Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng sử dụng tài sản địa phương của công ty đa quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (624.92 KB, 72 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH

BÙI VIỆT HƯNG

CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
KHẢ NĂNG SỬ DỤNG TÀI SẢN
ĐỊA PHƯƠNG CỦA CÔNG TY ĐA QUỐC GIA

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành Quản trị kinh doanh
Mã số ngành: 52340101

Tháng 11 – Năm 2014


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH

BÙI VIỆT HƯNG
MSSV: 4114527

CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
KHẢ NĂNG SỬ DỤNG TÀI SẢN
ĐỊA PHƯƠNG CỦA CÔNG TY ĐA QUỐC GIA

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành Quản trị kinh doanh
Mã số ngành: 52340101

CÁN BỘ HƯỚNG DẪN


TS. VÕ VĂN DỨT

Tháng 11 – Năm 2014


LỜI CẢM TẠ
Trên thực tế, không có thành công nào mà không gắn liền với những sự
hỗ trợ, giúp đỡ dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của người khác.
Trong suốt thời gian từ khi bắt đầu học tập ở giảng đường đại học đến nay, tôi
đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của quý Thầy, Cô, gia đình và
bạn bè. Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến tất cả mọi người.
Luận văn này sẽ không thể hoàn thành nếu không có sự hướng dẫn của
TS. Võ Văn Dứt. Tôi xin gửi lời cảm ơn đặc biệt nhất của tôi đến Thầy. Trong
suốt thời gian thực hiện luận văn, Thầy đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và cho
tôi những lời khuyên rất bổ ích. Bên cạnh đó, Thầy còn cung cấp cho tôi rất
nhiều nguồn tài liệu phong phú từ những bài nghiên cứu trong lĩnh vực kinh
doanh quốc tế của những tạp chí hàng đầu thế giới. Làm việc chung với Thầy
không chỉ giúp tôi nắm vững được kiến thức chuyên môn mà còn giúp tôi học
được rất nhiều điều hay, và ngày càng hoàn thiện bản thân. Một lần nữa tôi xin
bày tỏ lòng biết ơn đối với Thầy và kính chúc Thầy luôn khỏe và thành công
trong công việc.
Tôi xin chân thành cảm ơn đến quý Thầy, Cô của trường Đại học Cần
Thơ. Thầy, Cô đã tận tình giảng dạy và chia sẻ những kinh nghiệm quý báu
giúp tôi có được những kiến thức để hoàn thành khóa học và bài luận văn tốt
nghiệp này.
Xin gửi lời cảm ơn đến bạn bè, những người đã cùng đồng hành với tôi
suốt thời gian sinh viên và trong suốt thời gian tôi thực hiện đề tài này. Đặc
biệt, tôi xin cảm ơn Thường, Duy. Các bạn đã có những giúp đỡ, những gợi ý
và lời khuyên rất hữu ích trong bài nghiên cứu của tôi.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Cha, Mẹ và anh Phú

(anh hai) những người đã luôn quan tâm, động viên, chăm sóc và tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho tôi học tập.
Cần Thơ, ngày 25 tháng 11 năm 2014

Bùi Việt Hưng

i


TRANG CAM KẾT
Tôi xin cam kết luận văn này được hoàn thành dựa trên các kết quả
nghiên cứu của tôi và các kết quả nghiên cứu này chưa được dùng cho bất cứ
luận văn cùng cấp nào khác.
Cần Thơ, ngày 25 tháng 11 năm 2014

Bùi Việt Hưng

ii


MỤC LỤC
Trang
CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU ............................................................................. 1
1.1 ĐẶT VẤN ĐỀ ......................................................................................... 1
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU..................................................................... 2
1.2.1 Mục tiêu chung...................................................................................... 2
1.2.2 Mục tiêu cụ thể ...................................................................................... 2
1.3 CÂU HỎI NGHIÊN CỨU ....................................................................... 2
1.4 PHẠM VI NGHIÊN CỨU ....................................................................... 2
1.4.1 Phạm vi về thời gian .............................................................................. 2

1.4.2 Phạm vi về không gian .......................................................................... 3
1.4.3 Đối tượng nghiên cứu ............................................................................ 3
1.4.4 Phạm vi về nội dung .............................................................................. 3
CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......... 4
2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN.................................................................................... 4
2.1.1 Cơ sở lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài.......................................... 4
2.1.2 Các khái niệm và đặc điểm liên quan đến công ty đa quốc gia ............... 6
2.2 LÝ THUYẾT, GIẢ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU...............14
2.2.1 Lý thuyết và giả thuyết .........................................................................14
2.2.2 Mô hình nghiên cứu..............................................................................18
2.3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...........................................................18
2.3.1 Phương pháp thu thập số liệu................................................................18
2.3.2 Phương pháp phân tích số liệu ..............................................................20
2.3.3 Sơ lược các phương pháp nghiên cứu...................................................27
CHƯƠNG 3 TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA CÔNG TY ĐA
QUỐC GIA VÀO VIỆT NAM ......................................................................32
3.1 TÌNH HÌNH VỐN FDI VÀO VIỆT NAM..............................................32
3.1.1 Tình hình vốn FDI vào Việt Nam giai đoạn 1988 - 2013 ......................32
3.1.2 FDI vào Việt Nam trong ba năm 2011-2013 ........................................34

iii


3.1.3 FDI vào Việt Nam trong 8 tháng đầu năm 2014 ...................................37
3.2 TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP SỬ DỤNG LAO ĐỘNG CỦA CÁC
CÔNG TY ĐA QUỐC GIA ..........................................................................40
3.2.1 Tình hình chung ...................................................................................40
3.3.2 Thực trạng sử dụng lao động của công ty đa quốc gia ..........................42
CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ..................................................44
4.1 MÔ TẢ THỐNG KÊ VÀ MA TRẬN TƯƠNG QUAN ..........................44

4.2 KẾT QUẢ MÔ HÌNH HỒI QUY VÀ THẢO LUẬN KẾT QUẢ ...........48
CHƯƠNG 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ...................................................53
5.1 KẾT LUẬN.............................................................................................53
5.2 KIẾN NGHỊ ............................................................................................53
5.2.1 Về phía Việt Nam .................................................................................53
5.2.2 Về phía công ty đa quốc gia ..................................................................54
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................55
PHỤ LỤC .....................................................................................................58

iv


DANH SÁCH BẢNG
Trang
Bảng 2.1 Phân bố công ty con trong mẫu điều tra......................................... 20
Bảng 2.2 Diễn giải các biến độc lập trong mô hình hồi quy tuyến tính.......... 26
Bảng 3.1 FDI tại Việt Nam từ 1988 - 2013................................................... 33
Bảng 3.2 Vốn FDI theo lĩnh vực đầu tư 8 tháng đầu năm 2013 và 2014 ....... 37
Bảng 3.3 Vốn FDI theo đối tác đầu tư 8 tháng đầu năm 2013 và 2014.......... 38
Bảng 3.4 Số doanh nghiệp FDI và vốn đầu tư 2011 - 2013 ........................... 40
Bảng 3.5 Số lao động sử dụng trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
2011 - 2013 .................................................................................................. 42
Bảng 4.1 Kết quả thống kê mô tả của các biến trong mô hình ...................... 44
Bảng 4.2 Thống kê mô tả và ma trận tương quan giữa các biến trong mô hình
(n=258) ........................................................................................................ 46
Bảng 4.3 Kết quả ước lượng hồi quy tuyến tính (OLS) các yếu tố ảnh hưởng
đến khả năng sử dụng tài sản địa phương của công ty đa quốc gia................ 47

v



DANH SÁCH HÌNH
Trang
Hình 2.1 Mô hình nghiên cứu....................................................................... 18
Hình 2.2 Kết quả tải nhân tố từ 5 yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sử dụng tài
sản địa phương ............................................................................................. 22
Hình 3.1 Số lượng dự án, vốn đăng ký và vốn thực hiện tại Việt Nam
(2011- 2013)................................................................................................. 34
Hình 3.2 Vốn FDI theo địa bàn đầu tư 8 tháng đầu năm 2013 và 2014 ......... 39
Hình 3.3 Số doanh nghiệp FDI và vốn đầu tư (2011 - 2013)......................... 41

vi


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
FDI:

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

IMF:

Quỹ tiền tệ thế giới

OECD:

Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

UNCTAD:

Hội nghị Liên Hợp Quốc về thương mại và phát triển


vii


CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU
1.1 ĐẶT VẤN ĐỀ
Cùng với sự lớn mạnh của toàn cầu hóa, các công ty kinh doanh có xu hướng
mở rộng thị trường của mình sang thị trường nước ngoài để đạt những mục
tiêu cao hơn về doanh thu, lợi nhuận, và thị phần trên thị trường thế giới. Tuy
nhiên, công ty đa quốc gia gặp nhiều khó khăn khi kết hợp những lợi thế đặc
biệt (Firm specific advantages) của công ty với tài sản ở nước tiếp nhận đầu
tư1. Đầu tiên, sự khác nhau về văn hóa giữa các quốc gia ảnh hưởng rất lớn
đến việc đầu tư và sử dụng những tài sản địa phương ở nước tiếp nhận đầu tư.
Sự khác biệt về văn hóa làm giảm khả năng hợp tác với đối tác ở nước tiếp
nhận đầu tư, tăng chi phí nghiên cứu về văn hóa của người lao động, các quy
tắc, các quy định trong văn hóa và phải tổ chức lại bộ máy hoạt động phù hợp
với đặc điểm của quốc gia đó. Bên cạnh đó, một nhân tố quan trọng ảnh hưởng
đến khả năng sử dụng tài sản địa phương là môi trường thể chế, chính sách
pháp luật riêng biệt của từng quốc gia. Cuối cùng, nhân tố kinh nghiệm quốc
tế của công ty mẹ cũng được xem xét như một yếu tố tác động đến hoạt của
công ty con tại nước tiếp nhận đầu tư. Mục tiêu của nghiên cứu này là để làm
rõ và có cách nhìn tổng quan hơn về các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng sử
dụng tài sản địa phương khi các công ty đa quốc gia đầu tư vào thị trường Việt
Nam càng gia tăng.
Việt Nam là một thị trường tiềm năng không nằm ngoài tầm ngắm của
những công ty đa quốc gia phát triển trên thế giới, mới đây hãng tư vấn
Frontier Strategy Group (FSG) đã công bố Chỉ số Frontier Markets Sentiment
Index trên Wall Street Journal. Chỉ số này cho thấy mức độ quan tâm của các
công ty đa quốc gia lớn tại Mỹ và châu Âu với 70 thị trường sơ khai trên thế

giới. Theo đó, ba nước dẫn đầu là Nigeria, Argentina và Việt Nam. Do đó,
Việt Nam đang tạo ra cho mình một sức hút rất mạnh đối với các công ty đa
quốc gia. Để hoạt động hiệu quả ở thị trường nước ngoài nói chung và thị
trường Việt Nam nói riêng thì các công ty đa quốc gia cần phải sử dụng và
phát huy những những lợi thế đặc biệt của mình để tạo ra lợi thế trong hoạt
động kinh doanh. Ngoài ra, khi mở rộng hoạt động ra thị trường nước ngoài
thì các công ty đa quốc gia cần phải kết hợp những lợi thế đặc biệt đó với
1

Những lợi thế cạnh tranh đặc biệt mà các công ty đa quốc gia sở hữu bao gồm: Nguồn lực vật chất
(Physical resource), nguồn lực tài chính (Financial resource), nguồn lực con người (Human resource),
kiến thức liên quan đến đầu vào (Upstream knowledge), kiến thức liên quan đến đầu ra (Downstrem
knowledge), uy tín của công ty (Reputational resource), cách thức tổ chức (Administratrive
knowledge).

1


những tài sản ở địa phương nơi mà họ muốn đầu tư. Việc có thể thâm nhập và
sử dụng những tài sản địa phương ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau và
tác động rất lớn đến kết quả hoạt động của công ty đa quốc gia.
Là một nước có nhiều đặc điểm nổi bật trong khu vực Đông Nam Á với
tài nguyên thiên nhiên phong phú, lực lượng lao động dồi dào, nền chính trị ổn
định,… Việt Nam là điểm đến hấp dẫn cho các công ty đa quốc gia. Tuy nhiên
làm thế nào để công ty đa quốc gia có thể tiếp cận những tài sản đó? Các nhân
tố nào ảnh hưởng đến việc sử dụng tài sản địa phương? Trước tiên các công ty
đa quốc gia phải trả lời được những câu hỏi trên để đưa ra quyết định xem
công ty đa quốc gia có đầu tư vào Việt Nam hay không? Do đó “các nhân tố
ảnh hưởng đến khả năng sử dụng tài sản địa phương của công ty đa quốc
gia” là nội dung chính của đề tài này.

1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1 Mục tiêu chung
Mục tiêu của nghiên cứu là làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng
sử dụng tài sản địa phương của công ty đa quốc gia khi đầu tư tại Việt Nam.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
Mục tiêu 1: Đánh giá thực trạng hoạt động thu hút nguồn vốn FDI và sử
dụng lao động (tài sản địa phương) ở Việt Nam.
Mục tiêu 2: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sử dụng tài sản
địa phương của các công ty đa quốc gia đang hoạt động tại Việt Nam.
Mục tiêu 3: Đề ra một số kiến nghị nhằm giúp các công ty đa quốc gia
tăng khả năng sử dụng tài sản địa phương ở Việt Nam.
1.3 CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
Các yếu tố nào ảnh hưởng đến khả năng sử dụng tài sản địa phương của
công ty con thuộc công ty đa quốc gia hoạt động tại Việt Nam?
1.4 PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.4.1 Phạm vi về thời gian
Đề tài nghiên cứu sử dụng số liệu của Tổng cục thống kê điều tra doanh
nghiệp từ tháng 6 năm 2009 đến tháng 1 năm 2010. Ngoài ra, nghiên cứu này
còn sử dụng số liệu thứ cấp về đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI được thống kê
bởi Tổng cục thống kê từ năm 1988 đến tháng 8 năm 2014.
Thời gian thực hiện đề tài: Từ tháng 08/2014 đến tháng 11/2014.

2


1.4.2 Phạm vi về không gian
Đề tài này nghiên cứu trong phạm vi không gian là các công ty đa quốc
gia có công ty con hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.
1.4.3 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các công ty đa quốc gia có công ty con đang

hoạt động tại Việt Nam.
1.4.4 Phạm vi về nội dung
Nghiên cứu này phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sử dụng tài
sản địa phương của công ty đa quốc gia.

3


CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1.1 Cơ sở lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.1.1.1 Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam (Ban hành năm 1987, điều chỉnh
năm 1990, 1992 và 2000) đã định nghĩa như sau: “Đầu tư nước ngoài là việc
các tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền
nước ngoài hoặc bất kì tài sản nào khác được Chính phủ Việt nam chấp nhận
để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên
doanh, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của Luật này”.
Theo quỹ tiền tệ thế giới (IMF) thì: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là
số vốn đầu tư được thực hiện để thu lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp
hoạt động ở nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư. Ngoài mục đích
lợi nhuận, nhà đầu tư còn mong muốn giành được chỗ đứng trong việc quản
lý doanh nghiệp và mở rộng thị trường.
Hội nghị Liên Hợp Quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD) cũng
đưa ra một khái niệm về FDI. Theo đó, luồng vốn FDI được cung cấp (trực
tiếp hoặc thông qua các công ty liên quan khác) bởi nhà đầu tư trực tiếp nước
ngoài cho các doanh nghiệp FDI, hoặc vốn nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp
nhận được từ các doanh nghiệp FDI. Cụ thể, vốn FDI gồm 3 bộ phận: Vốn cổ
phần, thu nhập tái đầu tư, và các khoản vay trong nội bộ công ty. Trong đó:

- Vốn đầu tư cổ phần là cổ phần của nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài mua
từ doanh nghiệp ở nước tiếp nhận đầu tư, không phải cổ phần trong nước tại
nước đi đầu tư.
- Các khoản vay trong công ty là các khoản vay ngắn hạn và dài hạn giữa
công ty mẹ và các công ty thành viên.
- Thu nhập tái đầu tư là cổ tức không được chuyển cho nhà đầu tư nước
ngoài mà được giữ lại nhằm mục đích tái đầu tư.
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm: “một
doanh nghiệp đầu tư trực tiếp là một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoặc
không có tư cách pháp nhân trong đó nhà đầu tư trực tiếp sở hữu ít nhất 10%
cổ phiếu hoặc có quyền biểu quyết. Điểm mấu chốt của đầu tư trực tiếp là chủ
định thực hiện quyền kiểm soát công ty”. Tuy nhiên, không phải tất cả các
quốc gia đều sử dụng mốc 10% làm mốc xác định FDI. Trong thực tế có

4


những trường hợp tỷ lệ sở hữu tài sản trong doanh nghiệp của chủ đầu tư nhỏ
hơn 10% nhưng họ vẫn được quyền điều hành quản lý doanh nghiệp, trong khi
nhiều lúc lớn hơn vấn chỉ là người đầu tư gián tiếp.
Từ những khái niệm trên có thể hiểu khái quát về đầu tư trực tiếp nước
ngoài như sau: “đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia là việc nhà
đầu tư ở một nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào vào nước
tiếp nhận đầu tư để thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
nhằm được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh
tế tại quốc gia đó, với mục tiêu tối đa hóa lợi ích của mình”.
2.1.1.2 Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Ngoài các đặc điểm vốn có của hoạt động đầu tư, đầu tư trực tiếp nước
ngoài còn một số đặc điểm sau:
- Đây là hình thức đầu tư vốn của tư nhân hoặc tổ chức kinh tế nước

ngoài do chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, tự quyết định sản xuất kinh doanh và
tự chịu trách nhiệm theo nguyên tắc “lời ăn, lỗ chịu”. Ngoài sự lưu chuyển của
vốn còn có thêm sự luân chuyển công nghệ giữa nước đi đầu tư và nước tiếp
nhận đầu tư.
- Về vốn góp: Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một lượng vốn
“đủ lớn” để họ có quyền trực tiếp tham gia điều phối và quản lý hoạt động sản
xuất kinh doanh. Mức độ “đủ lớn” còn tùy thuộc vào từng quốc gia.
- Về quyền kiểm soát: Quyền kiểm soát của nhà đầu tư đối với doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp. Nếu nhà đầu tư
nước ngoài đầu tư 100% vốn thì quyền điều hành hoàn toàn thuộc về nhà đầu
tư nước ngoài, có thể trực tiếp hoặc thuê người quản lý. Nếu thành lập liên
doanh thì chủ đầu tư nước ngoài tham gia điều hành tùy theo mức vốn góp của
mình.
- Về tỷ lệ phân chia lợi nhuận: Dựa trên kết quả sản xuất kinh doanh, lợi
nhuận được phân chia dựa trên tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định sau khi đã
trừ đi các khoản phải đóng góp khác. Do vậy, thu nhập đầu tư của nhà đầu tư
nước ngoài thường không ổn định.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài thường mang tính rủi ro cao, thời gian thu
hồi vốn lâu và khó thu hồi vốn hơn đầu tư gián tiếp do phần lớn vốn đầu tư
của nhà đầu tư nằm trực tiếp trong máy móc, nhà xưởng tại nước tiếp nhận
đầu tư.

5


2.1.2 Các khái niệm và đặc điểm liên quan đến công ty đa quốc gia
2.1.2.1 Khái niệm và định nghĩa
Trong các tài liệu về công ty đa quốc gia, nhiều thuật ngữ được sử dụng
như công ty quốc tế (International Enterprise/Firm), công ty đa quốc gia
(Multinational Corporation/Enterprise), công ty xuyên quốc gia (Transnational

corporation) và gần đây thuật ngữ công ty toàn cầu (Global Firm) được sử
dụng khá phổ biến. Vậy, nội dung của từng thuật ngữ là gì và giữa các thuật
ngữ này có gì khác biệt? Và thuật ngữ nào được sử dụng là hợp lý nhất?
Trong những năm 1960, các thuật ngữ công ty quốc tế và công ty đa
quốc gia được sử dụng với ý nghĩa như nhau, nhưng nhìn chung thuật ngữ
công ty quốc tế vẫn quen được sử dụng. Các thuật ngữ này nói lên sự lớn
mạnh của công ty đã vượt khỏi phạm vi quốc gia và có các hoạt động sản xuất,
kinh doanh ở nhiều nước trên thế giới. Đặc điểm cơ bản của công ty quốc tế
hoặc đa quốc gia là quy mô lớn, sở hữu đa quốc tịch và có phạm vi hoạt động
ở nhiều nước.
Mặc dù hai thuật ngữ trên có ý nghĩa như nhau, nhưng xét ở cách tiếp
cận, thuật ngữ thứ nhất xem xét công ty từ giác độ kinh doanh quốc tế, trong
khi thuật ngữ thứ hai đề cập đến cả tính sở hữu đa quốc gia của công ty, vì thế
đã phản ánh đầy đủ hơn đặc điểm của công ty đa quốc gia.
Đầu những năm 1970, thuật ngữ công ty đa quốc gia được sử dụng nhiều
hơn thuật ngữ công ty quốc tế và có ý phân biệt với khái niệm công ty quốc tế.
Trong thời kỳ này, cơ cấu tổ chức và các hoạt động của công ty đa quốc gia
chuyển sang cơ chế phi tập trung, đa doanh hơn trước. Quá trình ra quyết định
các hoạt động của công ty không còn độc quyền từ một chủ sở hữu ở chính
quốc, mà người nước ngoài cũng được tham gia quản lý các chi nhánh của
công ty hoạt động ở nước họ. Hơn nữa, họ còn có quyền điều chỉnh tỷ lệ góp
vốn và quyết định hình thức hợp tác với công ty đa quốc gia nước chủ nhà.
Bởi vậy, cơ cấu tổ chức hoạt động của công ty đa quốc gia không chỉ có tính
quốc tế mà còn mang tính đậm nét quốc gia.
Ngoài những đặc điểm chung như đã nêu, các tiêu chí để xem xét một
công ty là công ty đa quốc gia được quan niệm không thống nhất giữa các học
giả. Chẳng hạn, các học giả Mỹ thường căn cứ vào phạm vi kiểm soát và quản
lý các hoạt động sản xuất ít nhất từ hai nước trở lên. Hơn nữa, họ còn sử dụng
thuật ngữ doanh nghiệp (Enterprise) hơn là công ty (Company) và nhấn mạnh
đến mức độ kiểm soát và quản lý trực tiếp các hoạt động của công ty ở nước

ngoài. Trong khi đó, một số học giả khác lại nhấn mạnh về đặc điểm quy mô
tài sản của công ty phải đạt đến mức trên 100 triệu USD hoặc được xếp vào

6


danh sách 500 công ty lớn nhất về tài sản trên thế giới được công bố hằng năm
(Harvard Business School, 1974) mới được gọi là công ty đa quốc gia. Ngoài
ra, có tài liệu còn định nghĩa công ty đa quốc gia dựa trên một số tiêu chuẩn
cần thiết như số lao động sử dụng ở nước ngoài hoặc tỷ lệ tài sản ở nước ngoài
trên tổng giá trị tài sản của công ty (Jenkins, 1987).
Một số học giả khác còn định nghĩa công ty đa quốc gia là một công ty
lớn bao gồm nhiều công ty nhỏ hay thực thể kinh tế. Những thực thể này có
thể thuộc quyền sở hữu cá nhân hay sở hữu nhà nước hoặc sở hữu hỗn hợp,
được thành lập ở nhiều nước khác nhau và có mối liên kết chặt chẽ. Chúng
ảnh hưởng đến hoạt động của nhau và đặc biệt có chung mục đích và nguồn
vốn kinh doanh. Trong một công ty đa quốc gia, mức độ tự chủ của các thực
thể rất khác nhau, tùy thuộc vào hình thức liên kết và hình thức hoạt động giữa
chúng.
Cuối những năm 1980, do sự nới lỏng các quy chế đầu tư nước ngoài ở
các nước đang phát triển và xu hướng tự do hóa thị trường vốn quốc tế, các
công ty đa quốc gia đã tăng trưởng mạnh mẽ. Trào lưu các công ty mẹ (Parent
firms) mở rộng các chi nhánh ra nhiều nước (Transnationals) đã trở thành
những đặc điểm nổi bật trong những năm cuối của những năm 1980. Bởi vậy,
trong thời kỳ này, thuật ngữ công ty xuyên quốc gia được sử dụng rộng rãi.
Theo định nghĩa, công ty xuyên quốc gia là doanh nghiệp sở hữu và kiểm
soát tài sản như nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, và các cơ sở bán hàng ở hai hoặc
nhiều nước (Colman và Nixson, 1994). Như vậy, theo các định nghĩa đã nêu,
bản chất của công ty xuyên quốc gia và công ty đa quốc gia là giống nhau, đều
là những công ty có quy mô lớn về tài sản, phạm vi hoạt động ở nhiều nước và

tìm kiếm lợi nhuận trên phạm vi toàn cầu. Sự khác nhau về tên gọi chỉ là sự
phản ánh đặc điểm phát triển trong từng thời kỳ tăng trưởng của công ty xuyên
quốc gia hoặc thói quen sử dụng từ ngữ của các học giả.
Gần đây, Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về thương mại và phát triển
(UNCTAD) đã đưa ra định nghĩa chung như sau: Công ty đa quốc gia bao
gồm các công ty mẹ và các công ty con của chúng ở các nước trên thế giới.
Công ty mẹ là công ty kiểm soát toàn bộ tài sản của chúng ở nước sở hữu hơn
là ở nước ngoài. Công ty con là công ty hoạt động ở nước ngoài dưới sự quản
lý của công ty mẹ và thường được gọi chung là chi nhánh ở nước ngoài. Có
các loại công ty con dưới đây:
Công ty con (Subsidiary): Chủ đầu tư (thuộc công ty mẹ) sở hữu hơn
50% tổng tài sản của công ty. Họ có quyền chỉ định hoặc bãi nhiệm các thành
viên bộ máy tổ chức và quản lý điều hành của công ty.

7


Liên kết (Associate): Chủ đầu tư tuy chiếm 10% tài sản của công ty,
nhưng chưa đủ tỷ lệ sở hữu để có quyền hạn như trường hợp công ty con ở
trên.
Chi nhánh (Branch): Công ty hoạt động ở nước ngoài với 100% tài sản
thuộc sở hữu của công ty mẹ.
Trước xu hướng phát triển mạnh mẽ của toàn cầu hóa, nhiều quốc gia mở
cửa thu hút công ty đa quốc gia, các hoạt động của công ty đa quốc gia không
còn giới hạn ở một số lĩnh vực chuyên doanh nữa mà đã chuyển sang đa doanh
và có phạm vi ảnh hưởng toàn cầu. Bởi thế, đã xuất hiện thuật ngữ công ty
toàn cầu. Thực ra, thuật ngữ này chỉ phản ánh đặc điểm của công ty đa quốc
gia trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, còn về bản chất và định nghĩa vẫn
không có sự khác biệt đáng kể.
Như vậy, qua các khái niệm và định nghĩa trên, có thể đi đến hai nhận

xét quan trọng. Thứ nhất, về bản chất, các thuật ngữ về công ty đa quốc gia
không có sự khác biệt đáng kể. Chúng có đặc điểm chung là quy mô lớn, sở
hữu đa quốc gia và kiểm soát các hoạt động sản xuất, kinh doanh ở nhiều
nước. Sự khác biệt chủ yếu là tên gọi, phản ánh đặc điểm nổi bật của công ty
đa quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử phát triển hoặc thói quen sử dụng từ
ngữ của các học giả. Thứ hai, khó có thể đưa ra định nghĩa chính xác về công
ty đa quốc gia. Bởi thế, định nghĩa về công ty đa quốc gia của UNCTAD (như
đã nêu trên) là hợp lý hơn cả và sẽ được dùng làm cở sơ lý thuyết của nghiên
cứu này.
2.1.2.2 Bản chất của công ty đa quốc gia
Hiện nay có rất nhiều công ty đa quốc gia hoạt động trên thế giới với
những mục tiêu và chiến lược khác nhau nhưng thường có một số bản chất
chung. Thứ nhất, các công ty đa quốc gia dựa vào những lợi thế cạnh tranh đặc
biệt (Firm specific advantages) và khả năng độc nhất (Core competences) của
công ty để tận dụng cơ hội đầu tư ở thị trường mới sao cho đạt được những
mục tiêu đã đề ra2. Thứ hai, công ty đa quốc gia khi mở rộng hoạt động
thường có một hoặc nhiều mục tiêu sau: Tìm kiếm thị trường (Market
seeking), mục tiêu tìm kiếm hiệu quả (Efficiency seeking), tìm kiếm nguồn tài
nguyên (Natural resource seeking), hay tìm kiếm tài sản chiến lược
(Knowledge seeking).

2

Theo Prahalad và Hamel (1990), khả năng độc nhất được định nghĩa như sau: Phải được ứng dụng
rộng rãi trên nhiều thị trường, phải có đóng góp lớn tới nhận thức của khách hàng về lợi ích của sản
phẩm cuối cùng, khó bắt chước và một sự mất mát ảnh hưởng lớn đến công ty sở hữu nó.

8



Những lợi thế cạnh tranh đặc biệt mà các công ty đa quốc gia sở hữu bao
gồm: Nguồn lực vật chất (Physical resource), nguồn lực tài chính (Financial
resource), nguồn lực con người (Human resource), kiến thức liên quan đến đầu
vào (Upstream knowledge), kiến thức liên quan đến đầu ra (Downstrem
knowledge), uy tín của công ty (Reputational resource), cách thức tổ chức
(Administratrive knowledge).
2.1.2.2 Đặc điểm của công ty đa quốc gia
Các công ty đa quốc gia có phạm vi hoạt động trên toàn thế giới. Các đặc
điểm ưu việt của chúng về tổ chức sản xuất, phương thức tiêu thụ và cấp vốn,
nghiên cứu phát triển đã trở thành hình thức chủ yếu trong nền kinh tế hiện
đại.
Công ty đa quốc gia có năng lực tổ chức lớn mạnh, đủ sức kiểm soát hoạt
động của hàng chục, thậm chí hàng trăm chi nhánh phân tán ở nhiều nước, xử
lý được các công việc phức tạp liên quan đến pháp luật và tài chính. Các công
ty đa quốc gia tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển quốc tế về hàng hóa,
tư bản, tri thức, kỹ thuật và lao động có chuyên môn cao. Thông qua các tổ
chức, chi nhánh, chúng có thể thực hiện từ xa việc kết hợp các yếu tố sản xuất
trên quy mô toàn cầu. Sự bố trí sản xuất toàn cầu vượt qua các biên giới quốc
gia, sự kết hợp giữa việc sử dụng tư liệu sản xuất, lực lượng kỹ thuật tập trung
về không gian với phân đoạn về thời gian là con đường quan trọng giúp tư bản
hiện đại, tiết kiệm, hạ giá thành, tăng cạnh tranh và tăng lợi nhuận.
Công ty đa quốc gia có năng lực cạnh tranh về nghiên cứu khoa học và
phát triển sản phẩm. Công tác nghiên cứu phát triển khoa học của công ty đa
quốc gia có kế hoạch đồng bộ và có tổ chức chặt chẽ. Thông thường, mỗi công
ty đa quốc gia đều có đội ngũ cán bộ khoa học lớn mạnh, tập trung khám phá
những đề tài then chốt. Công ty mẹ chỉ đạo và chi viện vốn, lao động cho các
đề tài nghiên cứu phát triển của các công ty con để tránh trùng lặp, rời rạc và
kém hiệu quả.
Công ty đa quốc gia có lợi thế cạnh tranh trong việc tiêu thụ hàng hóa và
dịch vụ. Công ty đa quốc gia có khả năng thích ứng với nhu cầu thay đổi.

Thông qua các tổ chức chi nhánh đặt tại khắp nơi trên thế giới, nó có khả năng
nắm bắt những thay đổi của nhu cầu và đáp ứng kịp thời những thay đổi đó.
Công ty đa quốc gia có những thuận lợi trong việc tự do điều phối vốn
trên toàn thế giới. Thông qua mạng lưới thông tin dày đặc giữa các công ty
con, công ty đa quốc gia thường xuyên nắm được tình hình thay đổi về luật
pháp, chính sách của các nước, từ đó phân tích và áp dụng các đối sách phù

9


hợp. Một số tập đoàn còn hình thành các công ty tài chính và ngân hàng
chuyên ngành để huy động vốn kinh doanh.
2.1.2.3 Mục tiêu của công ty đa quốc gia khi đầu tư ra nước ngoài
Với mục tiêu cơ bản và không thay đổi là tối đa hóa lợi nhuận - đó là lợi
ích kinh tế xuyên suốt và chi phối tất cả mọi hoạt động của các công ty đa
quốc gia. Để đạt được các mục tiêu này công ty đa quốc gia sử dụng rất nhiều
biện pháp, trong đó có một số biện pháp phổ biến sau.
- Giảm thiểu chi phí: Để giảm thiểu chi phí về tổ chức quản lý, sản xuất
cũng như trong lưu thông các công ty đa quốc gia có xu hướng tập trung hóa,
vừa nhằm tiết kiệm chi phí vừa tận dụng được các lợi thế so sánh về lao động
và các nguồn tài nguyên khác.
- Tăng cường quyền lực chi phối, khống chế: Khoảng cuối thế kỷ XX,
trong cơ cấu vốn của các công ty đa quốc gia số lượng vốn của các cổ đông
không có quyền biểu quyết ngày càng cao, điều đó đồng nghĩa với quyền sử
dụng và chi phối tự do hơn, song quyền lực chi phối vốn lại tăng lên, đặc biệt
là đối với các công ty con. Tất cả cho phép các công ty đa quốc gia có thể mở
rộng kinh doanh đa ngành, chấp nhận kế hoạch hoạt động kinh doanh đa
ngành và có độ rủi ro lớn hơn.
- Đầu tư để sản xuất các linh kiện, phụ kiện, lắp ráp và tiêu thụ sản phẩm
tại các nước tiếp nhận đầu tư: Để khắc phục những rủi ro do cạnh tranh gay

gắt cũng như hàng rào bảo hộ của các nước, một giải pháp cho các công ty đa
quốc gia là thực hiện lắp ráp, gia công tại các chi nhánh. Các công ty có thể
nhập linh kiện và sử dụng lao động tại nước tiếp nhận đầu tư để sản xuất sản
phẩm. Tuy nhiên, công ty đa quốc gia chỉ nội địa hóa ở mức nào đó để bảo tồn
công nghệ chủ chốt của riêng mình.
- Tái xuất khẩu các sản phẩm ra khỏi các nước hoặc nhập khẩu trở lại
chính quốc: Do nhiều lý do như bảo hộ mậu dịch, giảm chi phí, tăng cường
các mối quan hệ truyền thống,... mà nhiều công ty đa quốc gia đã tái xuất khẩu
sản phẩm từ chi nhánh ra khỏi nước chủ nhà. Thậm chí, nếu chi phí sản xuất
có sự chênh lệch lớn thì các công ty đa quốc gia lại nhập khẩu bán thành phẩm
hoặc thành phẩm từ các công ty con về công ty mẹ. Sự trao đổi có tính nội bộ
thường được hưởng ở mức thuế nhập khẩu thấp, về cơ bản đây là một hình
thức làm tăng lợi nhuận cho các công ty.

10


2.1.3.4 Tác động của công ty đa quốc gia
a. Tác động tích cực
Thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển: Một trong những vai trò nổi bật
của công ty đa quốc gia là thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển, đẩy nhanh
quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Công ty đa quốc gia chi phối hầu
hết chu trình chuyển hàng giữa các quốc gia bởi các kênh lưu thông xuyên
quốc gia của mình. Một đặc điểm nữa là trao đổi giữa các chi nhánh trong nội
bộ công ty đa quốc gia của các nước ngày càng tăng nhanh và chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng giá trị thương mại nhiều nước. Trong những năm gần đây, với
chiến lược đa quốc gia và tạo ra các liên kết giữa thương mại và đầu tư, giữa
các nước đầu tư với nhau.
Thúc đẩy đầu tư nước ngoài thông qua việc các công ty đa quốc gia đầu
tư vốn vào các nước đang phát triển: Trên thực tế, hầu hết các hoạt động đầu

tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện qua kênh đầu tư nước ngoài của các
công ty đa quốc gia. Các công ty đa quốc gia thúc đẩy nhanh quá trình tự do
hóa đầu tư nước ngoài thông qua tham gia sâu rộng vào quá trình quốc tế hóa
sản xuất. Các cản trở về đẩy mạnh tự do hóa đầu tư đã được tháo bỏ, để các
nước trên thế giới cùng được tham gia vào quá trình tự do hóa kinh tế quốc tế.
Với lợi thế của mình về nhiều vốn, kỹ thuật hiện đại, quản lý tiên tiến và mạng
lưới thị trường rộng lớn, các công ty đa quốc gia luôn tích cực đầu tư ra nước
ngoài nhằm tối đa hóa lợi nhuận trên phạm vi toàn cầu. Xu hướng sáp nhập và
mua lại các công ty khác của các công ty đa quốc gia tăng nhanh hơn là hình
thức xây dựng doanh nghiệp mới để mở rộng đầu tư ra thị trường nước ngoài.
Chính xu thế gia tăng này là nguyên nhân quan trọng gây bùng nổ đầu tư nước
ngoài.
Ngoài ra, chúng ta phải nói tới sự tích lũy về vốn ở các nước chủ nhà.
Với thế mạnh về vốn các công ty đa quốc gia đóng vai trò là động lực thúc đẩy
tích lũy vốn của nước tiếp nhận đầu tư. Nước tiếp nhận đầu tư có thể tăng
cường thu hút vốn FDI đầu tư vào nước mình. Vai trò này của công ty đa quốc
gia cũng được thể hiện qua nhiều khía cạnh.
Tóm lại, công ty đa quốc gia đóng vai trò rất to lớn trong hoạt động đầu
tư quốc tế. Xét trên góc độ nền kinh tế toàn cầu thì công ty đa quốc gia thúc
đẩy lưu thông dòng vốn FDI trên phạm vi toàn thế giới. Mặt khác, ở góc độ
từng quốc gia thì công ty đa quốc gia góp phần làm tăng tích lũy vốn cho nước
tiếp nhận đầu tư.

11


Làm thay đổi cơ cấu thương mại quốc tế: Ngày nay, kinh tế thế giới càng
phát triển thì vai trò của công ty đa quốc gia cũng ngày càng cao. Với tỷ trọng
lớn trong thương mại thế giới thì các công ty đa quốc gia chính là chủ thể
chính làm thay đổi cơ cấu hàng hóa và cơ cấu đối tác trong thương mại thế

giới.
Phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm: Các công ty đa quốc gia đóng
vai trò quan trọng đối với phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm ở các
nước phát triển và các nước đang phát triển. Một vai trò quan trọng khác phải
nhắc tới là công ty đa quốc gia tạo nhiều cơ hội việc làm cho lực lượng lao
động phụ nữ ở các nước đang phát triển. Hơn nữa, tiền lương và điều kiện lao
động ở các công ty đa quốc gia thường cao hơn tiền lương và điều kiện lao
động ở các công ty nội địa.
Công ty đa quốc gia với hoạt động chuyển giao công nghệ: Công nghệ là
yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường và giữ thế độc
quyền. Do đó, trong quá trình thực hiện đầu tư ra nước ngoài các công ty đa
quốc gia thường có những phương thức và những cách riêng để thực hiện và
chuyển giao công nghệ của mình. Không chỉ nắm giữ trong tay phần lớn công
nghệ tiên tiến của thế giới, các công ty đa quốc gia còn biết cách sử dụng và
khai thác các công nghệ đó một cách hiệu quả nhất nhằm duy trì vị thế độc
quyền trên thị trường, mở rộng phạm vi ảnh hưởng và khả năng lũng đoạn thị
trường.
Thông qua hoạt động sản xuất, thương mại các công ty đa quốc gia đã
không ngừng có những phát minh, sáng chế và phổ biến những kinh nghiệm
về quản lý, các ý tưởng mới, và các sáng tạo khác trên phạm vi toàn cầu. Có
thể nói tính sáng tạo là đặc trưng riêng của các công ty đa quốc gia mà không
tổ chức nào có được. Tuy nhiên, quá trình chuyển giao công nghệ thường đi
kèm với quá trình độc quyền hóa. Do đó, các nước đang phát triển trong quá
trình tiếp nhận công nghệ cần nhận thức rõ vai trò của công ty đa quốc gia,
đồng thời có những đối sách thích hợp để vừa phát huy tối đa tác dụng tích
cực của công ty đa quốc gia này đối với nền kinh tế vừa hạn chế sự kìm hãm
của chúng.
b.Tác động tiêu cực
Tác động tiêu cực từ nguồn vốn đầu tư của công ty đa quốc gia đối với
các nước đang phát triển được thể hiện qua nhiều khía cạnh.

Thứ nhất, các công ty đa quốc gia gặt hái nhiều lợi nhuận ở các nước
đang phát triển nhờ vị trí độc quyền của họ trong các nền kinh tế này. Tuy

12


nhiên, phần lớn các khoản lợi nhuận này được chuyển ra nước ngoài cho công
ty mẹ chứ không được tái đầu tư ở nước chủ nhà.
Thứ hai, các công ty đa quốc gia còn tính giá phí quá cao khi chuyển
giao công nghệ cho công ty con. Các công ty con phải phụ thuộc nhiều vào
máy móc, thiết bị, linh phụ kiện hơn so với các công ty trong nước. Các công
ty đa quốc gia đang làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế các nước đang phát
triển vào vốn, kỹ thuật và mạng lưới tiêu thụ hàng hóa của công ty này. Các
công ty đa quốc gia tiến hành đầu tư, lập nhiều khu công nghiệp, các nhà máy
chế tạo sản phẩm. Các quy trình đều do các công ty mẹ nắm giữ và được
chuyển giao dần dần cho các nước đang phát triển. Đồng thời các công ty đa
quốc gia cũng nắm giữ nhiều kênh tiêu thụ hàng hóa từ các nước phát triển.
Chính vì vậy, nước đang phát triển càng dựa nhiều vào đầu tư nước ngoài của
các công ty đa quốc gia thì sự phụ thuộc về kinh tế ngày càng lớn.
Thứ ba, các công ty đa quốc gia thường được vay ưu đãi từ ngân hàng ở
nước tiếp nhận đầu tư hơn so với các công ty trong nước. Đây cũng được coi
là một trong những nguyên nhân dẫn đến khả năng cạnh tranh của công ty
trong nước luôn kém hơn các công ty đa quốc gia này. Một khía cạnh khác
nữa là đầu tư vào các nước đang phát triển của các công ty đa quốc gia có thể
xảy ra tình trạng khiến các công ty nội địa đi tới phá sản do các công ty đa
quốc gia có thế mạnh về tài chính, kỹ thuật và đôi khi còn được hưởng những
ưu đãi lớn hơn so với công ty nội địa. Như vậy, các nước này cần phải xây
dựng môi trường cạnh tranh bình đẳng, cơ chế luật pháp đảm bảo cho doanh
nghiệp trong nước không bị bất lợi hơn các doanh nghiệp nước ngoài.
Thứ tư, nhiều công ty đa quốc gia còn không góp phần thúc đẩy kỹ năng

kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư, bởi lẽ họ thâm nhập vào thị trường các
nước đang phát triển bằng con đường mua lại doanh nghiệp trong nước hoặc
sử dụng nguồn lực vượt trội của mình để loại bỏ đối thủ cạnh tranh trong
nước.
Thứ năm, nhiều nhà máy khai thác tài nguyên thuộc các công ty đa quốc
gia còn gây ô nhiễm môi trường cho các nước đang phát triển.
Thứ sáu, tình trạng phân phối thu nhập không đều ở các nước tiếp nhận
đầu tư cũng là một tác động tiêu cực cần phải nhắc tới ở đây. Thường thì tiền
lương của nhân công, lao động làm việc trong các công ty đa quốc gia bao giờ
cũng cao hơn mức trung bình ở các công ty trong nước.
Thứ bảy, một tác động tiêu cực khác của các công ty đa quốc gia là can
thiệp vào nền chính trị của các nước tiếp nhận đầu tư thông qua một số cách
khác nhau. Tuy vậy, thường thì các công ty đa quốc gia đánh giá cao sự ổn

13


định chính trị của một nước, như vậy họ có thể yên tâm đặt lòng tin và đầu tư
vào nước đó. Ngoài ra các công ty đa quốc gia còn có ảnh hưởng tới cơ cấu xã
hội của nước nhận đầu tư. Khi các công ty đa quốc gia đầu tư vào một nước
thì sẽ tạo ra việc làm, thu nhập cho số đông người dân nước đó, những người
đó có thu nhập và địa vị ổn định trong xã hội, còn lại một phần lớn những
người không hòa nhập vào xã hội công nghiệp và do đó tạo ra sự phân cấp
trong xã hội khá rõ rệt.
2.2 LÝ THUYẾT, GIẢ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
2.2.1 Lý thuyết và giả thuyết
Để tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sử dụng tài sản địa
phương của công ty con thuộc công ty đa quốc gia tại nước tiếp nhận đầu tư
(Việt Nam), nghiên cứu này sử dụng nhiều lý thuyết đã được phát triển bởi các
học giả trên thế giới. Nghiên cứu này ứng dụng một số bàn cãi về việc tăng chi

phí khi sử dụng tài sản địa phương khi có sự khác biệt về văn hóa và thể chế
giữa nước đi đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. Nghiên cứu của Hennart năm
2000 cho rằng, chính sự khác biệt về văn hóa càng lớn sẽ là nguyên nhân tăng
chi phí quản lý, chuyển đổi những lợi thế của công ty đa quốc gia để kết hợp
với những tài sản địa phương. Khoảng cách văn hóa lớn cũng chính là nguyên
nhân dẫn đến việc đàm phán giữa bên đầu tư và bên tiếp nhận đầu tư bị cản trở
do những suy nghĩ và quan điểm khác nhau về văn hóa (Slangen và Hennart,
2008). Sự khác biệt về thể chế là nguyên nhân tăng chi phí học hỏi do thiếu
kiến thức về nước tiếp nhận đầu tư (Caves, 1971) và các chi phí liên quan đến
uy tín của công ty con, thiếu sự tin tưởng của những đối tác tại nước tiếp nhận
đầu tư và chi phí đối với những đối tác lợi dụng cơ hội (Buckley và Casson,
1998; Henisz và Williamson, 1999). Những bàn cãi trên ngụ ý rằng sự khác
biệt về văn hóa và thể chế càng lớn thì sẽ càng ảnh hưởng đến khả năng sử
dụng tài sản địa phương tại nước tiếp nhận đầu tư của công ty đa quốc gia.
Nghiên cứu này cũng sử dụng lý thuyết thông tin kinh tế (Ackerlof, 1970;
Stigler, 1961). Theo lý thuyết này, thông tin kinh tế ảnh hưởng đến quyết định
hoạt động của công ty đa quốc gia. Công ty đa quốc gia hoạt động tại nhiều
nước khác nhau sẽ tích lũy được những thông tin, kinh nghiệm về môi trường
kinh doanh, đặc điểm thị trường và những tài sản mà công ty đa quốc gia có
thể thâm nhập và sử dụng. Chính kinh nghiệm quốc tế của công ty đa quốc gia
giúp tăng khả năng thâm nhập và sử dụng tài sản địa phương ở nước tiếp nhận
đầu tư. Mối quan hệ giữa các yếu tố trên và khả năng sử dụng tài sản địa
phương của công ty con thuộc công ty đa quốc gia được thảo luận chi tiết bên
dưới.

14


2.2.1.1 Kinh nghiệm quốc tế của công ty mẹ
Nghiên cứu này dựa vào những hiểu biết từ lý thuyết thông tin kinh tế

của công ty đa quốc gia để giải thích kinh nghiệm quốc tế ảnh hưởng đến khả
năng sử dụng tài sản địa phương. Lý thuyết thông tin kinh tế thảo luận thông
tin kinh tế ảnh hưởng như thế nào đến quyết định kinh tế (Ackerlof, 1970;
Stigler, 1961). Một công ty đa quốc gia hoạt động tại nhiều quốc gia khác
nhau đã tiếp xúc với nhiều nguồn lực và học hỏi được những kĩ năng nhất định
để có thể khai thác tối đa khả năng sử dụng tài sản tại địa phương đó. Hơn
nữa, việc hoạt động tại nhiều quốc gia cũng cung cấp cho công ty nhiều thông
tin để đánh giá được nguồn lực của từng quốc gia và khả năng hợp nhất tài sản
địa phương vào hệ thống của công ty. Các công ty đa quốc gia không có kinh
nghiệm sẽ thường xuyên gặp phải tình trạng thiếu sự hiểu biết về giá trị nguồn
lực mà công ty đang hướng đến. Điều này dẫn đến việc công ty có thể gặp rất
nhiều khó khăn để có được đầy đủ thông tin nhằm đánh giá các mục tiêu dự
kiến hoặc hợp nhất các nguồn lực vào hệ thống của công ty họ sau khi thỏa
thuận mua bán được hoàn thành (Ravenscraft và Scherer, 1987). Các công ty
có kinh nghiệm quốc tế sẽ có nhiều khả năng và năng lực cho việc đánh giá
giá trị tiềm năng tại quốc gia đó giúp cho việc khai thác tài sản địa phương trở
nên dễ dàng hơn.
Tóm lại, một công ty hoạt động ở nhiều quốc gia khác nhau sẽ tích lũy
được những kinh nghiệm, kiến thức và thông tin kinh tế ở quốc gia đó. Do đó,
các công ty đa quốc gia sẽ dễ dàng hơn trong việc thâm nhập, sử dụng tài sản
được nắm giữ bởi những đối tác ở nước tiếp nhận đầu tư. Từ những bàn luận
trên, nghiên cứu đưa ra giả thuyết thứ nhất như sau:
Giả thuyết 1: Công ty đa quốc gia càng có nhiều kinh nghiệm quốc tế
thì khả năng thâm nhập và sử dụng tài sản địa phương sẽ càng cao.
2.2.1.2 Khoảng cách văn hóa giữa nước đi đầu tư và nước tiếp nhận
đầu tư
Mỗi quốc gia đều có những nét văn hóa riêng biệt, nên khi đầu tư sang
thị trường nước ngoài các công ty đa quốc gia thường gặp trở ngại về sự khác
biệt về văn hóa giữa nước đi đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. Chính sự khác
biệt về văn hóa càng lớn sẽ là nguyên nhân tăng chi phí quản lý, chi phí

chuyển đổi những lợi thế của công ty đa quốc gia đến nước sở tại (Hennart,
2000). Ngoài ra, khi sử dụng nguồn lao động ở nước tiếp nhận đầu tư thì công
ty đa quốc gia sẽ phải chịu chi phí quản lý rất lớn vì phải tốn thời gian nghiên
cứu về văn hóa của người lao động, các quy tắc, lối làm việc, các quy định

15


trong văn hóa và phải tổ chức lại bộ máy hoạt động phù hợp với đặc điểm của
quốc gia đó.
Hơn thế nữa, khoảng cách văn hóa lớn cũng chính là nguyên nhân dẫn
đến việc đàm phán giữa bên đầu tư và bên tiếp nhận đầu tư bị cản trở do
những suy nghĩ và quan điểm khác nhau về văn hóa (Slangen và Hennart,
2008). Khi khoảng cách văn hóa giữa hai nước càng lớn thì việc hợp tác với
các hệ thống phân phối tại nước được đầu tư trở nên khó khăn hơn. Hai lý do
giải thích cho tranh luận này. Thứ nhất, về phía nhà phân phối, họ không nắm
rõ những công ty này là ai? hoặc công ty đa quốc gia có thể giúp nhà phân
phối tăng lợi nhuận hoặc cũng có thể họ sẽ lấn át và chi phối nhà phân phối
bất cứ lúc nào nên nhà phân phối không thể mạo hiểm hợp tác trừ khi đã biết
rõ về những công ty đa quốc gia này. Thứ hai, về phía công ty đa quốc gia,
những công ty đa quốc gia cũng không dám mạo hiểm hợp tác với những đối
tác ở nước tiếp nhận đầu tư trong trường hợp chưa hợp tác trước đây. Do đó,
nghiên cứu bàn luận rằng, khả năng thâm nhập và khai thác tài sản địa phương
của công ty đa quốc gia sẽ càng thấp khi khoảng các văn hóa giữa nước đi đầu
tư và nước tiếp nhận đầu tư càng lớn.
Tóm lại, khoảng cách văn hóa giữa nước đầu tư và nước nhận đầu tư có
mối tương quan nghịch với khả năng thâm nhập và sử dụng tài sản địa phương
của công ty đa quốc gia. Giả thuyết thứ hai được đề nghị như sau:
Giả thuyết 2: Khoảng cách văn hóa giữa nước đi đầu tư và nước tiếp
nhận đầu tư càng lớn thì khả năng sử dụng tài địa phương càng thấp.

2.2.1.3 Khoảng cách thể chế giữa nước đi đầu tư và nước tiếp nhận
đầu tư
Trước trào lưu hội nhập, những công ty đa quốc gia có nhiều cơ hội để
thâm nhập và sử dụng tài sản địa phương của nước nhận đầu tư, song họ cũng
gặp không ít khó khăn. Công ty đa quốc gia muốn đứng vững trên thị trường
quốc tế phải đối mặt với vô số những yếu tố nằm ngoài tầm kiểm soát của họ.
Một trong những yếu tố đó là khoảng cách về thể chế giữa nước đầu tư và
nước nhận đầu tư là vấn đề đáng quan tâm.
North (1990) tranh cãi rằng, thể chế đưa ra những quy định, luật lệ trong
xã hội mà theo đó các tổ chức phải phải tuân thủ khi giao dịch, tương tác với
các tổ chức khác trong xã hội đó. Ứng dụng tranh cãi này trong bối cảnh công
ty đa quốc gia, khi công ty đa quốc gia đầu tư sang thị trường nước ngoài sẽ
phải đối mặt với những sự khác biệt về môi trường thể chế tại nước tiếp nhận
đầu tư. Sự khác biệt về những quy định, luật lệ, quy tắc hoạt động kinh doanh
hình thành nên khoảng cách về thể chế giữa nước đi đầu tư và nước tiếp nhận

16


×