Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Quản trị công ty cổ phần ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (567.41 KB, 106 trang )

Hà Nội, 2008
QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN
Ở VIỆT NAM
Quy đònh của pháp luật,
hiệu lực thực tế và vấn đề
QUẢN TRỊ CÔNG TY
CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM:
Quy đònh của pháp luật,
hiệu lực thực tế và vấn đề
2
QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM Quy đònh của pháp luật, hiệu lực thực tế và vấn đề
Lời mở đầu 5
I. Một số nét về thực trạng phát triển khung quản trò doanh nghiệp ở nước ta 6
1. Doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân trong nước 7
2. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 10
2.1. Đối với 100% vốn nước ngoài trách nhiệm hữu hạn 11
2.2. Công ty liên doanh trách nhiệm hữu hạn. 11
3. Quản trò doanh nghiệp nhà nước 15
II. Quản trò công ty cổ phần: những quy đònh pháp luật có liên quan 20
1. Cổ đông và Đại hội đồng Cổ đông. 21
2. Hội đồng quản trò. 27
3. Giám đốc (Tổng giám đốc) điều hành. 32
4. Tiền lương của giám đốc, thù lao của các thành viên
HĐQT và các lợi ích khác của họ. 33
5. Nghóa vụ của các thành viên HĐQT, Giám đốc (Tổng giám đốc)
và những người quản lý khác. 34
6. Công khai hoá và kiểm soát các giao dòch với các bên có liên quan. 35
7. Công khai hoá thông tin. 37
8. Ban kiểm soát. 40
III. Quản trò công ty cổ phần: thực tiễn và vấn đề 46
1. Quyền của cổ đông và Đại hội đồng Cổ đông. 48


2. Cổ đông nhà nước và quyền của cổ đông nhà nước. 56
3. Hội đồng quản trò: tập trung quyền lực nhưng vai trò chưa tương xứng. 61
4. Mức độ công khai hoá và minh bạch hoá thông tin chưa đáp ứng yêu cầu. 65
5. Chưa kiểm soát được các giao dòch của công ty với các bên có liên quan. 65
6. Kiểm soát nội bộ còn hình thức và kém hiệu quả. 68
Kết luận 70
Tài liệu tham khảo 98
Mục lục
3
QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM Quy đònh của pháp luật, hiệu lực thực tế và vấn đề
Lời cảm ơn
Nghiên cứu này được biên soạn bởi Ông Nguyễn Đình Cung (CIEM)
theo sự hỗ trợ của Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ).
Tác giả xin trân trọng cảm ơn các ý kiến đóng góp, sự hỗ trợ kỹ thuật
trong quá trình biên soạn của tiến só Đinh Văn Ân - Viện trưởng Viện
Quản lý kinh tế Trung ương, Bà Doris Becker và Ông Lê Duy Bình
(GTZ).
Cuốn tài liệu này được biên soạn cho mục đích tham khảo và thể hiện
quan điểm của các tác giả; không nhất thiết phản ánh quan điểm của
CIEM hay GTZ.
4
QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM Quy đònh của pháp luật, hiệu lực thực tế và vấn đề
Từ viết tắt
CIEM Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương
GTZ Tổ chức Hợp tác kỹ thuật Đức
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
DNTN Doanh nghiệp tư nhân
ĐKKD Đăng ký kinh doanh
TV Thành viên
GCNĐKKD Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh

GTGT Giá trò gia tăng
VND Đồng Việt Nam
SITC Trung tâm đào tạo quản lý cao cấp SITC Việt Nam
HĐQT Hội đồng quản trò
BKS Ban Kiểm soát
ĐHĐCĐ Đại hội đồng cổ đông
OECD Tổ chức phát triển và hợp tác kinh tế
LDNNN Luật doanh nghiệp nhà nước
UBCK Ủy ban chứng khoán
SGDCK Sở giao dòch chứng khoán
TTGDCK Trung tâm giao dòch chứng khoán
TVHĐQT Thành viên Hội đồng quản trò
5
QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM Quy đònh của pháp luật, hiệu lực thực tế và vấn đề
Lời mở đầu
Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã có bước tiến khá dài trong hoàn thiện
khung quản trò công ty nói chung và quản trò công ty cổ phần nói riêng.
Quá trình triển khai thi hành Luật Doanh nghiệp cho đến nay thường nhấn
mạnh nhiều vào phía các cơ quan nhà nước hơn là việc quản trò trong nội
bộ doanh nghiệp.
Nội dung của báo cáo này sẽ giới thiệu và phân tích thực trạng quản trò
công ty, mà chủ yếu là quản trò công ty cổ phần ở Việt Nam, với ba phần
chính sau đây. Phần 1 sẽ giới thiệu sơ lược quá trình phát triển khung
pháp lý về quản trò công ty ở Việt Nam. Phần 2 sẽ tập hợp, giới thiệu và
phân tích các quy đònh pháp luật có liên quan tạo thành khung quản trò
công ty cổ phần ở nước ta. Phần 2 này sẽ trình bày các nội dung cơ bản
của từng bộ phận cấu thành khung quản trò công ty cổ phần ở nước ta.
Đối với từng bộ phận cấu thành đó, nội dung chủ yếu được trình bày theo
cách: (i) trước hết, giới thiệu các quy đònh pháp luật có liên quan; (ii) Tiếp
đến, sẽ trình bày bản chất, mục đích, ý nghóa và tác dụng của các cấu

phần hợp thành khung quản trò công ty; và (iii) cuối cùng là phân tích, so
sánh với các thông lệ tốt, kinh nghiệm và bài học từ Nhật Bản và Trung
Quốc; qua đó, phát hiện những điểm khác biệt, điểm mạnh và điểm yếu
trong các quy đònh của pháp luật về khung quản trò ở nước ta. Kết luận
của Phần 2 này sẽ rút ra những tiến bộ đã đạt được và những điểm cần
lưu ý trong khung quản trò công ty cổ phần ở nước ta. Phần 3 sẽ trình bày
sự vận hành thực tế và hiệu lực của từng bộ phận hợp thành nói riêng và
toàn bộ khung quản trò công ty cổ phần ở nước ta nói chung; có so sánh
với khung quản trò theo quy đònh của pháp luật đã trình bày ở phần 2 và
thực tiễn vận hành quản trò công ty ở Nhật Bản và Trung quốc. Trên cơ
sở đó, những khác biệt giữa quy đònh của luật pháp và thực thi những quy
đònh đó trên thực tế, cũng như những vấn đề tồn tại của khung quản trò
công ty cổ phần ở nước ta sẽ là cơ sở của các kiến nghò.
Một số nét
về thực trạng phát triển khung
quản trò doanh nghiệp
ở nước ta
Phần 1
6
Trong hơn 20 chục năm qua, nền kinh tế nước ta đã và đang chuyển đổi từ kế
hoạch hóa tập trung sang kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa.Trong
quá trình chuyển đổi đó, chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
ngày càng được phát triển, sáng rõ và trở thành một tư tưởng chủ đạo của cải
cách và phát triển kinh tế. Hệ thống doanh nghiệp hiện nay của chúng ta là kết
quả của quá trình thay đổi nói trên. Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư
nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được ra đời và phát triển tại
những thời điểm và hoàn cảnh lòch sử khác nhau.Trong suốt quá trình đó, vai
trò và đòa vò của khu vực doanh nghiệp cũng có sự phân biệt theo cách coi
doanh nghiệp thành phần kinh tế này có giá trò và hữu ích hơn so với doanh
nghiệp của thành phần kinh tế khác. Quan niệm và pháp luật về doanh nghiệp

cũng bò “chia cắt”, phân biệt đối xử theo tính chất sở hữu. Vì vậy, khung quản
trò đối với doanh nghiệp cũng khác nhau theo thành phần kinh tế.
1. Doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân trong nước
Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty (1990) đã đặt nền tảng pháp lý
đầu tiên cho việc hình thành hệ thống các doanh nghiệp sở hữu tư nhân trong
nước; đồng thời, đưa ra những mầm mống manh nha cho khung quản trò công
ty ở nước ta. Trong số 46 điều của Luật Công ty 1990, chỉ có 10 điều có quy
đònh liên quan đến quản trò công ty. Có thể nói, về quản trò công ty, Luật công
ty mới đònh hình được khung sơ lược của quản lý nội bộ. Cơ cấu quản lý nội bộ
công ty cổ phần gồm Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trò và Ban kiểm
7
QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM Quy đònh của pháp luật, hiệu lực thực tế và vấn đề
soát. Quyền của cổ đông, thành viên được quy đònh chưa đầy đủ và còn rất
sơ sài. Cổ đông chủ yếu mới có 2 quyền; đó là được chia lợi nhuận tương
ứng số cổ phần hoặc phần góp vốn và tham dự họp Đại hội đồng và biểu
quyết về các vấn đề thuộc thẩm quyền. Quyền của thành viên, cổ đông
tham gia vào việc quyết đònh hàng loạt các vấn đề cơ bản của công ty như
chia, tách, hợp nhất, sáp nhập,v.v... không được quy đònh. Chưa có sự phân
đònh cụ thể thẩm quyền và trách nhiệm của Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng
quản trò, Giám đốc điều hành và Ban kiểm soát. Còn các nội dung khác của
khung quản trò công ty hoàn toàn chưa được quy đònh. Những nội dung cơ
bản như công khai hóa thông tin, minh bạch quản lý điều hành, hay cấm
giao dòch nội gián và kiểm soát giao dòch với các bên có liên quan hoàn toàn
chưa có trong ý niệm của cơ quan hoạch đònh, thực thi chính sách và cả
những người quản lý doanh nghiệp.
Chế độ quản trò công ty ở dạng manh nha, sơ sài như miêu tả trên đây
được áp dụng trong thời kỳ 1991-1999 đối với khoảng gần 1000 công ty
cổ phần và trách nhiệm hữu hạn có quy mô tương đối lớn. Trong giai
đoạn gần 10 năm nói trên không có một sáng kiến hay thay đổi nhằm
hoàn thiện và nâng cao khung quản trò doanh nghiệp ở nước ta. Thực tế

đó có lẽ xuất phát từ hoàn cảnh lòch sử cụ thể của thời kỳ đó. Mức độ
phát triển kinh tế và mức độ thò trường hóa nền kinh tế còn thấp; các
doanh nghiệp quy mô nhỏ, giản đơn trong đó người chủ sở hữu vẫn trực
tiếp nắm quyền điều hành công ty. Các doanh nghiệp chỉ được quyền
làm những gì mà cơ quan nhà nước cho phép. Việc kiểm soát công ty
dựa nhiều vào các cơ quan nhà nước hơn là thông qua các công cụ chỉ
đạo điều hành và kiểm soát nội bộ công ty. Mức độ hội nhập với bên
ngoài còn hạn chế; vì vậy, những tư tưởng mới về quản trò công ty chưa
được du nhập ở mức cần thiết vào nước ta.
Tuy nhiên, khung quản trò sơ sài đã để lại một số hệ quả. Tuy số doanh
nghiệp chưa nhiều, chưa phức tạp, nhưng đã có những vụ bê bối lớn, điển
hình như vụ án “Épco-Minh Phụng”. Những vụ án đó do nhiều nguyên nhân,
song quản trò công ty sơ sài và kém hiệu lực có phần của mình ở trong đó.
8
QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM Quy đònh của pháp luật, hiệu lực thực tế và vấn đề
Luật Doanh nghiệp số 10/1999/QH11 đã đánh dấu một bước tiến nhảy vọt trong
quá trình hoàn thiện khung quản trò công ty ở nước ta. Tuy nhiên, như trên đã nói
khung quản trò hình thành trên cơ sở các quy đònh của luật này chỉ áp dụng cho
các công ty thuộc sở hữu tư nhân trong nước. Lần đầu tiên, khung quản trò công
ty ở nước ta được hình thành với đầy đủ các yếu tố cấu thành theo như thông lệ
phổ biến về quản trò doanh nghiệp. Quyền của các cổ đông đã được quy đònh
tương đối đầy đủ, cụ thể và các cổ đông về cơ bản đã được đối xử công bằng.
Vai trò, chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của từng cơ quan trong cơ cấu quản
trò nội bộ công ty, bao gồm Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trò, Ban kiểm
soát và giám đốc đã được quy đònh tương đối rõ ràng và cụ thể. Khái niệm giao
dòch với các bên có liên quan và cơ chế kiểm soát các bên có liên quan cũng đã
được quy đònh và áp dụng. Trong thời gian này, ngoài Luật Doanh nghiệp, Văn
phòng Chính phủ còn ban hành bản Điều lệ mẫu
1
áp dụng được khuyến cáo áp

dụng đối với các công ty niêm yết trên các trung tâm giao dòch chứng khoán.
Khung quản trò hình thành trong Bản điều lệ mẫu nói trên đã vận dụng khá đầây
đủ các nguyên tắc tốt của OECD về quản trò công ty. Ngoài nội dung quản trò
công ty theo Luật Doanh nghiệp 1999, thì Bản Điều lệ mẫu còn áp dụng một số
yêu cầu như: phải có ít nhất 1/3 số thành viên Hội đồng quản trò không điều hành,
hàng năm bầu lại 1/3 số thành viên HĐQT và Ban kiểm soát, yêu cầu công bố
thù lao của Hội đồng quản trò và Ban kiểm soát, lập các tiểu ban hoặc cử thành
viên HĐQT chuyên trách về kiểm soát nội bộ, đề cử thành viên HĐQT, về trả
lương và lợi ích khác và về bổ nhiệm nhân sự ở công ty.
Tóm lại, từ năm 2000, khung quản trò công ty ở nước ta đã có bước phát
triển và biến đổi cơ bản theo hướng phù hợp với các thông lệ quản trò tốt đã
được thừa nhận. Tuy vậy, xét về khía cạnh pháp lý, khung quản trò đó cũng
còn bộc lộ không ít khiếm khuyết; cụ thể là:

Quyền của thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn và cổ đông công ty
cổ phần vẫn chưa được quy đònh đầy đủ, và chưa được bảo đảm thực
hiện một cách hợp lý.

Yêu cầu về các đònh túc số (quorum) đối với Hội đồng thành viên và Đại
hội đồng cổ đông là tương đối thấp so với thông lệ quốc tế; có sơ hở
9
1.
Quyết đònh số 07/2002/QĐ-VPCP ngày 19 tháng 11 năm 2002 ban hành mẫu Điều lệ áp dụng cho các công ty
niêm yết.
2.
Xem thêm CIEM-UNDP-GTZ: 2005 “Thời điểm cho sự thay đổi: Đánh giá điểm mạnh và điểm yếu của Luật
Doanh nghiệp và những kiến nghò bổ sung, sửa đổi”.
QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM Quy đònh của pháp luật, hiệu lực thực tế và vấn đề
trong việc quyết đònh đa số về các vấn đề quan trọng của công ty, cũng
như trong việc ra quyết đònh bằng hình thức lấy ý kiến bằng văn bản. Hệ

quả là, quyền và lợi ích của các thành viên, cổ đông thiểu số không
được bảo vệ một cách hợp lý cần thiết.

Cơ cấu quản trò công ty trách nhiệm hữu hạn chưa tính đến sự tách biệt
giữa chủ sở hữu và người quản lý. Vì vậy, có thể chưa phù hợp với các
công ty trách nhiệm hữu hạn mà các thành viên của nó là pháp nhân.

Cơ chế giám sát trực tiếp của các thành viên, cổ đông, hoặc gián tiếp
thông qua các thể chế như kiểm toán, kiểm soát nội bộ, v.v... chưa được
quy đònh đầy đủ, hoặc chưa phát huy được hiệu lực như mong muốn;

Các nghóa vụ của người quản lý chưa được đònh hình cụ thể và quy đònh
rõ, gồm nghóa vụ cẩn trọng, nghóa vụ trung thành và trung thực.

Nhóm người có liên quan cũng như sự giám sát các giao dòch của họ với công
ty chưa được quy đònh đầy đủ, hợp lý và chưa được thực hiện có hiệu quả.

Chưa có quy đònh về các tiêu chuẩn của người quản lý, về các nguyên tắc
xác đònh mức thù lao của họ gắn với hiệu quả hoạt động của công ty.

Chế độ công khai hoá thông tin cho cổ đông, thành viên cũng như đối
với công chúng còn mờ nhạt, và kém hiệu quả trên thực tế.
Ngoài ra, việc thực hiện các quy đònh cấu thành quản trò công ty theo
Luật Doanh nghiệp và Điều lệ mẫu còn kém hiệu lực; còn có khoảng
cách giữa quy đònh pháp lý và hiệu lực thực tế của chúng.
Những khiếm khuyết nói trên đã và đang làm cho quản trò công ty theo
Luật Doanh nghiệp vẫn còn yếu; hạn chế không nhỏ đến sự phát triển
của từng công ty nói riêng và của khu vực kinh tế công ty nói chung ở
Việt Nam.
2. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Như trên đã trình bày, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gồm Doanh
nghiệp liên doanh và Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, và đều tồn tại
10
QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM Quy đònh của pháp luật, hiệu lực thực tế và vấn đề
dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Tuy nhiên, chế độ quản trò liên
doanh trách nhiệm hữu hạn và 100% vốn nước ngoài trách nhiệm hữu hạn
là không giống nhau. Xem xét quá trình bổ sung, hoàn thiện pháp luật về
đầu tư nước ngoài tại nước ta cho thấy riêng về quản trò công ty, nội dung
của nó hầu như không thay đổi cho đến tận tháng 7 năm 2006.
2.1. Đối với 100% vốn nước ngoài trách nhiệm hữu hạn
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài
đầu tư 100% vốn tại Việt Nam. Như vậy, ở đây không có phân biệt về số lượng
thành viên; dù một hay nhiều thành viên mà tất cả họ đều là người nước ngoài
thì doanh nghiệp do họ thành lập cũng được gọi là doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài. Luật đầu tư nước ngoài về cơ bản không quy đònh về khung quản
trò đối với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trách nhiệm hữu hạn
3
. Như vậy,
về áp dụng quản trò công ty 100% vốn nước ngoài trách nhiệm hữu hạn, có thể
xảy ra một số trường hợp sau đây. Trường hợp công ty tại Việt Nam là một
công ty con, thì công ty đó có thể coi như một bộ phận của công ty mẹ ở nước
ngoài, và khung quản trò công ty được áp dụng đối với công ty mẹ cũng chi phối
công ty con tại nước ta. Trường hợp các thành viên là cá nhân, hoặc trường
hợp các tổ chức, cá nhân thành lập một công ty ở nước ngoài; và không hoạt
động ở nước đó, mà chỉ thông qua công ty đó để đầu tư vào Việt Nam dưới
hình thức 100% trách nhiệm hữu hạn, thì chế độ quản trò áp dụng cho công ty
100% vốn nước ngoài trong các trường hợp đó không tồn tại về mặt pháp lý.
Tức là không có khung pháp lý điều chỉnh quản trò công ty. Có thể nói, sự đổ
bể của SITC là một trường hợp điển hình của thiếu quản trò công ty đối với
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Cuối cùng, nếu các thành viên ở các

quốc gia khác nhau cùng góp vốn thành lập 100% vốn nước ngoài trách nhiệm
hữu hạn, thì rõ ràng, các bên trong hợp đồng liên doanh phải chọn khung quản
trò áp dụng theo luật của một trong số các quốc gia của các thành viên.
2.2.Công ty liên doanh trách nhiệm hữu hạn.
Công ty liên doanh trách nhiệm hình thành bởi sự góp vốn hợp tác đầu tư
giữa các bên (mà bản chất là thành viên chủ sở hữu) nước ngoài và bên
Việt Nam. Các thành viên nước ngoài và Việt Nam phần lớn đều là các tổ
11
3.
Chỉ có một vài quy đònh tản mạn không thể tạo thành khung quản trò đối với 100% vốn nước ngoài trách nhiệm
hữu hạn.
QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM Quy đònh của pháp luật, hiệu lực thực tế và vấn đề
chức (tức là các doanh nghiệp). Do đó, xét về quản trò, thì trong phần lớn
các trường hợp, trong liên doanh trách nhiệm hữu hạn đều có sự tách biệt
thực tế giữa chủ sở hữu và người quản lý. Người chủ sở hữu không trực tiếp
quản lý và điều hành kinh doanh tại các doanh nghiệp liên doanh ở nước
ta. Vì vậy, quản trò công ty đối với công ty liên doanh trách nhiệm hữu hạn
là vấn đề rất đáng được lưu ý.
Khác với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trách nhiệm hữu hạn, Luật Đầu
tư nước ngoài và các nghò đònh hướng dẫn thi hành có khá nhiều điều khoản
liên quan đến quản trò công ty liên doanh trách nhiệm hữu hạn, chủ yếu tập
trung vào cơ cấu quản lý nội bộ công ty. Luật và nghò đònh có liên quan quy
đònh sơ lược, tản mạn một số quyền; không quy đònh về nghóa vụ của thành
viên, một yếu tố cơ bản cấu thành của quản trò công ty. Quyền và nghóa vụ của
thành viên chủ yếu do các thành viên thỏa thuận, quyết đònh và ghi vào hợp
đồng liên doanh. Theo Luật và nghò đònh hướng dẫn thi hành, thành viên có
quyền chuyển nhượng phần góp vốn, (nếu được cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền chấp thuận), có quyền cử người của mình làm thành viên HĐQT,
có quyền họp và tham gia biểu quyết tại HĐQT, có quyền được chia lợi nhuận
theo tỷ lệ góp vốn. Về nghóa vụ, có mâu thuẫn hay nói cách khác là không

tương thích về nghóa vụ của thành viên. Trong khi Luật (điều 10) quy đònh thành
viên phải chòu rủi ro và thua lỗ theo tỷ lệ vốn góp, thì nghò đònh (Khoản 3 Điều
11 Nghò đònh số 24/2000/NĐ-CP) quy đònh “mỗi bên liên doanh chòu trách
nhiệm trong phạm vi phần vốn góp vào vốn pháp đònh của doanh nghiệp”.
Cơ cấu quản lý công ty bao gồm HĐQT và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.
Mỗi thành viên đều có quyền cử người đại diện cho mình vào Hội đồng
quản trò tương ứng với tỷ lệ phần góp vốn, trừ một số trường hợp sau đây.
Trường hợp, chỉ có 2 thành viên, thì mỗi thành viên có quyền chỉ đònh ít nhất
2 người của mình vào HĐQT; hoặc trong trường hợp liên doanh có 3 bên trở
lên, thì mỗi bên được cử ít nhất một người; và nếu liên doanh giữa một bên
Việt Nam và nhiều bên nước ngoài hoặc một bên nước ngoài và nhiều bên
Việt Nam, thì một bên đó có cử ít nhất 2 thành viên vào HĐQT. Như vậy,
các trường hợp ngoại lệ nói trên trên thực tế có thể đã triệt tiêu nguyên tắc
“đại diện” trong HĐQT theo tỷ lệ vốn góp.
Hội đồng quản trò là cơ quan lãnh đạo doanh nghiệp. Luật không xác đònh
cụ thể thẩm quyền của Hội đồng quản trò. Tuy vậy, Luật đã chia các quyết
12
QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM Quy đònh của pháp luật, hiệu lực thực tế và vấn đề
đònh của HĐQT thành 2 nhóm theo 2 cách biểu quyết. Một là, các vấn đề
được quyết đònh theo nguyên tắc nhất trí, bao gồm
4
:

Bổ nhiệm, miễn nhiệm Tổng giám đốc và Phó tổng giám đốc thứ nhất;

Sửa đổi bổ sung điều lệ doanh nghiệp;

Các vấn đề khác do các bên thỏa thuận và được ghi vào Điều lệ
doanh nghiệp.
Đối với các vấn đề khác, HĐQT quyết đònh theo nguyên tắc đa số quá bán

của các thành viên dự họp.
Tổng giám đốc và Phó tổng giám đốc do HĐQT bổ nhiệm. Về đòa vò pháp lý,
cả hai đều là người quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của
doanh nghiệp. Tuy vậy, nhìn chung, tổng giám đốc là người đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp. Nhiệm vụ và quyền hạn của Tổng giám đốc và Phó
tổng giám đốc thứ nhất được quy đònh tại Điều lệ doanh nghiệp. Tuy vậy, quyền
hạn và nhiệm vụ cụ thể của từng người lại do HĐQT phân công và quyết đònh.
Trong điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tổng giám đốc phải
trao đổi và hỏi ý kiến Phó tổng giám đốc thứ nhất về các vấn đề quan trọng,
bao gồm: cơ cấu tổ chức, bổ nhiệm, miễn nhiệm nhân sự chủ chốt, quyết toán
tài chính hàng năm, quyết toán hợp đồng, ký kết các hợp đồng kinh tế. Trong
trường hợp, Phó tổng giám đốc có ý kiến khác, thì có quyền bảo lưu và trình
lên HĐQT xem xét quyết đònh.
Trình bày trên đây cho thấy khung quản trò công ty đối với liên doanh trách
nhiệm hữu hạn ở nước ta còn có một số khiếm khuyết cơ bản sau đây:

Một số khái niệm chưa thống nhất về bản chất và nội dung với những
khái niệm đã được thừa nhận và sử dụng phổ biến. “Bên” về thực
13
4.
Các vấn đề phải được thông qua theo nguyên tắc nhất trí đã giảm dần. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 quy
đònh “Những vấn đề quan trọng nhất trong tổ chức và hoạt động của xí nghiệp liên doanh như phương hướng hoạt
động, kế hoạch kinh doanh, cán bộ chủ chốt của xí nghiệp do Hội đồng quản trò quyết đònh theo nguyên tắc nhất
trí”, (Điều 13).
Luật Đầu tư nước ngoài (bổ sung, sửa đổi năm 1996), Điều 14 quy đònh “Những vấn đề quan trọng nhất trong tổ
chức và hoạt động của doanh nghiệp liên doanh, gồm: bổ nhiệm, miễn nhiệm tổng giám đốc, phó tổng giám đốc
thứ nhất, kế toán trưởng, sửa đổi bổ sung điều lệ doanh nghiệp, duyệt quyết toán thu chi tài chính hàng năm và
quyết toán công trình, cho vay vốn đầu tư do Hội đồng quản trò quyết đònh theo nguyên tắc nhất trí giữa các thành
viên Hội đồng quản trò có mặt tại cuộc họp”.
Và Cuối cùng, khoản 2 Điều 1 Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài (số 18/2000/QH10)

quy đònh “Những vấn đề quan trọng nhất trong tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp liên doanh gồm: bổ nhiệm,
miễn nhiệm Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc thứ nhất; sửa đổi bổ sung điều lệ doanh nghiệp do Hội đồng quản
trò quyết đònh theo nguyên tắc nhất trí giữa các thành viên Hội đồng quản trò có mặt tại cuộc họp”.
QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM Quy đònh của pháp luật, hiệu lực thực tế và vấn đề
chất là thành viên của công ty. Tuy vậy, trong một số trường hợp, hình như
có sự nhầm lẫn và hiểu không thống nhất khi coi “một bên” có thể gồm
một số thành viên. Ví dụ, “bên Việt Nam”
5
có thể được hiểu gồm các thành
viên là cá nhân và tổ chức Việt Nam hợp thành. Cũøng tương tự như vậy
đối với “bên nước ngoài”. Cách hiểu như vậy có thể dẫn tới sự đối xử bất
bình đẳng và gây hại đến lợi ích của từng thành có liên quan. Cũøng tương
tự “Hội đồng quản trò” trong liên doanh trách nhiệm hữu hạn ở nước ta
khác về bản chất, đòa vò pháp lý và thẩm quyền so với HĐQT theo thông
lệ chung theo pháp luật về công ty trên thế giới.
Trong khung quản trò công ty liên doanh trách nhiệm hữu hạn, hoạch đònh
chiến lược kiểm soát và thực thi chiến lược phát triển kinh doanh, kiểm
soát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có vẻ như không phải là
trọng tâm công việc của HĐQT. Trái lại, trọng tâm đặt vào việc quyết đònh
các vấn đề liên quan đến “phân chia” quyền lực và lợi ích của một số
người có liên quan.

Khung quản trò được áp dụng chưa có đủ yếu tố cơ bản cấu thành của
quản trò công ty theo thông lệ phổ biến được thừa nhận.

Quyền của thành viên, tuy đã có quy đònh, nhưng chưa đầy đủ, chưa rõ
ràng và còn bò hạn chế thực hiện. Các thành viên chưa được đối xử
công bằng và bình đẳng. Với cách thức chỉ đònh thành viên HĐQT như
quy đònh và cách biểu quyết theo nguyên tắc nhất trí về một số vấn đề,
thì thành viên thiểu số đã có số phiếu biểu quyết ngang bằng thành viên

đa số, không tương ứng với tỷ lệ góp vốn.

Thẩm quyền của các cơ quan trong cơ cấu quản lý nội bộ công ty không
được quy đònh rõ ràng; và do đó, cũng không có sự phân chia và phân
đònh rõ ràng về quyền hạn và trách nhiệm giữa Hội đồng quản trò và
Tổng giám đốc, phố tổng giám đốc thứ nhất.

Khung quản trò như quy đònh có thể tạo ra sự không thống nhất trong
chức năng và quyền lực điều hành kinh doanh, nhất là giữa Tổng giám
đốc và Phó tổng giám đốc thứ nhất; có sự chồng chéo, trùng lặp giữa
HĐQT và Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc thứ nhất; và có thể cả
mâu thuẫn giữa chính các thành viên HĐQT.
14
5.
“Bên Việt Nam” là một bên gồm một hoặc nhiều tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân; các tư nhân Việt Nam
có thể chung vốn với tổ chức kinh tế Việt Nam thành bên Việt Nam để hợp tác kinh doanh với bên nước ngoài
(khoản 2 Điều 2 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987).
QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM Quy đònh của pháp luật, hiệu lực thực tế và vấn đề
Trong gần 20 năm qua đã có 4 lần sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam. Về quản trò công ty, sửa đổi về cơ bản chỉ giảm dần số vấn đề phải
được hội đồng quản trò thông qua theo nguyên tắc nhất trí. Điều đó, phần
nào thể hiện thực tế là việc bổ sung sửa đổi chủ yếu do sáng kiến và áp
lực của các nhà đầu tư nước ngoài trong liên doanh; chứ chưa chú ý hoàn
thiện khung quản trò nói chung cho phù hợp với nguyên tắc và thông lệ phổ
biến đã được thừa nhận.
Tóm lại, có thể nói, cho mãi đến năm 2006, khung quản trò áp dụng đối
với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại nước ta đã không được
chú ý hoàn thiện. Nó chưa bao giờ là vấn đề chủ yếu được bàn luận
trong các diễn dàn chính sách cũng như quá trình hoàn thiện chính sách
và pháp luật thu hút và nâng cao hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài ở nước

ta. Kết quả là, không có khung quản trò theo Luật Việt Nam áp dụng đối
với công ty 100% vốn nước ngoài trách nhiệm hữu hạn. Đối với liên
doanh trách nhiệm hữu hạn, thì khung quản trò sơ sài, vừa thiếu vừa
không đầy đủ theo các chuẩn mức quản trò phổ biến được thừa nhận.
Những gì có được trong khung quản trò áp dụng phần lớn đều không
tương thích về quan niệm, nội dung và bản chất của chúng đã và đang
được áp dụng phổ biến ở cả trong nước và nước ngoài.
3. Quản trò doanh nghiệp nhà nước
Cho đến năm 1995, trọng tâm đổi mới quản trò doanh nghiệp nhà nước chủ
yếu tập trung vào việc nâng cao quyền tự chủ kinh doanh của doanh
nghiệp. Bản chất và nội dung của quá trình này chính là ủy quyền ra quyết
đònh từ các cơ quan hành chính cấp trên sang cho đội ngũ quản lý doanh
nghiệp. Sự thay đổi nói trên kết hợp với sự xuất hiện và phát triển của các
doanh nghiệp tư nhân trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài đã làm cho các doanh nghiệp nhà nước đònh hướng thò trường nhiều
hơn trong hoạt động kinh doanh. Tuy vậy, quá trình đó ngày càng bộc lộ sự
bất cập của nó; và đó chính là vấn đề làm sao duy trì được cân bằng giữa
quyền kiểm soát của Nhà nước trong vai trò chủ sở hữu và quyền tự chủ
kinh doanh của doanh nghiệp. Các cơ quan nhà nước chòu trách nhiệm
“quản lý” các doanh nghiệp nhà nước phải giám sát những người quản lý
15
QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM Quy đònh của pháp luật, hiệu lực thực tế và vấn đề
ngăn chặn những lỗ hổng hoặc lạm dụng chiếm đoạt tài sản của Nhà nước.
Tuy vậy, nếu can thiệp và kiểm soát quá mức sẽ hạn chế tính năng động
sáng tạo của đội ngũ quản lý, làm mất cơ hội và giảm hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp. Ngoài ra, một vấn đề khác cũng thường gặp là khó có thể
phân biệt được một cách rạch ròi giữa những can thiệp đúng thẩm quyền của
cơ quan nhà nước với tư cách là chủ sở hữu và những can thiệp hành chính
của họ với vai trò là cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Vào giữa những
năm 90 của thế kỷ 20, sau hơn 10 năm cải cách nâng cao quyền tự chủ kinh

doanh của doanh nghiệp, thì nhu cầu tăng cường quyền quản lý nhà nước
để thiết lập lại sự cân bằng nói trên đã trở nên cần thiết. Bối cảnh nói trên
có lẽ là cơ sở cho việc hình thành Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995;
và một trong những mục tiêu chủ yếu của Luật Doanh nghiệp nhà nước năm
1995 là “tăng cường quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp”
6
.
Luật Doanh nghiệp nhà nước 1995 là bước khởi đầu hình thành khung quản
trò các doanh nghiệp có vốn nhà nước. Cụ thể là, về mô hình tổ chức quản lý,
Luật doanh nghiệp nhà nước 1995 đã phân biệt Tổng công ty nhà nước và
Doanh nghiệp nhà nước độc lập có quy mô lớn và doanh nghiệp khác. Đối với
Tổng công ty và Doanh nghiệp nhà nước độc lập có quy mô lớn, thì mô hình
quản lý bao gồm HĐQT, Ban kiểm soát và tổng giám đốc hoặc giám đốc và
bộ máy giúp việc. Đối với các doanh nghiệp khác, thì có Giám đốc và bộ máy
giúp việc. Luật doanh nghiệp nhà nước 1995 cũng đã quy đònh Chính phủ là
đại diện chủ sở hữu nhà nước. Những quyền của chủ sở hữu cũng đã được
quy đònh
7
. Chính phủ không trực tiếp thực hiện các quyền chủ sở hữu đó, mà
phân cấp hoặc ủy quyền cho các bộ thực hiện quyền chủ sở hữu đối với
doanh nghiệp thuộc quyền quản lý của họ. Như vậy, trên thực tế có đến hàng
chục bộ, cơ quan ngang bộ và Ủy ban nhân dân tất cả các tỉnh, thành phố,
trung ương đều tham gia thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước tại các doanh
nghiệp. Tuy vậy, trên thực tế sau 7 năm thực hiện, đến năm 2003, các quy
đònh về quyền chủ sở hữu Nhà nước vẫn không được hướng dẫn cụ thể để
thực hiện. Vì vậy, có thể nói, hiệu quả và hiệu lực thực tế của các quy đònh
nói trên về quyền chủ sở hữu nhà nước là rất hạn chế.
16
6
. Mục đích của Luật doanh nghiệp nhà nước năm 1995 đã xác đònh rõ trong lời nói đầu của Luật là “phát huy vai

trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thò trường có sự
quản lý của Nhà nước theo đònh hướng xã hội chủ nghóa; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp
nhà nước; tăng cường quản lý nhà nước đối với doanh nghiêp; thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước có hiệu quả và
thực hiện đúng các mục tiêu do Nhà nước giao cho doanh nghiệp”.
7
. Khoản 1 Điều 27 Luật Doanh nghiệp nhà nước (1995).
QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM Quy đònh của pháp luật, hiệu lực thực tế và vấn đề
Theo Luật Doanh nghiệp nhà nước 1995, Hội đồng quản trò được thiết lập
tại các tổng công ty và công ty nhà nước độc lập có quy mô lớn. Hàng loạt
các nội dung phổ biến thường thấy liên quan đến HĐQT, như đòa vò pháp lý,
nhiệm vụ và quyền hạn, cơ cấu, quy mô và nhiệm kỳ, chế độ làm việc, tiêu
chuẩn, thù lao và lợi ích khác,v. v... của thành viện HĐQT đã được quy đònh.
Về đòa vò pháp lý, HĐQT được quy đònh là cơ quan quản lý doanh nghiệp
(Điều 29, LDNNN 1995). Tuy vậy, xét về chức năng, nhiệm vụ thì HĐQT là
cơ quan tham mưu cho chủ sở hữu về chiến lược và kế hoạch phát triển dài
hạn của doanh nghiệp; đồng thời, phê chuẩn những đề nghò, kiến nghò của
Tổng giám đốc trong các vấn đề như phương án sử dụng và bảo toàn vốn,
quyết toàn tài chính hàng năm, phương án vay vốn, tổ chức, bộ máy của
doanh nghiệp; chỉ kiểm tra, giám sát Tổng giám đốc trong việc sử dụng, bảo
toàn và phát triển vốn nhà nước, chứ không phải trong toàn bộ hoạt động
quản lý, điều hành kinh doanh ở doanh nghiệp.
Tổng giám đốc do Thủ tướng hoặc Bộ trưởng, chủ tòch Ủy ban Nhân dân
tỉnh, thành phố bổ nhiệm; là người đại diện theo pháp luật của công ty.
Tổng giám đốc vừa chòu trách nhiệm với người bổ nhiệm, vừa chòu trách
nhiệm trước HĐQT trong quản lý điều hành công ty. Tổng giám đốc có
quyền và trách nhiệm khá nặng nề. Trong số quyền hạn của tổng giám đốc,
có các quyền như: cùng với Chủ tòch HĐQT ký nhận vốn, bảo toàn và phát
triển vốn được giao, xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển dài hạn, hàng
năm, xây dựng dự án đầu tư, đề án tổ chức quản lý, đònh mức kinh tế kỹ
thuật, đề nghò bổ nhiệm Phó tổng giám đốc, Giám đốc đơn vò thành viên; bổ

nhiệm những cán bộ quản lý khác, v.v... Như vậy, thực tế tổng giám đốc là
người “trung tâm” đầy quyền lực trong quản lý doanh nghiệp, là người xây
dựng và thực thi chiến lược, về cơ bản kiểm soát tài chính và nhân sự ở
doanh nghiệp.
Ban kiểm soát do Hội đồng quản trò bổ nhiệm; thay mặt Hội đồng quản trò giám
sát Tổng giám đốc trong quản lý điều hành kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài các nội dung nói trên, các yếu tố khác hợp thành khung quản trò công
ty vẫn chưa được Luật Doanh nghiệp nhà nước 1995 quy đònh.
Xét về quyền chủ sở hữu, thì Luật Doanh nghiệp nhà nước 1995 vẫn còn
chưa xác đònh được vai trò, đòa vò pháp lý của chủ sở hữu nhà nước, các
17
QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM Quy đònh của pháp luật, hiệu lực thực tế và vấn đề
quyền cụ thể và các công cụ mà chủ sở hữu có thể sử dụng để giám sát
và đánh giá hiệu quả công việc của những người quản lý. Thực trạng phân
tán, chia cắt và kém hiệu lực trong việc thực hiện quyền chủ sở hữu đã
không được đề cập một cách hợp lý.
Hội đồng quản trò trong khung quản trò doanh nghiệp nhà nước chưa được
đặt đúng vò trí và vai trò của nó theo thông lệ chung đã được thừa nhận.
Hoạt động của HĐQT là rất thụ động. Xét về chức năng, nhiệm vụ và lề lối
làm việc, thì Hội đồng quản trò đóng vai trò như một cơ “trung gian” chuyển
tải thông tin giữa người đại diện chủ sở hữu và Giám đốc (Tổng giám đốc),
hơn là một cơ quan hoạch đònh chiến lược, đònh hướng phát triển doanh
nghiệp, giám sát và đảm bảo các nguồn lực cho doanh nghiệp phát triển.
Các hoạt động của hội đồng quản trò là rất hình thức; có thể coi là người
“đóng dấu” cho Giám đốc, Tổng giám đốc trong trường hợp cần thiết. Còn
Giám đốc, Tổng giám đốc về cơ bản nắm trọn cả công việc quản lý và điều
hành kinh doanh ở doanh nghiệp; là người hoạch đònh chiến lược, kế hoạch
kinh doanh dài hạn và hàng năm, bổ nhiệm và kiến nghò bổ nhiệm các cán
bộ quản lý chủ chốt, kiến nghò hoặc quyết đònh hầu hết các vấn đề liên
quan đến tổ chức của công ty. Khác với vai trò của HĐQT, giám đốc, Tổng

giám đốc có vai trò rất “chủ động”, có phần lấn lướt so với HĐQT. Chế độ
khuyến khích đối với cả HĐQT và Giám đốc chưa hợp lý; họ vẫn được coi
như những công chức hành chính nhà nước, hưởng các thang bậc lợi ích và
giá trò xã hội như những công chức nhà nước với ngạch bậc tương đương.
Khung quản trò doanh nghiệp nhà nước được hình thành và phát triển qua
Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003 không có thay đổi cơ bản so với ”người
tiền nhiệm” của nó. Xét về khung quản trò nói chung, Luật Doanh nghiệp
nhà nước có quy đònh bổ sung thêm một số yếu tố. Quyền của chủ sở hữu
đã được quy đònh cụ thể và đầy đủ hơn. Khác với trước đây, các quyền của
chủ sở hữu đã được “phân công”, “phân cấp” thực hiện một cách phân tán
giữa Chính phủ, các bộ và uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Tuy vậy, không có cơ
chế và thể chế phối hợp giữa các quan nói trên trong thực hiện quyền chủ
sở hữu nhà nước. Vì vậy, có thể nói, giám sát của chủ sở hữu đối với người
quản lý trở nên rất lỏng lẻo, không có hệ thống, không thường xuyên và
18
QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM Quy đònh của pháp luật, hiệu lực thực tế và vấn đề
kém hiệu quả. Hàng loạt các vụ bê bối, tham nhũng lớn phát hiện trong thời
kỳ này là biểu hiện thực tế của thực trạng nói trên
8
.
Tóm lại, quá trình hình thành và phát triển khung quản trò công ty ở các
thành phần kinh tế khác nhau là không giống nhau. Về mặt pháp lý, có thể
nói, khung quản trò áp dụng đối với các công ty thuộc khu vực kinh tế tư
nhân trong nước đã có bước tiến nhảy vọt. Các nguyên tắc quản trò thông
dụng phổ biến đã được áp dụng. Trái lại, quản trò công ty áp dụng đối với
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hầu như không được chú ý hoàn
thiện. Bước tiến duy nhất đối với quản trò doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài có lẽ là từng bước giảm đến mức tối thiểu các vấn đề phải thông qua
theo nguyên tắc nhất trí tại Hội đồng quản trò. Trong khi đó, quản trò công ty
nhà nước luôn được chú ý và nỗ lực cải cách. Tuy vậy, các nỗ lực cải cách

chưa đạt được kết quả như mong muốn. Mâu thuẫn của cân bằng quyền
kiểm soát của chủ sở hữu và quyền tự chủ kinh doanh của đội ngũ quản lý
vẫn chưa có lời giải. Sau gần 2 chục năm cải cách, vẫn chưa tìm được giải
pháp và chưa hình thành được hệ thống thể chế thực thi đầy đủ, có hiệu
quả và hiệu lực quyền chủ sở hữu nhà nước; các nguyên tắc công bằng,
công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình vẫn còn khá xa lạ đối với
công tác quản trò các công ty nhà nước.
Và cuối cùng, Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 sẽ là một bước tiến lớn,
tạo ra một thay đổi căn bản trong quá trình hoàn thiện khung quản trò doanh
nghiệp ở nước ta. Trước hết, lần đầu tiên trong gần 20 chục năm cải cách,
pháp luật về doanh nghiệp đã được thống nhất không phân biệt tính chất
sở hữu và thành phần kinh tế. Luật Doanh nghiệp cũng đã quy đònh khá đầy
đủ và cụ thể các nội dung hay yếu tố cấu thành của khung quản trò công
ty, nhất là đối với công ty cổ phần. Và những nội dung đó của khung quản
trò công ty đã tuân thủ và về cơ bản phù hợp với các nguyên tắc và thông
lệ thông dụng phổ biến. Do đó, khung quản trò hình thành theo quy đònh của
Luật Doanh nghiệp có thể là “khuôn mẫu” mà quản trò thực tế, cụ thể của
từng công ty phải hướng tới. Và trong hai phần tiếp theo, khung quản trò theo
quy đònh của pháp luật và sự vận hành và hiệu lực thực tế của nó sẽ được
trình bày một cách cụ thể và đầy đủ.
19
8.
Vụ án như “Lã Thò Kim Oanh”, “Nguyễn Lâm Thái”, “PMU18”, “Điện kế điện tử Thành phố HCM” và rất nhiều
vụ khác.
20
Quản trò công ty cổ phần:
Những quy đònh pháp luật có liên quan
Phần 2
21
Như trình bày tại phần Mở đầu của báo cáo này, sau gần 20 năm đổi mới và

liên tục được hoàn thiện, khung quản trò công ty cổ phần theo quy đònh của pháp
luật ở nước ta đã được thống nhất, và về nguyên tắc, tương thích với những
chuẩn mực quản trò phổ biến được thừa nhận
9
. Cũng như ở các nước khác,
những yếu tố cấu thành quản trò công ty cổ phần ở nước ta được quy đònh cụ
thể tại các quy đònh có liên quan của Luật Doanh nghiệp (Luật Doanh nghiệp
số 60/2005/QH11) và Luật chứng khoán (Luật chứng khoán số 70/2006/QH11).
1. Cổ đông và Đại hội đồng cổ đông.
Cổ đông ở nước ta được đối xử công bằng và bình đẳng theo quy đònh của
pháp luật
10
. Nguyên tắc “ một cổ phần cùng loại tạo cho người sở hữu nó các
quyền ngang bằng nhau” đã thể hiện khá rõ nét trong các quy đònh có liên
quan về quyền của cổ đông. Quyền của cổ đông được quy đònh chủ yếu tại
Luật Doanh nghiệp. Có thể nói, quyền của cổ đông ở nước ta cũng được quy
đònh tương tự như ở các quốc gia và vùng lãnh thổ khác. Tất cả các cổ đông
phổ thông theo quy đònh của Luật doanh nghiệp đều có các quyền sau đây:

Được ưu tiên mua cổ phần mới được chào bán tương ứng với tỷ lệ số cổ
phần hiện có tại công ty; có quyền chuyển nhượng quyền ưu tiên mua cổ
phần cho người khác;
9.
Năm 2005, Ngân hàng thế giới đã thực hiện báo cáo đánh giá so sánh các quy đònh pháp lý về quản trò doanh
nghiệp Việt Nam với những thực tiễn tốt về quản trò công ty theo chuẩn mực của OECD.
10. Cổ đông ở nước ta được hiểu là cá nhân hoặc tổ chức sở hữu ít nhất 1 cổ phần của công ty cổ phần. Cổ đông
được chia thành 2 loại, cổ đông phổ thông và cổ đông ưu đãi. Cổ đông sáng lập thuộc nhóm cổ đông phổ
thông; đó là những cổ đông phổ thông đã tham gia xây dựng, thông qua và ký vào bản điều lệ đầu tiên của
công ty cổ phần.
QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM Quy đònh của pháp luật, hiệu lực thực tế và vấn đề

22

Tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp
là cổ phần của cổ đông sáng lập
11
.

Được nhận cổ tức với mức theo quyết đònh của Đại hội đồng cổ đông.

Xem xét, tra cứu và trích lục, sao chụp các thông tin trong Sổ đăng ký cổ
đông, danh sách cổ đông có quyền biểu quyết và yêu cầu sửa đổi các
thông tin không chính xác;

Xem xét, tra cứu, trích lục và sao chụp Điều lệ công ty, Sổ biên bản họp
ĐHĐCĐ và các nghò quyết của ĐHĐCĐ;

Được thông báo về tất cả các quyết đònh đã được Đại hội đồng cổ đông
thông qua, ngay cả khi cổ đông đó không trực tiếp dự họp; được thông báo
về tình hình tài chính hàng năm của công ty dưới hình thức báo cáo của
nội dung báo cáo tài chính hàng năm của công ty;

Yêu cầu Toà án xem xét, huỷ bỏ quyết đònh của Đại hội đồng cổ đông
trong trường hợp (i) trình tự, thủ tục triệu tập họp đại hội đồng cổ đông
không thực hiện đúng theo quy đònh của Luật doanh nghiệp và Điều lệ
công ty; hoặc (ii) trình tự, thủ tục ra quyết đònh và nội dung của quyết đònh
vi phạm pháp luật hoặc Điều lệ công ty.
Khi công ty giải thể, cổ đông được quyền nhận một phần giá trò còn lại của
công ty tương ứng với số cổ phần góp vốn vào công ty.
Tất các các cổ đông có quyền biểu quyết đều có quyền tham dự, phát biểu,
chất vấn và biểu quyết về các vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ

đông theo nguyên tắc “một cổ phần một phiếu bầu”; bao gồm (i) chiến lược và
đònh hướng phát triển của công ty, (ii) số lượng cổ phần và cơ cấu vốn cổ phần
của công ty, (iii) bổ nhiệm và miễn nhiệm nhân sự của cơ quan quản lý công
ty (HĐQT) và cơ quan kiểm soát nội bộ của công ty (Ban kiểm soát) theo
phương thức dồn phiếu bầu, tiền lương, thù lao và các lợi ích khác đối với họ,
(iv) quyết đònh các giao dòch có quy mô lớn đến mức ảnh hưởng đến cơ cấu
vốn và tài sản, qua đó, có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện chiến lược, kế
hoạch kinh doanh, loại và quy mô hoạt động kinh doanh hiện hành của công
ty; (v) thông qua báo cáo tài chính hàng năm và mức cổ tức, (vi) tổ chức lại và
giải thể công ty,v.v.. Nói tóm lại, cổ đông có quyền tham gia thảo luận và quyết
11. Cổ phần của cổ đông sáng lập bò hạn chế chuyển nhượng trong ba năm đầu; cụ thể là, trong ba năm đầu, kể từ khi
đăng ký kinh doanh, cổ đông sáng lập chỉ được tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho cổ đông sáng lập khác;
còn nếu chuyển nhượng cho người khác, thì phải được sự chấp thuận của đại hội đồng cổ đông.
QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM Quy đònh của pháp luật, hiệu lực thực tế và vấn đề
23
đònh tất cả các nội dung quan trọng trong phát triển và tổ chức hoạt động kinh
doanh của công ty từ đònh hướng chiến lược, vốn và tài sản, nhân sự, kết quả
kinh doanh và sử dụng lợi nhuận, cho đến việc thay đổi hoặc giải thể công ty.
Ngoài ra, các quy đònh về trình tự, thủ tục triệu tập họp ĐHĐCĐ (các Điều 97,
98, 99, 100 và 101 Luật Doanh nghiệp) về cơ bản đảm bảo để cổ đông được
đối xử công bằng và bình đẳng trong việc tiếp cận đến các thông tin liên quan
đến cuộc họp cũng như sự chuẩn bò cần thiết của từng cổ đông phục vụ cho
cuộc họp. Các quy đònh đó về nguyên tắc tạo điều kiện cho tất cả các cổ đông
có thông tin như nhau và có chuẩn bò tối đa cần thiết trước khi tham dự họp để
thông qua các quyết đònh quan trọng thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ.
Cổ đông biểu quyết phản đối quyết đònh của Đại hội đồng cổ đông về việc tổ
chức lại, hoặc thay đổi quyền và nghóa vụ của cổ đông đã được quy đònh tại
Điều lệ công ty có quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần của mình theo giá
thò trường hoặc giá được tính theo nguyên tắc do Điều lệ công ty quy đònh hoặc
giá do tổ chức đònh giá chuyên nghiệp xác đònh.

Cổ đông sở hữu cổ phần của công ty liên tục trong thời hạn ít nhất 1 năm có
quyền yêu cầu HĐQT đình chỉ thực hiện quyết đònh của mình, nếu quyết đònh
đó đã được thông qua trái với quy đònh của pháp luật, hoặc Điều lệ công ty gây
thiệt hại cho lợi ích của công ty và cổ đông.
Ngoài những quyền mà tất cả các cổ đông đều có như trình bày trên đây, thì
cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 10% tổng số cổ phần phổ thông
hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn theo quy đònh tại Điều lệ công ty có thêm một số
quyền sau đây:

Đề cử người vào HĐQT và Ban kiểm soát;

Xem xét, trích lục sổ biên bản và các nghò quyết, quyết đònh của HĐQT,
báo cáo tài chính giữa năm, hàng năm và các báo cáo của Ban kiểm soát;

Kiến nghò vấn đề đưa vào chương trình họp ĐHĐCĐ;

Yêu cầu HĐQT hoặc Ban kiểm soát triệu tập họp ĐHĐCĐ trong các trường
hợp: (i) HĐQT vi phạm nghiêm trọng quyền của cổ đông, nghóa vụ của người
quản lý, hoặc ra quyết đònh vượt quá thẩm quyền; và (ii) nhiệm kỳ của HĐQT
đã vượt quá 6 tháng mà HĐQT mới chưa được bầu để thay thế;
QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM Quy đònh của pháp luật, hiệu lực thực tế và vấn đề
24

Triệu tập họp ĐHĐCĐ trong trường hợp HĐQT và Ban kiểm soát không
thực hiện triệu tập họp theo yêu cầu như trình bày trên đây;

Yêu cầu Ban kiểm soát kiểm tra từng vấn đề cụ thể liên quan đến quản
lý, điều hành hoạt động kinh doanh của công ty, khi xét thấy cần thiết;

Yêu cầu Cơ quan đăng ký kinh doanh giám sát trình tự, thủ tục, cách thức

tiến hành họp và thông qua quyết đònh của ĐHĐCĐ, nếu xét thấy cần thiết.
ĐHĐCĐ họp đònh kỳ hàng năm và có thể họp bất thường bất cứ khi nào,
HĐQT, Ban kiểm soát và các cổ đông xét thấy cần thiết. Điều kiện về hiệu lực
họp ĐHĐCĐ phụ thuộc vào số lần triệu tập họp đối với cuộc họp đó. Đối với
triệu tập họp lần thứ nhất, thì cuộc họp đó đủ điều kiện tiến hành khi có số cổ
đông tham dự đại diện cho ít nhất 65% số phiếu biểu quyết; đối với triệu tập
lần thứ hai, thì cuộc họp đó có đủ điều kiện về hiệu lực pháp lý khi có số cổ
đông đại diện cho ít nhất 51% tổng số phiếu biểu quyết của công ty; và đối với
triệu tập họp lần thứ ba, thì cuộc họp đó luôn có hiệu lực pháp lý, bất kể số cổ
đông tham dự và số cổ phần hay số phiếu biểu quyết mà họ đại diện. Quy đònh
nói trên về điều kiện tiến hành họp ĐHĐCĐ bảo đảm “hiện thực hoá” được
quyền yêu cầu triệu tập họp hoặc triệu tập họp ĐHĐCĐ của cổ đông thiểu số
trong trường hợp cần thiết. Cơ chế đó, nếu được sử dụng hợp lý, sẽ buộc cổ
đông đa số phải tính đến quyền, lợi ích và mối quan tâm của cổ đông thiểu số,
giúp cổ đông thiểu số có cơ hội ảnh hưởng đến các quyết đònh của công ty;
qua đó, cân bằng được mối quan hệ lợi ích với cổ đông đa số, bảo vệ hợp lý
các quyền và lợi ích của cổ đông thiểu số.
Quyết đònh của đại hội đồng cổ đông được chia thành hai loại. Đối với các vấn
đề thông thường, (ngoài các vấn đề quan trọng), thì quyết đònh được thông
qua, nếu được sự chấp thuận của số cổ đông đại diện ít nhất 65% tổng số
phiếu biểu quyết tham dự họp; nếu Điều lệ công ty không quy đònh một tỷ lệ
khác cao hơn. Đối với các vấn đề quan trọng, thì quyết đònh của ĐHĐCĐ được
thông qua, khi có được sự đồng ý của số cổ đông đại diện cho ít nhất 75% tổng
số phiếu biểu quyết dự họp; trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy đònh khác
(điểm b, khoản 3 Điều 104, Luật Doanh nghiệp). Như vậy, trong trường hợp
này Điều lệ công ty có thể quy đònh một tỷ lệ cụ thể cao hơn hoặc thấp hơn
75%, nhưng không được thấp hơn 65% hoặc tỷ lệ khác cao hơn 65% do Điều
lệ quy đònh, là tỷ lệ cần thiết để thông qua các quyết đònh thông thường.

×