Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Câu hỏi thảo luận đường lối cách mạng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.85 KB, 15 trang )

CÂU HỎI THẢO LUẬN

***Vấn đề 2
Câu 1: Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng cộng sản Việt
Nam?
Trả lời:
Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930) có ý nghĩa lịch sử vô cùng
quan trọng, mở ra trang sử mới chói lọi của dân tộc Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời là tất yếu khách quan của lịch sử, gắn liền với công lao vĩ đại của lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc. Đến nay, 80 năm đã trôi qua, nhưng việc nghiên cứu, tìm hiểu về
sự vận động ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn còn nguyên giá trị khoa học.
Đặc biệt, qua đó, giúp thế hệ trẻ hiểu hơn về Đảng, từ đó phấn đấu, rèn luyện để
bước vào hàng ngũ của Đảng quang vinh.
Hồ Chí Minh (19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969) là một nhà cách
mạng, một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu tranh
giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam trong thế kỷ 20. Ông là người viết và
đọc bản Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, là Chủ tịch nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa trong thời gian 1945 – 1969, Chủ tịch Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Lao động Việt Nam trong thời gian 1951 – 1969. Đặc biệt, HCM là
người có công lớn đối với việc thành lập ĐCS VN
Vốn sinh ra trong gia đình có truyền thống yêu nước, giỏi Nho học, nên ngay từ
nhỏ Nguyễn Tất Thành đã có ý chí đuổi thực dân, giải phóng đồng bào. Thất bại của
phong trào chống thuế ở Huế (1908) và các phong trào yêu nước chống Pháp đầu
thế kỷ XX, đã giúp cho Nguyễn Tất Thành hiểu được bản chất dã man và sức mạnh
của bộ máy chính quyền thực dân. Mặc dù rất khâm phục những hoạt động cứu
nước của các vị tiền bối, nhưng Nguyễn Tất Thành đã tự chọn con đường cứu nước
riêng của mình, bằng cách đi ra nước ngoài, đến với các nước phương Tây, xem sự
thật đằng sau tư tưởng Tự do, Bình đẳng và Bác ái là gì, tìm học con đường đấu
tranh thích hợp để sau này trở về giúp đồng bào mình tự giải phóng.
Từ năm 1911 đến năm 1917, chỉ với túi hành trang là lòng yêu nước sâu sắc,


nghị lực phi thường và đôi bàn tay cần cù lao động vốn có của người dân Việt Nam
đã giúp Nguyễn Tất Thành vượt lên trên tất cả những khó khăn, gian khổ để bôn ba


tìm hiểu nhiều nơi trên thế giới. Cuộc hành trình dài sáu năm này đã giúp Người
nhận thức rõ về cuộc sống của thế giới bên ngoài, phân biệt được đâu là bạn, đâu là
kẻ thù.
Cuối năm 1917, từ nước Anh, Nguyễn Tất Thành trở về nước Pháp. Tại đây,
Người đã hoà mình cùng nhân dân lao động và tích cực tham gia các hoạt động
chính trị.
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng Xã hội Pháp, tổ chức duy
nhất ở Pháp bênh vực các dân tộc thuộc địa và theo đuổi lý tưởng Tự do, Bình đẳng,
Bác ái. Đến tháng 6 cùng năm, Nguyễn Ái Quốc(tên mới của Nguyễn Tất Thành)
thay mặt Hội Những người Việt Nam yêu nước gửi Bản yêu sách tám điểm đến Hội
nghị Vécxây, đòi quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Vì Hội nghị Vécxây
được tổ chức là nhằm để các nước đế quốc chia nhau quyền lợi sau Chiến tranh thế
giới thứ nhất nên những yêu cầu của Bản yêu sách đã không được quan tâm đến.
Tuy nhiên, sự kiện này đã giúp Người nhận thức rõ hơn bản chất thật của chủ nghĩa
đế quốc, đó là, những lời hứa của các nước đế quốc về việc trao quyền tự quyết cho
các dân tộc thuộc địa chỉ là trò lừa bịp, muốn cứu nước, giải phóng dân tộc thì tự
chúng ta phải đứng lên giành lấy.
Những thông tin về thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga (tháng
11/1917) và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (tháng 3/1919), đã ảnh hưởng mạnh
mẽ đến nhận thức của Nguyễn Ái Quốc về con đường hoạt động cách mạng. Ngày 16
và 17/7/1920, báo L'Humanité (Nhân đạo) đăng bản Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về các vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Đọc bản Luận
cương của Lênin, Nguyễn Ái Quốc rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ về con đường
đấu tranh giải phóng cho dân tộc mình. Từ đây, Người hoàn toàn tin theo Lênin, tin
theo Quốc tế thứ ba.
Tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920), Nguyễn Ái

Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia sáng lập
Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Những hành
động này đã đánh dấu một mốc son quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách
mạng của Người. Từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống, Người đã đến với chủ nghĩa
Mác-Lênin. Chân lý về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc mà suốt gần mười
năm qua Người bôn ba tìm kiếm đến nay đã được tìm thấy.
Như vậy, bằng sự kiện Nguyễn Ái Quốc tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm ra
con đường giải phóng dân tộc đúng đắn, phù hợp với xu hướng phát triển của thời
đại, đó là con đường cách mạng vô sản, đã giúp cách mạng Việt Nam chấm dứt thời
kỳ dài bị khủng hoảng về đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc.


Từ đây, Nguyễn Ái Quốc đã ra sức nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin và
kinh nghiệm cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga. Đồng thời, Người tham gia viết bài
cho các tờ báo, nhằm tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân và tìm cách bí mật
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về nước; từng bước chuẩn bị về mặt chính trị, tư
tưởng và tổ chức để cho ra đời một chính đảng, kịp thời dẫn dắt phong trào cách
mạng trong nước.
Để giúp các dân tộc thuộc địa, trong đó có Việt Nam hiểu rõ bộ mặt thật của
chủ nghĩa thực dân, giác ngộ con đường đấu tranh cách mạng và đoàn kết lại với
nhau, Nguyễn Ái Quốc cùng các đồng chí của mình sáng lập Hội Liên hiệp các dân
tộc thuộc địa (tháng 10/1920) và sáng lập tờ báo Le Paria (Người cùng khổ). Có thể
nói, đây là tổ chức đầu tiên trên thế giới kêu gọi các dân tộc thuộc địa đoàn kết lại
để cùng đấu tranh chống một kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
Tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật đến Liên Xô, hoạt động cho Quốc tế
Cộng sản, cụ thể là ở Ban Phương Đông và Quốc tế Nông dân. Tại đây, Người có điều
kiện trực tiếp nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin một cách có hệ thống, đi sâu
nghiên cứu kinh nghiệm Cách mạng Tháng Mười Nga, cách thức tổ chức và hoạt
động của các Đảng Cộng sản, đặc biệt là Đảng Cộng sản Liên Xô…
Tháng 11/1924, Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô đến Quảng Châu (Trung Quốc).

Đến Trung Quốc, quốc gia giáp biên với Việt Nam là mong muốn thiết tha từ lâu của
Người. Tại đây, Người có điều kiện thuận lợi hơn để liên lạc với cách mạng Việt
Nam, đẩy mạnh việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về nước và chuẩn bị cho ra đời
một chính đảng.
Đầu năm 1925, Nguyễn Ái Quốc vận động thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc
thuộc địa ở châu Á. Đây là tổ chức đoàn kết các dân tộc thuộc địa ở châu Á để cùng
nhau đứng lên đánh đổ chủ nghĩa đế quốc, giành lại độc lập dân tộc.
Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc sáng lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
Đây được xem là tổ chức tiền thân của Đảng, có tính chất quá độ, phù hợp với trình
độ phát triển của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Qua tổ chức này, những người
Việt Nam yêu nước, dù xuất thân từ thành phần nào cũng rất dễ dàng hiểu và tiếp
thu được chủ nghĩa Mác-Lênin.
Đi đôi với công tác phát triển tổ chức, Nguyễn Ái Quốc tích cực chuẩn bị về tư
tưởng và chính trị để thành lập một chính đảng ở Việt Nam sau này. Cụ thể, Người
trực tiếp mở và phụ trách Trường huấn luyện chính trị, đào tạo cán bộ, gieo những
hạt giống cộng sản đầu tiên cho cách mạng Việt Nam.
Theo sáng kiến của Nguyễn Ái Quốc, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên cho xuất
bản tờ báo Thanh Niên làm cơ quan tuyên truyền của Hội. Mục đích để truyền bá


chủ nghĩa Mác-Lênin về nước, giác ngộ quần chúng, đẩy mạnh phong trào đấu
tranh cách mạng theo khuynh hướng vô sản, đẩy lùi những tư tưởng dân tộc chủ
nghĩa tư bản và tiểu tư sản đang tồn tại ở Việt Nam lúc bấy giờ.
Đầu năm 1927, những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện
chính trị, đào tạo cán bộ đã được in thành tác phẩm Đường kách mệnh. Những tư
tưởng cốt lõi của tác phẩm này là sự kế thừa và phát triển tư tưởng của cuốn Bản
án chế độ thực dân Pháp cũng do Người viết, được xuất bản ở Paris vào năm 1925
trước đó. Tác phẩm Đường kách mệnh đã chỉ ra rất rõ con đường giải phóng dân
tộc, phương pháp đấu tranh cách mạng, xứng đáng là ngọn cờ chỉ đạo cách mạng
Việt Nam trong những ngày đầu chuẩn bị thành lập Đảng.

Trong khoảng thời gian này, ở Việt Nam, phong trào yêu nước của nhân dân
phát triển rất mạnh. Mở đầu là các cuộc bãi công của công nhân, phong trào đòi thả
tự do cho cụ Phan Bội Châu (1925), phong trào để tang cụ Phan Chu Trinh (đầu
năm 1926). Thông qua những hoạt động này là dịp rất tốt để Nguyễn Ái Quốc và
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên truyền bá sâu rộng hơn chủ nghĩa Mác-Lênin
vào giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Tháng 9/1928, kỳ bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Bắc Kỳ đưa ra chủ
trương "Vô sản hoá", nhằm đưa hội viên vào các nhà máy, đồn điền, hầm mỏ để đẩy
mạnh việc truyền bá và kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với các phong trào đấu tranh
của công nhân.
Như vậy, đến cuối những năm 1920, phong trào đấu tranh cách mạng ở Việt
Nam đã phát triển lên đến đỉnh cao, bao gồm cả chất và lượng. Trước sự phát triển
đó, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã không còn đủ sức lãnh đạo phong trào
cách mạng. Tình hình cách mạng lúc này đòi hỏi bức thiết phải thành lập một Đảng
Cộng sản để tiếp tục lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam tiến lên.
Với không khí dâng lên cao mạnh mẽ của phong trào đấu tranh cách mạng, chỉ
trong vòng 7 tháng (từ tháng 6/1929 đến tháng 1/1930), cả nước lần lượt đã ra
đời ba tổ chức cộng sản. Đó là, Đông Dương Cộng sản Đảng (tháng 6/1929), An
Nam Cộng sản Đảng (tháng 10/1929) và Đông Dương Cộng sản liên đoàn (tháng
1/1930). Sự xuất hiện ba tổ chức cộng sản cùng hoạt động với mục tiêu thống nhất
chung đã chứng tỏ rằng cách mạng Việt Nam đang phát triển lên đến đỉnh cao,
phản ánh kết quả thành công của quá trình dài chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ
chức của Nguyễn Ái Quốc để tiến đến thành lập một Đảng Cộng sản ở Việt Nam. Tuy
nhiên, trong một nước cùng lúc xuất hiện tới ba tổ chức chức cộng sản, cùng một
mục tiêu hoạt động, nhưng lại không đoàn kết, thống nhất với nhau, điều đó đã làm
ảnh hưởng xấu đến sự nghiệp chung của cách mạng cả nước. Vì vậy, lúc này, việc
thống nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng Cộng sản duy nhất, đủ khả năng


lãnh đạo phong trào cách mạng cả nước vừa là yêu cầu tất yếu khách quan, vừa là

chỉ thị của Quốc tế Cộng sản.
Trước tình hình cấp bách đó, Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm (Thái Lan) trở lại
Hương Cảng (Hồng Kông) triệu tập ngay hội nghị đại biểu các tổ chức cộng sản để
thống nhất các tổ chức đó lại và thành lập một Đảng Cộng sản thống nhất.
Từ ngày 3 đến ngày 7/2/1930, tại Hương Cảng, sau một thời gian ngắn gấp
rút chuẩn bị, với tư cách là đại diện của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã chủ
trì Hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam thành một tổ chức duy nhất,
lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt của Đảng và Lời kêu gọi do Nguyễn Ái Quốc soạn
thảo. Tất cả các tài liệu này được xem là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta.
Nội dung Cương lĩnh chính trị đã nêu rõ đường lối chiến lược và sách lược phù hợp
với tình hình thực tế của cách mạng Việt Nam, đó là đấu tranh giành độc lập dân
tộc, thực hiện mục tiêu người cày có ruộng và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã kết thúc thời kỳ dài mười năm
chuẩn bị công phu, khoa học về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc để tiến đến thành lập một Đảng Cộng sản ở Việt Nam, đủ khả năng
lãnh đạo phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc và tiến lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Tóm lại, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã gắn liền với vai trò vĩ đại của lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc, thể hiện rõ ở các vấn đề sau đây:
Thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu học thuyết chủ
nghĩa Mác-Lênin, đồng thời, hướng cách mạng Việt Nam đi theo con đường đó và
giúp cách mạng Việt Nam thoát khỏi bế tắc đường lối cứu nước. Người đầu tiên gắn
chặt ngọn cờ độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội cho sự nghiệp cách mạng Việt
Nam.
Thứ hai, bằng phương pháp cách mạng đầy tính khoa học, sáng tạo và tinh
thần cống hiến quên mình, Nguyễn Ái Quốc đã tạo ra hệ thống giao thông liên lạc bí
mật, rất chặt chẽ, đa chiều từ nước ngoài về Việt Nam và ngược lại. Kết quả là
Người đã truyền bá thành công chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam, đánh lùi các tư
tưởng cứu nước sai trái. Tuyển chọn và đào tạo nên đội ngũ cán bộ cộng sản đầu

tiên cho cách mạng Việt Nam.
Thứ ba, bằng uy tín và sự chuẩn bị chu đáo của mình, Nguyễn Ái Quốc đã
thống nhất thành công các tổ chức cộng sản ở Việt Nam, thành lập ra Đảng Cộng
sản Việt Nam. Tạo sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và tổ chức trong phong trào


đấu tranh cách mạng. Đây là những điều kiện thiết yếu để đưa cách mạng Việt Nam
đi đến thành công.
Thứ tư, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đồng nghĩa với việc Nguyễn Ái Quốc
đã phá tan sự đơn độc tồn tại lâu đời, thiết lập nên sự đoàn kết, thống nhất hành
động giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng các nước Đông Dương. Đặc biệt là
đưa cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăn khít của cách mạng thế giới.

Câu 2: Phân tích đúng đắn, sáng tạo của cương lĩnh chính trị tháng 2/1930?
Trả lời:
-Về cơ sở lí luận: Cương lĩnh đã dựa trên nền tảng lý luận của Chủ nghĩa MácLênin, một hệ thống lí luận tiến bộ đúng đắn và khoa học.
Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: Cách mạng
tư sản dân quyền và Cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai giai đoạn cách mạng này kế
tiếp nhau, không có bức tường nào ngăn cách. Cương lĩnh chủ trương: “làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Qua đó, ta
thấy rằng: ngay từ đầu, Đảng ta đã nhận thức rõ con đường phát triển tất yếu của
cách mạng Việt Nam là kết hợp và gương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Đây là điều hoàn toàn đúng đắn vì nó phù hợp với hoàn cảnh cụ thể
của lịch sử nước ta. Đồng thời, chúng ta cũng thấy được sự vận dụng sáng tạo và
hợp lí lí luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Cương lĩnh khẳng định, nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền ở nước ta là
chống đế quốc và chống phong kiến. Điều này cũng thể hiện tính đúng đắn và sáng
tạo của Cương lĩnh. Tính đúng đắn và sáng tạo thể hiện ở chỗ Cương lĩnh đã giải
quyết đúng hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam. Mâu thuẫn chủ yếu của xã hội

Việt Nam lúc đó là: Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp
xâm lược; mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến. Cách mạng Việt Nam
muốn đi đến thắng lợi phải giải quyết thành công hai mâu thuẫn đó, nghĩa là phải
hoàn thành hai nhiệm vụ mà Cương lĩnh đã đề ra.
-Về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ trên, Cương lĩnh đã đề cao vấn đề dân tộc
hơn vấn đề đấu tranh giai cấp và chống phong kiến là đúng đắn và sáng tạo. Vì: Xã
hội Việt Nam lúc đó có hai mâu thuẫn như vừa nêu trên, nhưng mâu thuẫn giữa
dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp là mâu thuẫn bao trùm, chi phối việc giải quyết
các mâu thuẫn khác, vấn đề giải phóng dân tộc là vấn đề bức xúc nhất.
-Về lực lượng cách mạng, Cương lĩnh xác định, ngoài giai cấp công nhân, thì
cách mạng “phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức và trung nông…để kéo họ
về phe vô sản giai cấp. Còn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam


mà chưa lộ rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít ra cũng làm cho trung lập”.
Như vậy, ngoài công nhân và nông dân là hai lực lượng chính của cách mạng,
Cương lĩnh chủ trương phải tranh thủ các lực lượng khác: tư sản dân tộc, tiểu tư
sản, trung tiểu địa chủ các loại. Điều đó hoàn toàn phù hợp với thực tế của lịch sử
Việt Nam. Vì các giai cấp khác ngoài công nhân và nông dân, có một số bộ phận
khác cũng có tinh thần yêu nước, như: Tư sản dân tộc, tiểu tư sản, địa chủ yêu
nước…, vì thế, cần phải tranh thủ kéo họ về phe cách mạng. Đó cũng là vấn đề thể
hiện sự ưu tiên hơn cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc của Cương lĩnh, đều hoàn toàn
hợp lí và đúng đắn.
Cương lĩnh đã xác định đúng đắn vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng:
Cách mạng muốn thắng lợi phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, một
chính đảng của giai cấp công nhân.
Cương lĩnh khẳng định, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng
thế giới. Đây cũng là một nội dung thể hiện tính đúng đắn và sáng tạo của Cương
lĩnh. Vì: giai cấp tư sản ở các nước, trong thực tế đã cấu kết với nhau để đàn áp
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở chính quốc và phong trào đấu tranh

giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Cho nên cách mạng ở các nước thuộc địa
muốn thắng lợi thì nhân dân các nước thuộc địa phải đoàn kết với nhau và đoàn kết
với giai cấp vô sản trên thế giới.
Tóm lại Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta là một cương lĩnh cách mạng
giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp,
thấm đượm tính dân tộc và tính nhân văn sâu sắc.
Đường lối lãnh đạo là một trong những vấn đề chiến lược của mỗi Đảng cầm
quyền. Xác định được điều đó,ngay từ khi ra đời,tại hội nghị thành lập Đảng,các đại
biểu đã thông qua Chính cương vắn tắt,sách lược vắn tắt,điều lệ tóm tắt,đó được
coi như là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta.Mặc dù còn sơ lược,vắn tắt
nhưng nó đã khẳng định tính đúng đắn sáng tạo khoa học và trở thành kim chỉ nam
cho mọi hành động của Đảng ta trong mọi thời kì cách mạng và đặc biệt có giá trị
trong thời đại ngày nay!
Trước hết chính cương lĩnh khẳng định tính chất của cách mạng Việt nam là
cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới cách mạng xã hội chủ
nghĩa.Nước ta hiện nay đang trong giai đoạn quá độ lên XHCN,tức là đã hoàn thành
cơ bản nhiệm vụ CMTSDQ và CMRĐ,vì vậy nhiệm vụ hàng đầu hiện nay là xây dựng
cơ sở vật chất cho CNXH tiếp tục,kiên trì con đường đi lên XHCN,xây dựng nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần nhưng định hướng xã hội chủ nghĩa,tức là không
thay đổi chiến lược cách mạng,không xa rời nguyên lí của Chủ nghĩa Mác Lê nin mà
làm cho nhiệm vụ ấy thực hiện có hiệu quả ,vận động theo tiến trình của lịch sử và
dân tộc.
Cương lĩnh cũng khẳng định lực lượng cách mạng là công nhân nông dân,tiểu
tưu sản trí thức.Đối với phú nông trung nông hoặc tư sản thì phải lôi kéo lợi dụng


họ hoặc ít nhất là làm cho họ trung lập!Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong thời đại
ngày nay,bên cạnh liên minh công nông làm nền tảng,chúng ta cần phát huy hơn
nữa sức mạnh đại đoàn kết của cả dân tộc,trong đó có mọi thành phần xã hội tạo
nên sức mạnh tổng hợp để tiến nhanh tiến mạnh vào thời đại.Điều đó cũng có nghĩa

là phải nâng cao dần trình độ của công-nông trong thời đại mới để họ làm chủ tư
liệu sản xuất,bên cạnh đó phát triển đội ngũ trí thức học sinh sinh viên bởi đây là
nguồn lực để phát minh cũng như tiếp thu những thành tựu của nền văn minh nhân
loại trong thời đại mới;tiếp tục phát huy nguồn vốn và sự tranh thủ sự ủng hộ của
các nhà tư sản lớn đề có thể tạo nội lực tổng hợp.
Cương lĩnh cũng khẳng định Đnảg cộng sản -đội tiên phong của giai cấp vô sảngiữ vai trò lãnh đạo.Điêù này có vai trò quan trọng trong việc chống âm mưu diễn
biến hoà bình,trong bối cảnh tình hình thế giới còn nhiều phức tạp với các cuộc bạo
loạn lật đổ,đảo chính!Kiên trì sự lãnh đạo của Đảng không chỉ tạo nên một nền
chính trị hoà bình ổn định mà còn tạo nên điều kiện cơ bản từ đó phát triển kinh
tế,đảm bảo đời sống nhân dân,thu hút vốn đầu tư nước ngoài!Kiên trì sự lãnh đạo
của Đảng một Đảng lãnh đạo chính là tuân thủ nghiêm ngặt nguyê lí của chủ nghĩa
Mác Lê nin trong thời đại mới.
Bên cạnh đó Cương lĩnh khẳng định CMVN là một bộ phận của cách mạng thế
giới vì vậy phải đoàn kết giai cấp vô sản các nước,đây phải chăng cũng chính là cơ
sở mà sau này được Đảng ta kế thừa và phát huy:Việt Nam muốn làm bạn với tấ cả
các nước trên thế giới trong thời đại mới,bên cạnh đó chúng ta tích cực hội nhập
thế giới,góp phần tiếng nói của mình trong phong trào cách mạng thế giới,đoàn kết
tương trợ trên tinh thần tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ,không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Như vậy dù còn rất vắn tắt sơ lược nhưng Cương lĩnh chính trị đã khẳng định
tính đúng đắn trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và đặc biệt có ý
nghĩa lâu đai trong tiến tình vận động cách mạng của Đảng ta nhất là trong thời
đại ngày nay

***Vấn đề 3
Câu 1: So sánh nội dung của luận cương chính trị thánh 2 và cương lĩnh chính trị
tháng 10/1930?
Trả lời:
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là một tất yếu của lịch sử, là một bước
ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Để xác lập đường lối, chiến lược, sách lược

cơ bản của cáchmạng Việt Nam và tôn chỉ mục đích, nguyên tắc tổ chức và hoạt


động của Đảng cộng sảnViệt Nam, cương lĩnh chính trị đã được vạch ra. Tại
hội nghị thành lập Đảng từ ngày3/2/1930 đến ngày 7/2/1930 ở Hương Cảng –
Trung Quốc, các đại biểu đã nhất trí thôngqua Chính cương vắn tắt, Sách lược văn
tắt và Chương trình tóm tắt do Nguyễn Ái Quốcsoạn thảo. Các văn kiện đó hợp
thành
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta-Cươnglĩnh Hồ Chí Minh.
Tiếp theo đó, vào tháng 10.1930 cũng tại Hương Cảng-Trung Quốc Ban
chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất đã thông qua Luận cương chính
trịdo đồng chí Trần Phú soạn thảo.Cương lĩnh chính trị và luận cương chính trị
là những văn kiện thể hiện đường lốic á ch m ạ n g c ủ a Đ ả n g t a . Vậ y g i ữ a h a i
v ă n k i ệ n n à y có n h ữ n g đ i ể m g ì g i ố n g v à k h á c nhau ?. Chúng ta hãy
cùng tìm hiểu vấn đề này.
Hai văn kiện trên được xây dựng trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn, xác định
rõ phương hướng chiến lược, nhiệm vụ cụ thể và cơ bản, lực lượng cách mạng,
phương phápcách mạng, đoàn kết quốc tế và vai trò lãnh đạo của Đảng.
Trong mỗi khía cạnh trên đều thể hiện rõ sự giống và khác nhau giữa hai văn
kiện.Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (3/2/1930) và Luận cương chính
trị(10/1930) cónhững điểm giống nhau sau:
-Về phương hướng chiến lược của cách mạng, cả 2 văn kiện đều xác định được
tíchchất của cách mạng Việt Nam là: Cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách
mạng, bỏqua giai đoạn tư bản chủ nghĩa để đi tới xã hội cộng sản, đây là 2 nhiệm
vụ cách mạng nối tiếp nhau không có bức tường ngăn cách. Phương hướng chiến
lược đã phản ánh xu thế của thời đại và nguyện vọng đông đảo của nhân dân Việt
Nam.
-Về nhiệm vụ cách mạng, đều là chống đế quốc, phong kiến để lấy lại ruộng đất
vàgiành độc lập dân tộc.
-Về lực lượng cách mạng, chủ yếu là công nhân và nông dân. Đây là hai lực

lượngnòng cốt và cơ bản đông đảo trong xã hội góp phần to lớn vào công cuộc giải
phóng dân tộc nước ta.
-Về phương pháp cách mạng, sử dụng sức mạnh của số đông dân chúng Việt Nam cả
về chính trị và vũ trang nhằm đạt mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng là đánh đổ
đế quốc và phong kiến, giành chính quyền về tay công nông.
-Về vị trí quốc tế, cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít với cách mạngthế
giới đã thể hiện sự mở rộng quan hệ bên ngoài, tìm đồng minh cho mình.


Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua Đảng cộng sản. “Đảng là
đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận
giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”. Như Hồ Chí
Minh đã từng nói: “ĐảngCộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác – Lênin với phong tràocông nhân và phong trào yêu nước Việt Nam”.
Sự giống nhau trên là do cả hai văn kiệnđều thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin
và cách mạng vô sản chiụ ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại
năm 1917.
Bên cạnh những điểm giống nhau, hai cương lĩnh trên có một số điểm
khác sau:Cương lĩnh chính trị xây dựng đường lối của cách mạng Việt Nam còn
Luận cương rộnghơn (Đông Dương).
Một là, xác định kẻ thù và nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng: Trong
cương lĩnhchính trị xác định kẻ thù, nhiệm vụ của cách mạng là đánh đổ giặc Pháp
sau đó mới đánh đổ phong kiến và tay sai phản cách mạng( nhiệm vụ dân
tộc và dân chủ). Nhiệm vụ dân tộc được coi là nhiệm vụ trọng đại của cách
mạng, nhiệm vụ dân chủ cũng dựa vào vấn đềdân tộc để giải quyết. Như vậy
mục tiêu của cưong lĩnh xác định: làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, nhân
dân được tự do, dân chủ, bình đẳng, tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc Việt gian chia
cho dân cày nghèo, thành lập chính phủ công nông binh và tổ chức cho quân đội công
nông, thi hành chính sách tự do dân chủ bình đẳng phổ thông giáo dục theo hướng
công nông hóa.

Trong Luận cương chính trị thì xác định phải “tranh đấu để đánh đổ các
di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bản và để
thựchành thổ địa cách mạng cho triệt để” và “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm
cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Hai nhiệm vụ chiến lược dân chủ và dân tộc
được tiến hànhcùng một lúc có quan hệ khăng khít với nhau. Việc xác định nhiệm vụ
như vậy của Luận cương đã đáp ứng những yêu cầu khách quan đồng thời giải
quyết hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam lúc đó là mâu thuẫn dân tộc và mâu
thuẫn giai cấp đang ngày càng sâu sắc. Tuy nhiên, Luận cương chưa xác định
được kẻ thù, nhiệm vụ hàng đầu ở mộtnước thuộc địa nửa phong kiến nên không
nêu cao vấn đề dân tộc lên hàng đầu đó là nêu cao vấn đề đấu tranh giai cấp, vấn đề
cách mạng ruộng đất.
Hai là, về lực lượng cách mạng: Trong Cương lĩnh chính trị xác định
lực lượngcách mạng là giai cấp công nhân và nông dân nhưng bên cạnh đó
cũng phải liên minhđoàn kết với tiểu tư sản, lợi dụng hoặc trung lập phú nông,
trung nông, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam chưa rõ mặt phản cách mạng. Như vậy,
ngoài việc xác định lực lượng nòngcốt của cách mạng là giai cấp công nhân thì cương
lĩnh cũng phát huy được sức mạnh củacả khối đoàn kết dân tộc, hướng vào nhiệm vụ


hàng đầu là giải phóng dân tộc. Với Luận cương thì xác định giai cấp vô sản và
nông dân là hai động lực chính của cách mạng mạng tư sản dân quyền,
trong đó giai cấp vô sản là đông lực chính và mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách
mạng, nông dân có số lượng đông đảo nhất, là một động lực mạnh của cách mạng, còn
những giai cấp và tầng lớp khác ngoài công nông như tư sản thương nghiệp thì đứng
về phía đế quốc chống cách mạng, còn tư sản công nghiệp thì đứng về
phía quốcgia cải lương và khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ theo đế quốc. Điều
đó cho thấy ta chưa phát huy được khối đoàn kết dân tộc, chưa đánh giá đúng khả
năng cách mạng của tầng lớp tiểu tư sản, khả năng chống đế quốc và phong
kiến ở mức độ nhất định của tưsản dân tộc, khả năng lôi kéo một bộ phận trung,
tiểu địa chủ tham gia mặt trận dân tộcthống nhất chống đế quốc và tay sai. Tóm

lại, Luận cương đã thể hiện là một văn kiện tiếp thu được những quan điểm chủ
yếu của Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt, xác định được nhiệm
vụ nòng cốt của cách mạng. Tuy nhiên, Luận cương cũng có những mặt hạn chế nhất
định: Sử dụng một cách dập khuân máy móc chủ nghĩa Mác-Lênin vào cách mạng
Việt Nam, còn quá nhấn mạnh đấu tranh giai cấp. Còn Cương lĩnh chính trị tuy còn
sơ lược vắn tắt nhưng nó đã vạch ra phương hương cơ bản của
cáchmạng nước ta, phát triển từ cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Cương lĩnh thể hiện sự vận dụng đúng đắn sáng tạo, nhạy bén
chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam kết hợp nhuần nhuyễn chủ
nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữa tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản và
thực tiễn cách mạng Việt Nam, nó phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới,
đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử .
Hai cương lĩnh trên cùng với sự thống nhất về tổ chức có ý nghĩa hết
sức to lớncùng với sự ra đời của Đảng ta, là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất
quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc ta.
Chúng là nền tảng cho những văn kiện nhằm xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ
thống lý luận, tư tưởng.

Câu 2: Có ý kiến cho rằng, thành công của Cách mạng Tháng 8 là ăn may?Nhận
định của anh (chị)?
Trả lời:
Cách mạng Tháng Tám (năm 1945) thành công đã đánh đổ chế độ thực dân,
phong kiến, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nước cách mạng kiểu
mới ở Việt Nam - là thắng lợi có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc dựng nước và giữ
nước của dân tộc ta. Thắng lợi đó là kết quả của sự phát huy sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại, trong đó, sức mạnh dân tộc đóng vai trò quyết định. Thế nhưng,


một số người lại cho rằng: Cách mạng Tháng Tám thành công là một “sự ăn
may”(!) Vậy đâu là sự thật?

Những người này lập luận rằng: Từ sau cuộc đảo chính của Nhật (09-3-1945),
Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng không còn là thuộc địa của Pháp, mà
là thuộc địa của Nhật. Trong khi đó, phát xít Nhật đã bị quân Đồng minh đánh cho
tơi tả, phải chịu thất bại thảm hại và tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Như vậy, ở
Đông Dương xuất hiện “khoảng trống quyền lực”, cho nên cách mạng chỉ cần nổ ra
là giành thắng lợi (?). Từ cách nhìn như vậy, họ cho rằng “Cách mạng Tháng Tám là
một sự ăn may”. Thực chất quan điểm của họ là nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo
của Đảng, sức mạnh của quần chúng và đi đến phủ nhận sự nghiệp cách mạng vĩ
đại của nhân dân ta. Cần phải thấy rằng, để Cách mạng Tháng Tám nổ ra và giành
thắng lợi, ngoài yếu tố khách quan đóng vai trò quan trọng thì nhân tố quyết
định là sự lãnh đạo của Đảng; là việc Đảng ta đã phát huy được sức mạnh tổng hợp
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và dự đoán thời cơ chính xác, chớp thời cơ kịp
thời để phát động tổng khởi nghĩa thành công. Nếu điều kiện chín muồi đã đến mà
không nắm lấy thời cơ, chần chừ, chờ đợi địch đầu hàng, trao quyền độc lập thì cơ
hội ngàn vàng đó sẽ không bao giờ đến; Cách mạng Tháng Tám sẽ không thể xảy ra.
Thực tế lịch sử là vậy nhưng vẫn còn những ý kiến trái chiều, thiếu thiện chí, không
khách quan, cần phải làm sáng tỏ.
Trước hết, phải thấy rằng: việc Liên Xô và quân Đồng minh đánh bại phát xít Nhật
chỉ tạo ra điều kiện khách quan thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Bởi lẽ, phát xít
Nhật tuy bị đánh bại, nhưng lực lượng quân đội Nhật ở Việt Nam lúc bấy giờ còn
rất mạnh vì chúng mới được tăng cường vào đầu năm 1945. Hơn nữa, Nhật vẫn xác
định Việt Nam là đầu cầu liên lạc cuối cùng của họ đối với vùng Đông Nam Á; nếu
để mất thì quyền lợi của Nhật ở vùng đất này sẽ không còn, danh dự của Nhật cũng
sẽ mất; bởi vậy, chúng kiên quyết giữ bằng mọi giá. Thực tế lực lượng của phát xít
Nhật ở Việt Nam lúc đó vẫn còn khoảng 100.000 quân, với đầy đủ vũ khí, trang bị và
đóng nguyên tại các vị trí phòng thủ của mình. Cho dù đã không còn ý chí chiến đấu,
nhưng hai quân đoàn của Nhật vẫn sẵn sàng tuân lệnh từ cấp trên của họ và là một
đối thủ mạnh với bất cứ lực lượng nào định tấn công bằng vũ lực. Trong thời điểm
nhạy cảm đó, quân Nhật vẫn có thể nổ súng vào lực lượng khởi nghĩa với nhiều lý
do: để tự vệ, để giữ gìn trật tự tại nơi đóng quân chờ quân Đồng minh tới giải

giáp1… Do vậy, việc Liên Xô và quân Đồng minh đánh bại phát xít Nhật chỉ làm cho
tinh thần lính Nhật ở Đông Dương bị sa sút, còn về quân sự chúng vẫn rất mạnh,
không dễ gì đánh bại chúng để giành chính quyền. Đây là thời cơ thuận lợi mà Đảng
ta đã kịp thời nắm lấy, lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức lực lượng, phát động sức mạnh
quần chúng để giành chính quyền.
Cần khẳng định rằng, nhân tố chủ quan có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi
của Cách mạng Tháng Tám. Ngay từ năm 1939, do nhận thức rõ được tình hình thế
giới và trong nước, đánh giá được mạnh, yếu của địch và sự tất yếu phải nổ ra cuộc
cách mạng dân tộc trong thời kỳ này, Đảng ta đã trực tiếp chuẩn bị cho khởi nghĩa
giành chính quyền cả về đường lối, căn cứ địa và lực lượng cách mạng. Về đường
lối, nhất quán với mục tiêu cách mạng được đề ra từ khi thành lập Đảng, trong Hội


nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ VI (tháng 11-1939), được phát triển trong
Hội nghị lần thứ VII (1940), hoàn chỉnh trong Hội nghị lần thứ VIII (tháng 5-1941),
Đảng ta đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và đưa vấn đề khởi nghĩa
vũ trang ra bàn bạc. Trong đó, đã xác định rõ: khởi nghĩa vũ trang là con đường duy
nhất của cách mạng Việt Nam và hình thái vận động cách mạng là đi từ khởi nghĩa
từng phần đến tổng khởi nghĩa. Đảng ta nhấn mạnh: “… ta phải luôn luôn chuẩn bị
một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù,
nghĩa là nay mai đây cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và cuộc kháng chiến của
nhân dân Tàu xoay ra hoàn toàn cho cuộc cách mạng Đông Dương thắng lợi, thì lúc
đó với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng
địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi
nghĩa to lớn”2. Như vậy, bằng tư duy chiến lược sắc bén, Đảng ta đã sớm đề ra được
đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử Việt Nam.
Thực tế đã chứng minh, những gì đã diễn ra trong Tháng Tám lịch sử đó không nằm
ngoài những dự báo và sự chỉ đạo chiến lược tài tình của Đảng.
Cùng với chủ trương tổng khởi nghĩa, kế thừa truyền thống đánh giặc giữ nước
của cha ông trong lịch sử, Đảng ta xác định phải xây dựng căn cứ địa cách mạng

vững chắc, vừa làm nơi đóng quân của lực lượng cách mạng, vừa là nơi đánh địch,
rút lui để bảo vệ mặt trận, đồng thời là nơi cung cấp sức người, sức của cho cách
mạng. Xây dựng căn cứ địa cũng là để đảm bảo sự liên lạc dễ dàng của cách mạng
Việt Nam với cách mạng thế giới, đặc biệt là với Liên Xô và Trung Quốc. Thực hiện
chủ trương đó, chúng ta đã sớm xúc tiến xây dựng các căn cứ địa cách mạng ở Bắc
Sơn, Cao Bằng, với các tên gọi khác nhau. Đặc biệt, chúng ta đã xây dựng Việt Bắc
thành căn cứ địa hoàn chỉnh; là “hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam”; trong đó,
Tuyên Quang được xác định là “Thủ đô kháng chiến”. Việc xây dựng căn cứ địa vững
chắc là bước “tạo thế” quan trọng để Tổng khởi nghĩa đi đến thắng lợi.
Trên cơ sở nhận thức rõ quy luật tất yếu: mọi cuộc cách mạng muốn thành
công phải có lực lượng mạnh,Đảng ta đã rất quan tâm đến xây dựng lực lượng
vững mạnh theo một quy trình từ xây dựng lực lượng chính trị, xây dựng lực lượng
bán vũ trang quần chúng, từ đó phát triển thành lực lượng vũ trang cách mạng.
Ngay từ khi Nhật còn chưa tham chiến ở Việt Nam, chúng ta đã xây dựng được lực
lượng quần chúng đông đảo, tham gia vào các Hội Cứu quốc của Mặt trận Việt Minh
theo sáng kiến của Hồ Chí Minh (5-1941) và liên tục phát triển trên địa bàn ngày
càng rộng. Đây là tổ chức tập hợp được đông đảo quần chúng nhất, hơn bất cứ tổ
chức nào khác ở Việt Nam khi đó, và đã tuyên bố (từ rất sớm) đứng về phía Đồng
minh trong cuộc đấu tranh chống phát xít. Khi viết về thắng lợi của cuộc Tổng khởi
nghĩa Tháng Tám 1945, trong cuốn “Lịch sử Việt Nam từ 1940 đến 1952”, nhà sử
học Pháp Philippe Devillers nhận định: “Nó (Cách mạng Tháng Tám - TG) còn là kết
quả lô-gic của Việt Minh trong mọi khu vực của đời sống đất nước”. Trong xây dựng
lực lượng vũ trang, chúng ta đã xây dựng được hai bộ phận: lực lượng bán vũ trang
của quần chúng và lực lượng vũ trang tập trung. Thực tế ta đã xây dựng được 3
trung đội Cứu quốc quân3. Lực lượng này đã giữ vai trò quan trọng trong đấu tranh
vũ trang, cùng với lực lượng đông đảo của quần chúng tiến hành Tổng khởi nghĩa


trên khắp các địa phương trong cả nước. Đây cũng là cơ sở để ngày 22-12-1944,
Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân ra đời, đánh dấu sự phát triển không

ngừng của lực lượng vũ trang cách mạng thông qua thực tiễn đấu tranh giành độc
lập dân tộc.
Trong Cách mạng tháng Tám, cùng với việc tạo thời cơ, Đảng ta đã đạt đến
đỉnh cao của nghệ thuật nắm và giành thời cơ. Tính từ khi Nhật đầu hàng Đồng
minh cho đến khi quân Đồng minh vào nước ta, thời cơ cho cách mạng chỉ tồn tại
trong một thời gian rất ngắn. Nếu không có sự nhận định đúng và chớp thời cơ
nhanh chóng của Đảng ta, thời cơ đó sẽ trôi qua, cách mạng nổ ra khó thắng lợi. Khi
Hồng quân Liên Xô đánh bại đội quân Quan Đông của Nhật, ngày 15-8-1945, Nhật
Hoàng tuyên bố đầu hàng quân Đồng minh vô điều kiện. Ở Việt Nam, bọn tay sai
của chúng cũng đã hoang mang đến cực độ. Lúc này, mặc dù đang ốm nặng, song
Hồ Chí Minh vẫn luôn theo dõi sát tình hình và khẳng định: “đây là một thời cơ quý
và hiếm nếu bỏ qua thì không bao giờ có nữa”, và ra lời hiệu triệu: “Dù có phải
thiêu cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập dân tộc”. Chủ
trương đó, cùng với sự chuẩn bị của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, đã tạo điều
kiện thuận lợi để Cách mạng Tháng Tám nổ ra đúng lúc và giành thắng lợi.
Để có được một cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trọn vẹn, không thể
không nhắc đến và nhấn mạnh vai trò của người lãnh đạo cao nhất và xuất sắc
nhất: Hồ Chí Minh. Một học giả nước ngoài đã bình luận: “...những đánh giá như
vậy (với xu hướng hạ thấp ý nghĩa của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 TG) không thể che giấu sự thật rằng cuộc Cách mạng Tháng Tám là một thành tựu
phi thường... Trong khi những nhà lãnh đạo dân tộc chủ nghĩa khác bằng lòng ở lại
Nam Trung Quốc và đợi đến khi quân Nhật bị quân Đồng minh đánh bại, ông Hồ và
các đồng sự của ông mới chứng tỏ khả năng có thể đối phó với thách thức và đặt cả
thế giới trước sự đã rồi” 4. Tại Hội thảo khoa học quốc tế: “Di sản Hồ Chí Minh trong
thời đại ngày nay” tổ chức tại Hà Nội (ngày 12 và 13-5-2010), trong tham luận:
“Những bức ảnh biết nói”, nhà nghiên cứu - nhà báo Mỹ - Bà Lady Borton cũng cho
rằng: Hồ Chí Minh là người cách mạng Việt Nam nhận được thông tin sớm nhất về
việc quân Nhật đầu hàng Đồng minh và đã chỉ đạo Tổng khởi nghĩa rất kịp thời,
mau lẹ.
Thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Bác Hồ, phong trào hành động
cách mạng đã diễn ra hết sức sôi nổi trên khắp mọi miền Tổ quốc. Ở Hà Nội, những

người chỉ huy cuộc khởi nghĩa đã tiếp xúc với Bộ Chỉ huy quân Nhật và thương
lượng thành công để giải tỏa cuộc bao vây, tránh được cuộc xung đột vũ trang có
thể xảy ra. Việc tránh được xung đột với quân đội Nhật được đánh giá là một thắng
lợi quan trọng của cuộc khởi nghĩa tại Hà Nội. Cho đến ngày 19-8-1945, chính phủ
thân Nhật của người Việt Nam do ông Trần Trọng Kim đứng đầu vẫn tồn tại và
hoạt động. Nhiều đảng phái và tổ chức chính trị khác cũng nhận thức được cơ hội
đang đến và gấp rút chạy đua trong nỗ lực xúc tiến những hoạt động giành địa vị
chính trị cho mình. Nhưng cuối cùng, Hồ Chí Minh và Việt Minh đã thắng. Như vậy,
có thể khẳng định rằng, Cách mạng Tháng Tám nổ ra và giành thắng lợi nhanh
chóng là nhờ sự tài tình của Đảng và Bác Hồ trong nghệ thuật chỉ đạo và lãnh đạo


cách mạng; sự chuẩn bị chu đáo về đường lối, căn cứ địa, lực lượng cách mạng và
việc dự đoán thời cơ, chớp lấy thời cơ... Với lực lượng đông đảo được tập hợp và rèn
luyện đấu tranh trong tổ chức Việt Minh, với một Lãnh tụ dẫn đường xuất sắc, nhân
dân Việt Nam đã đứng lên tự giải phóng mình chứ không hề ngồi yên trông mong,
chờ đợi một “khoảng trống quyền lực” hay một khoảng “chân không chính trị” nào.
Đảng, Bác Hồ đã nhận định đúng tình hình, đón đúng và tận dụng triệt để thời cơ
lịch sử “ngàn năm có một” để giành thắng lợi trọn vẹn. Tất cả những luận chứng
khoa học trên đây cùng với thực tiễn của những ngày tháng Tám năm 1945 lịch sử
khẳng định rằng: Cách mạng Tháng Tám thành công không phải là “sự ăn
may” như ai đó từng hồ đồ tuyên bố.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam là cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười, nằm trong quỹ đạo của cách
mạng vô sản. Đây là cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo, do đó, thành công
của cách mạng là triệt để, là "đến nơi" như Hồ Chí Minh khẳng định. Giá trị lịch sử
và ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Tám là không thể phủ định được. Vì vậy,
mọi mưu toan chống phá, sự suy diễn chủ quan về cuộc cách mạng này đều không
có giá trị.




×