Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

Quan hệ thương mại quốc tế Việt Nam – Trung Quốc và những vấn đề đặt ra cho thương mại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.73 KB, 48 trang )

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

H-O
WTO
CAFTA,

Mơ hình Hecksher - Ohlin
Tổ chức thương mại thế giới World Trade Organization
Khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc - ASEAN

ACFTA
XNK, XK,

Xuất nhập khẩu, xuất khẩu, nhập khẩu.

NK
KNXK,

Kim ngạch xuất khẩu, kim ngạch nhập khẩu.

KNNK
FDI
VN, TQ
ASEAN

Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Việt Nam, Trung Quốc
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Association of

DOC


Southeast Asian Nations)
Tuyên bố của các bên về ứng xử trên Biển Đông

COC
FTA
TPP
EPC
EU
AEC

1

Bộ quy tắc ứng xử Biển Đông (Code of Conduct)
Hiệp định thương mại tự do
Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
gói thầu xây lắp thực hiện theo phương thức chìa khoá trao tay
Liên minh châu Âu
Cộng đồng kinh tế ASEAN

1


LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng “núi liền núi, sông liền
sông”. Về mặt lịch sử, dân tộc và văn hóa, giữa hai nước Việt - Trung cũng có
những nét tương đồng, cùng trải qua những thăng thầm trong lịch sử. Tất cả
những điều kiện lịch sử và tự nhiên đó đã khiến cho nhân dân hai nước từ rất
sớm đã gắn bó với nhau tạo thành mối quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời.
Trên cơ sở truền thống đó, mối quan hệ kinh tế giữa hai nước đã được hình
thành và phát triển qua các thời kì lịch sử khác nhau từ cổ trung đại cho đến cận

hiện đại và bây giờ là thời kì hiện đại. Quan hệ Việt-Trung trong gần 2200 năm
lịch sử của nó đã trải qua nhiều thăng trầm và biến đổi. Có lúc hai nước là “anh
em” những cũng có lúc là “đối phương” của nhau. Mối quan hệ đó, có thời kì
tưởng chừng đã “đóng băng” nhưng rồi sau đó cả hai nước lại có thể trở lại mối
quan hệ “giao thương hữu hảo”.
Việt Nam và Trung Quốc có đường biên giới chung trên đất liền dài
chừng 1350 km chạy qua 6 tỉnh (31 huyện) của Việt Nam và 2 tỉnh gồm 6 thành
phố (14 huyện) của Trung Quốc. Trên đường biên giời chung đó có tổng cộng
25 cửa khẩu (4 cặp cửa khẩu quốc tế, 7 cửa khẩu quốc gia và 14 cửa khẩu tiểu
ngạch). Điều này tạo điều kiện cho quan hệ hai nước nòi chung và quan hệ
thương mại nói riêng. Quan hệ bn bán giữa hai nước qua biên giời đã được
hình thành từ lâu, nhưng thật sự phát triển mới 50 năm, đặc biệt là 10 năm sau
khi hai nước bình thường hóa quan hệ. Tuy có xảy ra một số “tranh chấp” gần
đây giữa hai nước nhưng có thể thấy rằng quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai nước
nói chung và quan hệ mua bán qua biên giới Việt-Trung nói riêng vẫn còn nhiều
tiềm năng để phát triển hơn nữa. Chính vì lẽ đó, việc nghiên cứu cẩn thận và sâu
sắc về mối quan hệ hai nước cũng như triển vọng hợp tác trong những năm tới là
một yêu cầu cần thiết.
Xuất phát từ thực tế đó, trên cơ sở hệ thống lý luận đã được học, cùng sợ
giúp đỡ và hướng dẫn tận tình của PGS.TS Nguyễn Thi Xuân Hương, tôi chọn
2

2


đề tài “Quan hệ thương mại quốc tế Việt Nam – Trung Quốc và những vấn đề
đặt ra cho thương mại Việt Nam” với mong muốn giúp mọi người phần nào đó
hiểu được quan hệ chặt chẽ về kinh tế thương mại giữa hai nước.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài bao gồm hệ thống hóa những kiến thức
chung nhât về quan hệ thương mại quốc tế Việt Nam – Trung Quốc trong giai

đoạn hiện nay, đồng thời cũng nêu lên nhưng vấn đề cần đặt ra cho thương mại
Việt Nam. Từ đó, tơi chia đề tài ra làm hai phần chính:
Chương 1: Quan hệ thương mại quốc tế giữa các quốc gia và xu hướng
phát triển quan hệ thương mại trên thế giới.
Chương 2: Thực trạng quan hệ thương mại Việt-Trung và những vấn đề
đặt ra cho thương mại Việt Nam.

3

3


CHƯƠNG 1: QUAN HỆ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ GIỮA CÁC QUỐC
GIA VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI TRÊN
THẾ GIỚI
1.1. QUAN HỆ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ LỢI ÍCH CỦA THƯƠNG
MẠI QUỐC TẾ
1.1.1 Khái niệm
Quan hệ thương mại giữa các nước hay còn gọi là thương mại quốc tế, là
q trình trao đổi hàng hố giữa các nước thơng qua bn bán nhằm mục đích
kinh tế tối đa. Trao đổi hàng hố là một hình thức của các mối quan hệ kinh tế
xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất kinh doanh
hàng hoá riêng biệt của các quốc gia. Thương mại quốc tế là một lĩnh vực quan
trọng nhằm tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân công lao động quốc
tế, phát triển kinh tế và làm giàu cho đất nước. Ngày nay, thương mại quốc tế
không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là buôn bán mà là sự phụ thuộc tất yếu giữa
các quốc gia vào phân công lao động quốc tế. Vì vậy, phải coi thương mại quốc
tế như một tiền đề một nhân tố phát triển kinh tế trong nước trên cơ sở lựa chọn
một cách tối ưu sự phân công lao động và chuyên môn hoá quốc tế.
Thương mại quốc tế một mặt phải khai thác được mọi lợi thế tuyệt đối của

đất nước phù hợp với xu thế phát triển và quan hệ kinh tế quốc tế. Mặt khác,
phải tính đến lợi thế tương đối có thể được theo quy luật chi phí cơ hội. Phải
ln ln tính tốn cái có thể thu được so với cái giá phải trả khi tham gia vào
buôn bán và phân cơng lao động quốc tế để có đối sách thích hợp. Vì vậy để
phát triển thương mại quốc tế có hiệu quả lâu dài cần phải tăng cường khả năng
liên kết kinh tế sao cho mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn.
1.1.2 Quá trình hình thành và phát triển của quan hệ thương mại trên thế
giới.
Lịch sử phát triển của loài người gắn liền với sự phát triển của nền sản
xuất xã hội, mà một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển đó
4

4


là sự phân công lao động xã hội. Theo học thuyết Mác - Lênin về phân công
lao động xã hội thì phân cơng lao động là sự tách biệt các loại hoạt động, lao
động khác nhau trong nền sản xuất xã hội. Điều kiện ra đời của phân công lao
động xã hội là sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội và ngược lại, khi phân
công lao động xã hội đạt đến sự hoàn thiện nhất định , lại trở thành nhân tố thúc
đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, vì nó tạo điều kiện cho người
lao động tích luỹ kinh nghiệm, kỹ năng sản xuất, nâng cao tri thức, trình độ
chun mơn, nghiệp vụ, khả năng quản lý và hồn thiện cơng cụ lao động. Nói
cách khác, phân cơng lao động xã hội góp phần thúc dẩy nhanh sự phát triển của
tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ mà tiến bộ khoa học cơng nghệ lại
chính là một yếu tố cấu thành quan trọng của lực lượng sản xuất xã hội, do đó
phân cơng lao động xã hội là một động lực thúc đẩy sự phát triển của lực lượng
sản xuất xã hội.
Lịch sử phát triển nền sản xuất xã hội lồi người đã trải qua các giai đoạn
phân cơng lao động xã hội lớn :

* Giai đoạn 1: Chăn nuôi tách khỏi trồng trọt. Các bộ lạc chăn nuôi
mang thịt sữa đổi ngũ cốc, rau quả của các bộ lạc trồng trọt. Đó là mầm mống ra
đời của quan hệ sản xuất - trao đổi hàng hoá giản đơn.
* Giai đoạn 2: Nghề thủ công tách rời khỏi nghề nơng. Sản xuất chun
mơn hố bắt đầu phát triển, dẫn đến sự ra đời của ngành công nghiệp. Đặc biệt,
với sự xuất hiện vai trò tiền tệ đã khiến cho quan hệ sản xuất và trao đổi hàng
hoá tiền tệ ra đời, thay thế quan hệ sản xuất trao đổi hàng hoá giản đơn.
* Giai đoạn 3: Tầng lớp thương nhân xuất hiện, lưu thơng hàng hố tách
ra khỏi lĩnh vực sản xuất, khiến cho các quan hệ sản xuất và trao đổi hàng hoá
- tiền tệ trở nên phức tạp, ngày càng mở rộng, tạo điều kiện cho ngoại thương
của từng quốc gia phát triển và thương mại quốc tế ra đời.
Trải qua các hình thái kinh tế xã hội có sự thống trị của các chế độ Nhà
nước khác nhau, từ chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, đến chế độ
5

5


chiếm tư bản chủ nghĩa và kể cả chế độ xã hội chủ nghĩa mới hình thành từ đầu
thế kỷ này, các quan hệ sản xuất, trao đổi hàng hoá - tiền tệ đã phát triển trên
phạm vi toàn thế giới, hình thành nên sự đa dạng, phức tạp của các mối quan hệ
kinh tế quốc tế, trong đó, sơi động nhất và cũng chiếm vị trí, vai trị, động lực
quan trọng nhất cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế mở của mỗi quốc gia và
cho cả nên kinh tế thế giới là các hoạt động thương mại quốc tế.
Như vậy, phân công lao động quốc tế là biểu hiện của giai đoạn phát triển
cao của phân công lao động xã hội, là q trình tập trung hố sản xuất và cung
cấp một loại hoặc một số loại sản phẩm và dịch vụ vào một quốc gia nhất định,
dựa trên cơ sở những ưu thế của quốc gia đó về điều kiện tự nhiên, kinh tế, khoa
học - kỹ thuật, công nghệ và xã hội để đáp ứng nhu cầu của các quốc gia khác,
thông qua các hoạt động kinh tế đối ngoại, trong đó thương mại quốc tế đóng vai

trị trọng tâm.
Lịch sử phát triển kinh tế quốc tế thế giới cho đến nay đã có 3 kiểu phân
cơng lao động quốc tế điển hình là : phân công lao động quốc tế tư bản chủ
nghĩa, phân công lao động quốc tế xã hội chủ nghĩa và phân cơng lao động tồn
thế giới. Do những biến động phức tạp trong đời sống chính trị - xã hội thế
giới, kể từ sau năm 1991 với sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô
và các nước Đơng Âu, thế giới đương đại chỉ cịn tồn tại và phát triển hai kiểu là
phân công lao động xã hội và phân cơng lao động tồn thế giới. Nếu gạt bỏ
những sắc thái riêng biệt nhất định, ngày nay ta dễ nhận thấy sự vận động, phát
triển của cả hai kiểu phân công lao động quốc tế này đang có xu hướng tiến tới
một thể thống nhất, mặc dù vẫn luôn chứa đựng nhiều mâu thuẫn phức tạp do
tính đa dạng của nền kinh tế thế giới tạo ra. Cùng với q trình tồn cầu hố,
khu vực hoá kinh tế thế giới, là những tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng
khoa học công nghệ đã thúc đẩy q trình phân cơng lao động quốc tế đạt tới
trình độ sâu rộng chưa từng thấy. Chun mơn hố càng phát triển thì quan hệ

6

6


hiệp tác càng bền chặt, đó là đặc trưng cơ bản của phân công lao động quốc tế
ngày nay.
Trong quá trình tái sản xuất mở rộng, do yêu cầu khách quan của việc xã
hội hoá lực lượng sản xuất, các nước ngày càng quan hệ chặt chẽ với nhau, lệ
thuộc vào nhau. Sự giao lưu tư bản, trao đổi mậu dịch, do đó, ngày càng phong
phú. Sự phát triển của hệ thống thông tin hiện đại, đặc biệt là kỹ thuật thông tin
vi điện tử và sự phát triển của giao thông vận tải đã tạo điều kiện cho phân công
lao động quốc tế gày càng phát triển, làm tăng q trình tồn cầu hố nền kinh tế
thế giới và đời sống của các dân tộc. Sự phát triển mạnh mẽ của các Công ty

xuyên quốc gia càng làm nổi bật tính thống nhất của nền sản xuất thế giới.
Quốc tế hoá nền sản xuất tất yếu dẫn tới các loại liên kết kinh tế. Sự phát
triển của khoa học - công nghệ cùng với sự chuyển dịch vốn, kỹ thuật từ các
nước công nghiệp phát triển sang các nước đang phát triển đã giúp cho nhiều
nước trở thành nước cơng nghiệp mới có đủ tiềm lực kinh tế quay trở lại cạnh
tranh với các nước công nghiệp phát triển. Sự ra đời của hàng loạt các liên minh
kinh tế Nhà nước ở các khu vực, các tổ chức kinh tế ở khắp các Châu lục, cũng
như sự hiệp tác và liên minh kinh tế dưới nhiều hình thức khác đã đánh dấu sự
phân công lao động sâu sắc và mở rộng quy mơ phát triển chưa từng có. Hệ quả
trực tiếp là sự tốc độ phát triển ngoại thương, đặc biệt là xuất khẩu của hầu hết
các nước tham gia vào phân công lao động và thương mại quốc tế đều đã tăng
mạnh và liên tục trong các thập niên gần đây và hiện nay.Năm 1950, tổng kim
ngạch xuất khẩu của thế giới còn ở mức 59,7 tỷ USD nhưng đến năm 1990
nghĩa là 4 thập niên sau đã lên đến con số 3.332 tỷ USD, tăng 57,6 lần bình quân
hàng năm tăng 10,5 %. Điều lưu ý là suốt thời kỳ dài, từ sau thế chiến thứ hai
đến nay, nền kinh tế thế giới nói chung và thương mại quốc tế nói riêng, mặc dù
đã trải qua những bước thăng trầm trong sự phát triển, nhưng nhìn chung tốc độ
tăng của thương mại quốc tế đều tăng nhanh hơn tốc độ tăng của sản xuất thế
giới.
7

7


Lý giải về sự tăng nhanh của thương mại quốc tế có thể bằng nhiều
nguyên nhân khác nhau, song phải thấy có một nguyên nhân cơ bản là nhờ đạt
được hiệu quả kinh tế do q trình phân cơng lao động quốc tế mang lại. Thực tế
cho thấy những lợi nhuận thu được từ thương mại quốc tế nhờ khai thác sự
chênh lệch về giá cả tương đối giữa các nước, tuy rất quan trọng nhưng cịn ít
hơn nhiều so với lợi nhuận thu được nhờ tăng cường tính đa dạng và chun

mơn hố theo nhãn hiệu của từng loại sản phẩm sản xuất ở nhiều quốc gia khác
nhau. Thương mại trong ngành không chỉ tạo ra các khả năng mở rộng tiêu
dùng, thoả mãn nhu cầu của người mua, mà đã trở thành yếu tố cơ bản, quyết
định động thái tăng trưởng kim ngạch ngoại thương hầu hết các nước thuộc mọi
khu vực khác nhau trong nền kinh tế thế giới. Thương mại trong ngành là biểu
hiện phát triển cao độ của sản xuất chun mơn hố trong giai đoạn hiện nay.
Nó khơng giải thích vì sao nước Anh xuất khẩu xe hơi sang Hơng Kơng nhưng
lại có thể giải thích một hiện tượng thực tế nảy sinh mà David Ricardo đã khơng
làm được là vì sao Anh xuất khẩu xe hơi (như Rovers, Jaguars...) sang Đức,
nhưng lại nhập xe hơi (như Mercedes, Andis...) từ Đức. Điều dễ hiểu là mặc dù
đều là xe hơi nhưng tất cả các loại xe hơi do Anh sản xuất đều có những đặc
điểm khác so với tất cả các loại xe hơi do Đức sản xuất. Tương tự như vậy, Nhật
là cường quốc về sản xuất tivi chất lượng cao bởi các nhãn hiệu nổi tiếng như
Sony, JVC, Sanyo... nhưng vẫn không ít người Nhật thích dùng tivi với các nhãn
hiệu khác của nước ngoài như Philip cuả Hà Lan, Sam Sung, Deawoo của Hàn
Quốc... Lý do chính khiến cho sự trao đổi thương mại giữa các nước về cùng
một loại sản phẩm là sự đa dạng của các nhãn hiệu khác nhau về loại sản phẩm
đó, sẽ mang lại những thoả mãn về nhu cầu của người tiêu dùng, do có sự khác
nhau về hình thức, mẫu mã, giá cả... Đối với cả người sản xuất với người tiêu
dùng đều có thể tìm thấy những lợi ích cơ bản sau đây của việc phát triển
thương mại trong ngành.
* Thứ nhất, người tiêu dùng thoả mãn được nhu cầu lựa chọn trong
số nhiều nhãn hiệu khác nhau của cùng một loại sản phẩm trong ngành.
8

8


* Thứ hai, thương mại trong ngành mang lại lợi thế kinh tế đáng kể
nhờ mức độ mở rộng quy mơ chun mơn hố sản xuất của mỗi quốc gia

về một loại nhãn hiệu sản phẩm trong ngành, sau đó đem chúng trao đổi
với nhau qua thương mại quốc tế, thay cho tình trạng trước đây, mỗi quốc
gia đều phải cố gắng sản xuất những lượng nhỏ của tất cả các nhãn hiệu
trong ngành.
Trên đây, chúng ta đã thấy lợi ích của phát triển thương mại trong ngành
là mang lại hiệu quả kinh tế nhờ quy mô mở rộng của chun mơn hố sản xuất
về một loại nhãn hiệu sản phẩm trong ngành. Đối với các nước có nền kinh tế
mở, quy mô nhỏ (như Việt Nam), vấn đề này càng có ý nghĩa quan trọng. Thơng
thường, ở các nước này, phạm vi hàng hố, mà theo đó họ có thể có được quy
mơ hiệu quả trong sản xuất bị giới hạn nhiều so với các nước có nền kinh tế quy
mơ lớn. Do đó, các nước này bao giờ cũng có thể mang lại lợi ích kinh tế tương
đối nhiều hơn so với việc chỉ lo tự cung tự cấp bằng cách sản xuất tất cả các loại
sản phẩm, mỗi thứ một ít với chi phí cao.
1.1

LỢI ÍCH CỦA THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Bn bán nói chung và bn bán quốc tế nói riêng là hoạt động kinh tế

trao đổi hàng hố - tiền tệ đã có từ lâu đời và sự phát triển của nó ln ln
gắn liền với sự phát triển văn minh của xã hội lồi ngươì. Như vậy là con người
đã sớm tìm thấy lợi ích của thương mại quốc tế, nhưng để giải thích một cách
khoa học về nguồn gốc của những lợi ích thương mại quốc tế thì đó đã khơng
phải là vấn đề đơn giản. Quá trình nghiên cứu của các trường phái kinh tế khác
nhau trong lịch sử phát triển tư tưởng kinh tế thế giới đã đưa ra những lý thuyết
để lý giải vấn đề này, khẳng định tác động tích cực của thương mại quốc tế đối
với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế theo trình tự nhận thức từ thấp đến cao,
từ đơn giản đến phức tạp, từ phiến diện đến toàn diện, từ hiện tượng đến bản
chất.

9


9


* Lý thuyết trọng thương.
Lý thuyết trọng thương ở Châu Âu đã phát triển từ giữa thế kỷ XV đến
giữa thế kỷ XVIII, với nhiều đại biểu khác nhau: Jean Bodin, Melon, Jully,
Colbert (Pháp), Thomas Mrm, Josias, Chhild, James Stewart (Anh)...
Nội dung chính của thuyết này là: Mỗi quốc gia muốn đạt được sự thịnh
vượng trong phát triển kinh tế thì phải gia tăng khối lượng tiền tệ bằng phát triển
ngoại thương và mỗi quốc gia chỉ có thể thu được lợi ích từ ngoại thương nếu
cán cân thương mại mang dấu dương (hay giá trị xuất khẩu lớn hơn giá trị nhập
khẩu). Được lợi là vì thặng dư của xuất khẩu so với nhập khẩu được thanh toán
bằng vàng, bạc và chính vàng, bạc là tiền tệ, là biểu hiện của sự giàu có. Đối với
một quốc gia khơng có mỏ vàng hay bạc chỉ cịn cách duy nhất là trông cậy vào
phát triển ngoại thương.
Lý thuyết trọng thương mặc dù có nội dung rất sơ khai và cịn chứa đựng
nhiều yếu tố đơn giản, phiến diện, chưa cho phép phân tích bản chất bên trong
của các sự vật hiện tượng kinh tế, song đó đã là những tư tưởng đầu tiên của các
nhà kinh tế học tư sản cổ điển nghiên cứu về hiện tượng và lợi ích của ngoại
thương. ý nghĩa tích cực của học thuyết này là đối lập với tư tưởng phong kiến
lúc bấy giờ là coi trọng kinh tế tự cung, tự cấp. Ngoài ra, những người trọng
thương cũng sớm nhận thức được vai trò qua trọng của nhà nước trong quản lý,
điều hành trực tiếp các hoạt động kinh tế xã hội thông qua các công cụ thuế
quan, bảo hộ mậu dịch trong nước... để bảo hộ các ngành sản xuất non trẻ, kiểm
soát nhập khẩu, thúc đẩy xuất khẩu.
* Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith.
Trong nhiều tác phẩm của mình, trong đó nổi tiếng nhất là cuốn sách
“nghiên cứu về bản chất và nguồn gốc giàu có của các quốc gia”, Adam Smith
đã đề cao vai trò của thương mại , đặc biệt là ngoại thương đã có tác dụng thúc

đẩy nhanh sự phát triển và tăng trưởng kinh tế của các nước, song khác với sự
phiến diện của trọng thương đã tuyệt đối hố q mức vai trị ngoại thương, ơng
cho rằng ngoại thương có vai trị rất to lớn nhưng không phải nguồn gốc duy
10
10


nhất của sự giàu có. Sự giàu có khơng phải do ngoại thương mà là do công
nghiệp, tức là do hoạt động sản xuất đem lại chứ không phải do hoạt động lưu
thông. Theo ông, hoạt động kinh tế (bao gồm cả hoạt động sản xuất và lưu
thông) phải được tiến hành một cách tự do, do quan hệ cung cầu và biến động
giá cả thị trường quy định. Sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho
ai? Đó là câu hỏi cần được giải quyết ở thị trường.
Theo Adam Smith, sức mạnh làm cho nền kinh tế tăng trưởng là do sự tự
do trao đổi giữa các quốc gia, do đó mỗi quốc gia cần chuyên mơn vào những
ngành sản xuất có lợi thế tuyệt đối, nghĩa là phải biết dựa vào những ngành sản
xuất có thể sản xuất ra những sản phẩm có chi phí sản xuất nhỏ hơn so với quốc
gia khác, nhưng lại thu được lượng sản phẩm nhiều nhất, sau đó đem cân đối với
mức cầu ở mức giá lớn hơn giá cân bằng. Chính sự chênh lệch giá nhờ mức cầu
tăng lên ở quốc gia khác làm cho nền kinh tế tăng trưởng.
Quan điểm trên thể hiện nội dung cơ bản của lý thuyết lợi thế tuyệt đối trong
thương mại quốc tế. Một nước được coi là có lợi thế tuyệt đối so với một nước
khác trong việc chun mơn hố sản xuất hàng hố A khi cùng một nguồn lực
có thể sản xuất được nhiều sản phẩm A hơn là nước thứ 2.
* Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo.
Lý thuyết về lợi thế so sánh trên đây cho thấy một nước có lợi thế tuyệt
đối so với nước khác về một loại hàng hố, nước đó sẽ thu được lợi ích ngoại
thương, nếu chun mơn hố sản xuất theo lợi thế tuyệt đối. Tuy nhiên, do lý
thuyết này chỉ dựa vào lợi thế tuyệt đối nên đã khơng giải thích được vì sao một
nước có lợi thế tuyệt đối hơn hẳn so với nước khác, hoặc một nước khơng có lợi

thế nào vẫn có thể tích cực tham gia vào q trình hợp tác và phân cơng lao
động quốc tế để phát triển mạnh các hoạt động thương mại quốc tế.
Khắc phục những hạn chế của lợi thế tuyệt đối của Adam Smith và cũng
trả lời những câu hỏi trên đây, năm 1817, trong tác phẩm nổi tiếng của mình
“Những ngun lý của kinh tế chính trị” nhà kinh tế học cổ điển người Anh
David Ricardo đã đưa ra lý thuyết lợi thế so sánh, nhằm giải thích tổng quát
11
11


chính xác hơn về cơ chế xuất hiện lợi ích trong thương mại quốc tế. Nội dung
bao gồm:
Mọi nước đều có lợi khi tham gia vào phân cơng lao động quốc tế, bởi vì:
phát triển ngoại thương cho phép mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước.
Nguyên nhân chính là do chun mơn hố sản xuất một số sản phẩm nhất định
của mình để đổi lấy hàng nhập khẩu từ các nước khác thông qua con đường
thương mại quốc tế.
Những nước có lợi thế tuyệt đối hồn tồn hơn hẳn các nước khác, hoặc
bị kém lợi thế tuyệt đối hơn so với các nước khác, vẫn có thể và có lợi khi tham
gia vào phân cơng lao động và quốc tế, vì mỗi nước đều có những lợi thế so
sánh nhất định về một số mặt hàng và một số kém lợi thế so sánh nhất định về
một số mặt hàng khác.
Vậy có thể kết luận rằng, một trong những điểm cốt yếu nhất của lý thuyết
lợi thế so sánh là những lợi ích do chun mơn hố sản xuất và thương mại quốc
tế phụ thuộc vào lợi thế so sánh chứ không phải là lợi thế tuyệt đối. Lợi thế so
sánh là điều kiện cần và đủ đối với lợi ích của thương mại quốc tế.
Liên quan đến lợi thế so sánh, có một khái niệm rất cơ bản trong kinh tế
học đã được David Ricardo đề cập đến đó là chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội là chi
phí bỏ ra để sử dụng cho một mục tiêu nào đó. Giả sử, một nền kinh tế khép kín
(nền kinh tế đóng) có các nguồn lực nhất định có thể sản xuất ra lương thực và

quần áo. Thông thường càng dùng nhiều nguồn lực để sản xuất ra lương thực thì
càng có ít nguồn lực để sản xuất ra quần áo. Chi phí cơ hội của lương thực là
lượng quần áo bị giảm đi do dùng nguồn lực vào sản xuất quần áo thay cho sản
xuất lương thực. Như vậy chi phí cơ hội của một hàng hoá là số lượng những
hàng hoá khác mà người sản xuất phải giảm đi để có thể làm thêm ra một đơn vị
hàng hố đó.
Tóm lại là: Lợi ích thương mại quốc tế bắt nguồn từ sự khác nhau về lợi
thế so sánh ở mỗi quốc gia, mà các lợi thế so sánh đó có thể được biểu hiện bằng
các chi phí cơ hội khác nhau của mỗi quốc gia, do đó lợi ích của thương mại
12
12


quốc tế cũng chính là bắt nguồn từ sự khác nhau về các chi phí cơ hội của mỗi
quốc gia. Chi phí cơ hội cho ta biết chi phí tương đối (chi phí so sánh) để làm ra
sản phẩm hàng hố khác nhau của mỗi quốc gia, hay nói cách khác, khi các chi
phí cơ hội ở tất cả các quốc gia đều giống nhau thì khơng có lợi thế so sánh và
cũng khơng có khả năng nảy sinh các lợi ích do chun mơn hố và thương mại
quốc tế. Đó cũng là nội dung cơ bản của quy luật lợi thế so sánh đã được David
Ricardo khẳng định là: các nước sẽ có lợi khi chun mơn hố sản xuất và xuất
khẩu những sản phẩm mà họ làm ra với chi phí cơ hội (chi phí so sánh) thấp hơn
so với các nước khác. Quy luật này đã được nhiều nhà kinh tế khác tiếp tục phát
triển, hoàn thiện, trở thành quy luật chi phối động thái phát triển của thương mại
quốc tế.
* Lý thuyết nguồn lực và Thương mại Hecksher - Ohlin.
Chúng ta đã thấy rằng lợi thế so sánh là nguồn gốc những lợi ích của
thương mại quốc tế, nhưng lợi thế so sánh do đâu mà có? Vì sao các nước khác
nhau lại có chi phí cơ hội khác nhau?... Lý thuyết lợi thế so sánh của David
Ricardo đã khơng giải thích được những vấn đề trên đây. Để khắc phục những
hạn chế này, hai nhà kinh tế học Thuỵ điển, Eli Hecksher và B.Ohlin trong tác

phẩm “Thương mại liên khu vực và quốc tế” xuất bản 1933, đã phát triển lợi thế
so sánh của David Ricardo thêm một bước bằng việc đưa ra mơ hình H-O để
trình bầy lý thuyết ưu đãi về nguồn lực sản xuất vốn có. Lý thuyết này đã giải
thích hiện tượng thương mại quốc tế là do trong một nền kinh tế mở cửa, mỗi
quốc gia đều hướng đến chuyên mơn hố các ngành sản xuất mà cho phép sử
dụng nhiều yếu tố sản xuất đối với nước đó là thuận lợi nhất. Nói cách khác,
theo lý thuyết H-O, một số nước này có lợi thế so sánh hơn trong việc sản xuất
và xuất khẩu một số sản phẩm hàng hố của mình là do việc sản xuất những sản
phẩm đó đã sử dụng nhiều yếu tố sản xuất mà một trong số nước đó đã được ưu
đãi hơn so với một số nước khác. Chính sự ưu đãi về các lợi thế tự nhiên của các
yếu tố sản xuất này (bao gồm vốn, lao động, tài nguyên, đất đai, khí hậu...) đã
13

13


khiến một số nước đó có chi phí cơ hội thấp hơn (so với việc sản xuất các sản
phẩm hàng hoá khác) khi sản xuất những sản phẩm hàng hoá đó.
Như vậy, cơ sở lý luận khoa học của lý thuyết H-O vẫn chính là dựa vào
lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo, nhưng ở trình độ phát triển cao hơn
là đã xác định được nguồn gốc của lợi thế so sánh chính là sự ưu đãi về các yếu
tố sản xuất mà kinh tế học phát triển đương đại vẫn gọi là nguồn lực sản xuất.
Và do vậy, lý thuyết H-O còn được coi là lý thuyết lợi thế so sánh về các nguồn
lực sản xuất vốn có, hoặc vắn tắt hơn là lý thuyết nguồn lực sản xuất vốn có. Đó
cũng chính là lý thuyết hiện đại về thương mại quốc tế. Sau này, nó cịn được
các nhà kinh tế học nổi tiếng khác như Paul Samuelson, james William... tiếp
tục mở rộng và nghiên cứu tỷ mỉ hơn để khẳng định tư tưởng khoa học của định
lý H-O hay còn gọi là quy luật H-O về tỷ lệ cân đối các yếu tố sản xuất, trước đó
đã được Hecksher-Ohlin đưa ra với nội dung: một nước sẽ sản xuất loại hàng
hố mà việc sản xuất nó cần sử dụng nhiều yếu tố rẻ và tương đối sẵn có của

nước đó và nhập khẩu hàng hố mà việc sản xuất nó cần nhiều yếu tố đắt và
tương đối khan hiếm hơn của nước đó.
Tuy cịn có những khiếm khuyết lý luận trước thực tiễn phát triển phức
tạp của thương mại quốc tế ngày nay, song quy luật này đang là quy luật chi
phối động thái phát triển của thương mại quốc tế và có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn
quan trọng đối với các nước đang phát triển, đặc biệt đối với nước kém phát
triển, vì vậy nó đã chỉ ra rằng đối với các nước này, đa số là những nước đông
dân, nhiều lao động, nhưng nghèo vốn do đó trong giai đoạn đầu của quá trình
cơng nghiệp hố đất nước, cần tập trung xuất khẩu những hàng hoá sử dụng
nhiều lao động và nhập khẩu những hàng hoá sử dụng nhiều vốn. Sự lựa chọn
các sản phẩm xuất khẩu phù hợp với các lợi thế so sánh về các nguồn lực sản
xuất vốn có như vậy sẽ là điều kiện cần thiết để các nước kém và đang phát triển
có thể nhanh chóng hội nhập vào sự phân công lao động và hợp tác quốc tế, và
trên cơ sở lợi ích thương mại thu được sẽ thúc đẩy nhanh sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế ở những nước này.
14

14


1.2. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI TRÊN THẾ
GIỚI
Đẩy mạnh phát triển thương mại và dịch vụ quốc tế là xu hướng tất yếu của
tất cả các nước trên thế giới, nhất là các nước đã phát triển; do năng lực sản xuất
ngày càng lớn, cho nên luôn ln ở tình trạng thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm
có lợi nhất. Hoạt động thương mại quốc tế ngày càng mở rộng và cạnh tranh thị
trường thế giới ngày càng gay gắt là tất yếu. Các quốc gia trên thế giới hiện nay
dù lớn hay nhỏ, sớm hay muộn đều đi theo xu hướng tham gia ngày càng nhiều
vào quá trình hợp tác kinh tế khu vực và thế giới, đa phương, đa chiều, đa lĩnh
vực, trong đó thương mại là một trong những lĩnh vực được coi là trọng tâm.

Đặc điểm nổi bật về xu hướng phát triển thương mại quốc tế ngày nay là:
Nội dung hoạt động thương mại rộng lớn mang tính quốc tế, chi phối hầu hết
các lĩnh vực đời sống kinh tế – xã hội. Do đó, thương mại ngày nay khơng chỉ là
những hoạt động mua bán sản phẩm hàng hóa vật thể mà còn bao gồm cả những
hành vi mua bán và dịch vụ phi vật thể, tất cả đều nhằm thu lợi nhuận.
Hình thành các loại hình cơng ty, tập đồn lớn, công ty xuyên quốc gia, đa quốc
gia, với phạm vi hoạt động khơng biên giới và hình thành các tổ chức, hiệp hội
thương mại khu vực và toàn cầu. Phạm vi tác động của thương mại quốc tế ngày
nay mang ý nghĩa vô cùng sâu rộng, bao gồm nhiều thành phần thương mại,
nhiều thương nhân và hợp thành mạng lưới chằng chịt các loại hình kinh doanh
và dịch vụ; vừa liên doanh, liên kết, vừa tự do hoá, vừa độc quyền, vừa cạnh
tranh, vừa hợp tác, vừa bình đẳng và khơng bình đẳng trong kinh doanh, đều
cùng nhau tham gia hoạt động mua bán và dịch vụ trên thị trường, trên cơ sở
hành lang pháp luật quốc gia và luật lệ quốc tế.
Xu thế liên doanh liên kết thương mại song phương, đa phương, bình đẳng ngày
càng mở rộng và không ngừng phát triển. Đặc điểm kinh doanh thương mại
ngày nay gồm hai chiều hướng: Một là, kinh doanh chuyên ngành, theo một sản
phẩm hay một thương hiệu nhất định thành một hệ thống trên toàn cầu. Hai là,
tổ chức mơ hình những cơng ty, tập đồn kinh doanh tổng hợp với nhiều loại
15

15


hình, nhiều hàng hóa và dịch vụ khác nhau để nâng cao ưu thế cạnh tranh và
chiếm lĩnh thị trường khu vực và thị trường thế giới.
Tự động hóa, hiện đại hóa, áp dụng cơng nghệ thơng tin vào quản lý, mua bán
qua mạng, hoạt động kinh doanh và dịch vụ mang tính phổ biến và ngày càng
phát triển.
Do cạnh tranh trên thị trường ngày càng quyết liệt, thương mại không ngừng cải

tiến phương thức phục vụ hiện đại và luôn luôn đổi mới dịch vụ theo xu hướng
lấy người tiêu dùng làm trọng tâm và coi khách hàng như "thượng đế".

16

16


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT – TRUNG
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
2.1. LỊCH SỬ QUAN HỆ VIỆT NAM TRUNG QUỐC
2.1.1 Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trước khi hai nước giành được độc
lập
Lịch sử quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đã hình thành từ rất sớm, khoảng
2200 năm trước đây. Và cũng từ ngày đó, quan hệ bn bán giao thương giữa
thương nhân hai quốc gia cũng được hình thành. Vào thế kỷ X, XI Việt Nam đã
giao lưu kinh tế với Trung Quốc và các nước Đông Nam Á. Đến thế kỷ XVII,
giao lưu kinh tế Việt nam với Trung Quốc và các nước Đông Nam Á phát triển
rộng. Ở miền Bắc Việt Nam, tiêu biểu là hai đô thị: Kinh Kỳ (Thăng Long) và
Phố Hiến (Hưng Yên), ở miền Nam là Hội An (Faifo). Kinh Kỳ, Phố Hiến có
thương điếm của Trung Quốc, Xiêm La (bên cạnh những thương điếm của
phương tây: Anh, Hà Lan…), Hội An có thương điếm của Trung Quốc, Nhật
Bản, Xiêm La, Mã Lai, Miến Điện…
Tiếp theo các triều đại phong kiến Việt Nam: Lý, Trần, Lê, Nguyễn đã
tiếp tục quan hệ buôn bán qua biên giới với các triều đại phong kiến Trung
Quốc: Tống, Nguyên, Minh, Thanh. Lúc bấy giờ buôn bán qua biên giới hai
nước Việt - Trung chỉ là sự thơng thương nhằm bổ sung cho nhau, với hai hình
thức chủ yếu là cống nạp và dân gian. Bước vào thời kỳ cận đại, Việt Nam trở
thành thuộc địa, Trung Quốc trở thành nửa thuộc địa của tư bản phương Tây, hai
nước Việt Nam và Trung Quốc đã ký "Điều ước Việt Nam (năm 1885)" và

"Chương trình hợp tác biên giới (năm 1896)", trong đó, quy định 25 điểm đồn
trú tuần tra dọc biên giới chung giữa hai nước cũng chính là điểm họp chợ chung
cho cư dân hai bờ biên giới. Ưu thế thương mại nghiêng về các thương nhân
Trung Quốc.

17

17


2.1.2 Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc kể từ khi khi hai nước giành được
độc lập
Năm 1945, sau khi kết thúc đại chiến thế giới lần thứ hai, nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà (nay là CHXHCN Việt Nam) ra đời (2.9.1945) tiếp theo
nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa được thành lập (1.10.1949), và chỉ mấy
tháng sau đó (18.1.1950) hai nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (dưới đây gọi
tắt là Việt Nam) và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (dưới đây gọi tắt là Trung
Quốc) đã thiết lập quan hệ ngoại giao. Điều đó đã mở ra một thời kỳ mới trong
quan hệ hai nước về nhiều mặt, tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ quan hệ
kinh tế - buôn bán giữa hai nước, trong đó có bn bán qua biên giới Việt Trung. Trong khoảng thời gian, từ những năm 50 đến những năm 70, trên tinh
thần "Vừa là đồng chí, vừa là anh em", hai nước đã ký các bản "Nghị định thư
buôn bán tiểu ngạch biên giới Việt - Trung" (năm 1955) và "Nghị định thư trao
đổi hàng hoá biên giới Việt - Trung (năm 1957)" đã quy định xây dựng 26 điểm
giao dịch (19 điểm trên bộ và 7 điểm trên biển) trên biên giới chung của hai
nước. Trong khoảng thời gian (1956 - 1969), mức buôn bán qua biên giới giữa
Việt Nam với Quảng Tây trị giá 44,94 triệu Nhân dân tệ. Trong khoảng thời
gian 1966 - 1976, ở Trung Quốc đang tiến hành cuộc cách mạng văn hóa, hầu
như đóng cửa hồn tồn với thế giới bên ngồi nên đã ảnh hưởng tới buôn bán
qua biên giới giữa Trung Quốc với các nước láng giềng, trong đó có Việt Nam .
Từ khi 2 nước giành được độc lập cho đến những năm 80 của thế kỷ 20,

quan hệ kinh tế giữa hai nước có thể chia ra làm 5 giai đoạn chính sau đây:
Giai đoạn 1950-1954: Sau chiến thắng biên giới 1950, các tỉnh Cao Bằng,
Bắc Cạn, Lạng Sơn được giải phóng tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu bn
bán trao đổi hàng hóa của nhân dân hai bên biên giới. Tháng 9/1951, Chính phủ
hai nước Việt Trung đã ký các hiệp định về mậu dịch, Hiệp định về tiền tệ và
hợp đồng xuất nhập khẩu . Đồng thời thành lập các ty quản lý xuất nhập khẩu ở
Lạng Sơn, Cao Bằng, và các Đồng quản lý xuất nhập khẩu ở các cửa khẩu biên
giới. Một số công ty xuất nhập khẩu ở các tuyến ra đời dưới sự lãnh đạo của bộ
18
18


công thương để làm nhiệm vụ xuất nhập khẩu hàng hóa. Tháng 2/1953 cửa khẩu
Lào Cai được mở cửa thơng thương buôn bán với Hồ Kiều của Trung Quốc. Từ
đầu năm 1954 công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta tiến
triển mạnh mẽ. Hội nghị thứ 4 bàn về đấu tranh kinh tế với địch họp tại Việt Bắc
đã nêu rõ chủ trương tích cực đẩy mạnh xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập
khẩu các loại hàng hóa cần thiết phục vụ sản xuất và chiến đấu. Chính phủ ta đã
khuyến khích trao đổi một số mặt hàng như sa nhân, cà phê với Trung Quốc. Để
tạo điều kiện thuận lợi hơn cho buôn bán dân gian qua biên giới, Chính phủ ta
đã ban hành nghị định 39/TTg về quản lý mậu dịch tiểu ngạch nhân dân biên
giới Việt Trung.
Giai đoạn từ 1954-1964: Đây là thời kỳ khôi phục và xây dựng kinh tế ở
miền Bắc, ngày 10/2/1955 khánh thành đường sắt Hà Nội – Mục Nam Quan, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển hành khách và hàng hóa từ Thủ đơ lên
biên giới phía Bắc để trao đổi hàng hóa với Trung Quốc và các nước XHCN
khác. Ngày 7/7/1955 chính phủ ta đã ký với Trung Quốc nghị định thư về trao
đổi hàng hóa giữa các cơng ty mậu dịch địa phương vùng biên giới và Hiệp định
viện trợ. Xuất phát từ yêu cầu thực tế kỳ họp khóa VIII Quốc hội Việt Nam đã
quyết định chia Bộ thương nghiệp thành Bộ nội thương và Bộ ngoại thương. Với

sự thay đổi lại tổ chức, công tác xuất nhập khẩu đã trưởng thành thêm một bước,
hàng loạt các công ty xuất nhập khẩu biên giới được thành lập với nhiệm vụ trao
đổi hàng hóa và nhận hàng viện trợ qua biên giới Việt Trung.
Giai đoạn 1965-1975: Việt Nam tiến hành công cuộc kháng chiến chống
đế quốc Mỹ xâm lược, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước thì từ những năm 1966 Trung Quốc bắt đầu tiến hành “ Đại cách mạng văn
hóa vơ sản”. Cuộc “cách mạng” này kết thúc vào năm 1976. Mặc dù thời kỳ đó,
tình hình xã hội Trung Quốc có nhiều biến động, nhưng quan hệ Việt Trung vẫn
phát triển một cách tốt đẹp. Cùng thời kỳ đó Việt Nam tiếp tục tổ chức lại hoạt
động ngoại thương của mình, hồn chỉnh các chính sách, chế độ về mậu dịch đối
ngoại đồng thời tăng cường sự hợp tác giúp đỡ của Trung Quốc nhằm khắc phục
19
19


những khó khăn thời chiến. Chính phủ phê duyệt cho Bộ ngoại thương đƣợc
phép cử cán bộ, đoàn đại diện tham dự hội chợ Quảng Châu Trung Quốc để giao
dịch với các thương nhân Trung Quốc và thương nhân các nước khác, nghiên
cứu các kinh nghiệm làm ăn và chuẩn bị hàng xuất khẩu. Tháng 7/1965 Chính
phủ Việt Nam ký với Trung Quốc nghị định thư về chuyển tải hàng xuất khẩu
của Việt Nam sang qua các cảng của Trung Quốc. Chính phủ ta đã đề nghị với
Trung Quốc cho phép thành lập một số trạm tiếp nhận và điều chỉnh hàng viện
trợ của Trung Quốc và hàng xuất khẩu của Việt Nam trên đất Trung Quốc (Mãn
Châu Lý, Nam Ninh, Cơn Minh, Hồng Phố, Trạm Giang). Từ năm 1967 đến
1975, Chính phủ ta đã ký với Chính phủ Trung Quốc các Nghị định thư, Thư
trao đổi về việc Chính phủ Trung Quốc viện trợ khơng hồn lại, viện trợ bệnh
Trong các ngành công nghiệp, những ngành công nghiệp của Việt Nam sẽ phải
chịu sức ép cạnh tranh gay gắt nhất từ Trung Quốc sẽ là những ngành đang hình
thành, đang đầu tư phát triển như điện - điện tử, cơ khí, ơ tơ, xe máy,… bởi đây
chính là những ngành mà Trung Quốc đã và đang phát triển mạnh với năng lực

cạnh tranh cao. Các ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, giày da, chế biến thực
phẩm, cao su, nhựa… Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với hàng hoá Trung Quốc,
nhưng mức độ ít gay gắt hơn do Việt Nam đã có bước tiến nhất định trong việc
phát triển các ngành này và Trung Quốc cũng khơng có ưu thế vượt trội nhiều so
với Việt Nam trong các mặt hàng này và thị hiếu của người tiêu dùng Việt Nam
khơng phải là thế mạnh củ hàng hố Trung Quốc. Tuy nhiên, với sức mạnh cạnh
tranh về mẫu mã, giá cả, khi lộ trình mở cửa và cắt giảm thuế quan của Việt
Nam được thực hiện theo các cam kết gia nhập WTO và CAFTA, thì sức ép
cạnh tranh từ hàng hoá Trung Quốc trên thị trường nội địa Việt Nam sẽ rất gay
gắt.
Có thể nói hoạt động xuất nhập khẩu thời kỳ này tập trung vào việc vận
chuyển hàng viện trợ từ Trung Quốc và các nước anh em phục vụ cho cơng cuộc
kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
20

20


Giai đoạn 1976-1978: Khi hoàn thành nhiệm vụ cao cả là giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước, Việt Nam đã tiến hành tổng tuyển cử trong cả
nước bầu ra Quốc hội nước Việt Nam thống nhất. Cùng thời gian với cuộc “ Đại
cách mạng vô sản” kết thúc, Trung Quốc thực sự bước vào công cuộc cải cách
mở cửa. Trong giai đoạn này Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục ký các hiệp định
trao đổi hàng hóa. Mặc dù mậu dịch biên giới Việt Trung có những lợi thế
khơng thể so sánh được: Đó là thị trường truyền thống lâu đời, vị trí núi liền núi,
sơng liền sơng, hàng hóa hai bên bổ sung cho nhau. Tuy nhiên, từ năm 1978 trở
về trước, buôn bán qua biên giới Việt Trung cịn giới hạn ở mức nhỏ bé khơng
đáng kể, chủ yếu là hoạt động mua bán dân gian tự phát do nhu cầu sinh hoạt
thơng thường điều tiết. Phía Việt Nam xuất sang Trung Quốc một vài mặt hàng
hoa quả tươi, Trung Quốc xuất sang Việt Nam chủ yếu là các mặt hàng công

nghiệp nhẹ tiêu dùng như vải vóc, quần áo may sẵn, đồ gia dụng, cơng cụ sản
xuất. Mậu dịch biên giới hai nước Việt Trung chưa thể phát triển vì nền kinh tế
hai nước chưa phát triển, vùng trao đổi hàng hóa giữa hai bên vẫn chủ yếu là
khu vực miền núi, mang nặng tính tự cung tự cấp.
Giai đoạn 1978-1988: Cuối năm 1978, Trung Quốc đưa ra quốc sách cải
cách - mở cửa, nhưng lúc bấy giờ (1978 - 1988) mới chú trọng mở cửa khu vực
ven biển, chưa chú ý đến mở cửa khu vực biên giới. Đồng thời, từ năm 1979 đến
hết thập kỷ 80, quan hệ hai nước Việt Nam và Trung Quốc bước vào thời kỳ
khơng bình thường, biên giới chung giữa hai nước chiến trường thay cho thị
trường, những nhân tố đó đã ảnh hưởng đến sự gián đoạn bn bán qua biên giới
hai nước.

2.1.3 Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc kể từ khi bình thường hóa quan hệ
đến nay.
Sau một thời gian ngắn tạm thời trong tình trạng căng thẳng khơng bình
thường, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đã được bình thường hố trở lại vào
21
21


đầu tháng 11.1991. Sự kiện này đánh dấu một mốc quan trọng, đồng thời cũng
mở ra một giai đoạn mới của quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Bình thường hoá
quan hệ Việt Nam - Trung Quốc được diễn ra trong bối cảnh quốc tế và tình
hình mỗi nước đã có những biến đổi hết sức sâu sắc. Về tình hình quốc tế, sau
sự kiện Liên Xơ và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã, thế giới bước vào
một giai đoạn mới, chiến tranh lạnh kết thúc, hồ bình và đối thoại thay thế cho
chiến tranh và đối đầu. Hồ bình và phát triển trở thành trào lưu chính của thời
đại. Cịn về tình hình mỗi nước, Trung Quốc từ năm 1978 và Việt Nam từ năm
1986 đều bắt đầu tiến hành công cuộc cải cách và đổi mới, chuyển đổi mơ hình
phát triển từ kinh tế kế hoạch truyền thống sang kinh tế thị trường. Cả hai nước

đều cần môi trường bên trong ổn định, môi trường bên ngồi hồ bình để thực
hiện nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng và phát triển kinh tế. Vì vậy, từ khi bình
thường hố năm 1991 đến nay, quan hệ hai nước đã nhanh chóng phát triển trên
tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hố v.v…và đã đạt được những thành
tựu quan trọng. Quan hệ Việt Nam Trung Quốc đã có rất nhiều khởi sắc đặc biệt
là lĩnh vực kinh tế, mối quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước đã phát triển
nhanh chóng với những nội dung và phương thức hợp tác mới mà các giai đoạn
trước đây chưa từng có:
-Về thương mại, từ năm 1991 đến nay, cùng với việc bình thường hố
quan hệ về mặt chính trị, quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước cũng đã
được khôi phục và phát triển. Chính phủ hai nước đã ký kết hơn 30 hiệp định và
văn bản thoả thuận, trong đó có khoảng 20 hiệp định về kinh tế thương mại hoặc
có liên quan đến kinh tế thương mại. Ngoài ra, một số bộ, ngành ở Trung ương
và chính quyền địa phương của hai nƣớc cũng đã ký nhiều văn bản hợp tác kinh
tế mậu dịch song phương. Trên cơ sở các hiệp định đã được ký kết cùng với sự
nỗ lực của cả hai bên, đến nay trên trường biên giới đất liền giữa hai nước đã có
25 cặp cửa khẩu được khai thơng, trong đó có 4 cặp cửa khẩu quốc tế, 7 cửa
khẩu quốc gia và 14 cặp cửa khẩu tiểu ngạch. Ngồi ra cịn có thêm 59 cặp
22

22


đường mòn biên giới và 13 chợ biên giới đã được hình thành . Những hiệp định
và văn bản được ký kết cùng với những cặp cửa khẩu được khai thông đã tạo cơ
sở pháp lý và điều kiện thuận lợi cho các ngành, các địa phương và các doanh
nghiệp hai nước phát triển quan hệ kinh tế thương mại. Nhờ vậy kim ngạch buôn
bán hai chiều giữa hai nước tăng trưởng rất nhanh, từ 32 triệu USD năm 1991
lên 2,8 tỷ USD năm 2001, tăng gấp 87 lần. Trong chuyến thăm hữu nghị chính
thức Việt Nam cuối tháng 3 năm 2002 của Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, lãnh

đạo hai nước đã nhất trí phấn đấu đưa kim ngạch mậu dịch hai nước lên 3,5 tỷ
USD trong năm 2002 và đạt 5 tỷ USD vào năm 2005. Trung Quốc hiện đã trở
thành đối tác thương mại lớn thứ 5 của Việt Nam.
Ngồi bn bán chính ngạch theo tập qn và thông lệ quốc tế, thời gian
qua buôn bán tiểu ngạch (mậu dịch biên giới) giữa hai nước cũng phát triển rất
mạnh. Tỷ lệ giữa bn bán chính ngạch và buôn bán tiểu ngạch dao động trong
khoảng 50-60%. Buôn bán qua biên giới đã góp phần làm tăng nguồn thu ngân
sách trên địa bàn, giải quyết việc làm và cải thiện đời sống cho cư dân vùng biên
giới. Cùng với bn bán chính ngạch và bn bán tiểu ngạch, trong giao lưu
kinh tế thương mại giữa hai nước còn xuất hiện các hình thức và dịch vụ khác
như quá cảnh, tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu… Các mặt hàng quá cảnh và tạm
nhập khẩu vào Việt Nam, tái xuất khẩu đi Trung Quốc gồm: ô tô, xe máy, hàng
điện tử, cao su, nhôm thỏi, sợi tổng hợp, thuốc lá…
-Về đầu tư, từ khi hai nước bình thường hố quan hệ, cùng với việc phát
triển quan hệ thương mại, hoạt động đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt
Nam ngày càng nhiều lên. Tính đến nay, Trung Quốc đã đầu tư vào Việt Nam
107 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn đầu tư theo đăng ký là 214,1 triệu USD,
vốn thực hiện là 68,7 triệu USD (không kể đặc khu hành chính Hồng Kơng),
đứng thứ 22 trong số hơn 60 nước và lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam". 1 Trong
thời gian qua, sự hợp tác Việt - Trung trong lĩnh vực kinh tế thương mại tuy số
lượng chưa nhiều, quy mô chưa lớn nhưng đã mang những nội dung và phương
23

23


thức hết sức mới thể hiện đúng tinh thần hợp tác bình đẳng, cùng có lợi và bước
đầu tn theo các quy luật của kinh tế thị trường.
2.2. THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRUNG
QUỐC

2.2.1 Thực trạng quan hệ thương mại Việt-Trung từ 2001 đến 2010
Quan hệ ngoại thương Việt Nam - Trung Quốc trong những năm qua đã
có bước phát triển mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu bình quân 27,4%/năm trong giai đoạn 2001-2006. Từ năm 2004, Trung
Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Năm 2006, tổng
kim ngạch mậu dịch giữa hai nước đạt 10,420 tỷ USD. Trong đó xuất khẩu đạt
3,030 tỷ USD, nhập khẩu đạt 7,390 tỷ USD; nhập siêu 4,360 tỷ USD. Đến năm
2007, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 15,858 tỷ USD tăng vọt 52,2% so với
năm 2007, trong đó xuất khẩu đạt 3,356 tỷ USD (tăng 10,8%), nhập khẩu đạt
12,502 tỷ USD(tăng 69,2%), nhập siêu lên tới 9,145 tỷ USD.
Bảng 2.1. Xuất nhập khẩu hàng hoá giữa Việt Nam và Trung Quốc
Đơn vị: Triệu USD
Tổng
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007

XNK
3023,6
3677,1
5021,7
7192,0
8739,9
10420,0
15858,6


% tăng
14,1
21,6
36,6
43,2
21,5
19,2
52,2

XK
1417,4
1513,3
1883,1
2735,5
2961,0
3030,0
3356,6

% tăng
7,1
24,0
45,3
8,2
19,2
10,8

NK
1606,2
2158,8
3138,6

4456,5
5778,9
7390,0
12502,0

% tăng
34,4
45,4
36,8
29,7
27,9
69,2

XK - NK
-188,8
-640,5
-1255,5
-1721,0
-2817,9
-4360,0
-9145,4

Nguồn: Niên giám thống kê, Tổng cục Thống kê, Báo cáo số liệu XNK, Tổng cục Hải quan

Buôn bán với Trung Quốc chiếm khoảng 12% tổng kim ngạch ngoại
thương của Việt Nam, trong khi Việt Nam chỉ chiếm 0,78% tổng kim ngạch
ngoại thương của Trung Quốc, Việt Nam là bạn hàng lớn thứ 27 của Trung
Quốc.

24


24


Về xuất khẩu: Xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc giai đoạn 20012006 tăng bình quân 35,6%/năm. Năm 2006, đạt hơn 3 tỷ USD, năm 2007 đạt
hơn 3,3 tỷ USD, khiến cho Trung Quốc trở thành bạn hàng xuất khẩu lớn thứ ba
của Việt Nam, sau Hoa Kỳ và Nhật Bản. Xuất khẩu của Việt Nam sang Trung
Quốc chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam nhưng chỉ
chiếm chưa đầy 0,5% tổng kim ngạch nhập khẩu của Trung Quốc.
Bảng 2.2. Xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Trung Quốc
Đơn vị: triệu USD
XK Việt Nam sang Trung

2001
1417,

2002
1518,

2003
1883,

2004
2735,

2005
2961,

2006
3030,


2007
3356,

Quốc
Tỷ trọng trong tổng KNXK

4
9,4

3
9,1

1
9,3

5
10,3

0
9,1

0
7,6

6
6,9

của Việt Nam
Tỷ trọng trong tổng KNNK


0,61

0,54

0,48

0,51

0,47

0,41

0,35

của Trung Quốc
Nguồn: Niên giám thống kê, Tổng cục Thống kê Việt Nam; Key Indicators,
ADB, 2006
Đó là những tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cao và liên tục với
xu hướng khá bền vững năm sau cao hơn năm trước, rất đáng ghi nhận. Không
chỉ tăng trưởng cao, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu cũng rất đa dạng, khai thác tốt
các thế mạnh hàng hoá sản xuất của Việt Nam. Hàng Việt Nam xuất khẩu sang
Trung Quốc chủ yếu là dầu thô, than đá, và các loại nông sản nhiệt đới bao gồm:
cao su, rau hoa quả, hạt điều, hạt tiêu, sắn lát, đồ gỗ cao cấp, thực phẩm chế
biến, thuỷ hải sản tươi sống. Hàng hố nơng sản, thuỷ sản Việt Nam đã tìm được
thị trường lớn và khá ổn định lại khơng địi hỏi chất lượng q cao nên vấn đề
đầu ra cho nơng sản hàng hố được giải quyết, có tác dụng kích thích sản xuất
nơng nghiệp phát triển, góp phần tạo việc làm mới ở nông thôn, nhất là các tỉnh
biên giới, tăng thu nhập cải thiện đời sống nông dân.
Về nhập khẩu: Xuất khẩu của Trung Quốc sang Việt Nam tăng rất nhanh

trong những năm qua. Nếu năm 2001 kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc chỉ
25

25


×