồ là Chủ tịch, 3 phó Chủ tịch là: Cô Trịnh Thị
Loan, Cô Nguyễn Thị Niên, ông Nguyễn Hoa. Tổng Thư ký là ông Phạm Đức Mục. Ngày 26 tháng 3
năm 1993, đại hội đại biểu y tá - điều dưỡng toàn quốc lần thứ 2 (nhiệm kỳ 1993 - 1997) được tổ
chức tại Bộ Y tế và BCH mới gồm 45 ủy viên, Chủ tịch là Bà Vi Thị Nguyệt Hồ, 3 phó Chủ tịch là:
Ông Nguyễn Hoa, Cô Trịnh Thị Loan, Ông Phạm Đức Mục (kiêm tổng thư ký).
Ngày 13 tháng 8 năm 1997, sau nhiều cố gắng của Hội Y tá - Điều dưỡng Việt Nam, Nhà nước
đã chấp thuận đổi tên Hội Y tá - Điều dưỡng thành Hội Điều dưỡng.
Từ khi thành lập đến nay Hội đã có 19 tỉnh hội và trên 160 chi hội. Sự hoạt động của Hội đã góp
phần động viên đội ngũ điều dưỡng thêm yêu nghề nghiệp và thúc đẩy công tác chăm sóc tại các cơ
sở khám bệnh, làm chuyển đổi bộ mặt chăm sóc điều dưỡng.
Trong quá trình phát triển của ngành Điều dưỡng Việt Nam từ khi đất nước được thống nhất đến
nay, chúng ta đã được nhiều tổ chức điều dưỡng quốc tế giúp đỡ cả về tinh thần, vật chất và kiến
thức. Trong các tổ chức đó phải kể đến đội ngũ điều dưỡng của Thụy Điển đã liên tục đầu tư cho
việc đào tạo hệ thống điều dưỡng. Nhiều chuyên gia điều dưỡng Thụy Điển đã để lại những kỷ niệm
tốt đẹp cho anh chị em điều dưỡng Việt Nam như Eva Johansson, Lola Carison, Ann Mari Nilsson,
Marian Advison, Emma Sunberg,... Tổ chức Y tế thế giới cũng đã cử những chuyên gia điều dưỡng
giúp chúng ta như Chieko Sakamoto, Margret Truax, Miller Therese,... cùng nhiều chuyên gia điều
dưỡng khác của tổ chức Care International, tổ chức khoa học Mỹ - Việt,... Các bạn đã giúp chúng ta
cả về kinh phí, kiến thức và tài liệu. Chúng ta không thể quên được sự giúp đỡ quý báu của các bạn
điều dưỡng quốc tế. Chính các bạn đã giúp đỡ chúng ta hiểu rõ nghề nghiệp của mình và phấn đấu
cho sự nghiệp điều dưỡng Việt Nam phát triển.
5. KẾT LUẬN
Trên đây là vài nét sơ lược về ngành Điều dưỡng trên Thế giới và Việt Nam. Qua đây chúng ta
cũng thấy lịch sử ngành Điều dưỡng Việt Nam gắn liền với lịch sử phát triển của đất nước. Trong
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, tuy ngành Điều dưỡng Việt Nam chưa được coi là một ngành
riêng biệt, nhưng đã được quan tâm và có nhiều cống hiến to lớn. Chúng ta có quyền tự hào về ngành
Điều dưỡng của chúng ta.
Những thành tựu của ngành Điều dưỡng Việt Nam hiện nay chính là sự kết tinh truyền thống và
kinh nghiệm của những người đi trước truyền lại cho những thế hệ điều dưỡng hôm nay và mai sau.
Đó cũng là sự giúp đỡ tận tình của các chuyên gia điều dưỡng quốc tế. Thế hệ điều dưỡng chúng ta
quyết phát huy truyền thống của dân tộc, của ngành Điều dưỡng Việt Nam không ngừng học tập, rèn
luyện để tiến bộ, góp phần xây dựng và phát triển ngành ngày càng mạnh mẽ.
LƯỢNG GIÁ
1. Trình bày được lịch sử phát triển ngành Điều dưỡng thế giới.
2. Trình bày được lịch sử phát triển ngành Điều dưỡng Việt Nam từ sau 1975 đến nay.
3. Hãy đánh dấu vào những câu đúng:
file://C:\Windows\Temp\ffpvjdbupf\dieu_duong_co_ban.htm
04/01/2013
BO Y TE - Dieu duong co ban 1
Page 10 of 168
A. Hội Y tá - Điều dưỡng thành Hội Điều dưỡng ngày 13 tháng 08 năm 1997.
B. Khoá đào tạo đại học điều dưỡng đầu tiên tại Trường Đại học Y Hà Nội và Trường Đại học
Y - Dược thành phố Hồ Chí Minh năm 1986.
C. Hiện nay ở Việt Nam vẫn chưa đào tạo điều dưỡng trình độ sau đại học.
D. Hiện nay ngành Điều dưỡng của thế giới là một ngành, nghề riêng biệt, ngang hàng với các
ngành, nghề khác.
4. Trong thời kỳ văn minh cổ đại, các điều dưỡng nam ở Ấn Độ phải hội đủ 4 điều kiện:
A. Có kiến thức cơ bản về thuốc.
B. Thông minh.
C. .................................................................................................................................
D. .................................................................................................................................
5. (A) Florence Nightingale đã có rất nhiều cống hiến cho ngành Điều dưỡng thế giới vì vậy (B)
Hội đồng Điều dưỡng thế giới đã quyết định lấy ngày 12-5, là ngày sinh của bà làm ngày điều
dưỡng quốc tế.
a. (A) đúng, (B) đúng; A và B có quan hệ nhân quả.
b. (A) đúng, (B) đúng; A và B không có quan hệ nhân quả.
c. (A) đúng, (B) sai.
d. (A) sai, (B) đúng.
e. (A) sai, (B) sai.
Bài 2
QUY TRÌNH ĐIỀU DƯỠNG
MỤC TIÊU
1. Mô tả được 5 bước của quy trình điều dưỡng.
2. Trình bày được nội dung các bước của quy trình điều dưỡng.
3. Áp dụng được quy trình điều dưỡng để lập kế hoạch chăm sóc.
1. ĐỊNH NGHĨA
Quy trình điều dưỡng là một loạt các hoạt động theo một kế hoạch đã được định trước, trực tiếp
hướng tới một kết quả chăm sóc riêng biệt, hay quy trình điều dưỡng là một hệ thống và phương
pháp tổ chức của kế hoạch chăm sóc.
Quy trình điều dưỡng gồm các bước sau: nhận định, chẩn đoán điều dưỡng, lập kế hoạch chăm
sóc, thực hiện kế hoạch chăm sóc và đánh giá kết quả chăm sóc.
Mục đích quy trình điều dưỡng là:
- Nhận biết tình trạng thực tế và những vấn đề cần chăm sóc sức khỏe cho mỗi cá nhân riêng
biệt.
- Thiết lập những kế hoạch chăm sóc đúng và đáp ứng các nhu cầu cần thiết cho bệnh nhân.
file://C:\Windows\Temp\ffpvjdbupf\dieu_duong_co_ban.htm
04/01/2013
BO Y TE - Dieu duong co ban 1
Page 11 of 168
2. CÁC BƯỚC CỦA QUY TRÌNH ĐIỀU DƯỠNG
Thực hiện quy trình chăm sóc, yêu cầu người điều dưỡng phải sử dụng kiến thức, kỹ năng và thái
độ nghề nghiệp. Người điều dưỡng trưởng phải có kiến thức về tâm sinh lý, cách đối xử với con
người, kỹ năng truyền đạt, giải quyết vấn đề. Người điều dưỡng phải có phong cách quản lý và lãnh
đạo tốt.
Khi điều trị và chăm sóc, người cán bộ y tế phải coi bệnh nhân là trung tâm trong khoa, phòng và
bệnh viện, vì vậy khi tiếp xúc với bệnh nhân phải hướng tới:
- Thể hiện sự quan tâm đến những khó khăn của bệnh nhân về bệnh tật.
- Không bỏ qua bất cứ một ý kiến nhỏ nào.
- Chú ý các triệu chứng chủ quan và khách quan.
- Hỏi câu hỏi đúng, tránh câu hỏi tại sao.
- Tập trung vào các vấn đề thực tại.
- Hỏi bằng câu hỏi đơn giản dễ hiểu.
- Chủ động lắng nghe.
- Chú ý cách bệnh nhân nói hoặc bệnh nhân mô tả động tác không lời.
- Tổng kết các điểm chính.
2.1. Bước một: Nhận định (đánh giá ban đầu)
2.1.1. Mục đích
- Thiết lập các thông tin cơ bản trên bệnh nhân.
- Xác định các chức năng bình thường của bệnh nhân.
- Xác định các rối loạn bất thường trên người bệnh.
- Đánh giá tình trạng sức khỏe của bệnh nhân.
- Cung cấp các dữ liệu cho giai đoạn chẩn đoán.
2.1.2. Những hoạt động trong giai đoạn nhận định
- Thu thập dữ liệu: hỏi bệnh sử.
- Xác định tính đúng đắn của dữ liệu: thăm khám, tham khảo các xét nghiệm.
- Sắp xếp dữ liệu, tập hợp các dữ liệu và nhận biết các nhu cầu cần thiết về chăm sóc sức khỏe
cho bệnh nhân như:
+ Gặp gỡ tiếp xúc với bệnh nhân và thân nhân của bệnh nhân.
+ Quan sát theo dõi chung.
+ Khám bệnh nhân (các triệu chứng).
+ Hỏi các nhân viên y tế khác.
+ Khai thác dựa vào bệnh án.
Muốn làm được công việc này yêu cầu người điều dưỡng phải sử dụng các phương pháp sau đây
để thu thập các dữ kiện:
* Kỹ năng giao tiếp.
* Kỹ năng phỏng vấn.
* Kỹ năng quan sát.
file://C:\Windows\Temp\ffpvjdbupf\dieu_duong_co_ban.htm
04/01/2013
BO Y TE - Dieu duong co ban 1
Page 12 of 168
* Khai thác tiền sử.
* Kỹ năng thăm khám.
* Kỹ năng phân tích các dữ kiện thu thập được.
2.1.2.1. Nhận định bằng cách hỏi bệnh
Tất cả các nguồn thông tin thu được từ hỏi bệnh phải dựa vào:
- Bệnh nhân: Bệnh nhân được coi là nguồn thông tin chính, đối với bệnh nhân nặng thì thông tin
sẽ không rõ ràng. Thông thường bệnh nhân cung cấp các triệu chứng:
+ Chủ quan: đau nhức, lo sợ, mệt mỏi,...
+ Khách quan: là do người điều dưỡng theo dõi phát hiện thấy hoặc khám được: mạch, nhiệt độ,
huyết áp, sắc mặt bình thường hay bất thường.
- Thân nhân của bệnh nhân: Thân nhân có thể cung cấp thêm các nguồn thông tin về bệnh tật của
bệnh nhân, nhất là bệnh nhân nặng như: bất tỉnh, lẫn lộn, đặc biệt là bệnh nhân nhi.
- Các nhân viên: Bao gồm các thầy thuốc, kỹ thuật viên y tế và các nhân viên khác sẽ cung cấp
thêm các chi tiết về bệnh tật của bệnh nhân, đặc biệt là những triệu chứng thu nhận được khi bệnh
nhân mới vào viện.
2.1.2.2. Thu thập dấu hiệu qua quan sát bệnh nhân
Người điều dưỡng cần phải quan sát sự biểu hiện tình cảm của bệnh nhân như trước khi mổ, thái
độ và tình cảm của bệnh nhân biểu lộ thế nào. Quan sát tình trạng da, niêm mạc, tình trạng hô hấp,
tình trạng vận động,...
Quan sát là phương pháp thông thường nhất của theo dõi, những thông tin thu được phải kết hợp
với những nguồn thông tin thông qua các giác quan khác.
2.1.2.3. Theo dõi và thăm khám bệnh nhân
Theo dõi là tập hợp những thông tin về tình trạng của bệnh nhân, bằng sử dụng 4 giác quan với
sự hiểu biết những vấn đề đã được hiểu rõ, theo dõi bệnh nhân bằng cách chú ý các triệu chứng quan
trọng, hoặc những điều bệnh nhân nói và nhận biết, phân tích nguồn thông tin bằng nhận thức chung.
Người điều dưỡng theo dõi bệnh nhân phải chú ý đến dấu hiệu toàn thân, ví dụ: thấy mặt bệnh
nhân đỏ phải nghĩ đến bệnh nhân sốt, tiến hành đo nhiệt độ cơ thể, có thể là do nhiễm khuẩn hay lý
do khác. Theo dõi là kỹ năng của người điều dưỡng, đòi hỏi người điều dưỡng phải có kinh nghiệm
và kiến thức mới làm được.
Khám bệnh nhân: người điều dưỡng phải biết tiến hành thăm khám cơ bản cho bệnh nhân bao
gồm:
- Nhìn (quan sát bệnh nhân): đây là bước quan trọng đầu tiên trong thăm khám thực thể. Màu
sắc, hình dạng, hoạt động, đối xứng, điệu bộ của các bộ phận của cơ thể.
Bước này được thực hiện trong quá trình phỏng vấn bệnh nhân và trong quá trình thăm khám
thực thể. Ví dụ, tuyến giáp lớn có thể phát hiện được trong quá trình thăm khám thực thể cũng như
trong lúc phỏng vấn bệnh nhân.
- Sờ: Sờ bằng đầu ngón tay và lòng bàn tay, điều dưỡng có thể xác định được kích thước, hình
dạng và mật độ của các cơ quan bên dưới. Bắt mạch, sờ được hình dạng bên ngoài của các cơ quan
như tuyến giáp, lách, hay gan; kích thước, hình dạng, và tính di động của một khối; nhiệt độ của da;
độ cứng mềm hay tính nhạy cảm của một số bộ phận của cơ thể,...
- Gõ: Được sử dụng để đánh giá vị trí và mức của các cơ quan trong cơ thể, xác định bản chất
của các cấu trúc cơ thể (đầy dịch, đầy khí, đặc), xác định các khối u.
file://C:\Windows\Temp\ffpvjdbupf\dieu_duong_co_ban.htm
04/01/2013
BO Y TE - Dieu duong co ban 1
Page 13 of 168
- Nghe: Kỹ thuật nghe các âm của cơ thể bằng ống nghe. Nó cung cấp các thông tin về sự di
chuyển của khí hay dịch trong cơ thể. Ống nghe được đặt lên trên bề mặt của cơ thể để khuếch đại
các âm bình thường và không bình thường. Kết quả của thính chẩn nằm trong sự diễn giải của điều
dưỡng. Tham khảo với các điều dưỡng khác khi nghi ngờ. Nhiều hệ thống của cơ thể cần nghe là hô
hấp, tim, mạch, dạ dày và ruột.
Sự đánh giá ban đầu là tập hợp các nguồn thông tin và những nhu cầu cần thiết về tình trạng của
bệnh nhân, nó có ý nghĩa rất quan trọng. Đánh giá bao gồm sự tham gia hoạt động của bệnh nhân và
điều dưỡng, những thông tin thu thập được phải bao gồm cả khách quan và chủ quan.
2.1.2.4. Bệnh án của bệnh nhân
Bệnh án sẽ cung cấp thông tin về chẩn đoán bệnh của thầy thuốc đã từng điều trị và các xét
nghiệm cận lâm sàng cần thiết, đặc biệt là các thuốc đã sử dụng, thời gian sử dụng cũng như các
phương pháp chăm sóc đặc biệt khác.
2.2. Bước hai: Chẩn đoán điều dưỡng
2.2.1. Định nghĩa chẩn đoán điều dưỡng
Chẩn đoán điều dưỡng là một câu phát biểu về tình trạng hiện tại của bệnh nhân hay một khả
năng tiềm tàng đối với một vấn đề sức khoẻ mà người điều dưỡng được phép và có khả năng chăm
sóc thành thạo.
2.2.2. Xác định các vấn đề của bệnh nhân (nhu cầu người bệnh)
Trước khi hình thành các chẩn đoán điều dưỡng, người điều dưỡng phải xác định các vấn đề
chăm sóc sức khoẻ chung của bệnh nhân. Ví dụ, sau khi nhận định, điều dưỡng có được các nhu cầu
của bệnh nhân là: khó thở, nhịp thở tăng, ho và điều dưỡng có thể nhận ra rằng bệnh nhân có vấn đề
về hô hấp nói chung. Tuy nhiên trước khi điều dưỡng có thể đưa ra những chăm sóc hiệu quả thì vấn
đề phải được xác định một cách riêng biệt hơn. Khi xác định những vấn đề này, điều dưỡng xem xét
tất cả các dữ kiện trong phần nhận định và tập trung vào các dữ kiện bất thường, thích đáng.
Việc xác định vấn đề được xem như là một chăm sóc sức khỏe chung chung và việc hình thành
các chẩn đoán điều dưỡng được xem như là vấn đề chăm sóc sức khỏe riêng biệt. Điều dưỡng phải
biết biến những cái chung thành cái riêng.
Để xác định nhu cầu của bệnh nhân thì trước tiên người điều dưỡng cần phải xác định được vấn
đề sức khoẻ của bệnh nhân là gì và xem chúng là vấn đề hiện tại hay vấn đề tiềm tàng.
Vấn đề sức khỏe hiện tại là vấn đề mà bệnh nhân cảm nhận được và đang trải qua. Ví dụ: "Rối
loạn kiểu ngủ do tiếng ồn của môi trường xung quanh".
Vấn đề sức khoẻ nguy cơ cảnh báo điều dưỡng phải có những can thiệp dự phòng. Các yếu tố
nguy cơ trong chẩn đoán nguy cơ về điều dưỡng mô tả các tình huống làm tăng khả năng phơi nhiễm
của bệnh nhân với bệnh tật cũng như các tai nạn.
Bước xác định vấn đề này sẽ đưa điều dưỡng đến gần hơn với việc hình thành các chẩn đoán
điều dưỡng.
2.2.3. Cách hình thành các chẩn đoán điều dưỡng
Một chẩn đoán điều dưỡng được đưa ra dựa trên việc xác định nhu cầu của bệnh nhân. Một khi
các dữ liệu trong phần nhận định đã biểu lộ được vấn đề về sức khỏe thì người điều dưỡng hướng
trực tiếp đến việc lựa chọn các chẩn đoán điều dưỡng phù hợp. Phần chính của chẩn đoán dựa vào
việc xác định các nhu cầu hiện diện trong phần nhận định. Phần chính là một vấn đề, ví dụ: "nguy cơ
tổn thương" và yếu tố liên quan với nó, ví dụ: "do lú lẫn". Vấn đề là một khả năng tiềm tàng hay một
file://C:\Windows\Temp\ffpvjdbupf\dieu_duong_co_ban.htm
04/01/2013
BO Y TE - Dieu duong co ban 1
Page 14 of 168
tình trạng hiện tại về sức khỏe của bệnh nhân. Các vấn đề liên quan là các nguyên nhân hay các
yếu tố đóng góp làm ảnh hưởng đến nhu cầu của bệnh nhân.
Cụm từ "liên quan đến" hay "do" đã xác định nguyên nhân của vấn đề. Chẩn đoán điều dưỡng
không phải là một câu phát biểu nhân quả nhưng nó cũng chỉ ra nguyên nhân có thể đóng góp vào
hay có liên quan đến vấn đề.
Nguyên nhân của vấn đề trong chẩn đoán điều dưỡng phải nằm trong khả năng thực hành của
điều dưỡng và là một tình trạng mà điều dưỡng có thể áp dụng các can thiệp điều dưỡng. Trong một
số đơn vị, chẩn đoán y khoa được viết như là nguyên nhân của chẩn đoán điều dưỡng, điều này là
không đúng. Các can thiệp điều dưỡng không thể làm thay đổi các chẩn đoán y khoa. Ví dụ: chẩn
đoán điều dưỡng là: "đau do ung thư vú" là không đúng. Các can thiệp điều dưỡng không thể tác
động lên chẩn đoán y khoa của ung thư vú. Có thể phát biểu lại bằng cách khác: "đau do tổn thương
da thứ phát sau mổ khối u vú". Các can thiệp điều dưỡng là: làm tăng sự thoải mái, kiểm soát đau và
chăm sóc vết mổ.
Vì tình trạng sức khoẻ của bệnh nhân thay đổi, chẩn đoán điều dưỡng sẽ được thay đổi. Ví dụ:
các dữ kiện thu thập được trong phần nhận định là: chất xơ trong chế độ ăn giảm, lượng dịch đưa vào
ít, âm ruột giảm, bụng dưới chướng, phân cứng khi thăm khám trực tràng. Chẩn đoán điều dưỡng
thích hợp nhất là: "táo bón do chế độ ăn bị hạn chế chất xơ".
Nếu một vần đề về sức khoẻ được giải quyết thì chẩn đoán điều dưỡng không còn nữa. Khi tình
trạng sinh lý và cảm xúc của bệnh nhân thay đổi, vấn đề về sức khoẻ hầu như vẫn còn nhưng nguyên
nhân có thể sẽ thay đổi. Vì vậy điều dưỡng phải thay đổi các chẩn đoán điều dưỡng bằng cách thay
đổi nguyên nhân.
Nếu một vấn đề mới phát sinh thì điều dưỡng phải phát triển một chẩn đoán mới phản ánh sự
thay đổi nhu cầu và tình trạng của bệnh nhân.
Sự thay đổi các chẩn đoán điều dưỡng là liên tục. Khi mức độ chẩn đoán điều dưỡng và mức độ
khoẻ mạnh của bệnh nhân thay đổi, những sự thay đổi này được phản ánh qua câu phát biểu về chẩn
đoán điều dưỡng. Những chẩn đoán điều dưỡng cũ không phản ánh chính xác nhu cầu hiện tại của
bệnh nhân.
Chẩn đoán điều dưỡng có thể liên quan chẩn đoán điều trị và cả hai chẩn đoán sẽ bổ sung cho
nhau. Chẩn đoán điều dưỡng có liên quan tới chức năng độc lập của người điều dưỡng (chức năng
đặc trưng của nghề điều dưỡng). Nó là đặc điểm của công tác chăm sóc và được tách biệt khỏi chữa
bệnh. Người điều dưỡng bắt buộc phải thực hiện các y lệnh điều trị, đó là chức năng phụ thuộc.
Bảng 2.1. Những điểm khác nhau giữa chẩn đoán điều dưỡng và chẩn đoán điều trị
Chẩn đoán điều trị
Chẩn đoán điều dưỡng
- Mô tả một quá trình bệnh tật riêng biệt, nó
cũng giống nhau đối với tất cả các bệnh nhân
và hướng tới xác định bệnh.
- Mô tả sự phản ứng đối với bệnh tật của một
bệnh nhân, nó khác nhau đối từng bệnh nhân.
- Tồn tại không thay đổi trong suốt thời gian
ốm.
- Thay đổi khi phản ứng của bệnh nhân thay
đổi.
- Bổ sung cho chẩn đoán điều dưỡng.
- Bổ sung cho các chẩn đoán điều trị.
- Diễn giải liên quan đến cơ quan bị bệnh.
- Diễn giải các nhu cầu (phản ứng của bệnh)
và lý do của các nhu cầu cần chăm sóc.
Người điều dưỡng phải có nghĩa vụ thiết lập chẩn đoán điều dưỡng. Lời tuyên bố phải được viết
rõ ràng những giới hạn súc tích, bao gồm hai thành phần:
- Bày tỏ sự phản ứng của bệnh nhân đối với bệnh tật hoặc nhu cầu cần thiết mà người bệnh yêu
cầu.
- Những yếu tố hướng đến nguyên nhân hay những phản ứng có thể xảy ra.
file://C:\Windows\Temp\ffpvjdbupf\dieu_duong_co_ban.htm
04/01/2013
BO Y TE - Dieu duong co ban 1
Page 15 of 168
Hai phần này được nối liền với nhau bằng sử dụng những từ ngữ liên quan hoặc liên kết với
nhau.
2.2.4. Những đặc điểm của lời tuyên bố điều dưỡng
- Rõ ràng và súc tích.
- Chính xác.
- Đặc biệt là hướng tới bệnh nhân.
- Liên quan tới khó khăn của bệnh nhân.
- Dựa vào những thông tin đáng tin cậy thu được trong quá trình nhận định.
2.2.5. Những điều lưu ý khi viết chẩn đoán điều dưỡng
- Nói rõ những đặc điểm và những vấn đề cần thiết.
- Sử dụng những từ ngữ dễ hiểu.
- Tránh sử dụng những triệu chứng như chẩn đoán chữa bệnh.
- Không nói đi nói lại cùng một điều, cùng một vấn đề.
- Các từ ngữ làm cho các nhân viên y tế đều hiểu được.
- Cố gắng nhận xét khách quan khi viết những tuyên bố, tránh phân tích.
2.3. Bước ba: Lập kế hoạch chăm sóc
2.3.1. Định nghĩa
Kế hoạch chăm sóc là hàng loạt các hoạt động chăm sóc theo yêu cầu để ngăn ngừa hay giảm
bớt, hoặc loại trừ những khó khăn của bệnh nhân đã được xác định trong khi nhận định. Kế hoạch
chăm sóc bao gồm quyết định chăm sóc và giải quyết các vấn đề. Công việc này phụ thuộc rất nhiều
vào kiến thức, kỹ năng, thái độ nghề nghiệp của người điều dưỡng đối với bệnh nhân.
2.3.2. Những thành phần của kế hoạch chăm sóc
- Mục đích của lập kế hoạch chăm sóc:
+ Kế hoạch chăm sóc được xem như là một hướng dẫn chăm sóc bệnh nhân.
+ Để thảo luận với các điều dưỡng khác, với các chuyên gia chăm sóc sức khỏe về các dữ liệu
đánh giá, tất cả các vấn đề của bệnh nhân và liệu pháp chăm sóc.
+ Kế hoạch chăm sóc tốt sẽ làm giảm nguy cơ chăm sóc không đúng và không hợp lý.
+ Điều dưỡng có thể xác định các can thiệp điều dưỡng nhanh chóng với một kế hoạch chăm sóc
tốt đã có từ trước.
- Kế hoạch chăm sóc gồm 4 thành phần, đó là:
+ Đề xuất những vấn đề ưu tiên.
+ Thiết lập những mục đích của bệnh nhân và kết quả mong chờ.
+ Lập kế hoạch các hoạt động chăm sóc.
+ Viết một kế hoạch chăm sóc.
2.3.2.1. Đề xuất những vấn đề ưu tiên
Là để sắp xếp và quyết định những vấn đề ưu tiên, công việc này đòi hỏi rất nhiều vào kiến thức,
file://C:\Windows\Temp\ffpvjdbupf\dieu_duong_co_ban.htm
04/01/2013
BO Y TE - Dieu duong co ban 1
Page 16 of 168
sự hiểu biết và những kinh nghiệm của người điều dưỡng trưởng. Đầu tiên phải quyết định
những khó khăn nào của bệnh nhân cần phải được giải quyết ngay trong số các khó khăn đã nhận
định được ở bệnh nhân. Những vấn đề ưu tiên cho bệnh nhân bao gồm:
- Những vấn đề đe doạ cuộc sống của bệnh nhân (khó thở, xuất huyết).
- Những tình trạng cần phải chú ý ngay tức khắc.
- Những tình trạng rất quan trọng đối với bệnh nhân (ví dụ như đau hay lo lắng).
Chẩn đoán vấn đề ưu tiên là những chẩn đoán có khả năng đe doạ cuộc sống của bệnh nhân và
cần phải hành động ngay. Để làm được vấn đề này, điều dưỡng cần phải đặt ra các câu hỏi:
+ Khó khăn đó có đe doạ cuộc sống nghiêm trọng không?
+ Vấn đề này có ảnh hưởng đến sự an toàn của bệnh nhân không?
+ Đây có phải là những nhu cầu thực tại mà bệnh nhân cần không?
+ Vấn đề đó có phải gia đình bệnh nhân và bệnh nhân không biết không?
Khi xếp đặt những vấn đề ưu tiên, phải sử dụng một mẫu hoặc một sườn như bảng bậc thang nhu
cầu của MASLOW về những nhu cầu cơ bản.
Những vấn đề ưu tiên đã được xác định có thể không tồn tại cố định, vì vậy người điều dưỡng
cần phải thay đổi ngay khi tình trạng của bệnh nhân tiến triển hoặc khi có y lệnh điều trị mới.
2.3.2.2. Thiết lập những mục đích (kết quả mong chờ)
Sau khi nhận biết được những khó khăn của bệnh nhân, bước tiếp theo là thiết lập mục đích.
Thiết lập mục đích là một trong những hoạt động chăm sóc, vì nó tập trung vào chăm sóc cá thể.
Những mục đích của bệnh nhân có thể cho bệnh nhân biết để bệnh nhân tự làm được, phụ giúp sự
chăm sóc và các hoạt động chăm sóc.
Mục đích chăm sóc phải được lựa chọn để khi thực hiện sẽ thích ứng với cơ sở. Nó sẽ cung cấp
cho việc đánh giá kết quả của công tác chăm sóc. Ý định của những mục tiêu đối với bệnh nhân:
- Cung cấp sự chỉ dẫn để thiết lập các hoạt động chăm sóc.
- Chuẩn bị một giai đoạn thời gian để thực hiện kế hoạch chăm sóc.
- Cung cấp một tiêu chuẩn để đánh giá các hoạt động chăm sóc đã đạt được.
Ví dụ: Bệnh nhân khó thở do ứ đọng đàm giải, thì mục đích mong chờ là làm giảm hoặc mất khó
thở cho bệnh nhân.
2.3.2.3. Lập kế hoạch các hoạt động chăm sóc
Khi lập kế hoạch chăm sóc, người điều dưỡng trưởng phải xem xét những phương tiện, thiết bị,
nguồn nhân lực sẵn có cũng như khả năng nhân viên, thời gian và điều kiện của bệnh nhân và thân
nhân của họ.
Những hoạt động chăm sóc đã lập có thể thực hiện được một lần, hoặc tiếp tục thực hiện trong
một thời gian.
Những hoạt động chăm sóc cần phải được các nhân viên điều dưỡng tham gia vào công tác chăm
sóc.
2.3.2.4. Viết kế hoạch chăm sóc
Mục đích của hoạt động chăm sóc là giúp cho bệnh nhân đạt được các nhu cầu cơ bản của họ. Kế
hoạch chăm sóc có thể bao gồm những mục đích dài hạn và những mục đích đặc biệt. Mục đích được
dựa vào sự đánh giá bệnh nhân của điều dưỡng, dựa vào chẩn đoán điều dưỡng, những nhu cầu cần
thiết của bệnh nhân. Tất cả mục đích phải được coi như mục đích của điều trị bệnh vì nó cung cấp
một chỉ dẫn đối với chăm sóc từng cá thể. Khi viết kế hoạch chăm sóc cần lưu ý:
file://C:\Windows\Temp\ffpvjdbupf\dieu_duong_co_ban.htm
04/01/2013
BO Y TE - Dieu duong co ban 1
Page 17 of 168
- Với một kế hoạch chăm sóc thì tập trung vào chăm sóc cá nhân bệnh nhân hơn là vào nhiệm vụ
như: tiêm, lấy máu xét nghiệm,...
- Cung cấp về thông tin thuận lợi cho tất cả các nhân viên tham gia vào công tác chăm sóc bệnh
nhân.
- Cung cấp những chỉ số để đánh giá về chất lượng chăm sóc.
- Cách viết mệnh lệnh chăm sóc:
Các mệnh lệnh được viết bằng những từ đơn giản và phải được tất cả các nhân viên y tế hiểu
được. Mệnh lệnh chăm sóc bao gồm 5 thành phần:
+ Các mệnh lệnh bắt đầu bằng động từ hành động và có nội dung rõ ràng. Ví dụ: đo và ghi chép
lại số lượng nước tiểu 24 giờ, thay băng 6 giờ/lần, thay đổi tư thế 2 giờ/lần,...
+ Nội dung của viết các mệnh lệnh chăm sóc là: ở đâu, cái gì sẽ được làm và cái gì là cần thiết để
thực hiện hoạt động này, nó phải được làm như thế nào? Ví dụ: chườm lạnh ở đâu, bao giờ làm, ai
làm, làm khi nào...
+ Thời gian: trong khoảng thời gian nào? quy định thời gian như thế nào? Ví dụ: cứ 2 giờ bắt
mạch 1 lần, đo nhiệt độ 1 lần.
+ Ký tên: người điều dưỡng trưởng viết ra mệnh lệnh phải ký tên.
+ Người điều dưỡng thực hiện chăm sóc cũng phải ghi kết quả, nhận xét và ký tên mình sau khi
đã làm xong.
Vì vậy kế hoạch chăm sóc là một loạt các hoạt động chăm sóc người bệnh. Điều dưỡng trưởng
có trách nhiệm chính về việc thiết lập các kế hoạch hoạt động chăm sóc trong khoa mình. Khi mới
bắt đầu làm sẽ gặp một số khó khăn. Nhưng qua một thời gian, điều dưỡng trưởng sẽ có kinh nghiệm
và trở nên thành thạo trong việc lập kế hoạch chăm sóc.
2.4. Bước bốn: Thực hiện kế hoạch chăm sóc
Bước bốn của quy trình điều dưỡng là giai đoạn thực hiện, triển khai kế hoạch chăm sóc bệnh
nhân. Người điều dưỡng đồng thời phải chủ động với hành động chăm sóc của mình; vừa phải thực
hiện các y lệnh điều trị của bác sĩ. Hoạt động chăm sóc phải được thực hiện với một trách nhiệm cao
và mỗi điều dưỡng viên phải chịu trách nhiệm về công việc mình làm.
- Phải biết an ủi, khuyên nhủ và giúp đỡ bệnh nhân.
- Phải thực hiện các hoạt động chính xác và cẩn thận.
- Phải biết theo dõi và phòng ngừa các biến chứng.
- Phải luôn tôn trọng người bệnh.
- Phải báo cáo thường xuyên mọi sự thay đổi về tình trạng của người bệnh cho bác sĩ điều trị và
điều dưỡng trưởng.
2.5. Bước năm: Đánh giá quá trình chăm sóc
Đánh giá quá trình chăm sóc là kiểm tra lại kế hoạch chăm sóc mà người điều dưỡng lập ra, bệnh
nhân có được chăm sóc không? và đạt được ở mức độ nào? Những nhu cầu nào của bệnh nhân đã
được giải quyết và những nhu cầu nào còn chưa thực hiện được?
- Xác định các kết quả mong muốn: các kết quả mong muốn đã được xác định trong bước lập kế
hoạch chăm sóc là các tiêu chuẩn được sử dụng để lượng giá đáp ứng của bệnh nhân đối với các can
thiệp điều dưỡng.
- Thu thập các dữ kiện: người điều dưỡng phải tiến hành thu thập các dữ kiện bằng cách đặt ra
những câu hỏi hết sức rõ ràng, chính xác. Những dữ kiện mà điều dưỡng thu thập có thể là những dữ
kiện khách quan cũng như những dữ kiện chủ quan. Những dữ kiện chủ quan có thể là những lời
file://C:\Windows\Temp\ffpvjdbupf\dieu_duong_co_ban.htm
04/01/2013
BO Y TE - Dieu duong co ban 1
Page 18 of 168
phàn nàn của bệnh nhân như: "Tôi cảm thấy đau hơn ngày hôm qua" hoặc một số dữ kiện khác
mà người điều dưỡng đánh giá qua thăm khám thực thể như: đánh giá mức độ mất nước so với trước
khi tiến hành các can thiệp điều dưỡng. Những dữ liệu này cần phải ghi lại chính xác để phán đoán
xem các kết quả mong muốn có đạt được hay không.
Nội dung lượng giá bao gồm:
+ Hành động chăm sóc có được thực hiện theo kế hoạch không?
+ Thông tin phản hồi của bệnh nhân và người nhà bệnh nhân được chăm sóc như thế nào?
+ Các y lệnh điều trị (dùng thuốc, chăm sóc đặc biệt) có được thực hiện không?
+ Tình trạng bệnh tật của bệnh nhân tiến triển ra sao? (qua hỏi bệnh, thăm khám và theo dõi).
- Phán đoán việc đạt được kết quả mong muốn: nếu hai phần trên đã được thực hiện một cách có
đầy đủ và chính xác thì việc xác định xem những kết quả mong muốn trên có đạt được hay không rất
dễ dàng. Cả bệnh nhân và điều dưỡng đều đóng một vai trò rất tích cực trong việc đánh giá các đáp
ứng thực sự của bệnh nhân với các kết quả mong muốn.
- Khi xác định các mục tiêu có đạt được hay không thì người điều dưỡng có thể có được 1 trong
3 kết luận:
+ Mục tiêu đã đạt được, nghĩa là đáp ứng của bệnh nhân giống như kết quả mong muốn.
+ Mục tiêu chỉ đạt được một phần, nghĩa là mục tiêu trước mắt là đạt được nhưng mục tiêu lâu
dài là không đạt được hoặc là kết quả mong muốn chỉ đạt được một phần.
+ Mục tiêu hoàn toàn không đạt được.
Sau khi quyết định mục tiêu có đạt được hay không thì người điều dưỡng phải ghi lại câu kết
luận với hai phần: phần kết luận và phần các dữ kiện chứng minh.
Trong đó phần lượng giá là một câu phát biểu xem kế hoạch chăm sóc có đạt được hay không,
còn phần các dữ kiện chứng minh là một loạt các đáp ứng của bệnh nhân để chứng minh cho kết luận
đó. Ví dụ: Đạt được kết quả mong muốn: lượng dịch đưa vào nhiều hơn lượng dịch thải ra là 300ml,
niêm mạc ẩm, sức căng da tốt.
- Trên cơ sở đó, nếu những kế hoạch chăm sóc nào chưa thực hiện được thì người điều dưỡng
phải xem xét lại những đánh giá trong phần nhận định của mình đã đúng chưa? và những kế hoạch
chăm sóc có đúng không? để có thể điều chỉnh kế hoạch chăm sóc cho ngày hôm sau nhằm chăm sóc
tốt hơn các nhu cầu người bệnh.
LƯỢNG GIÁ
1. Hãy nêu 5 thành phần của quy trình chăm sóc.
2. Hãy nêu 5 nguồn cung cấp thông tin chính mà điều dưỡng có thể sử dụng.
3. Chọn câu trả lời đúng:
- Mục đích của nhận định là:
A. Thiết lập các thông tin cơ bản trên bệnh nhân.
B. Xác định các chức năng bình thường của bệnh nhân.
C. Là một hướng dẫn chăm sóc cho bệnh nhân.
D. Xác định các rối loạn trên bệnh nhân.
E. Đánh giá tình trạng sức khỏe của bệnh nhân.
F. Cung cấp các dữ liệu cho giai đoạn chẩn đoán.
- Chọn câu đúng:
file://C:\Windows\Temp\ffpvjdbupf\dieu_duong_co_ban.htm
04/01/2013
BO Y TE - Dieu duong co ban 1
Page 19 of 168
A. Trực giác đóng một vai trò rất quan trọng trong việc phân tích các dữ liệu, các quyết định
lâm sàng, và trong thực hiện các hành động của điều dưỡng nên có thể chỉ dùng trực giác
trong quy trình điều dưỡng.
B. Không dùng trực giác trong quy trình điều dưỡng vì đã có những kỹ năng khác trong kỹ
năng thăm khám.
4. Chọn câu trả lời đúng nhất
4.1. Chẩn đoán điều dưỡng có đặc điểm, ngoại trừ:
a. Mô tả sự phản ứng đối với bệnh tật của một bệnh nhân.
b. Thay đổi khi phản ứng của bệnh nhân thay đổi.
c. Bổ sung cho chẩn đoán điều trị.
d. Là chỉ dẫn điều trị bệnh mà điều dưỡng có thể thực hiện.
e. Tồn tại không thay đổi trong suốt quá trình điều trị.
4.2. Hãy chọn câu trả lời đúng nhất
(A) Những vấn đề ưu tiên trên bệnh nhân đã được xác định khi chăm sóc có thể không còn
tồn tại, vì vậy (B) người điều dưỡng phải thay đổi vấn đề ưu tiên ngay khi tình trạng của
bệnh nhân tiến triển hoặc khi có y lệnh điều trị mới.
a. A đúng, B đúng; A và B có quan hệ nhân quả.
b. A đúng, B đúng; A và B không có quan hệ nhân quả.
c. A đúng, B sai.
d. A sai, B đúng.
e. A sai, B sai.
Bài 3
NHU CẦU CƠ BẢN CỦA CON NGƯỜI
MỤC TIÊU
1. Trình bày được nhu cầu cơ bản của con người theo phân loại của Maslow.
2. Giải thích được sự liên quan giữa nhu cầu và nguyên tắc điều dưỡng.
3. Kể được các nhu cầu cơ bản của người bệnh và cách chăm sóc.
1. KHÁI NIỆM VỀ NHU CẦU
Nhu cầu là những đòi hỏi của con người về điều kiện vật chất, tinh thần để sống, tồn tại và phát
triển. Trong cuộc sống hằng ngày của con người, nhu cầu, xu hướng biểu hiện ra bên ngoài thể hiện,
những hứng thú, niềm tin, thế giới quan,... Vai trò của nhu cầu là biểu hiện đầu tiên tính tích cực của
họ, chính nhu cầu kích thích họ hoạt động. Không có nhu cầu, không có hoạt động. Toàn bộ cuộc
sống, tâm lý của con người đặc biệt về mặt đạo đức chịu ảnh hưởng rất lớn của nhu cầu. Người ta
thường chia ra các nhu cầu sau:
1.1. Nhu cầu của động vật
file://C:\Windows\Temp\ffpvjdbupf\dieu_duong_co_ban.htm
04/01/2013
BO Y TE - Dieu duong co ban 1
Page 20 of 168
- Chỉ là những nhu cầu phục vụ cho đời sống sinh vật để tồn tại, duy trì nòi giống.
- Con vật chỉ thoả mãn các nhu cầu từ trong thiên nhiên (ăn sẵn) chứ không tự tạo ra nhu cầu và
các công cụ để thoả mãn và thực hiện các nhu cầu của nó.
1.2. Nhu cầu của con người
- Khác xa với nhu cầu của động vật. Nhu cầu của con người phong phú, đa dạng, phức tạp hơn
nhiều:
+ Thoả mãn nhu cầu này lại đòi hỏi nhu cầu khác.
+ Càng biết càng muốn biết nhiều hơn.
- Phương tiện để thoả mãn nhu cầu cũng đa dạng hơn.
- Nhu cầu được cá nhân nhận thức ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn về ý nghĩa của nó đối với sự
tồn tại và phát triển của mình. Lúc đó, nhu cầu trở thành động lực thúc đẩy cá nhân hoạt động nhằm
thoả mãn nhu cầu. Vì vậy, trong sự gắn bó với thế giới xung quanh, con người không phụ thuộc vào
thế giới một cách thụ động như con vật mà trái lại, trong mối quan hệ này con người xuất hiện như
một hành động tích cực, sáng tạo. Do đó con người tạo ra nhu cầu và các phương tiện để thoả mãn
nhu cầu.
1.3. Nhu cầu vật chất
Nhu cầu vật chất có liên quan trực tiếp đến sự tồn tại của cá thể con người, có cội nguồn sâu xa
từ bên trong cơ thể (ăn, ở, mặc,...).
1.4. Nhu cầu tinh thần
Có liên quan trực tiếp với những đòi hỏi về cái đẹp, nó có cuội nguồn sâu xa từ trong nền văn
minh làm nên lực lượng bản chất con người. Chẳng hạn về nghệ thuật (văn học, âm nhạc, điêu khắc,
kiến trúc,...); về khoa học,... Sẽ là sai lầm nếu nói tách bạch một cách máy móc và tuyệt đối giữa nhu
cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Dù là nhu cầu vật chất hay nhu cầu tinh thần đều là nhu cầu mang
bản chất con người, được quy định bởi những điều kiện xã hội - lịch sử.
2. MỘT SỐ NHU CẦU VỀ CON NGƯỜI
2.1. Nhu cầu về sinh lý
Là những nhu cầu sống còn như: oxy, nước uống, thức ăn, chất thải cặn bã, hoạt động, nghỉ, tình
dục,...
2.2. Nhu cầu về sự an toàn
Sự ổn định về kinh tế, việc làm, sự ổn định về tâm thần, an toàn cá nhân,...
2.3. Nhu cầu về tình cảm và sự tự trọng
Thể hiện trong sự cư xử để gây thiện cảm, cảm tình của người khác. Nhu cầu được người khác
kính nể và tôn trọng mình.
2.4. Nhu cầu về tự giải quyết hay tự thể hiện (lãnh đạo)
Cá nhân muốn được hoạt động độc lập, sáng tạo, muốn làm chủ trong công việc của mình vì
cuộc sống hằng ngày.
file://C:\Windows\Temp\ffpvjdbupf\dieu_duong_co_ban.htm
04/01/2013
BO Y TE - Dieu duong co ban 1
Page 21 of 168
2.5. Nhu cầu được đánh giá
Cá nhân nào cũng có nhu cầu được đánh giá. Sự khen chê đúng mức, chân thực, chính xác khiến
cá nhân hoạt động tích cực hơn và ngược lại.
Bảng phân loại nhu cầu của Maslow: đối tượng của điều dưỡng là con người bao gồm người
khỏe và người có bệnh tật. Con người được tạo ra bởi các yếu tố thể chất, tinh thần và xã hội. Các
nhu cầu cần thiết để duy trì các yếu tố tạo ra con người gọi là nhu cầu cơ bản, hay còn gọi là các nhu
cầu để tồn tại và phát triển của con người.
Người ta cho rằng: mỗi một cá thể ở một phương diện nào đó giống tất cả mọi người, ở một
phương diện khác chỉ giống một số người và có những phương diện không giống ai cả. Như vậy, con
người vừa có tinh thần đồng nhất vừa có tính duy nhất nên việc chăm sóc phải xuất phát từ nhu cầu
và sở thích của từng cá nhân sao cho phù hợp với từng đối tượng. Tuy nhiên, khi một nhu cầu thiết
yếu được thoả mãn, con người chuyển sang một nhu cầu khác cao hơn. Bảng phân loại của
"Maslow" phản ánh được thứ bậc của các nhu cầu và có thể được sắp xếp như sau:
- Những nhu cầu về thể chất, sinh lý.
- Những nhu cầu về an toàn, an ninh.
- Những nhu cầu thuộc về quyền sở hữu và tình cảm.
- Những nhu cầu về sự kính mến và lòng tự trọng.
- Những nhu cầu về sự tự hoạt động bao gồm sự tự hoàn thiện, lòng ao ước muốn hiểu biết cùng
với những nhu cầu về thẩm mỹ.
Những nhu cầu ở mức độ thấp luôn tồn tại, cho đến khi những nhu cầu được thoả mãn con người
có khả năng chuyển sang những nhu cầu khác ở mức độ cao hơn. Hệ thống thứ bậc của các nhu cầu
rất hữu ích để làm nền tảng trong việc nhận định về sức chịu đựng của người bệnh, những giới hạn
và nhu cầu đòi hỏi sự can thiệp về điều dưỡng.
3. NHU CẦU CỦA CON NGƯỜI
3.1. Nhu cầu về thể chất và sinh lý
Nhu cầu về thể chất và sinh lý là nền tảng của hệ thống phân cấp nhu cầu và được ưu tiên hàng
đầu. Nhu cầu về thể chất và sinh lý bao gồm: oxy, thức ăn, nước uống, bài tiết, vận động, ngủ, nghỉ
ngơi,... Các nhu cầu này cần được đáp ứng tối thiểu để duy trì sự sống. Đáp ứng nhu cầu thể chất là
một phần quan trọng trong kế hoạch chăm sóc cho trẻ em, người già, người có khuyết tật và người
ốm. Bởi vì những nhóm người này cần sự hỗ trợ để đáp ứng nhu cầu cho chính họ.
3.2. Nhu cầu an toàn và được bảo vệ
Nhu cầu an toàn và được bảo vệ được sắp xếp ưu tiên sau nhu cầu thể chất, bao hàm cả an toàn
về tính mạng và an toàn về tinh thần. An toàn về tính mạng nghĩa là bảo vệ cho người ta tránh được
các nguy cơ đe doạ cuộc sống và an toàn về tinh thần là tránh được mọi sự sợ hãi và lo lắng. Người
bệnh khi vào bệnh viện có sự đòi hỏi rất cao về nhu cầu an toàn và bảo vệ vì cuộc sống, tính mạng
của họ phụ thuộc vào cán bộ y tế.
Để giúp bảo vệ người bệnh khỏi bị nguy hiểm, người điều dưỡng phải biết rõ tính chất, đặc điểm
của bệnh nhân và nhận biết rõ bất kỳ những tai biến nào có thể xảy đến cho bệnh nhân, và nếu có
biến chứng xảy ra, người điều dưỡng có thể xử trí một cách đúng đắn.
3.3. Nhu cầu tình cảm và quan hệ
Mọi người đều có nhu cầu tình cảm quan hệ bạn bè, hàng xóm, gia đình và xã hội. Các nhu cầu
này được xếp vào nhu cầu ở mức cao. Nó bao hàm sự trao - nhận tình cảm. Người không được đáp
ứng về tình cảm, không có mối quan hệ bạn bè, xã hội có cảm giác buồn tẻ và cô lập. Người điều
file://C:\Windows\Temp\ffpvjdbupf\dieu_duong_co_ban.htm
04/01/2013
BO Y TE - Dieu duong co ban 1
Page 22 of 168
dưỡng cần xem xét nhu cầu này của bệnh nhân khi lập kế hoạch chăm sóc.
3.4. Nhu cầu được tôn trọng
Sự tôn trọng tạo cho con người lòng tự tin và tính độc lập. Khi sự tôn trọng không được đáp ứng,
người ta tin rằng họ không được người khác chấp nhận nên sinh ra cảm giác cô độc và tự ty. Điều
dưỡng đáp ứng nhu cầu hằng ngày của người bệnh bằng thái độ thân mật, niềm nở và chú ý lắng
nghe ý kiến của người bệnh.
3.5. Nhu cầu tự hoàn thiện
Nhu cầu tự hoàn thiện là mức cao nhất trong hệ thống phân loại nhu cầu của Maslow và Maslow
đánh giá rằng chỉ 1% dân số trưởng thành đã từng đạt đến mức độ tự hoàn thiện. Nhu cầu tự hoàn
thiện diễn ra trong suốt cuộc đời, nó chỉ xuất hiện khi các nhu cầu dưới nó được đáp ứng trong
chừng mực nhất định. Các nhu cầu cơ bản càng được đáp ứng thì càng tạo ra động lực sáng tạo và tự
hoàn thiện ở mỗi cá thể. Người điều dưỡng cần biết đánh giá đúng những nhu cầu, kinh nghiệm, kiến
thức và thẩm mỹ của người bệnh để từ đó có sự quan tâm và lập kế hoạch chăm sóc thích hợp.
4. SỰ LIÊN QUAN GIỮA NHU CẦU VÀ NGUYÊN TẮC ĐIỀU DƯỠNG
4.1. Nguyên tắc điều dưỡng
Người khỏe mạnh tự đáp ứng được các nhu cầu của họ. Khi bị bệnh tật, ốm yếu người bệnh
không tự đáp ứng được nhu cầu hằng ngày cho chính mình nên cần sự hỗ trợ của người điều dưỡng.
Nhu cầu chăm sóc sức khỏe nhân dân dẫn đến sự ra đời của ngành Y tế và cán bộ y tế.
4.2. Nhu cầu của con người vừa có tính đồng nhất vừa có tính duy nhất
Nhu cầu của con người vừa có tính đồng nhất vừa có tính duy nhất nên điều dưỡng cần có kế
hoạch chăm sóc riêng biệt cho từng bệnh nhân. Nhu cầu con người tuy cơ bản giống nhau nhưng
mức độ và tầm quan trọng đối với từng nhu cầu ở từng người có khác nhau. Hơn nữa, trong cùng
một con người nhu cầu này có thể mạnh hơn nhu cầu khác và thay đổi mức ưu tiên theo từng giai
đoạn của cuộc sống, người điều dưỡng cần nhận biết được các nhu cầu ưu tiên của người bệnh để lập
kế hoạch chăm sóc thích hợp.
4.3. Nhu cầu giống nhau nhưng cách đáp ứng có thể khác nhau
Nhu cầu giống nhau nhưng cách đáp ứng có thể khác nhau để thích hợp với từng cá thể. Việc
chăm sóc người bệnh cần hướng tới từng cá thể, tuỳ từng trường hợp, từng hoàn cảnh sao cho phù
hợp.
4.4. Sự tham gia của người bệnh vào quá trình chăm sóc
Chăm sóc xuất phát từ nhu cầu của người bệnh, thông thường người bệnh hiểu rõ nhu cầu của
họ, trừ trường hợp bệnh nhân hôn mê, tâm thần..., nên khi lập kế hoạch chăm sóc điều dưỡng cần
tham khảo ý kiến bệnh nhân và gia đình bệnh nhân để tạo cho họ tham gia tích cực vào quá trình
điều trị, chăm sóc, phục hồi sức khỏe của chính họ.
4.5. Điều dưỡng cần tạo ra môi trường chăm sóc
Điều dưỡng cần tạo ra môi trường chăm sóc thích hợp để người bệnh được thoải mái, mau chóng
lành bệnh, hoặc nếu chết thì chết được thanh thản nhẹ nhàng.
5. NHU CẦU CƠ BẢN CỦA NGƯỜI BỆNH VÀ CHĂM SÓC
file://C:\Windows\Temp\ffpvjdbupf\dieu_duong_co_ban.htm
04/01/2013
BO Y TE - Dieu duong co ban 1
Page 23 of 168
Do bệnh tật mà một loạt các nhu cầu của người bệnh không được thoả mãn, người điều dưỡng,
người thầy thuốc phải đón trước và đáp ứng các nhu cầu ấy của người bệnh, nghĩa là cần sự giúp đỡ,
chăm sóc họ, hoặc cung cấp các điều kiện, để người bệnh thoả mãn các nhu cầu cơ bản của mình.
Theo Virgiria Henderson, chuyên gia điều dưỡng người Mỹ, các nhu cầu cơ bản của người bệnh là:
- Đáp ứng các nhu cầu về hô hấp và tim mạch:
+ Cho bệnh nhân nằm ở những tư thế thích hợp (tư thế đầu cao), ở phòng thông thoáng để đảm
bảo hô hấp tốt.
+ Hút các dịch, đờm dãi cho bệnh nhân để bệnh nhân dễ thở.
+ Trấn an tinh thần cho bệnh nhân.
- Giúp đỡ bệnh nhân về ăn, uống và dinh dưỡng:
+ Khuyến khích bệnh nhân ăn những thức ăn phù hợp với tình trạng bệnh tật và uống đầy đủ
lượng nước theo y lệnh.
+ Giáo dục cho bệnh nhân biết được tầm quan trọng việc cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng
và thành phần của một số loại thức ăn giàu dinh dưỡng.
- Giúp bệnh nhân trong sự bài tiết: thải trừ qua mọi đường bài tiết.
- Giúp đỡ bệnh nhân về tư thế, vận động và tập luyện: hoạt động và duy trì tư thế đứng, nằm,
ngồi, đi lại, di chuyển tư thế,...
+ Nếu bệnh nhân có thể đi lại được, khuyến khích bệnh nhân nên vận động.
+ Nếu bệnh nhân không đi lại được, người điều dưỡng trực tiếp giúp bệnh nhân vận động, tập
luyện hoặc yêu cầu người nhà giúp.
- Đáp ứng nhu cầu ngủ và nghỉ ngơi:
+ Không nên thực hiện các can thiệp điều dưỡng khi bệnh nhân đang ngủ nếu không cần thiết.
+ Tránh tiếng ồn không cần thiết của môi trường, như tiếng nói chuyện quá lớn của các nhân
viên y tế, tiếng ồn của người nhà bệnh nhân.
+ Tạo môi trường thích hợp cho từng loại bệnh nhân.
+ Chỉ cho phép người nhà bệnh nhân thăm viếng trong những thời gian nhất định để bệnh nhân
có đủ thời gian nghỉ ngơi.
- Giúp bệnh nhân mặc và thay áo quần: một số bệnh nhân không thể tự mặc hay thay quần áo
được thì người điều dưỡng giúp bệnh nhân, hoặc thảo luận và yêu cầu người nhà giúp đỡ.
- Giúp bệnh nhân duy trì thân nhiệt cơ thể:
+ Đắp chăn, ủ ấm cho bệnh nhân.
+ Cho bệnh nhân nằm ở phòng kín, tránh gió lùa.
+ Làm ấm các dụng cụ, xoa tay trước khi thăm khám,...
- Giúp bệnh nhân vệ sinh cá nhân hằng ngày, giữ cơ thể sạch sẽ.
Yêu cầu người nhà vệ sinh thân thể hằng ngày cho bệnh nhân, bên cạnh đó, người điều dưỡng
cũng phải đảm bảo thay ga trải giường thường xuyên, tạo một môi trường thoải mái cho bệnh nhân.
- Giúp bệnh nhân tránh được các nguy hiểm trong khi nằm viện và tránh tổn thương cho người
khác.
+ Đối với những bệnh nhân hôn mê, những bệnh nhân nhỏ thì yêu cầu giường phải có thanh
chắn.
+ Những bệnh nhân tâm thần trong giai đoạn kích thích phải ở trong phòng không có những vật
dụng có thể ảnh hưởng đến sự an toàn của bệnh nhân và cách ly với những bệnh nhân khác.
+ Những bệnh nhân mắc các bệnh lây thì phải được cách ly với những bệnh nhân khác,...
file://C:\Windows\Temp\ffpvjdbupf\dieu_duong_co_ban.htm
04/01/2013
BO Y TE - Dieu duong co ban 1
Page 24 of 168
- Giúp bệnh nhân trong sự giao tiếp:
+ Một số tình trạng bệnh làm bệnh nhân không thể giao tiếp tốt như trước kia nên người điều
dưỡng phải cố gắng tỏ ra lắng nghe và khuyến khích bệnh nhân giao tiếp.
+ Tập nói cho các bệnh nhân có rối loạn về phát âm.
- Giúp bệnh nhân thoải mái về tinh thần, tự do tín ngưỡng: trong quá trình chăm sóc bệnh nhân,
người điều dưỡng không được áp đặt các tín ngưỡng, tôn giáo của mình cho bệnh nhân và phải hết
sức tôn trọng tự do tín ngưỡng của bệnh nhân.
- Giúp bệnh nhân lao động, làm một việc để tránh mặc cảm là người vô dụng. Người bệnh sẽ
cảm thấy mình là người vô dụng vì không thể làm được các công việc như trước kia, một số bệnh
nhân thậm chí không thể làm các công việc vệ sinh cá nhân, họ sẽ rất chán nản. Vì vậy, người điều
dưỡng phải giúp bệnh nhân tập luyện để bệnh nhân có thể tự phục vụ bản thân và thảo luận với
người nhà để có các biện pháp hỗ trợ.
- Giúp bệnh nhân trong các hoạt động vui chơi, giải trí: liệu pháp tâm lý đóng một vai trò hết sức
quan trọng trong quá trình điều trị nên người điều dưỡng khuyến khích và tạo điều kiện cho bệnh
nhân tham gia vào các hoạt động vui chơi giải trí như nghe nhạc, xem ti vi, đi dạo,...
- Giúp bệnh nhân có kiến thức về y học: người điều dưỡng phải giáo dục cho bệnh nhân hiểu về
tình trạng bệnh của mình cũng như những kiến thức liên quan đến bệnh tật để bệnh nhân có thể phát
hiện sớm bệnh tật và hợp tác tốt trong việc điều trị.
Nhu cầu cơ bản của bệnh nhân và các nguyên tắc cơ bản của việc chăm sóc là cơ bản giống
nhau, nhưng không bao giờ có hai bệnh nhân có nhu cầu hoàn toàn giống nhau cả. Do đó, kế hoạch
chăm sóc được xây dựng riêng biệt tuỳ theo tuổi tác, giới tính, cá tính, hoàn cảnh văn hoá xã hội và
khả năng thể chất và tinh thần của người bệnh. Kế hoạch này còn bị ảnh hưởng bởi tình trạng bệnh lý
mà người bệnh đang mắc phải.
LƯỢNG GIÁ
1. Kể một số nhu cầu về con người:
A. Nhu cầu về sinh lý.
B. Nhu cầu về sự an toàn.
C. Nhu cầu về tình cảm và sự tự trọng.
D. .................................................................................................................................
E. .................................................................................................................................
2. Đánh dấu vào những câu đúng:
A. Nhu cầu về thể chất, sinh lý là mức cao nhất của con người.
B. Nhu cầu về thể chất, sinh lý là nền tảng của hệ thống phân cấp nhu cầu, và được ưu tiên
hàng đầu.
C. Maslow đánh giá rằng chỉ 1% dân số trưởng thành đã từng đạt đến mức độ tự hoàn thiện.
D. Trong cùng một con người, các nhu cầu có thể thay đổi mức ưu tiên theo từng giai đoạn
của cuộc sống.
3. (A) Nhu cầu của con người vừa có tính đồng nhất vừa có tính duy nhất vì vậy (B) Điều dưỡng
cần có kế hoạch chăm sóc riêng biệt cho từng bệnh nhân.
a. A đúng, B đúng; A và B có quan hệ nhân quả.
b. A đúng, B đúng; A và B không có quan hệ nhân quả.
c. A đúng, B sai.
file://C:\Windows\Temp\ffpvjdbupf\dieu_duong_co_ban.htm
04/01/2013
BO Y TE - Dieu duong co ban 1
Page 25 of 168
d. A sai, B đúng.
e. A sai, B sai.
Bài 4
HỒ SƠ BỆNH NHÂN VÀ CÁCH GHI CHÉP
MỤC TIÊU
1. Nêu được mục đích, nguyên tắc của việc ghi chép hồ sơ.
2. Trình bày được cách ghi chép và bảo quản hồ sơ bệnh nhân.
Hồ sơ bệnh nhân là các giấy tờ có liên quan đến quá trình điều trị của người bệnh tại một cơ sở y
tế trong một thời gian, mỗi loại có nội dung và tầm quan trọng riêng của nó. Hồ sơ được ghi chép
đầy đủ, chính xác, có hệ thống sẽ giúp cho công tác chẩn đoán, điều trị, phòng bệnh, nghiên cứu
khoa học và đào tạo đạt kết quả cao, nó cũng giúp cho việc đánh giá chất lượng về điều trị, tinh thần
trách nhiệm và khả năng của cán bộ. Vì vậy mỗi cán bộ y tế cần phải hiểu và thực hiện tốt việc sử
dụng và ghi chép hồ sơ.
1. MỤC ĐÍCH VÀ NGUYÊN TẮC CHUNG
1.1. Mục đích
- Phục vụ chẩn đoán: xác định, nguyên nhân, phân biệt.
- Theo dõi diễn biến của bệnh nhân và dự đoán các biến chứng.
- Theo dõi quá trình điều trị được liên tục nhằm rút kinh nghiệm bổ sung điều chỉnh về phương
pháp điều trị và phòng bệnh.
- Giúp việc thống kê, nghiên cứu khoa học và công tác huấn luyện.
- Đánh giá chất lượng điều trị, tinh thần trách nhiệm, khả năng của cán bộ.
- Theo dõi về hành chính và pháp lý.
1.2. Nguyên tắc chung
Tất cả hồ sơ cần ghi rõ ràng, chữ viết dễ đọc, dễ xem. Mỗi bệnh viện có thể có những quy định
riêng nhưng đều phải tuân theo những nguyên tắc chung:
1.2.1. Nguyên tắc sử dụng và ghi chép hồ sơ
- Tất cả các tiêu đề trong hồ sơ bệnh nhân phải được ghi chép chính xác, hoàn chỉnh (họ tên bệnh
nhân, địa chỉ, khoa điều trị,...).
- Chỉ ghi vào hồ sơ những công việc điều trị chăm sóc thuốc men do chính mình thực hiện. Chỉ
sao chép những chỉ định dùng thuốc và điều trị của bác sĩ khi đã được ghi vào hồ sơ bệnh nhân.
- Tất cả các thông số theo dõi phải được ghi vào phiếu theo dõi bệnh nhân hằng ngày, mô tả tình
file://C:\Windows\Temp\ffpvjdbupf\dieu_duong_co_ban.htm
04/01/2013