Tải bản đầy đủ (.docx) (57 trang)

GIỚI THIỆU một số TRIẾT lý về CHÍNH TRỊ của PHƯƠNG tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.45 KB, 57 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

Tiểu luận triết học

GIỚI THIỆU MỘT SỐ TRIẾT LÝ VỀ CHÍNH TRỊ CỦA
PHƯƠNG TÂY

Nhóm 09 Lớp 01 Khóa 24 thực hiện
Nhóm trưởng : Nguyễn Quốc Ân
Thành viên 1 : Phan Tú Anh
Thành viên 2 : Nguyễn Xuân Âu
Giảng viên phụ trách: TS.Bùi Văn Mưa

TP.Hồ Chí Minh, tháng 1 năm 2015


ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
K24 UEH Lớp đại cương 1 246 B415

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

--------------------TP. Hồ Chí Minh, ngày 09 tháng 11 năm 2014

BIÊN BẢN LÀM VIỆC NHÓM

-

Chúng tôi gồm:
1. Nguyễn Quốc Ân (nhóm trưởng)


2. Phan Tú Anh
3. Nguyễn Xuân Âu
Họp nhóm vào lúc 09h00 ngày 09/11/2014
Tại địa điểm: Cafe Chiêu, số 118 Cao Thắng, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh
Nội dung cuộc họp: chọn đề tài làm tiểu luận Triết học
Phân công công việc:
1. Nguyễn Quốc Ân:
• Liên hệ lớp trưởng lấy danh sách đăng ký đề tài
• Phân công Tú Anh và Xuân Âu xem sơ bộ các tên đề tài
2. Phan Tú Anh
• Xem các đề tài từ số 1 đến số 7
• Tìm kiếm sơ bộ các tài liệu có liên quan đến các đề tài từ 1 đến 7
3. Nguyễn Xuân Âu
• Xem các đề tài từ số 8 đến số 15
• Tìm kiếm sơ bộ các tài liệu có liên quan đến các đề tài từ 8 đến 15
Sau khi kết thúc việc tìm kiếm và chọn lọc các tài liệu có liên quan, nhóm

-

bắt đầu thảo luận chọn đề tài.
Kết quả thảo luận: nhóm thống nhất chọn đề tài: "Giới thiệu một số triết lý

-

về quản trị của phương Đông"
Phân công các thành viên trong nhóm về nhà tìm kiếm sâu và kỹ hơn về đề

-

-


tài đã chọn, nhóm trưởng hướng thành viên tìm hiểu về triết lý quản trị của
người Nhật, vì các phong cách quản trị của người Nhật rất gần gũi với đa số
-

-

các công ty Việt Nam hiện nay.
Nhóm trưởng đăng ký tên đề tài tiểu luận của nhóm với lớp trưởng.
Đánh giá buổi làm việc:
• Toàn bộ thành viên có mặt đúng giờ hẹn.
• Tham gia tích cực, sôi nổi.
• Đóng góp các ý kiến hữu ích cho nhóm.
Lịch dự kiến cho cuộc họp tiếp theo là ngày 23/11/2014.
Nội dung họp dự kiến: tổng hợp tài liệu cả nhóm tìm được, thống nhất dàn
bài tiểu luận và phân công nhân sự thực hiện các phần của tiểu luận.


Buổi họp kết thúc lúc 15h00 ngày 09 tháng 11 năm 2014.

ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
K24 UEH Lớp đại cương 1 246 B415

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

--------------------TP. Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 11 năm 2014

BIÊN BẢN LÀM VIỆC NHÓM
-


-

Chúng tôi gồm:
1. Nguyễn Quốc Ân (nhóm trưởng)
2. Phan Tú Anh
3. Nguyễn Xuân Âu
Họp nhóm vào lúc 22h00 ngày 15/11/2014
Hình thức: trao đổi trực tuyến thông qua công cụ mạng xã hội Facebook


-

Nội dung cuộc họp: giải quyết tình trạng khẩn về việc trùng đề tài
+ Nhóm trưởng thông báo đề tài "Giới thiệu một số triết lý về quản trị của
phương Đông/ người Nhật" tuy là nhóm chọn trước nhưng sau đó có
nhiều nhóm đăng ký trùng với lớp trưởng. Để tránh tranh cãi thì nhóm
trưởng lấy ý kiến thành viên có nên đổi đề tài hay không?
+ Tú Anh đề xuất chọn đề tài số 12 "Tư duy biện chứng và vai trò của nó
trong phân tích (/hoạt động kinh tế quốc tế; /hoạt động quản trị nhân
viên... ; /hoạt động sản xuất – kinh doanh...)
+ Xuân Âu: không có ý kiến
+ Nhóm trưởng đề xuất chọn đề tài số 3 "Giới thiệu một số triết lý về
chính trị của phương Tây"

Kết quả thảo luận: nhóm thống nhất đổi sang đề tài: "Giới thiệu một số triết lý về
chính trị của phương Tây"
Tiếp tục thống nhất về bố cục tiểu luận, phân công thực hiện đề tài
Trang bìa: nhóm trưởng làm
Trang đầu: Tú Anh làm

Các trang giữa: nhóm trưởng và Xuân Âu thực hiện
Trang cuối: kết luận – Tú Anh làm
Trang thêm: tài liệu tham khảo và mục lục – nhóm trưởng làm
Đánh giá buổi làm việc:
• Toàn bộ thành viên có mặt đúng giờ hẹn.
• Sử dụng thành thạo công cụ họp trực tuyến.
• Đóng góp các ý kiến hữu ích cho nhóm.
Lịch dự kiến cho cuộc họp tiếp theo là ngày 03/12/2014.
Nội dung họp dự kiến:
+ Tổng hợp các phần công việc đã phân chia thành bài tiểu luận thống

+
+
+
+
+
-

-

nhất cho nhóm.
+ Bàn về phần phụ lục mở rộng cho đề tài.
Buổi họp kết thúc lúc 23h45 ngày 15 tháng 11 năm 2014.


ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
K24 UEH Lớp đại cương 1 246 B415

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc


--------------------TP. Hồ Chí Minh, ngày 03 tháng 12 năm 2014

BIÊN BẢN LÀM VIỆC NHÓM

-

Chúng tôi gồm:
1. Nguyễn Quốc Ân (nhóm trưởng)
2. Phan Tú Anh
3. Nguyễn Xuân Âu
Họp nhóm vào lúc 18h30 ngày 03/12/2014
Địa điểm: phòng B415, 279 Nguyễn Tri Phương, Quận 10, TP. Hồ Chí Minh
Nội dung cuộc họp: tổng hợp các phần công việc đã phân chia thành bài tiểu

-

luận thống nhất cho nhóm và bàn về phần phụ lục mở rộng cho đề tài.
Nhóm trưởng tiến hành định dạng lại bài tiểu luận thống nhất theo yêu cầu

-

của thầy dựa trên bài các thành viên gửi qua email.
Nhóm trưởng đề xuất ý tưởng phần phụ lục sẽ mở rộng nghiên cứu về triết lý

-

chính trị của Việt Nam.
Kết quả thảo luận: nhóm thống nhất sẽ mở rộng thêm đề tài về triết lý chính


-

trị của Việt Nam


Phân công thực hiện đề tài
+ Chính trị Việt Nam thời cổ đại: Tú Anh làm
+ Chính trị Việt Nam thời kỳ nhà nước phong kiến: Xuân Âu làm
+ Chính trị Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh: nhóm trưởng làm
- Đánh giá buổi làm việc:
• Toàn bộ thành viên có mặt đúng giờ hẹn.
• Bài làm của các thành viên đúng theo phân công.
- Lịch dự kiến cho cuộc họp tiếp theo là ngày 28/12/2014.
- Nội dung họp dự kiến: tổng hợp phần phụ lục, hoàn chỉnh bài tiểu luận.
-

Buổi họp kết thúc lúc 21h00 ngày 03 tháng 12 năm 2014.
ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
K24 UEH Lớp đại cương 1 246 B415

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

--------------------TP. Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 12 năm 2014

BIÊN BẢN LÀM VIỆC NHÓM

-

Chúng tôi gồm:

1. Nguyễn Quốc Ân (nhóm trưởng)
2. Phan Tú Anh
3. Nguyễn Xuân Âu
Họp nhóm vào lúc 09h00 ngày 28/12/2014
Hình thức: trao đổi trực tuyến thông qua công cụ mạng xã hội Facebook
Nội dung cuộc họp: tổng hợp phần phụ lục, hoàn chỉnh bài tiểu luận.
Nhóm trưởng tiến hành định dạng lại bài tiểu luận thống nhất theo yêu cầu

-

của thầy dựa trên bài các thành viên gửi qua email.
Nhóm trưởng gửi lại bài đã tổng hợp cho các thành viên qua email.
Phân công các thành viên đọc kiểm tra lại lần cuối, các phản hồi gửi đến

-

-

nhóm trưởng thông qua email.
Đánh giá buổi làm việc:
• Toàn bộ thành viên có mặt đúng giờ hẹn.
• Bài làm của các thành viên đúng theo phân công.

Buổi họp kết thúc lúc 12h00 ngày 28 tháng 12 năm 2014.


MỤC LỤC
Lời nói đầu........................................................................................................Trang
I. Khái niệm..............................................................................................................1
1.1. Triết lý triết học.................................................................................................1

1.2. Chính trị là gì?...................................................................................................1
II. Giá trị lịch sử tư tưởng chính trị ở phương tây thời kỳ cổ đại và cận đại..........2
2.1. Thời cổ đại.........................................................................................................2
2.2. Thời trung cổ (thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ 15).....................................................5
2.3. Thời cận đại.......................................................................................................5
III. Lược sử tư tưởng chính trị của chủ nghĩa Mác – Lênin....................................9
3.1. Điều kiện kinh tế - xã hội.................................................................................9
3.2. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, sự phát triển của phong trào công nhân. 9
3.3. Những trào lưu tư tưởng chính trị và cuộc đấu tranh lý luận của các tác giả
kinh điển Mác xít....................................................................................................10
3.4. Những quan điểm chính trị chủ yếu của Mác – Ăngghen – Lênin................11
Kết luận..................................................................................................................12
Phụ lục....................................................................................................................14
I. Triết học chính trị thời kỳ xây dựng quốc gia phong kiến Việt Nam độc lập tự
chủ..........................................................................................................................14
II. Tư tưởng chính trị thời sơ sử.............................................................................16
2.1. Hoàn cảnh lịch sử............................................................................................16
2.2. Tư tưởng chính trị...........................................................................................16
III. Triết lý chính trị trong thời kỳ từ thế kỷ thứ II (trước công nguyên) đến thế kỷ
X.............................................................................................................................17
3.1. Hoàn cảnh lịch sử............................................................................................17
3.2. Tư tưởng chính trị...........................................................................................18


IV. Tư tưởng chính trị thế kỷ XI............................................................................20
4.1. Điều kiện lịch sử.............................................................................................20
4.2. Tư tưởng chính trị...........................................................................................20
V. Tư tưởng triết học chính trị thời kỳ phục hồi và xây dựng các quốc gia độc lập
từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV..................................................................................21
5.1. Hoàn cảnh lịch sử............................................................................................21

5.2. Tư tưởng chính trị thời kỳ này........................................................................22
VI. Tư tưởng chính trị thời Hậu Lê........................................................................24
6.1. Hoàn cảnh lịch sử............................................................................................24
6.2. Tư tưởng chính trị...........................................................................................25
VII. Triết học chính trị Việt Nam từ thế kỷ XVI – XVIII.....................................28
7.1. Những đặc điểm về kinh tế – xã hội...............................................................28
7.2. Triết lý chính trị...............................................................................................29
VIII. Triết học chính trị dân chủ tư sản Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
................................................................................................................................31
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
................................................................................................................................31
8.1. Hoàn cảnh lịch sử............................................................................................31
8.2. Tư tưởng cách mạng dân chủ tư sản...............................................................32
IX. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị.................................................................34
9.1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội...............................................34
9.2. Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam............35


9.3. Tư tưởng về đại đoàn kết................................................................................35
9.4. Tư tưởng về xây dựng thể chế chính trị..........................................................35
9.5. Lý luận về đảng cầm quyền............................................................................36
9.6. Về phương pháp cách mạng............................................................................37

X. Triết học chính trị Việt Nam từ 1930 đến nay..................................................37
10.1. Hoàn cảnh lịch sử..........................................................................................37
10.2. Những nội dung cơ bản về triết học chính trị...............................................39
Kết luận..................................................................................................................44
Tài liệu tham khảo

46


LỜI NÓI ĐẦU
Lĩnh vực chính trị là một trong những lĩnh vực cơ bản của đời sống xã
hội, giữ một vị trí vô cùng quan trọng và chi phối các lĩnh vực khác. Hình thành
từ khi xã hội loài người phân chia thành các giai cấp và ra đời nhà nước, qua mỗi
giai đoạn lịch sử nhất định, lĩnh vực chính trị luôn vận động cùng với sự vận
động của xã hội loài người, và được khái quát hóa thành tri thức lý luận tổng
quát, thành các học thuyết, khuynh hướng, trào lưu triết học chính trị.
Nổi bật và đặc sắc là triết học chính trị phương Tây với sự đa dạng và vận động
đấu tranh không ngừng, đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong lịch sử tư
tưởng nhân loại. Trải qua nhiều thời kỳ - Triết học Hy Lạp, La Mã cổ đại với
Democritus, Plato, Aristotle; triết học phương Tây thời Trung cổ với St.
Augustine, Thomas Aquinas; thời Phục hưng – cận đại với N. Machiavelli, John
Locke, Montesquieu, Jean-Jacques Rousseau; thời hiện đại với Max Weber,
David Easton, Bernard Crick, Harold Lasswell, C.Mác – V.I.Lênin, triết học
chính trị phương Tây là một bức tranh đầy màu sắc về quan hệ giữa các giai cấp
và quá trình đấu tranh giai cấp, cách thức giải quyết mối quan hệ giữa các giai
cấp và tầng lớp xã hội trong việc phân bổ các lợi ích mà đặc biệt là lợi ích kinh
tế. Quá trình phát triển của triết học chính trị phương Tây chứa đựng trong nó
nhiều bài học sâu sắc, tinh túy với đời sống xã hội hiện thực. Để hiểu rõ hơn về
vấn đề này, chúng em thực hiện đề tài “Giới thiệu một số triết lý về chính trị của
Phương Tây” dựa trên nền tảng các tài liệu Triết học, Lịch sử triết học, Chính trị

học – khoa Lý luận Chính trị, trường đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh
cùng với các nguồn tài liệu tham khảo là các tác phẩm triết học chính trịcủa một
số tác giả tiêu biểu trong các thời kỳ với mong muốn giới thiệu, tóm lược những
tư tưởng cốt yếu.Đề tài gồm 2 phần chính: Tư tưởng chính trị phương Tây thời
cổ đại, cận đại và lược sử tư tưởng chính trị của chủ nghĩa Mác – Lênin. Phần
phụ lục chúng em mở rộng nghiên cứu về tư tưởng chính trị của Việt Nam từ thời
kỳ xây dựng nhà nước phong kiến đến hiện nay.


Tiểu luận triết học

Giảng viên phụ trách: TS. Bùi Văn Mưa

I. Khái niệm:
1.1. Triết lý triết học:
Chiếc nôi của triết học phải nói đến Hy Lạp, La Mã, Ấn Độ và Trung
Quốc. Triết học được hiểu theo nghĩa là sự thông thái, sự hiểu biết về nhân sinh
và vũ trụ.
Ở Trung Quốc được gọi là Triết nghĩa là Trí Tuệ, là sự hiểu biết sâu sắc
của con người và thế giới. Còn ở Ấn Độ thì gọi (triết học) là Dar’sana nghĩa là
chiêm ngưỡng, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải. Ở
phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy lạp, theo tiếng Latinh từ triết học
là Philosophia nghĩa là yêu thích sự thông thái, "ái trí", nó vừa mang tính định
hướng, vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người. Như vậy,
cho dù ở phương Đông hay phương Tây, ngay từ đầu, triết học đã là hoạt động
tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người, nó tồn tại với tư
cách là một hình thái ý thức xã hội.
Đã có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về triết học, nhưng đều bao
hàm những nội dung cơ bản giống nhau: Triết học nghiên cứu thế giới với tư
cách là một chỉnh thể, tìm ra những quy luật chung nhất chi phối sự vận động của

chỉnh thể đó nói chung, của xã hội loài người, của con người trong cuộc sống
cộng đồng nói riêng và thể hiện nó một cách có hệ thống dưới dạng duy lý. Khái
quát lại, có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con
người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Triết lý triết
học đơn giản chính là những lý luận về triết học.
1.2. Chính trị là gì?
Chính trị là những công việc nhà nước, gắn với những quan hệ giai cấp,
dân tộc, các nhóm xã hội khác nhau trong xã hội mà vấn đề cốt lõi là vấn đề
giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước,…

Nhóm 01

11


Tiểu luận triết học

Giảng viên phụ trách: TS. Bùi Văn Mưa

I. Giá trị lịch sử tư tưởng chính trị ở phương tây thời kỳ cổ đại và cận đại:
1.1. Thời cổ đại: mà đặc trưng là các tư tưởng và học thuyết chính trị Hy Lạp La Mã. Họ đề cập về những vấn đề như nguồn gốc, bản chất của nhà nước, các
hình thức xã hội, thể chế nhà nước, thủ lĩnh chính trị
Trước nhất, bàn về thủ lĩnh chính trị, đã có rất nhiều quan điểm, ý kiến
của các học giả về vấn đề này:
SOCRATES cho rằng: thủ lĩnh chính trị phải là người có đạo đức. Nhưng
đạo đức phụ thuộc vào trí tuệ. Tuy nhiên, do xuất thân từ tầng lớp chủ nô quý tộc
nên ông cho rằng chỉ có thiểu số tầng lớp quý tộc mới là người có trí tuệ, mới là
những người sáng tạo đúng đắn.
DEMOCRITUS: yêu cầu thủ lĩnh chính trị phải là người có tài năng, đạo
đức và do thuộc trường phái duy vật chủ nô dân chủ nên cho rằng tầng lớp bình

dân cũng có tài năng, có thể làm được chính trị.
XENOPHON: yêu cầu thủ lĩnh chính trị phải có kỹ thuật giỏi, phải có sức
thuyết phục cao, người thủ lĩnh phải biết vì lợi ích chung nghĩa là phải biết chăm
sóc cho người bị trị, biết hợp lại và nhân sức mạnh của mọi người. Ông là người
đầu tiên đặt ra yêu cầu về thủ lĩnh chính trị khá toàn diện như: phải có chuyên
môn giỏi, có uy tín, vì dân…
PLATO: yêu cầu thủ lĩnh chính trị phải thực sự có khoa học chính trị, có
tính khí phù hợp với nhiệm vụ đảm đương. Ông xem tiêu chuẩn chính trị là tiêu
chuẩn của mọi tiêu chuẩn. Ông quan niệm người lãnh đạo trong xã hội không
được có quyền tư hữu (sở hữu về tài sản) bởi vì tư hữu sẽ làm mất công tâm. Lực
lượng võ sĩ bảo vệ thì không được có gia đình riêng vì có gia đình riêng thì sẽ
không thể chiến đấu dũng cảm được. Theo ông, thủ lĩnh chính trị phải biết hy
sinh lợi ích cá nhân vì những giá trị chung. Tuy có những quan điểm tiến bộ
nhưng ông vẫn còn sai lầm khi cho rằng một thủ lĩnh chính trị như vậy chỉ có ở
tầng lớp chủ nô quý tộc.
ARISTOTLE: xem thủ lĩnh chính trị là người sung túc, là người ở tầng
lớp trung lưu không phải giàu cũng không phải nghèo, họ là người phải biết uốn
mình theo lới khuyên của các bên (vì quan điểm của ông theo nhị nguyên luận).
Nhóm 01

12


Tiểu luận triết học

Giảng viên phụ trách: TS. Bùi Văn Mưa

CICERO: như là một sự tổng kết về của những tư tưởng về người thủ
lĩnh chính trị trước đó. Ông nêu ra rằng người thủ lĩnh chính trị phải có sự thông
thái, có trách nhiệm, có sự cao thượng về phẩm hạnh, phải thống nhất trong minh

giữa tài năng và quyền uy. Có uy thế tinh thần, có tinh thần cao thượng, biết hy
sinh vì lợi ích chung, bỏ qua các lợi ích tiền bạc không chính đáng. Quan niệm
của ông đến ngày nay cũng khó có người đạt được, đó là nhà chính trị phải có
chính trị, có đạo đức…
Thứ hai, bàn về nguồn gốc của quyền lực nhà nước, một số quan điểm nổi
bậc của các học giả như sau :
HERACLITUS: là người thuộc tầng lớp chủ nô quý tộc, có lập trường
duy tâm, ông xem trạng thái tự nhiên của con người tự nó đã hoàn hảo, không có
vấn đề công bằng hay không công bằng ở đó. Công bằng do con người tạo ra xã
hội con người là một trạng thái tự nhiên, tự nó, không ai sinh ra, không ai sắp đặt
nó, tự nhiên sinh ra có kẻ trí và người ngu cho nên kẻ trí thống trị người ngu là lẽ
tự nhiên, kẻ trí là người quí tộc, nô lệ là người ngu. Ông cho rằng quyền lực là
quy luật vĩnh viễn. Không bao giờ trong xã hội lại không có quyền lực. Pháp luật
nhằm thực hiện tính tất yếu của quyền lực, xã hội phải phục tùng ý chí của một
cá nhân là điều tất yếu cho sự thống nhất. Theo ông bất bình đẳng là tự nhiên,
một quý tộc phải được trị giá bằng một nghìn dân thường.
PLATO: xem quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước là quyền lực thống
trị của kẻ trí đối với người ngu. Đó là đặc tính của trí tuệ. Chỉ có người có trí tuệ
mới có quyền lực. Trí tuệ chỉ có ở quý tộc.
ARISTOTLE: quan niệm quyền lực của xã hội cũng là một trạng thái tự
nhiên. Nó xuất phát từ gia đình, quyền của cha đối với con, chồng đối với vợ,
anh đối em; xuất phát từ quyền lực đối với xã hội. Trong xã hội có nhiều gia
đình, gia đình này có sự xâm hại đối với gia đình khác. Do đó mỗi gia đình phải
nhượng lại quyền lực của từng gia đình thành quyền lực chung. Người nắm
quyền lực chung là nhà nước. Vì vậy, quyền lực nhà nước là tự nhiên, pháp luật
là những nguyên tắc khách quan, vô tư, xuất phát vì lợi ích của xã hội, của từng
công dân.
Nhóm 01

13



Tiểu luận triết học

Giảng viên phụ trách: TS. Bùi Văn Mưa

CICERO: cho rằng quyền lực nhà nước hình thành trong quá trình lịch sử
lâu dài. Quyền lực bắt nguồn từ bản chất của con người chạy trốn sự cô đơn, tìm
cuộc sống của cộng đồng. Cho nên quyền lực là của chung chứ không riêng của
một ai, dù đó là người tài giỏi nhất cũng không sinh ra quyền lực được.
Thứ ba, bàn về thể chế nhà nước, các quan điểm lớn bao gồm :
HERODOTUS: là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã phân biệt và
so sánh các thể chế của nhà nước khác nhau. Theo ông có 3 hình thức cơ bản:
+ Thể chế quân chủ: tức là thể chế cầm quyền của một người-đó là vua. Thể chế
này có 2 mặt : Ưu điểm: là thể chế ra đời thường là do những người có công khai
quốc, thường là vì lợi ích chung của nhân dân. Nó là một bàn tay sắt cần thiết khi
chế độ dân chủ bị rối loạn. Nhược: thể chế này dễ rơi vào sự độc tài, chuyên
quyền, dễ bị xu nịnh, luôn có xu hướng là lạm dụng quyền lực.
+ Thể chế quý tộc: thể chế của một số ít người thông thái và tiêu biểu về phẩm
hạnh của quốc gia để cầm quyền. Ưu: đây chính là chính quyền của những người
có trình độ cao nên mọi công việc, các quyết sách chính trị đều được bàn bạc
giữa những người trí tuệ nên công việc có khoa học, ít sai lầm. Nhược: giữa các
nhà thông thái làm việc bên nhau sớm muộn cũng sẽ tiêu diệt lẫn nhau, vì không
ai chịu thua ai, các nhà thông thái đều muốn làm thầy của nhau.
+ Thể chế dân chủ: thể chế này là của đông đảo nhân dân nắm quyền và nó được
thành lập bởi chế độ bỏ phiếu để bầu ra các pháp quan. Ưu: các quyết định quyết
sách chính trị đều do tập thể bàn bạc một cách dân chủ. Nó có xu hướng công
bằng vì lợi ích chung, chăm lo cho nhân dân. Nhược : số đông người ít học cầm
quyền thì khó có khả năng chống độc tài, chuyên chế, dễ rơi vào tiểu tiết mà
quên đi tầm chiến lược, thường thấy những chuyện trước mắt mà không thấy

trước những chuyện lâu dài. Dễ bị kẻ xấu kích động lôi kéo. Từ đó ông kết luận
loại thể chế tốt nhất là thể chế hỗn hợp những ưu của từng thể chế trên.
DEMOCRITUS: ông ủng hộ chế độ dân chủ cộng hoà chủ nô.
SOCRATES: ông là người ủng hộ chế độ chuyên chế độc tài. Ông cho
rằng dân chủ là sai lầm. Dân chủ là chính quyền của người ngu dốt, ông gọi đó là
chính quyền “bình dân”.
Nhóm 01

14


Tiểu luận triết học

Giảng viên phụ trách: TS. Bùi Văn Mưa

ARISTOTLE: ông cho rằng thể chế nhà nước dân chủ là thể chế người
giàu, người nghèo không bên nào số lượng tuyệt đối. Ông cho rằng mọi thể chế
đều có nguy cơ biến chất, thay đổi bằng cuộc cách mạng. Ông là người đầu tiên
phân loại quyền lực nhà nước: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Người đứng đầu
nhà nước là giai cấp trung lưu, ông đề cao vai trò của pháp luật đối với việc ổn
định xã hội. Nhà nước có chức năng bảo đảm cho xã hội được sống hạnh phúc.
Ông quan niệm công bằng rất tiến bộ, phân phối công bằng có nghĩa là người
đáng được hưởng nhiều hơn thì được nhiều hơn, người đáng được hưởng ít hơn
thì được ít hơn. Ông cũng đề cập đến vấn đề hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi
ích xã hội và cho rằng đạo đức phải phục vụ cho pháp luật
POLYBE: kế thừa tư tưởng trước đó vào thể chế nhà nước, ông cho rằng
thể chế nhà nước là phải kết hợp những ưu điểm các thể chế chứ không theo một
tiêu chí thuần túy nào bởi vì trong thuần túy đã chức đựng mầm mống sự yếu
kém khi phát huy tối đa sẽ bộc lộ yếu kém.
1.2. Thời trung cổ (thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ 15): xã hội phương Tây chìm đắm

trong xiềng xích nô lệ của hai thế lực thần quyền và thế quyền, đó là Thiên chúa
giáo và chế độ phong kiến mà người ta gọi đêm trường Trung cổ. Thiên chúa
giáo lấn át cả chế độ phong kiến và chi phối toàn bộ đời sống xã hội bằng những
luật lệ hà khắc và người xuẩn. Chính vì vậy, thời kỳ này xã hội phương Tây hầu
như không phát triển được về mọi mặt, kể cả hệ tư tưởng chính trị.
1.3. Thời cận đại: là thời kỳ triết học khai sáng, những tư tưởng chính trị phát
triển rất rực rỡ, phong phú và đa dạng, đặc biệt là ở Pháp.
DIDEROT: theo ông nguồn gốc nhà nước ra đời do khế ước xã hội. Nhà
nước phải bảo đảm bình đẳng và tự do. Nhà nước nào vi phạm điều đó thì không
còn tư cách để tồn tại.Về luật pháp: bản chất con người phải phù hợp với trạng
thái tự nhiên, luật pháp quán triệt điều đó, chứ không phải ngược lại. Người ta
gọi ông là tác giả của tác phẩm cộng sản tuyệt vời và của18 “bộ luật tự nhiên”.Về
tư cách lãnh đạo, ông cho rằng mọi chức vụ của người cầm quyền phải được thực
hiện bằng thi cử. “dòng đầu tiên của một bộ luật là hạn chế quyền lực của người
cầm quyền”. (Diderot). Về phương pháp thay đổi chế độ xã hội, ông không tán
Nhóm 01

15


Tiểu luận triết học

Giảng viên phụ trách: TS. Bùi Văn Mưa

thành phương pháp cách mạng và cho tằng tiến bộ về lý trí sẽ làm thay đổi xã
hội. Ông phủ nhận vai trò của tôn giáo: nhà thờ không thể dung hoà với chân lý
được.
VOLTAIRE: là lãnh tụ của phong trào khai sáng, ông chống chế độ chủ
nô, đấu tranh cho sự bình đẳng của công dân nước Pháp. Ông phê phán nhà thờ
và chuyên chế, mọi tội ác trong xã hội là do nhà thờ mà ra. Ông chủ trương tự do

tín ngưỡng, báo chí, ngôn luận và sở hữu. Ông kịch liệt chống chiến tranh. Theo
ông, chiến tranh còn kinh khủng hơn dịch hạch và điên khùng. Theo ông bất bình
đẳng về tài sản là tất yếu.
MONTESQUIEU: phê phán chế độ chuyên chế phong kiến và cho rằng
chuyên chế về bản chất là đối lập với tự do. Theo ông chế độ chuyên chế là bạo
chúa, vua pháp là một gã phù thuỷ. Bàn về nhà thờ, ông cho rằng nhà thờ là
nguồn gốc của tội lỗi, ông giải thích sở dĩ La Mã cường thịnh là do ghét chuyên
chế và yêu tự do. Sở dĩ La mã bị huỷ diệt cũng vì tự do bị huỷ diệt và đạo đức bị
suy đồi; song ông cũng giành cho tôn giáo một vị trí nhất định trong việc duy trì
đạo đức xã hội. Về nguồn gốc của nhà nước, theo ông, nhà nước xuất hiện trong
một quá trình lịch sử lâu dài khi mà trong xã hội xuất hiện tình trạng mâu thuẫn
không thể điều hoà nếu không có một cơ quan có quyền lực đủ mạnh để giữ gìn
sự bình ổn của xã hội. Ông là người đã xây dựng học thuyết nhân quyền với mục
đích tạo dựng các thể chế chính trị bảo đảm tự do chính trị cho các công dân. Tự
do chính trị của công dân là quyền làm mọi cái mà pháp luật không cấm. Do vậy
tự do chính trị chỉ có được ở các quốc gia mà tất cả các quan hệ đều được điều
chỉnh bằng luật pháp. Pháp luật trở thành thước đo của tự do, mặt khác ông lại
cho rằng kinh nghiệm lịch sử bao đời cho thấy người nắm quyền lực thường có
khuynh hướng lạm quyền. Do vậy cách tốt nhất để chống lạm quyền là phải
chống độc quyền, là phải phân chia sao cho quyền lực kiềm chế quyền lực, từ đó
ông đưa ra học thuyết tam quyền phân lập một cách có hệ thống (lập pháp hành
pháp và tư pháp) và là đối thủ đáng sợ nhất của chế độ chuyên chế phong kiến.
Đặt vấn đề xây dựng đạo đức chính trị: ông cho rằng đạo đức chính trị là phải đặt
lợi ích công cộng cao hơn lợi ích cá nhân người cầm quyền. Ông đề ra thuyết địa
Nhóm 01

16


Tiểu luận triết học


Giảng viên phụ trách: TS. Bùi Văn Mưa

lý: cho rằng cái đạo đức, cái tính cách của một dân tộc chịu sự chi phối bởi
những điều kiện địa lí nhất định (địa hình, khí hậu…) nhà cầm quyền khi ban
hành chính sách pháp luật phải xét đến những điều kiện địa lí cụ thể đó. Về thể
chế nhà nước: ông phân ra bản chất và nguyên tắc hoạt động của các loại chính
phủ đó là chính phủ cộng hoà dân chủ, cộng hoà quý tộc, quân chủ.
ROUSSEAU: là đại biểu của tầng lớp dân chủ thị dân, ông phê phán gay
gắt quan hệ đẳng cấp phong kiến và chế độ chuyên chế. Về chính trị: quan điểm
về chính trị của ông cấp tiến hơn Montesquieu (vì Montesquieu bảo vệ tư tưởng
quân chủ lập hiến), quan điểm của ông tiến xa hơn ở chỗ đề cao tư tưởng chủ
quyền nhân dân, ông không chỉ phê phán chế độ phong kiến mà đòi bác bỏ hoàn
toàn chế độ đó. Ông cho rằng trong xã hội mọi người phải được tự do bình đẳng
đó là trạng thái tự nhiên vốn có, là phúc lợi cao nhất của con người, quyền lực
trong xã hội phải thuộc về nhân dân. Nhà nước lập ra qua các khế ước xã hội
phải thể hiện ý chí quyền lực của nhân dân nếu không thể hiện được điều đó thì
bộ phận cầm quyền phải bị đào thải, thay thế. Ông chủ trương quyền lực phải tập
trung cao nhất, ông chống lại tư tưởng phân quyền của Montesquieu, theo ông
nếu quyền lực phân chia ra các cơ quan nắm giữ các nhiệm vụ khác nhau thì phải
coi các cơ quan đó là công cụ của chủ thể nhân dân và lệ thuộc vào chủ quyền
nhân dân. Ông cho rằng ý chí chung phải được rút ra từ đa số và chính trị là
chính trị của đa số, được xây dựng trên nguyên tắc đa số, chỉ qua quyết định của
đa số thì chính trị mới không phạm sai lầm.
JOHN LOCKE: Ông cho rằng bản chất của con người là tự do, xã hội
loài người là tự do, cho nên tự do là giá trị cao quý nhất của xã hội, của con
người. Nhà nước phải bảo đảm sự tự do của con người, mới bảo đảm tồn tại sự
hợp lí của nhà nước. Luật của tư nhiên bắt buộc phải tự do nên con người phải tự
do. Ông đã luận giải về nguồn gốc và bản chất của nhà nước xuất phát từ quyền
lực tự nhiên của con người là tối cao và bất khả xâm phạm. Do quy luật tự nhiên

của xã hội mà nảy sinh ra bất công về kinh tế xã hội, mất an ninh và quyền tự
nhiên của con người bị xâm phạm. Để bảo vệ quyền tự nhiên của con người thì
mọi thành viên trong xã hội mới “ký kết”, hình thành một chính quyền có quyền
Nhóm 01

17


Tiểu luận triết học

Giảng viên phụ trách: TS. Bùi Văn Mưa

lực chung. Như vậy quyền lực xuất hiện từ các thành viên của xã hội. Từ đó ông
đưa ra 3 kết luận quan trọng như sau :
- Quyền lực nhà nước về bản chất là quyền lực của dân. Quyền lực của dân là cơ
sở, nguồn gốc, nền tảng của quyền lực nhà nước. Trong quan hệ với dân, nhà
nước không có quyền mà chỉ thực hiện sự ủy quyền của nhân dân . Nhà nước có
quyền trong “khế ước xã hội”, đó là hiến pháp những đạo luật cơ bản…
- Nhà nước thực chất là khế ước của xã hội, trong đó công dân nhường một phần
quyền của mình mà hình thành quyền lực chung, quyền lực nhà nước điều hành
và quản lý XH để bảo vệ quyền tự nhiên của con người.
- Bảo toàn quyền tự nhiên của mỗi cá nhân con người, đó cũng là tiêu chí căn
bản nhất để xem xét tính hợp lý hay không hợp lý của nhà nước, đó là giới hạn
căn bản của nhà nước. Đi quá giới hạn này, chính quyền sẽ là chuyên chế , thành
kẻ thù của quyền lực tự nhiên và là đối tượng cách mạng.
Ba kết luận trên đặt nền móng cho chế độ dân chủ hiện đại. Lốccơ chia nhà nước
làm 3 cơ quan với 3 quyền khác nhau:
- Quyền lập pháp: là sự biểu hiện ý chí chung của quốc gia và thuộc về toàn dân.
Nếu những quốc gia lớn thì cử ra đại biểu nhân dân (nghị viện) do nhân dân bầu
ra và phải là những người hiểu rõ về luật.

- Quyền hành pháp: là quyền thực hiện pháp luật đã được lập ra bởi cơ quan lập
pháp, phải có cơ quan riêng và tách ra khỏi quốc hội.
- Quyền tư pháp: là quyền xét xử tội phạm và giải quyết tranh chấp giữa cá nhân
được thực hiện bởi thẩm phán do nhân dân bầu ra.
Theo ông, phân quyền là một tất yếu kĩ thuật, là một tiêu chuẩn không thể
thiếu được của một xã hội dân chủ. Yêu cầu phân quyền sao cho cân bằng, công
bằng nghĩa là dùng quyền lực này để chế ngự quyền lực khác.
Như vậy, tư tưởng chính trị ở phương tây thường gắn liền với pháp luật trong
khi tư tưởng chính trị phương đông thường gắn liền với đạo đức. Tư tưởng chính
trị phương tây thường xuất phát từ “trạng thái tự nhiên” của con người thường đề
cao động lực “quyền lợi” của con người. Chính trị học của giai cấp tư sản
phương tây thường dựa trên cơ sở của chủ nghĩa cá nhân, tuyết đối hoá quyền lợi
Nhóm 01

18


Tiểu luận triết học

Giảng viên phụ trách: TS. Bùi Văn Mưa

cá nhân. Tư tưởng chính trị của giai cấp tư sản so với tư tưởng chính trị của giai
cấp phong kiến là một bước tiến bộ trong việc giải phóng con người nhưng vẫn
chưa đặt con người như là mục đích, tức là vẫn chưa thể giải phóng đại đa số
nhân dân lao động.
Sự ra đời của tư tưởng chính trị Macxit là một cuộc cách mạng vĩ đại, lần
đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người, một giai cấp bị áp bức bóc lột, giai cấp
công nhân đã có một hệ tư tưởng cách mạng và khoa học là kim chỉ nam cho
hành động của mình.
II. Lược sử tư tưởng chính trị của chủ nghĩa Mác – Lênin:

2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội:
Những quan điểm chính trị Macxit được Mác và Ăngghen nêu ra là kết
quả của quá trình tư duy lý luận, kế thừanhững tinh hoa của những nhà tư tưởng,
các nhà chính trị lỗilạc của nhân loại, kết hợp với quá trình tham gia vào thực
tiễnđấu tranh cách mạng sôi động của giai cấp công nhân và nhândân lao động.
Với những điều kiện lịch sử cụ thể:
- Chủ nghĩa tư bản đã chiến thắng chế độ phong kiến lỗi thời, chínhquyên
nhà nước đã thuộc về tai giai cấp tư sản.
- Giai cấp tư sản vẫn không xóa bỏ được những đốikháng của giai cấp, nó
chỉ thay thế giai cấp này bằng giai cấp khác. Nhà nước Tư bản chủ nghĩa cũng
như nhà nước phong kiến, đều là bộ máy có tính giai cấp, phục vụ lợi ích cho giai
cấp thống trị.
- Sự hình thành thị trường thế giới, sự phát triển của tự do cạnh tranh, các
cuộc khủng hoảng kinh tế, sự tập trung tư bản ngày một tăng, tất cả có tác dụng
thúc đẩy đấu tranh giai cấp, đấu tranh chính trị giữa giai cấp vô sản và tư sản.
2.2. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, sự phát triển của phong trào công
nhân:
- Sự phát triển của sản xuất, sự tăng cường bóc lột đãnâng cao ý thức giai
cấp và tính tổ chức của giai cấp côngnhân. Giai cấp công nhân ngày càng tỏ ra là
một lược lượng chính trịđộc lập, tách khỏi sự thao túng của giai cấp tư sản.

Nhóm 01

19


Tiểu luận triết học

Giảng viên phụ trách: TS. Bùi Văn Mưa


- Các cuộc đấu tranh độc lập đầu tiên của giai cấp vôsản ở các trung tâm
công nghiệp của Anh, Pháp, Đức pháttriển mạnh mẽ.
- Các cuộc khởi nghĩa nói trên đã chứng minh giai cấpcông nhân thấy rằng
sức mạnh của họ là sự đoàn kết, sựthống nhất.
- Sự phát triển của phong trào đã nảy sinh một nhu cầutất yếu cần có một
lý luận, một học thuyết, một hệ thốngquan điểm chính trị chỉ ra cho giai cấp công
nhân cần phảiđấu tranh như thế nào, đấu tranh vì cái gì, mục đích trướcmắt và
mục tiêu lâu dài.
2.3. Những trào lưu tư tưởng chính trị và cuộc đấu tranh lý luận của các tác
giả kinh điển Mác xít:
- Vaitơlinh chỉ ra chế độ tư hữu là nguyên nhân của mọi tai họa của xã hội,
cần xóa bỏ nó, xã hội sẽ ra đời bằng con đường cách mạng và do giai cấp công
nhân tiến hành.
- Theo C. Mác, để thực hiện thành công một cuộc cách mạng không phải
chỉ cần có nhiệt tình mà chủ yếu phải có sự biết biết khoa học.
- Mác cũng chỉ ra rằng không thể thực hiện ngay lập tức chủ nghĩa cộng
sản mà phải tiến hành cuộc dấu tranh tuân theo đúng những quy luật khách quan
của lịch sử.
- Những quan điểm của chủ nghĩa xã hội không tưởng, đó là những quan
điểm phản ánh nguyện vọng của giai cấp vô sản còn chưa phát triển. Đúng như
nhận xét của Mác và Ăngghen “Tương ứng với một nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa chưa thành thục, với những quan hệ giai cáp chưa thành thục thì có một lý
luận chưa thành thục”. Và hai ông cũng chỉ ra một nguyên nhân của Chủ Nghĩa
Xã Hội không tưởng đó là vì họ chưa có mối quan hệ chặt chẽ với giai cấp công
nhân, với phong trào của giai cấp công nhân.
+ Muốn xóa bỏ bất bình đẳng nhưng chưa biết làm thế nào
+ Không hiểu được vai trò sứ mệnh của giai cấp công nhân.
+ Bảo vệ sự bình đẳng tuyệt đối trong phân phối, trong tiêu dùng, nêu cao
tinh thần khổ hạnh.


Nhóm 01

20


Tiểu luận triết học

Giảng viên phụ trách: TS. Bùi Văn Mưa

- Chủ nghĩa Pơruđông: những người theo chủ nghĩa này phản đối cuộc bãi
công của giai cấp công nhân từ biểu tình đến đấu tranh chính trị giành chính
quyền từ giai cấp tư sản. Những quan điểm của ông biến một trật tự xã hội tư bản
thành trật tự xã hội công bằng, sự cải cách quan hệ và bằng biện pháp đó có thể
xóa bỏ được những mâu thuẫn của trật tự Tư Bản Chủ Nghĩa, tiến tới xây dựng
một trật tự xã hội mới.
Phê phán những quan điểm của Pơruđông về chínhtrị, Mác đã chứng minh
rằng trong cuộc đấu tranh chống tưbản, giai cấp vô sản phải được tổ chức lại
thành một giaicấp độc lập và phải tiến hành cuộc đấu tranh chống lại giaicấp tư
sản.
Lênin là người đầu tiên đã từ lý luận khoa họcMacxit tiến hành thành
công cuộc cách mạng Tháng Mười Nga và xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa đầu tiên
trên thế giới.
2.4. Những quan điểm chính trị chủ yếu của Mác – Ăngghen – Lênin:


Con người – điểm xuất phát và mục đích đấu tranhchính trị của Mác –

Ăngghen – Lênin:
• Chính trị là chính trị của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định:
• Cơ sở kinh tế nào thì quan hệ chính trị ấy:

• Khi quan hệ kinh tế thống trị không còn phù hợp, cản trở sự phát triển của
lực lượng sản xuất thì một thời kỳ cách mạng bắt đầu:
• Giai cấp công nhân và chuyên chính vô sản:
• Giai cấp công nhân cầm quyền tất nhiên tạo ra hệ thống chính trị chuyên
chính vô sản:
• Khi cầm quyền nhà nước, Đảng Cộng Sản phải lãnh đạo giai cấp công
nhân, nhân dân lao động đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu - xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa:

KẾT LUẬN
Nhóm 01

21


Tiểu luận triết học

Giảng viên phụ trách: TS. Bùi Văn Mưa

Thời cổ đại ở phương Tây, với những cuộc đấu tranh một mất một còn
giữa chủ nô dân chủ và chủ nô quý tộc mà biểu hiện của nó là những cuộc cải
cách dân chủ ở các thành bang là đặc trưng cơ bản nổi bật của hệ tư tưởng lúc
bấy giờ. Thời trung cổ là sự kết hợp và xuyên thấu lẫn nhau giữa thần quyền và
thế quyền để thống trị thần dân mà biểu hiện cơ bản là sự thống trị của thiên chúa
giáo đối với tinh thần của nông nô. Sang thời cận đại, đặc trưng cơ bản là sự phát
triển mạnh mẽ của triết học khai sáng và là thời kỳ của các cuộc cách mạng dân
chủ tư sản với sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động đấu
tranh cho các quyền cơ bản của con người. Đó là những nét tổng thể dệt nên nội
dung cơ bản của lịch sử phát triển tư tưởng chính trị ở các nước phương Tây thời
kỳ trước Mác. Việc làm rõ những giá trị phổ biến trong sự phát triển chính trị của

nhân loại qua sự phát triển tư tưởng chính trị phương tây từ cổ đại đến cận đại sẽ
có ý nghĩa rất quan trọng trong tổ chức thực thi quyền lực chính trị của nhân dân
lao động ở nước ta.
Khi nghiên cứu tư tưởng chính trị của các thời đại lịch sử phương Tây,
chúng ta không được quên tính giai cấp của nó, mặt khác không vì thế mà phủ
nhận toàn bộ nội dung, tri thức khách quan trong các học thuyết chính trị mà phải
biết chọn lọc, rút ra những cái giá trị để kế thừa, làm giàu tri thức của mình, kể cả
đối với tư tưởng chính trị tư sản hiện đại.Qua những giá trị tư tưởng chính trị
Phương Tây đã trình bày, chúng ta nhận thấy rằng bất cứ hệ thống chính trị nào,
nhà nước cũng mang bản chất giai cấp, nhưng đồng thời phải thực hiện chức
năng xã hội. Mặt khác, hệ thống chính trị nào, nhà nước nào mà quyền lực thuộc
về nhân dân lao động thì đó là xu hướng tiến bộ. Nhà nước pháp quyền là một
thành tựu của văn minh chính trị cần phải được ứng dụng. Hệ thống chính trị cần
phải có cơ chế tự điều chỉnh và cơ chế cân bằng kiểm soát quyền lực để thích
ứng với điều kiện thay đổi và cần phát huy sáng tạo cá nhân.
Việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCNVN thực sự vững mạnh đồng
thời nâng cao hiệu quả và chất lượng lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước đã trở
một đòi hỏi bức thiết của cuộc sống, của sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp cách mạng
của dân tộc ta vì chỉ có xây dựng nhà nước pháp quyền đủ mạnh mới có thể bảo
Nhóm 01

22


Tiểu luận triết học

Giảng viên phụ trách: TS. Bùi Văn Mưa

vệ và phát huy những thành quả trong quá trình đổi mới về mọi mặt (chính trị,
kinh tế,văn hoá, quan hệ quốc tế…), mới có đủ khả năng giải quyết vấn đề mới

nảy sinh do mặt trái của cơ chế thị trường, của kinh tế nhiều thành phần mang lại,
và mới có khả năng đương đầu và đập tan chiến lược “diễn biến hoà bình” mà
các thế lực chống đối đang ráo riết tiến hành.

PHỤ LỤC
Nhóm 01

23


Tiểu luận triết học

Giảng viên phụ trách: TS. Bùi Văn Mưa

I. Triết học chính trị thời kỳ xây dựng quốc gia phong kiến Việt Nam độc lập
tự chủ:
Chính trị là một lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội từ thời cổ đại đến
ngày nay. Chính trị có mối quan hệ mật thiết với các lĩnh vực khác của đời sống
xã hội đặc biệt với kinh tế.
Chính trị là quan hệ giữa các giai tầng xã hội, các cộng đồng dân tộc và
các cá nhân với quyền lực chính trị và chủ quyền quốc gia.
Ở Việt Nam hiện nay, chính trị được nghiên cứu bởi các ngành khoa học
khác nhau:



Chính trị học – khoa học về quyền lực và phương thức cầm quyền.
Các khoa học chính trị chuyên ngành; nhà nước pháp luật, lý luận về

Đảng, quan hệ quốc tế, khoa học về quyền con người.

• Các khoa học khác: Tâm lý học, xã hội học, văn hoá học... cũng nghiên
cứunhiều vấn đề liên quan tới chính trị.
Khác với khoa học cụ thể trên, triết học đi vào những vấn đề cơ bản, chung
nhất củachính trị như nguồn gốc chính trị, bản chất của chính trị, đặc trưng của
chính trị, vai tròcủa chính trị trong đời sống xã hội và mối quan hệ giữa các thành
viên xã hội (cá nhân,tập đoàn, cộng đồng) với chính trị đặc biệt là các thiết chế
chính trị.
Triết học chính trị Việt Nam có thể hiểu là hệ thống các quan điểm hay quan
niệm vềnguồn gốc, bản chất của các thể chế chính trị Việt Nam, về chủ quyền
quốc gia dântộc, về mối quan hệ của nhà nước với các thành viên xã hội, giữa
nhà nước với xã hộinói chung.
Triết học chính trị Việt Nam cũng như triết học chính trị của mọi quốc gia,
ngay từ đầuchưa xuất hiện với tư cách là một lý luận độc lập. Nó thường là một
bộ phận của tưtưởng xã hội và có quá trình phát triển từ thấp đến cao tùy thuộc
vào sự phát triển củalịch sử. Thực tế ở Việt Nam cũng không có sự khác biệt giữa
tư tưởng chính trị và triếthọc chính trị. Tư tưởng chính trị ở Việt Nam cũng là
những quan điểm chung nhất vềchính trị hay nói cách khác cũng chính là triết

Nhóm 01

24


Tiểu luận triết học

Giảng viên phụ trách: TS. Bùi Văn Mưa

học chính trị Việt Nam. Vì vậy, hệ thốngtư tưởng chính trị Việt Nam từ thời cổ
đại cho đến thế kỷ XX cũng có thể xem là triếthọc chính trị Việt Nam.
Nghiên cứu lịch sử Việt Nam, các nhà sử học, chính trị học chia ra các thời

kỳ:
1. Thời kỳ tiền sử: Thời kỳ bắt đầu từ khi con người xuất hiện trên đất
nước ViệtNam (cách đây 40–50 vạn năm) cho đến cuối thời đại đồ đá mới. Đây
là thờikỳ còn để lại dấu ấn ở vùng núi Đọ (Thanh Hóa), Sơn Vi (Phú Thọ) và tỉnh
HòaBình (văn hoá Hòa Bình). Mặc dù dân cư trong thời kỳ này đã biết trồng
trọt,làm đồ gốm, có những hiểu biết về thời gian, về tự nhiên nhưng chưa có
nhànước, chưa có chính trị.
2. Thời kỳ sơ sử: Theo các tài liệu lịch sử, cách đây khoảng 4000 năm,
dân cưtrên lãnh thổ Việt Nam đã tập trung vào 3 trung tâm văn hoá lớn là Đông
Sơn(Miền Bắc), Sa Huỳnh (Miền Trung) và Đồng Nia (Miền Nam). Từ thời kỳ
nàyViệt Nam đã bước vào thời đại kim khí, xã hội bắt đầu có nhà nước và có
chínhtrị.
3. Thời kỳ chống Bắc thuộc (từ thế kỷ II đến thế kỷ X).
4. Thời kỳ xây dựng quốc gia phong kiến Việt Nam độc lập (từ thế kỷ X –
XIX).
5. Thời kỳ chống Pháp (Giữa thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX).
6. Thời kỳ cách mạng dân chủ nhân dân và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
(từ1930 đến nay).
Trong mỗi thời kỳ lịch sử này, các tư tưởng chính trị có những sự phát
triển qua từngnấc thang khác nhau tùy thuộc vào những diễn biến cụ thể của lịch
sử.
Như vậy, tư tưởng chính trị Việt Nam chỉ xuất hiện từ thời sơ sử và phát
triển cho đến nay.

II. Tư tưởng chính trị thời sơ sử:
Nhóm 01

25



×