Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Soạn bài Lầu Hoàng Hạc của Thôi Hiệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.78 KB, 2 trang )

SOẠN BÀI LẦU HOÀNG HẠC
(Hoàng Hạc lâu – Tác giả: Thôi Hiệu )
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

Thôi Hiệu (704 – 754) quê ở Biện Châu, phủ Khai Phong, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc, ông đỗ tiến sĩ năm
723, sau đó làm quan đến chức Tư huân viên ngoại lang.
Hoàng Hạc Lâu là cảm xúc của con người khi đối diện với cái đẹp, là nỗi sầu kết đọng vì hoài cổ hay vì nhớ quê hương,

Để xác định một cái gì đó thật rõ ràng trong Hoàng Hạc Lâu quả là rất khó. Phải chăng vì thế mà người ta đều cho rằng
Hoàng Hạc lâu đẹp và hay bởi nó gợi lên một sự ngỡ ngàng, một nỗi bâng khuâng, một nỗi nhớ,… một nỗi buồn trong
trẻo mông lung và mãi lắng sâu.
II. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
1. Nhan đề bài thơ là Lầu Hoàng Hạc nhưng ngoài sự xác định vị trí của lầu Hoàng Lạc ở “nơi đây”, còn lại toàn bài
không nói gì về “lầu” cả. Dụng ý mà nhà thơ muốn nói đến ở đây là chuyện quan hệ giữa “người xưa” với “người nay”,
giữa thời gian quá vãng và không gian mở rộng, giữa hư với thực, giữa cảnh với tình,…
2. Tất cả “cảnh”- cảnh xưa và nay, cảnh xa và gần, cảnh thực và hư,… cảnh nào cũng đẹp. Thế nhưng tất cả cảnh lại đến
khiến người buồn (sử nhân sầu). Bởi dường như đối diện với cái đẹp hoàn mỹ của thiên nhiên, của nghệ thuật, của cuộc
đời, của tình người… ta bỗng bâng khuông nhận ra hình như mình chưa thật vẹn toàn, hình như mình đang khuyết thiếu
một điều gì đó giúp ta được tròn đầy. Phải chăng vì thế ta buồn vì chưa xứng đáng với những điều tốt đẹp hoàn mỹ ngoài
kia.

3. Quả đúng thực bài thơ có 56 chữ thì 55 chữ đều là bước “chuẩn bị” cho một chữ sầu“đậu” xuống, kết
đọng trong tâm. Chữ sầu đến như là một sự tất yếu nhưng không phải nó cứ tự “rơi” xuống một cách vô
duyên. Nó là kết quả của một quá trình soi ngắm, suy nghĩ, liên tưởng và tái tê trong lòng của con người.
Con người cô đơn đứng giữa cái nơi mà vốn nổi tiếng với những lần li biệt thì dẫu thế nào cũng khó có
thể vui. Không những thế, cảnh vật, không gian, thời gian,… và cả cái tình cảnh đặc biệt của nhà thơ nữa
(khách li hương) càng không có cái lí gì ngăn được sự xuất hiện của chữ sầu. Chữ sầu trong câu thơ cuối
không phải là một sự xuất hiện bất ngờ nhưng nó chính là giọt sầu làm cho cả bát sầu kia tràn ra tất cả và
vương vấn muôn nơi.

HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH BÀI HOÀNG HẠC LÂU


1.

Mở bài:

– Thôi Hiệu (704 – 754) quê ở Biện Châu, phủ Khai Phong, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc, ông đỗ tiến sĩ
năm 723, sau đó làm quan đến chức Tư huân viên ngoại lang.
– Ông sáng tác rất nhiều thơ với những đề tài khác nhau, nổi tiếng nhất là bàì Hoàng Hạc lâu (Lầu
Hoàng Hạc) được truyền tụng rộng rãi qua hàng ngàn năm. Tâm trạng u hoài trước thời thế của tác giả
được thể hiện bằng một bài thơ Đường luật với nghệ thuật tài tình hiếm có.

2.

Thân bài:

*

Hai câu đề:

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,

đây
Hoàng
(Tích
nhân

Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.)

Hạc

riêng

thừa

lầu
hoàng

còn
hạc

trơ.
khứ,

– Nhắc lại huyền thoại về nguồn gốc của lầu Hoàng Hạc từ xa xưa, thời tiễn còn ở lẫn với người.
– Trải qua bao tang thương dâu bể, giờ đây lầu Hoàng Hạc đứng chơ vơ, cô quạnh bên bãi vắng sông
trôi khiến thi nhân chạnh lòng nhớ cổ thương kim.


* Hai câu thực:
Hạc vàng đi mất từ xưa,
Nghìn
năm
mây
(Hoàng
hạc
nhất
Bạch vân thiên xải không du du.)

trắng

bây
khứ


giờ
bất

còn
phục

bay.
phản,



Hình ảnh hạc vàng gắn liền với khung cảnh thần tiên. Hạc vàng bay mất không bao giờ quay trở lại mang theo tất cả
những gì là huyền ảo nhất, thơ mộng nhất của lầu Hoàng Hạc.

– Chỉ còn mây trắng vẫn bay giống như ngàn năm trước. Khung cảnh được miêu tả bằng cảm xúc ngậm
ngùi, nuối tiếc của nhà thơ. Nhà thơ chìm đắm trong tâm trạng hoài cổ, giữa không gian tịch mịch cô liêu.
* Hai câu luận:
Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi
xa
Anh
(Tinh
xuyên
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.)


lịch

xanh

lịch

dày
Hán

cỏ
Dương

non.
thụ,



Thiên nhiên đẹp như một bức tranh sơn thủy với đường nét, màu sắc hài hoà: nắng chiếu trên hàng cây trên bến Hán
Dương; màu xanh mướt của thảm cỏ non trên bãi xa Anh Vũ.

– Nghệ thuật miêu tả tinh tế, điêu luyện, chỉ vài nét phác họa mà thể hiện được thần thái của cảnh vật
(thi trung hữu họa).
* Hai câu kết:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên
sông
khói
(Nhật
mộ
hương
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.)

sóng


cho
quan

buồn


lòng
xứ

ai.
thị,



Nhịp thơ ngắn 2-2-1 – 2 trong nguyên tác chữ Hán và nhịp 2-2-2 trong câu thơ dịch của Tản Đà tạo nên âm hưởng
trầm buồn, đặc tả tâm trạng thương nhớ quê hương da diết của Thôi Hiệu.

– Hình ảnh Trên sông khói sóng là tác nhân gợi nỗi nhớ đau đáu khôn nguôi trong lòng nhà thơ. Khung
cảnh chập chờn, mông lung của cảnh vật rất phù hợp với tâm trạng ấy (xúc cảnh sinh tình).
– Cái hay của hai câu kết tụ lại ở từ sầu là nhãn tự, thần tự của bài thơ.
3.

Kết bài:

– Viết về lầu Hoàng Hạc có tới hàng ngàn bài thơ khác nhau của hàng ngàn thi sĩ từ xưa tới nay nhưng
bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu vẫn xuất sắc nhất.
– Giai thoại kể về “Thi tiên" Lí Bạch đến thăm lầu Hoàng Hạc, cảm hứng nổi lên định làm thơ ngâm
vịnh nhưng khi nhìn thấy bài thơ của Thôi Hiệu để trên vách lầu thì gác bút không dám viết nữa là cách
khẳng định giá trị bất hủ của Hoàng Hạc lâu và vị trí đỉnh cao của tên tuổi Thôi Hiệu.




×