Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Ôn tập lớp TCCT Câu hỏi và trả lời về Đảng cộng sản và lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.5 KB, 22 trang )

Câu 1: Tính tất yếu của nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt
Đảng. Vai trò của nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức – sinh hoạt đảng?
Liên hệ thực tiễn
I.Tính tất yếu của nguyên tắc tập trung dân chủ:
1. Khái quát sự hình thành, phát triển nguyên tắc tập trung dân chủ:
Nguyên tắc tập trung dân chủ của ĐCS đã được các nhà kinh điển của CN Mác – Lênin
đề cập từ rất sớm. C. Mác và Ph. Ang ghen chưa dùng khái niệm tập trung dân chủ,
nhưng trong thực tiễn 2 ông đã chỉ đạo xây dựng “Liên đoàn những người cộng sản” và
“ Hội Liên hiệp công nhân quốc tế” theo tinh thần nguyên tắc đó.
Đến Lênin, Lê nin đã sử dụng khái niệm TTDC lần đầu tiên tại Hội nghị Tammecpho
(1905) sau đó đưa vào Điều lệ Đảng Công nhân dân chủ - xã hội Nga
HCM luôn trung thành với tư tưởng của C. Mac, Angghen, Lenin về tập trung dân chủ,
đồng thời bổ sung, phát triển tư tưởng đó trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của
Đảng phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của ĐCSVN
2. Tập trung dân chủ là tính tất yếu khách yếu khách quan trong xây dựng, tổ
chức, sinh hoạt và hoạt động của ĐCSVN
a. Xuất phát từ vị trí, vai trò của ĐCSVN
Đảng là đội tiên phong, lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân, đòi hỏi Đảng phải hết
sức có tổ chức, phải là đội ngũ có tổ chức và là hình thức tổ chức chặt chẽ nhất của giai
cấp công nhân; Đảng phải là khối đoàn kết thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
làm cho Đảng có hàng triệu người nhưng khi tiến đánh thì chỉ như 1 người. Thực hiện
nguyên tắc dân chủ trong xây dựng Đảng và hoạt động lãnh đạo của Đảng là điều kiện
bảo đảm sự thống nhất ý chí, thống nhất hành động của toàn Đảng, đồng thời bảo đảm
phát huy sáng kiến và tính tích cực sáng tạo của mọi tổ chức đảng và mọi đảng viên.
Mặt khác, Đảng là liên minh tự nguyện của những người công nhân ưu tú và những
người lao động cùng chung chí hướng cộng sản , do đó, Đảng phải được tổ chức và hoạt
động theo lối dân chủ mới phù hợp với bản chất giai cấp công nhân và mục đích của
Đảng.
b. Xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của ĐCS
Nhiệm vụ của ĐCS là lãnh đạo cuộc đấu tranh xoá bỏ áp bức, bóc lột, bất công., xây
dựng CNXH và tiến tới chủ nghĩa cộng sản. Nhiệm vụ vĩ đại đó rất gay go, phức tạp,


đòi hỏi Đảng phải tổ chức theo lối dân chủ để phát triển mọi tiềm năng trí tuệ, lực
lượng của đảng viên và các tổ chức trong toàn Đảng, lại vừa phải tổ chức theo lối tập
trung, có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh mới đủ sức mạnh hoàn thành nhiệm
vụ lịch sử đó.
c. Xuất phát từ kinh nghiệm lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế

1

1


ĐCS có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân đấu trnah giành
chính quyền, xây dựng CNXH, cuối cùng đi đến giải phóng con người nói chung
thực hiện xã hội cộng sản văn minh.
Để thực hiện mục đích cao cả ấy, Đảng phải có sự nhất trí cao, thống nhất tư tưởng
và hành động. Đảng phải là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí, thông nhất hành
động, thống nhất kỷ luật. Do đó, Đảng phải được tổ chức và hoạt động theo nguyên
tắc tập trung dân chủ. Trong tình hình đấu tranh tư tưởng- chính trị hiện nay, sự đoàn
kết thống nhất tư tưởng và hành động của Đảng, của giai cấp công nhân và toàn dân
tộc lại càng đặc biệt quan trọng và cấp thiết. Sự đoàn kết thống nhất thực sự của
Đảng là thành trì vững chắc để ngăn ngừa và khắc phục chủ nghĩa cơ hội dưới mọi
màu sắc, làm thất bại mọi mưu đồ chia rẽ, phá vỡ sự thống nhất của Đảng, hòng xoá
bỏ Đảng, xoá bỏ CNXH.
Kinh nghiệm thực tiễn hoạt động của các đảng trước đây và hiện nay đã cung cấp
cho mỗi ĐCS và công nhân, mối đảng viên công sản chân chính những bài học quý
báu: mọi thành công hoặc thất bại trong cuộc đấu tranh để xây dựng tổ chức đảng,
thực hiện mục đích của đảng, đều tuỳ thuộc vào nhận thức và hành động đúng hay
không đúng nguyên tắc TTDC trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động lãnh đạo của
Đảng; đảng nào vi phạm hặc xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng tổ
chức và hoạt động của Đảng luôn là nhiệm vụ sống còn của Đảng, không thể coi

nhẹ.
II. Vai trò của nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức – sinh hoạt đảng:
- TTDC là nguyên tắc cơ bản chỉ đạo việc xây dựng, củng cố tổ chức của Đảng
- TTDC là nguyên tắc cơ bản chỉ đạo sinh hoạt Đảng
- TTDC là nguyên tắc cơ bản chỉ đạo hoạt động của Đảng
Vì sao? Vì:
+ Nguyên tắc này làm cho ĐCS được xây dựng thành 1 đội ngũ có quy luật chặt chẽ, có
sức chiến đấu cao, phát huy được tính chủ động, năng động, sáng tạo của đông đảo cán
bộ, đảng viên.
+ Nguyên tắc này đảm bảo cho đảng luôn là một tổ chức chiến đấu, 1 tổ chức lãnh đạo,
1 tổ chức hành động chứ không phải là 1 câu lạc bộ chỉ bàn việc suông.
+ Đảm bảo cho sự thống nhất cho sự thống nhất ý chí, hành động tạo nên sức mạnh vô
địch của Đảng.
Liên hệ thực tiễn: Tự liên hệ

2

2


Câu 2: tính tất yếu về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời hoàn toàn phù hợp với xu thế thời đại.
- Đầu thế kỷ XX các nước đế quốc lớn như Anh, Mỹ, Pháp... đã xâm chiếm hầu hết
các nước nhỏ yếu trên thế giới và biến thành thuộc địa của họ, thực thi chính sách
thực dân tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc đối với các thuộc địa.
- Các nước thuộc địa chống chủ nghĩa đế quốc giành độc lập trở thành một nội dung lớn
của phong trào cách mạng thế giới.
- Cuộc cách mạng tháng 10 Nga thắng lợi đã làm biến đổi sâu sắc tình hình thế giới.
Cuộc cách mạng đó đã chặt đứt một khâu yếu nhất trong hệ thống đế quốc chủ nghĩa và
các hệ thống thuộc địa, mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người- thời đại quá độ

từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Cách mạng tháng
10 cũng đã cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng loài người.
- Tháng 3/1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế II) đã được thành lập. Sự ra đời của Quốc tế
Cộng sản có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế. Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
Lênin được công bố tại Đại hội III Quốc tế cộng sản năm 1920 đã chỉ ra phương hướng
đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa, mở ra con đường giải phóng các dân tộc bị
áp bức trên lập trường cách mạng vô sản.
2. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của quá trình vận động hợp
quy luật.
- Học thuyết Mác - Lênin khẳng định rằng, Đảng Cộng Sản là sản phẩm của sự kết hợp
chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. Quy luật chung này được Nguyễn Ái
Quốc vận dụng sáng tạo vào điều kiện nước ta, nơi giai cấp công nhân còn ít về số
lượng, nhưng người vô sản bị áp bức, bóc lột thì đồng. Và sự kết hợp chủ nghĩa Mác Lênin với phong trào công nông và phong trào yêu nước dẫn đến sự ra đời của Đảng
Cộng Sản Việt Nam.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược đến những năm 20 của thế kỷ XX, đã có hàng trăm
cuộc đấu tranh anh dũng của dân tộc ta chống kẻ thù xâm lược, nhưng đều lần lượt thất
bại.
Phong trào chống thực dân Pháp theo ý thức hệ phong kiến như phong trào Cần
vương đã thất bại khi cuộc khởi nghĩa của Phan đình Phùng chấm dứt năm 1896. Phong
trào nông dân Yên thế của Hoàng hoa Thám kéo dài 30 năm cũng không giành được
thắng lợi.
Đầu thế kỷ XX, trào lưu dân chủ tư sản phương Tây cũng xâm nhập vào nước ta.
Con đường cải cách Minh trị của Nhật bản cũng như tư tưởng cải cách và cách mạng
Tân Hợi của Trung quốc đều ít nhiều có ảnh hưởng đến phong trào yêu nước của Việt
nam, lôi cuốn nhiều sỷ phu phong kiến, tiêu biểu là Phan bội Châu và Phan chu Trinh.
Phan Bội Châu, lúc đầu chủ trương xây dựng chế độ quân chủ lập hiến như Nhật
Bản. Năm 1912 ông lập ra Việt nam quang phục hội, từ bỏ lập trường quân chủ lập hiến
3


3


chuyển sang lập trường dân chủ tư sản đại Pháp, thành lập Cộng hòa dân quốc Việt
nam, cải tổ Việt nam quang phục hội thành Việt nam Quốc dân đảng theo con đường
của Tôn dật Tiên nhưng cả hai hướng đi đó đều thất bại.
Phan chu Trinh cũng là một nhà yêu nước nhiệt thành, ông lên án gay gắt tội ác của
thực dân Pháp, quan lại phong kiến sâu mọt, chủ trương cải cách đát nước nhưng lại
muốn dựa vào Pháp để chống phong kiến chẳng khác gì "xin giặc rũ lòng thương".
Cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt nam Quốc dân đảng với khẩu hiệu "không thành
công cũng thành nhân" đã nhanh chóng thất bại, chứng tỏ sự hăng hái bồng bột nhất
thời của tầng lớp tiểu tư sản.
Phong trào yêu nước của nhân dân ta diễn ra rất sôi nổi và liên tục, nhưng thiếu
đường lối và sự lãnh đạo đúng đắn. Trên thực tế, các phong trào cứu nước từ lập trường
Cần vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản, qua khảo nghiệm lịch sử đều lần lượt thất
bại. Tình hình đó đòi hỏi phải có đường lối cách mạng đúng đắn và một tổ chức cách
mạng có khả năng đưa phong trào cách mạng đến thắng lợi.
- Trong bối cảnh xã hội Việt Nam bấy giờ, giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất
trong sức sản xuất, có ý thức kỷ luật cao,….
3. Sự ra đời của Đảng là kết quả tất yếu từ sự chuẩn bị kỹ lưỡng của Nguyễn Ái
Quốc
Nguyễn Ái Quốc,khi đi học tên là Nguyễn Tất Thành, lớn lên trong cảnh mất nước,
đồng bào bị đọa đày đau khổ, người thanh niên giàu lòng yêu nước đó đã sớm có ý chí
đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân tộc. Năm 1911, Nguyễn ái Quốc ra đi tìm
đường cứu nước. Người sang Pháp, đi qua nhiều nước thuộc địa của Pháp ở châu Phi,
sang Mỹ, đến nước Anh ... tìm hiễu các cuộc đấu tranh của nhiều dân bị áp bức trên thế
giới, tìm hiễu xã hội tư bản, và sau đó trở lại Pháp. Tại đây, người từng bước học tập lý
luận, tham gia Đảng Xã hội Pháp, lập ra Hội những người Việt nam yêu nước.
Cách mạng tháng 10 Nga thắng lợi. Nguyễn ái Quốc được đọc bản "Sơ thảo lần thứ

nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa" của Lênin. Luận cương đã
giải đáp cho Nguyễn ái Quốc con đường đấu tranh giành độc lập tự do thật sự cho dân
tộc, cho đồng bào mình.
Năm 1920 Nguyễn ái Quốc tán thành thành lập Đảng cộng sản Pháp và trở thành
một trong những người sáng lập đảng Cộng sản Pháp và cũng là cộng sản đầu tiên của
dân tộc Việt nam.
Từ đầu những năm 20, Nguyễn ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong
trào công nhân và phong trào yêu nước Việt nam. Những năm 1921-1923, tại Pháp,
Người sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa và ra báo Người cùng khổ. Hoạt động của Hội
và tờ báo đã tích cực truyền bá lý luận vào các nước thuộc địa, trong đó có Việt nam.
Năm 1923, Nguyễn ái Quốc sang Liên xô và năm 1924 tham dự Đai hội V của
Quốc tế cộng sản.
Năm 1924 Nguyễn ái Quốc tới Quãng châu(TQ) người cùng các nhà lãnh đạo cách
mạng Trung quốc,Triều tiên, Ấn độ, Thái lan...thành lập liên hiệp các dân tộc bị áp bức
4

4


ở Á - Đông. Tháng 6 năm 1925, Nguyễn ái Quốc thành lập Hội Việt nam cách mạng
thanh niên và ra báo Thanh niên và trong những năm 1925-1927 mở nhiều lớp huấn
luyện đào tạo cán bộ. Đó là sự chuẩn bị tích cực về tổ chức và cán bộ cho việc thành lập
Đảng cộng sản.
Trong các tác phẩm như Bản án chế độ thực dân Pháp, Đường cách mệnh, cùng
nhiều công trình, bài báo khác, Người đã nêu lên một cách có hệ thống những quan
điểm của một đường lối cách mạng đúng đắn, chuẩn bị cho cương lĩnh của Đảng.
Với sự soi sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối cứu nước của Nguyễn ái
Quốc, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt nam những năm 20 phát triển
mạnh mẽ. Phong trào công nhân chuyển dần từ tự phát thành tự giác. Sự phát tiển của
phong trào cách mạng đòi hỏi sự ra đời của những tổ chức cộng sản. Tháng 3/1929, chi

bộ cộng sản đầu tiên được thành lập tại Hà nội. Hội Việt nam cách mạng thanh niên,
một tổ chức tiền thân của Đảng, đã có vai trò tích cực thúc đẩy phong trào cách mạng
phát triển song không còn thích hợp trước sự phát triển về chất của phong trào. Sau đại
hội tháng 5/1929 của Hội, các tổ chức cộng sản lần lượt ra đời ở Việt nam. ..
4. Đảng ra đời xuất phát từ yêu cầu tất yếu phải hợp nhất ba tổ chức đảng
lúc bấy giờ.
-Từ cuối năm 1928 đến đầu năm 1929, phong trào dân tộc và dân chủ ở nước ta,
đặc biệt là phong trào công nông theo con đường cách mạng vô sản, đã phát triển mạnh
mẽ.
Năm 6/1929 Kỳ bộ Bắc kỳ thành lập Đông dương cộng sản đảng. Tháng 11/1929
tổng bộ và kỳ bộ Nam kỳ của Hội VNCMTN quyết định thành lập An nam cộng sản
đảng và đầu năm 1930 những đại biểu ưu tú của Tân việt cách mạng đảng thành lập
Đông dương cộng sản liên đoàn.
Ba tổ chức cộng sản ra đời cuối năm 1929 và đầu năm 1930 đã khẵng định bước
phát triển quan trọng của phong trào cách mạng Việt nam và ưu thế của hệ tư tưởng
cộng sản trong phong trào dân tộc. Tuy nhiên ở một nước mà có 3 tổ chức cộng sản sẽ
không tránh khỏi phân tán về lực lượng và tổ chức, không thể thống nhất về tư tưởng và
hành động. Trách nhiệm lịch sử của những người cộng sản là phải sớm khắc phục chổ
yếu đó để thống nhất phong trào cách mạng ở nước ta….
Tóm lại, việc Đảng Cộng Sản ra đời chính là tất yếu từ yêu cầu phải hợp nhất ba
tổ chức đảng đang hoạt động lúc bấy giờ nhằm thống nhất đường lối đấu tranh, đưa
cách mạng Việt Nam tiến tới những thắng lợi sau này.
â 2uậ văn l

5

5


Câu 3: Vì sao ĐCS Việt Nam tiến hành đổi mới đất nước. Nội dung của đường

lối đổi mới.
* Vì sao ĐCSVN phải đổi mới đất nước:
ĐCSVN, đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động của dân tộc
VN; từ khi ra đời đến nay, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đánh thắng 2 đế quốc hùng
mạnh vào bậc nhất thế giới đó là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành lấy hòa bình
thống nhất cho tổ quốc. Sau khi đất nước thống nhất, Đảng đã lãnh đạo nhân dân tiến
lên xây dựng CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển của CNTB, đồng thời từng bước tìm tòi
con đường đổi mới đất nước để từng bước ổn định đời sống của nhân dân, hướng đến
mục đích xây dựng một đất nước Việt Nam độc lập, tự do và hùng mạnh.
Trước ĐH VI, đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng KT-XH trầm trọng: SX
đình trệ cả trong nông nghiệp và công nghiệp. Năng suất lao động và hiệu quả kinh tế bị
giảm sút, nhiều mặt bị mất cân đối nghiêm trọng. Phân phối lưu thông rối ren. Lạm phát
tăng với 3 con số (1976 là 128%, 1981 là 313%, 1986 là 774,7%). Đời sống nhân dân
vô cùng khó khăn, thiếu lương thực trầm trọng, bình quân lương thực đầu người sụt
giảm từ 274kg năm 1976 xuống 268kg năm 1980. Niềm tin của nhân dân vào đường lối,
chính sách của Đ và Nhà nước giảm sút.
Trước tình hình đó, Đ ta tiến hành đổi mới từng phần. Đường lối đổi mới được
hình thành từ những khởi động đổi mới từng phần ở các địa phương, cơ sở từ cuối
những năm 70 và đầu những năm 80 của TK XX. Đảng và NN đã kịp thời tổng kết thực
tiễn, điều chỉnh cơ chế chính sách để thúc đẩy phát triển nhằm khắc phục những tác
động xấu của khủng hoảng KTXH. Quá trình đổi mới được bắt đầu từ Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 6 BCHTW khóa IV (tháng 8/1979) làm cho sản xuất bung ra, chỉ thị 100
của Ban bí thư (13/01/1981) về khoán sản phẩm trong HTX nông nghiệp, Quyết định
25/CP và 26/CP của Chính phủ (21/01/1981) về cải tiến cơ chế quản lý kinh tế quốc
doanh; quan điểm của Đại Hội V của đảng (3/1982) đến Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8
BCHTW khóa V (6/1985) về giá – lương – tiền, xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan
liêu hành chính, bao cấp, những kết luận về các quan điểm kinh tế của Bộ Chính trị
(9/1986) để đi đến hoàn tất các quan điểm cơ bản của đường lối đổi mới tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng.
* Nội dung đường lối đổi mới gồm các vấn đề chủ yếu:

Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI Đảng cộng sản Việt Nam họp từ ngày 15 đến
ngày 18/12/1986 tại thủ đô HN. Dự Đại hội có 1.129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9
triệu đảng viên trong cả nước. Đại hội đã nghe và thảo luận Báo cáo chính trị của
BCHTW đảng khóa V và nhiều văn kiện quan trọng khác. Đồng chí Nguyễn Văn Linh
được bầu làm tổng Bí thư. Đại hội VI đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, gồm những
nội dung cơ bản sau:
- Đổi mới cơ cấu KT: có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần
kinh tế, xác định nền KT có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá
độ.
6

6


Đại hội xác định các thành phần KT đang tồn tại ở nước ta gồm có: KT XHCN
(quốc doanh, tập thể), KT tiểu SX hàng hóa, KT tư bản nhà nước, KT tự nhiên tự cấp tự
túc. Nhận thức và và vận dụng đúng quy luật QHSX phải phù hợp với tính chất và trình
độ của LLSX. Cùng với việc xác định kt nhiều thành phần, Đảng còn chủ trương điều
chỉnh lớn cơ cấu đầu tư, tập trung thực hiện 3 chương trình mục tiêu về lương thực, thực
phẩm và hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Bố trí lại cơ cấu sản xuất, xem nông nghiệp là
vị trí hàng đầu.
- Đổi mới cơ chế QL: kiên quyết xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu hành
chính bao cấp từ lâu đã không tạo được động lực phát triển cho nền KT chuyển sang
hạch toán kinh doanh XHCN; đổi mới kế hoạch hóa, kết hợp kế hoạch hóa với thị
trường có sự QL của NN. Phương hướng đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là xóa bỏ tập
trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và trình
độ phát triển của nền kinh tế. Trong cơ chế quản lý đó, tính kế hoạch là đặc trưng số 1
và sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa- tiền tệ là đặc trưng thứ 2. Thực chất của cơ chế
mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh
XHCN, đúng nguyên tắc TTDC.

- Đổi mới và tăng cường vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước: Nhà nước tăng
cường quản lý kinh tế - xã hội bằng hệ thống pháp luật, tăng cường bộ máy nhà nước từ
TƯ đến địa phương thành 1 thể thống nhất, có sự phân định rành mạch về nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm theo từng cấp theo nguyên tắc TTDC. Đồng thời, phân biệt rõ
chức năng quản lý hành chính, kinh tế của các CQ nhà nước TW và ĐP với chức năng
quản lý sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở.
- Đổi mới hoạt động KT đối ngoại: trên cơ sở mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh
tế đối ngoại: Đại Hội xác định trong những năm tiếp theo Nhà nước ta xác định nhiệm
vụ chính trên lĩnh vực đối ngoại đó là: Mở rộng hợp tác đầu tư với nước ngoài thông
qua việc công bố chính sách khuyến khích nước ngoài đầu tư vào VN với nhiều hình
thức nhất là các nghành đòi hỏi kỷ thật cao và sản xuất hàng xuất khẩu; đồng thời coi
trọng và động viên Việt kiều về nước đầu tư, hợp tác kinh doanh.
- Đổi mới tư duy lý luận và phong cách lãnh đạo của Đảng: Đường lối đổi mới
được xác định trên cơ sở đổi mới duy lý luận, vận dụng đúng quy luật khách quan, khắc
phục bệnh chủ quan, duy ý chí hoặ bảo thủ, trì trệ, nhận thức rõ hơn về CNXH và thời
kỳ quá độ lên CNXHđể vân dụng phù hợp vào thực tiển cách mạng Việt Nam. Đổi mới
bắt đầu từ đổi mới tư duy, trước tiên là tư duy kinh tế trên cơ sở nắm vững bản chất CM,
khoa học chủ nghĩa M-LN, kế thừa tư tưởng CM của HCM -“Đảng phải quán triệt tư
tưởng lấy dân làm gốc, phải nắm vững thực tiễn và không ngừng nâng cao trình độ trí
tuệ và đổi mới phong cách, phương pháp làm việc.
* Liên hệ ở Quảng Trị: Cùng với cả nước, Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị đã gắt
hái được những thành tựu trong đổi mới và xây dựng quê hương:

7

7


Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Trị lần thứ XV họp từ ngày 24 đến ngày 26 tháng 9
năm 2010, tại thành phố Đông Hà, đã đánh giá tình hình sau 5 năm thực hiện Nghị quyết

của đại hội XIV. Đại hội khẳng định:
Trong 5 năm qua, vượt qua những khó khăn, thách thức, Đảng bộ và nhân dân trong
tỉnh đã đoàn kết, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần
thứ XIV và đạt được những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội:
- Về kinh tế: Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá, bình quân 5 năm 2005 – 2010
đạt 10,8%; GDP bình quân đầu người năm 2010 ước đạt 16 triệu đồng, tương đương 845
USD; tổng thu ngân sách trên địa bàn năm 2010 ước đạt 850 tỷ đồng, tăng bình quân
15,5%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng giá trị trong GDP năm
2010 của các ngành: công nghiệp và xây dựng 37,5%; nông - lâm - ngư nghiệp 27,4%;
thương mại - dịch vụ 35,1%. Các ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh phát triển. Sản
xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển toàn diện và theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá gắn với xây dựng nông thôn mới. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng nhanh,
trong 5 năm huy động được 17.479 tỷ đồng, tăng gấp 3 lần giai đoạn 2000 - 2005. Kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển khá toàn diện trên tất cả các vùng.
- Văn hoá - xã hội: đạt được những tiến bộ mới, đời sống nhân dân tiếp tục được
nâng lên. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá cơ sở được củng cố
và phát triển. Các thiết chế văn hoá, thể thao được đầu tư xây dựng mới. Sự nghiệp giáo
dục - đào tạo tiếp tục phát triển cả về mạng lưới, quy mô và chất lượng.
- Quốc phòng - an ninh: được tăng cường, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế
trận an ninh nhân dân được củng cố; an ninh chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội được
giữ vững.
Công tác quản lý, điều hành của các cấp chính quyền có chuyển biến tiến bộ, hiệu
lực, hiệu quả được nâng lên. Công tác cải cách hành chính được đẩy mạnh.
Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có bước đổi mới, chất
lượng được nâng lên; khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố và tăng cường. Thực hiện
tốt các chính sách về dân tộc và tôn giáo. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được đẩy
mạnh, tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên, đoàn kết trong nội bộ
Đảng được giữ vững.


8

8


Câu 4. Phân tích TTHCM về ĐCSVN? Liên hệ TTHCM trong xây dựng Đảng
hnay
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác Lênin, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp năm 1920 và trở thành người cộng sản
Việt Nam đầu tiên. Từ đó, Người xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam là giành
độc lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh” xuất bản
năm 1927, Người khẳng định: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có
Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân
tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công,
cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Vấn đề được Người quan tâm hàng
đầu về mặt tổ chức là sớm lập ra Đảng Cộng sản - nhân tố quyết định thắng lợi của cách
mạng Việt Nam.Với vai trò tích cực của Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về mặt tư tưởng, lý
luận, chính trị và tổ chức, ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự ra đời
của Đảng là kết quả của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và đấu tranh giai cấp ở nước
ta trong những năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
- Về bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng
sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đội tiên phong của giai cấp công nhân,
mang bản chất giai cấp công nhân.
Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (2-1951), Người cho rằng: “Trong giai đoạn này, quyền
lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng
Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó
phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”. Những quan điểm trên của Hồ Chí Minh dựa trên
quan điểm của V.I Lênin về xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Đảng lấy chủ
nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng. Mục tiêu của Đảng là chủ nghĩa cộng sản.
Đảng tuân thủ một cách nghiêm túc, chặt chẽ những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu

mới của giai cấp vô sản.
- Quan niệm của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền
Ngay sau khi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, vì từ đó, Đảng lãnh đạo cách mạng
trong điều kiện đã có chính quyền. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Hồ Chí Minh
đã khẳng định mục tiêu đấu tranh của Đảng là lãnh đạo nhân dân giành lấy chính quyền,
trở thành Đảng cầm quyền mang lại lợi ích cho dân tộc, độc lập, tự do cho Tổ quốc,
hạnh phúc cho nhân dân. Đảng không phải là một tổ chức tự thân, vì vậy mục đích, tôn
chỉ của Đảng là “tận tâm”, “tận lực”, “phụng sự” và “trung thành với lợi ích của dân tộc
Việt Nam”.
Đảng cầm quyền, nhưng Đảng không thay đổi bản chất, không thay đổi mục đích lý
tưởng của mình. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, đường
lối, chính sách, các định hướng về chủ trương công tác; bằng tuyên truyền, vận động,
thuyết phục, tổ chức, kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng lựa
9

9


chọn, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ phẩm chất, đạo đức và năng lực vào trong
các cơ quan lãnh đạo chính quyền theo đúng quy trình, thủ tục và pháp luật của Nhà
nước. Đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật, liên hệ mật thiết với
nhân dân và luôn luôn chịu sự giám sát của nhân dân.
Là lực lượng duy nhất cầm quyền, Đảng chịu trách nhiệm trước lịch sử, trước nhân dân
về sự bảo vệ toàn vẹn độc lập dân tộc, về sự phát triển của đất nước, về hiệu lực và hiệu
quả hoạt động của bộ máy Nhà nước. Đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo, vừa là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Trong Di chúc, Người viết "Đảng ta là một Đảng cầm quyền... Phải giữ gìn Đảng ta thật
trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân". Quan điểm này của Hồ Chí Minh là sự vận dụng, phát triển sáng tạo lý luận MácLênin về Đảng vô sản kiểu mới. Người nhấn mạnh “việc gì có hại cho dân thì phải hết

sức tránh”. Mỗi cán bộ, đảng viên “đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc
chung cho dân…”.
Đảng cầm quyền, dân là chủ, Đảng phải lấy “dân làm gốc”. Dân chỉ có thể làm chủ thực
sự khi có sự lãnh đạo của Đảng. Mỗi người dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng
chính quyền vững mạnh là để bảo đảm quyền làm chủ thực sự của mình.
Tư tưởng và những chỉ dẫn quý báu của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam là
đường hướng, phương châm khoa học, cách mạng, để Đảng và nhân dân Việt Nam xây
dựng Đảng trở thành Đảng cách mạng chân chính, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu cao, để lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam đi tới thành công.
Vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản, Đảng ta đã
ban hành nhiều nghị quyết về xây dựng và chỉnh đốn Đảng; đặc biệt là Nghị quyết
Trung ương 4 (khóa XI): “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Đây
không những là nghị quyết cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng về lĩnh
vực xây dựng Đảng mà còn là nghị quyết có tầm chiến lược trong việc thực hiện Di
huấn quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; về tự phê bình
và phê bình; về sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Việc thực hiện hiệu quả nghị quyết
vừa là yêu cầu, vừa là nhiệm vụ bức thiết, thường xuyên của mỗi tổ chức đảng, mỗi
đảng viên, để Đảng ta luôn trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh”.
“Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” theo Nghị quyết Trung
ương 4, khóa XI, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang nỗ lực không ngừng học tập
và làm theo tư tưởng của Người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng là sự vận dụng, phát triển
sáng tạo học thuyết Mác - Lê-nin về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân vào điều
kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng ấy được thể hiện ở những luận điểm:
Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước; Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp
công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam; Đảng phải được xây dựng theo
10

10



những nguyên tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản; Đảng phải thường xuyên tự
chỉnh đốn, tự đổi mới.
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là người lãnh đạo cách mạng, vừa là người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân thực hiện đường lối đó một cách có hiệu quả nhất. Đảng
muốn giữ được vai trò lãnh đạo, được dân tin, dân phục, dân yêu thì một vấn đề căn bản
là, trong Đảng “từ Trung ương tới các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của
Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”(1).
Công việc xây dựng, chỉnh đốn tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên
Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Với cương vị lãnh đạo hệ thống chính trị,
Đảng phải xứng danh là người lãnh đạo, phải là một Đảng trí tuệ, đạo đức, văn minh. Là
thành viên của hệ thống chính trị, Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và
pháp luật, không được đứng trên, đứng ngoài pháp luật; không được đứng trên Nhà
nước và nhân dân. Đảng phải xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì
dân; chống mọi biểu hiện tiêu cực của bộ máy nhà nước, như bệnh quan liêu, lãng phí,
tham nhũng; xây dựng và nâng cao bản lĩnh chính trị và uy tín của đội ngũ cán bộ, đảng
viên. Uy tín này chủ yếu nằm ở đạo đức cách mạng, bản lĩnh và trí tuệ; ở sức cảm hóa,
thuyết phục nhân dân, với tinh thần hiểu dân, học dân, hỏi dân, tin dân, thật sự là người
đầy tớ trung thành của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đảng ta là một
Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng,
thật sự cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải
xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”(2).
Theo Hồ Chí Minh, muốn như vậy, một trong những biện pháp cơ bản là Đảng
phải thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng, và đây là công việc thường xuyên; Đảng
cầm quyền, nhưng nhân dân là chủ. Vì vậy, chỉnh đốn Đảng một mặt, khẳng định sức
mạnh chính trị to lớn của Đảng trong cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới đối với các lĩnh
vực đời sống xã hội; mặt khác, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện thoái hóa,
biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên lợi dụng cương vị của Đảng vi phạm
quyền làm chủ của nhân dân, đi ngược lại lợi ích, nguyện vọng của nhân dân, dẫn tới

lạm quyền, lộng quyền, đặc quyền, đặc lợi.
Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng ta vừa là đạo đức, vừa là văn minh, là người khởi
xướng và lãnh đạo mọi sự đổi thay của đất nước qua các giai đoạn lịch sử của cách
mạng. Ngay từ những ngày đầu lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
Muốn làm cách mạng giành chính quyền, cần có nhiều yếu tố, song nhân tố quan trọng
quyết định nhất là phải có Đảng chân chính của giai cấp công nhân và của nhân dân lao
động. Đặc biệt, trước mỗi bước ngoặt của cách mạng, Người nhấn mạnh thêm, để hoàn
thành sứ mệnh lịch sử của mình, Đảng phải coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng. Đó là việc trước tiên, việc chính, việc cần kíp, việc phải làm ngay.
Theo Người, mỗi cán bộ, đảng viên trong bất kỳ môi trường xã hội nào luôn
chịu sự tác động của những cái hay, cái dở, cái tốt, cái xấu. Để loại bỏ cái xấu, cái dở
cần phải rèn luyện thường xuyên, trong đó biện pháp quan trọng là đổi mới, xây dựng,
11

11


chỉnh đốn Đảng. Chỉnh đốn Đảng là để cán bộ, đảng viên khi gặp khó khăn thì củng cố
quan điểm, lập trường, tư tưởng, bình tĩnh sáng suốt, không bi quan, không chủ quan, tự
mãn. Chỉnh đốn, xây dựng Đảng là để khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm, làm cho
Đảng mạnh lên. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm
của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch
rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó,
rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh
dạn, chắc chắn, chân chính”(3).
Nội dung xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện
rất phong phú, đa dạng. Người nêu rõ phương châm từng bước, có trọng tâm, có kế
hoạch rõ ràng, chu đáo. Chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng phải làm toàn diện cả chính
trị, tư tưởng và tổ chức; phải được tiến hành ở tất cả các cấp. Trong đó đặc biệt coi trọng
làm tốt ở chi bộ, vì chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt. Chủ tịch

Hồ Chí Minh cho rằng: “Mỗi chi bộ của Đảng phải là một hạt nhân lãnh đạo quần
chúng ở cơ sở, đoàn kết chặt chẽ, liên hệ mật thiết với quần chúng, phát huy được trí tuệ
và lực lượng vĩ đại của quần chúng”(4); Người còn chỉ rõ: “Chi bộ là gốc rễ của Đảng ở
trong quần chúng. Chi bộ tốt thì mọi chính sách của Đảng đều được thi hành tốt, mọi
công việc đều tiến bộ không ngừng. Trái lại, nếu chi bộ kém thì công việc không trôi
chảy”(5).
Một nội dung quan trọng nữa trong xây dựng chỉnh đốn Đảng, theo Hồ Chí
Minh, là xây dựng đội ngũ đảng viên. Hồ Chí Minh đề cập đến nhiều nội dung, nhưng
toát lên những nội dung bản chất nhất: Một, đảng viên phải suốt đời phấn đấu hy sinh
cho lý tưởng của Đảng. Quá trình phấn đấu đó là bền bỉ, liên tục.Hai, đảng viên phải
luôn đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết, trước hết, biết hy
sinh lợi ích của cá nhân mình để bảo đảm lợi ích cho Đảng. Ba, đảng viên phải có đời tư
trong sáng, là một tấm gương mẫu mực để mọi người noi theo.
Để tiếp tục làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
Trung thành với tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta từ khi ra đời đến
nay luôn coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đặc biệt những năm gần đây,
Đảng đã có nhiều nghị quyết, như Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII), Nghị quyết
Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 9 (khóa IX, X), Nghị quyết
Trung ương 4 (khóa XI) đã đặt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là việc rất quan
trọng, thực hiện toàn diện từ chính trị, tư tưởng và tổ chức tốt công tác cán bộ, xây dựng
tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, công tác tự
phê bình và phê bình trong Đảng còn yếu; tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống, tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa được ngăn
chặn, đẩy lùi; nhiều đảng viên và tổ chức đảng tính chiến đấu chưa cao, nhất là ở tổ
chức cơ sở đảng; việc xây dựng quy chế và hoàn thiện quy chế theo hướng đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng còn hạn chế và có nhiều lúng túng..., càng đòi hỏi phải
12

12



coi trọng, đẩy mạnh và quyết tâm chỉ đạo chặt chẽ hơn nữa cuộc vận động xây dựng,
chỉnh đốn Đảng.
Để thực hiện nội dung xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh
trong tình hình hiện nay, trực tiếp thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI, theo
chúng tôi cần tập trung làm tốt một số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân kiên định, giữ vững và
tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, hệ tư tưởng của Đảng.
Công tác giáo dục phải làm cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng ăn sâu, bám chắc
vào đời sống chính trị tinh thần của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Trên cơ sở nắm
vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, mỗi cán bộ, đảng viên phải trung thành, vận dụng sáng tạo lý luận của Đảng vào
từng lĩnh vực của đời sống xã hội. Tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng trên nền
của sự giác ngộ chính trị cao và những nguyên tắc của công tác xây dựng Đảng, ra sức tổng
kết thực tiễn, phát triển lý luận và đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái, bảo vệ chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa;
làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta, phá
hoại khối đoàn kết trong Đảng, trong toàn xã hội.
Thứ hai, ra sức học tập, rèn luyện đạo đức, lối sống cách mạng cho đội ngũ cán
bộ, đảng viên.
Trước hết phải nâng cao kiến thức mọi mặt cho cán bộ, đảng viên, trong đó tập
trung bồi dưỡng lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, năng lực tư
duy, hoạt động thực tiễn và chuyên môn nghiệp vụ, thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Khắc phục
triệt để tình trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên giảm sút ý chí, phai nhạt lý tưởng,
thoái hóa, biến chất về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống... Đảng ta xác định việc học
tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống là chế độ bắt buộc, là tiêu chuẩn để phân loại,
đánh giá chất lượng tổ chức đảng và đảng viên.
Thứ ba, củng cố tổ chức, chấp hành nghiêm các nguyên tắc, chế độ sinh hoạt
của Đảng.

Đây là cơ sở để củng cố tổ chức, bảo đảm đoàn kết thống nhất, kỷ luật trong
Đảng. Vì vậy, phải quán triệt, chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên
tắc tổ chức cơ bản của Đảng, chế độ tự phê bình và phê bình trong toàn Đảng theo tinh
thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII; Nghị quyết Đại hội Đảng lần IX, X,
XI và Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI, để tiếp tục khơi dậy và phát huy tính tích cực,
dân chủ, trách nhiệm của đảng viên. Kiên quyết chống quan điểm, tư tưởng phủ nhận,
xuyên tạc, bóp méo nguyên tắc, chế độ xây dựng Đảng, hòng làm cho Đảng suy yếu về
tổ chức, dẫn đến biến chất Đảng./.

13

13


Câu 5: Phân tích Nội dung, ý nghĩa kháng chiến chống Pháp 1945 - 1954
a. Hoàn cảnh lịch sử
- Tháng 11/1946, quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng cả thành phố Hải
Phòng và thị xã Lạng Sơn, đổ bộ lên Đà Nẵng và gây nhiều cuộc khiêu khích, tàn sát
đồng bào ta ở phố Yên Ninh - Hàng Bún (Hà Nội). Đồng thời Pháp gửi tối hậu thư cho
chính phủ ta, đòi phải tước hết vũ khí của tự vệ Hà Nội, đòi kiểm soát an ninh trật tự ở
Thủ đô.
- Trước tình hình đó, từ ngày 13 đến ngày 22/12/1946 Ban thường vụ trung ương
Đảng ta đã họp tại Vạn Phúc, Hà Đông dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh để
hoạch định chủ trương đối phó. Hội nghị đã cử phái viên đi gặp phía Pháp để đàm phán,
song không có kết quả. Hội nghị cho rằng khả năng hoà hoãn không còn. Hoà hoãn nữa
sẽ dẫn đến hoạ mất nước, nhân dân sẽ trở lại cuộc đời nô lệ. Do đó, hội nghị đã quyết
định hạ quyết tâm phát động cuộc kháng chiến trong cả nước và chủ động tiến công
trước khi thực dân Pháp thực hiện màn kịch đảo chính quân sự ở Hà Nội. Mệnh lệnh
kháng chiến được phát đi. Vào lúc 20h ngày 19/12/1946, tất cả các chiến trường trong
cả nước đã đồng loạt nổ súng. Rạng sáng ngày 20/12/1946, lời kêu gọi toàn quốc kháng

chiến của Hồ Chí Minh được phát đi trên Đài tiếng nói Việt Nam.
- Thuận lợi của nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược là: cuộc chiến tranh của ta là cuộc chiến tranh chính nghĩa bảo vệ nền độc lập
tự do của dân tộc, ta đã có sự chuẩn bị cần thiết về mọi mặt, nên về lâu dài, ta sẽ có khả
năng đánh thắng quân xâm lược.
- Khó khăn của ta là: Tương quan lực lượng quân sự yếu hơn địch. Ta bị bao
vây bốn phía, chưa được nước nào công nhận, giúp đỡ. Còn quân Pháp lại có vũ khí tối
tân, đã chiếm đóng được hai nước Lào, Campuchia và một số nơi ở Nam Bộ Việt Nam,
có quân đội đứng chân trong các thành thị lớn ở Miền Bắc.
b. Quá trình hình thành và nội dung đường lối kháng chiến
- Ngay sau cách mạng tháng Tám, trong chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" Đảng ta
đã khẳng định kẻ thù chính của dân tộc ta là thực dân Pháp xâm lược. Trong quá trình
chỉ đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, trung ương Đảng và Hồ Chí Minh đã chỉ đạo kết
hợp đấu tranh chính trị, quân sự với ngoại giao để làm thất bại âm mưu của Pháp định
tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam.
- Ngày 19/10/1946 thường vụ trung ương Đảng mở Hội nghị Quân sự toàn quốc
lần thứ nhất, do Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì. Xuất phát từ nhận định "không sớm
thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp". Hội nghị đã đề
ra những chủ trương, biện pháp cụ thể cả về tư tưởng và tổ chức để quân dân cả nước
sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới. Trong chỉ thị Công việc khẩn cấp bây giờ ra
ngày 5/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên những việc có tầm chiến lược, toàn
cục khi bước vào cuộc kháng chiến và khẳng định lòng tin vào thắng lợi cuối cùng.
- Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được thể hiện qua 3 văn kiện chính
là: Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh (20/12/1946), Chỉ thị "Toàn
14

14


dân kháng chiến" của trung ương Đảng (22/12/1946) và tác phẩm "Kháng chiến nhất

định thắng lợi" của đồng chí Trường Chinh (9/1947).
* Nội dung đường lối:
+ Mục đích kháng chiến: là để tiếp tục sự nghiệp cách mạng tháng Tám, đánh
thực dân Pháp xâm lược, hoàn thành giải phóng dân tộc, giành độc lập và thống nhất
thật sự cho Tổ quốc.
+ Tính chất kháng chiến: Cuộc kháng chiến của ta là chiến tranh nhân dân,
chiến tranh chính nghĩa. Vì vậy, cuộc kháng chiến của ta có tính chất dân tộc giải phóng
và dân chủ mới.
+ Chính sách kháng chiến: "Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực
dân Pháp. Đoàn kết với Miên - Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hoà bình. Đoàn kết
chặt chẽ toàn dân, thực hiện toàn dân kháng chiến ...phải tự cấp, tự túc về mọi mặt".
+ Nhiệm vụ kháng chiến:
1. Đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược để giành độc lập và thống nhất thật sự cho
dân tộc.
2. Trong quá trình kháng chiến không thể không thực hiện những cải cách dân
chủ, tiến hành từng bước chính sách ruộng đất của Đảng nhằm bồi dưỡng sức dân, củng
cố khối liên minh công nông, phân hoá cô lập kẻ thù.
3. Không chỉ đấu tranh cho ta mà còn bảo vệ hoà bình thế giới.
+ Phương châm tiến hành kháng chiến: tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực
hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mạnh là chính.
-Kháng chiến toàn dân: Là toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang, có ba thứ
quân làm nòng cốt… "Bất kỳ đàn ông, đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc,
bất kỳ người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam đứng lên đánh thực dân Pháp", thực
hiện mỗi người dân là một chiến sỹ, mỗi làng xóm là một pháo đài.
- Kháng chiến toàn diện: Đánh địch về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá,
ngoại giao. Trong đó:
Kháng chiến về chính trị: Thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng,
chính quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng
tự do, hoà bình.
Kháng chiến vê quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang

nhân dân, tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên
vận động chiến, đánh chính quy, là "triệt để dùng du kích, vận động chiến. Bảo toàn
thực lực, kháng chiến lâu dài.... vừa đánh vừa võ trang thêm, vừa đánh vừa đào tạo thêm
cán bộ".
Kháng chiến về kinh tế: Phá hoại kinh tế địch như đường giao thông, cầu, cống, xây
dựng kinh tế tự cung tự cấp, tập trung phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương
nghiệp và công nghiệp quốc phòng theo nguyên tắc: “Vừa kháng chiến vừa xây dựng
đất nước”.
15

15


Kháng chiến về văn hoá: Xoá bỏ văn hoá thực dân, phong kiến, xây dựng nền văn
hoá dân chủ mới theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.
Kháng chiến về ngoại giao: Thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương thực lực. "Liên
hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân pháp", sẵn sàng đàm phán nếu Pháp
công nhận Việt Nam độc lập.
- Kháng chiến trường kỳ: Là để chống âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp,
để có thời gian để củng cố, xây dựng lực lượng, nhằm chuyển hoá tương quan lực lượng
từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch.
- Tự lực cánh sinh (dựa vào sức mình là chính), trước hết phải độc lập về đường
lối chính trị, chủ động xây dựng và phát triển thực lực của cuộc kháng chiến, đồng thời
coi trọng viện trợ quốc tế.
- Triển vọng kháng chiến: Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn, song nhất định
thắng lợi.
Đường lối kháng chiến của Đảng với những nội dung cơ bản như trên là đúng đắn và
sáng tạo, vừa kế thừa được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các nguyên lý về chiến
tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa phù hợp với hoàn cảnh đất nước lúc
bấy giờ. Đường lối kháng chiến của Đảng được công bố sớm đã có tác dụng đưa cuộc

kháng chiến từng bước đi tới thắng lợi vẻ vang.
2. Kết quả, ý nghĩa lịch sử
a. Kết quả và ý nghĩa lịch sử
* Kết quả của việc thực hiện đường lối
Về chính trị: Đảng ra hoạt động công khai đã có điều kiện kiện toàn tổ chức,
tăng cường sự lãnh đạo đối với cuộc kháng chiến. Bộ máy chính quyền năm cấp được
củng cố. Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt) được thành lập. Khối đại
đoàn kết toàn dân phát triển lên một bước mới. Chính sách ruộng đất được triển khai,
từng bước thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng.
Về quân sự: Đến cuối năm 1952, lực lượng chủ lực đã có sáu đại đoàn bộ binh,
một đại đoàn công binh - pháo binh. Thắng lợi các chiến dịch Trung Du. Đường 18, Hà
Nam Ninh, Hoà Bình, Tây Bắc, Thượng Lào...đã tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, giải
phóng nhiều vùng đất đai và dân cư, mở rộng vùng giải phóng của Việt Nam và cho
cách mạng Lào.... Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954 được ghi vào lịch sử dân
tộc ta như một Bạch Đằng một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ XX và đi vào
lịch sử thế giới như một chiến công hiển hách, báo hiệu sự thắng lợi của nhân dân các
dân tộc bị áp bức, sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân.
Về ngoại giao: Với phương châm kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại
giao, khi biết tin Pháp có ý định đàm phán, thương lượng với ta, ngày 27-12-1953, Ban
Bí thư ra Thông tư nêu rõ: "lập trường của nhân dân Việt Nam là kiên quyết kháng
chiến đến thắng lợi cuối cùng. Song nhân dân và Chính phủ ta cũng tán thành thương
lượng nhằm mục đích giải quyết hoà bình vấn đề Việt Nam". Ngày 8-5-1954, Hội nghị
quốc tế về chấm dứt chiến tranh Đông Dương chính thức khai mạc ở Giơnevơ (Thuỵ
16

16


Sĩ). Ngày 20-7-1954, các văn bản của Hiệp nghị Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập
lại hoà bình ở Đông Dương được ký kết, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm

lược của quân dân ta kết thúc thắng lợi.
* Ý nghĩa lịch sử
Đối với nước ta, việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến, xây
dựng chế độ dân chủ nhân dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân
Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức ở mức độ cao, buộc chúng phải công nhận độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương; đã làm thất bại âm mưu mở rộng
và kéo dài chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến tranh lập lại hoà bình ở Đông
Dương; giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã
hội làm căn cứ địa, hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam; tăng thêm niềm tự hào
dân tộc cho nhân dân ta và nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Đối với quốc tế, thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc
trên thế giới, mở rộng địa bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng
thế giới; cùng với nhân dân Lào và Campuchia đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực
dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa của thực phân Pháp.
Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược,
Hồ Chí Minh nói: "Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh
thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt
Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hoà bình, dân chủ và xã hội chủ
nghĩa trên thế giới".

17

17


Câu 6. Phân tích phương thức lãnh đạo của Đảng công sản trong điều kiện Đảng
cầm quyền. Liên hệ cơ quan
1. Khái niệm Đảng cầm quyền:
- Đảng cầm quyền là một khái niệm của khoa học chính trị, có nội dung xác định,
cho biết đảng chính trị nào là lực lượng nắm chính quyền, quản lý đất nước, điều hành

mọi hoạt động của xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp mình.
Đảng cộng sản Việt Nam trở thành đảng cầm quyền đã lãnh đạo hai cuộc kháng
chiến thần thánh và đã giành thắng lợi vẻ vang; Đảng tiếp tục lãnh đạo công cuộc xây
dựng đất nước, đổi mới toàn diện, hướng tới mục tiêu đưa Việt Nam cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Ở nước ta Đảng cầm quyền
không những chỉ là Đảng lãnh đạo chính quyền, mà còn là Đảng lãnh đạo cả hệ thống
chính trị và toàn xã hội.
Đảng cầm quyền là khái niệm chỉ thời kỳ đảng đã nắm được chính quyền và sử
dụng chính quyền đó như một công cụ của giai cấp nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu
chính trị của giai cấp.
Đảng cộng sản cầm quyền là khái niệm để chỉ một giai đoạn mới, một thời kỳ mới
của cách mạng. Đó là thời kỳ mà chủ nghĩa xã hội không còn đơn thuần chỉ là một mục
đích, một cương lĩnh, là học thuyết, mà đã trở thành công việc phấn đấu hàng ngày của
đảng. Đó là thời kỳ mà nhiệm vụ chiến lược hàng đầu, chủ yếu và trọng tâm là tổ chức
xây dựng đất nước, nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc là chiến lược quan trọng.
Đảng cộng sản Việt Nam trở thành đảng cầm quyền là do: Đảng đi tiên phong
trong sự nghiệp đấu tranh của nhân dân và của dân tộc, lật đổ chế độ cũ, giành lấy chính
quyền; Đảng có được sự tín nhiệm, ủng hộ của quần chúng nhân dân mà nòng cốt là liên
minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức.
Đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền, thực chất cũng là nhân dân nắm quyền, “mọi
quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Đảng được nhân dân tín nhiệm giao trọng
trách lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội.
Đảng cộng sản Việt Nam là một bộ phận nhưng với vị trí, vai trò của mình trong xã
hội, Đảng là lực lượng lãnh đạo, là bộ phận hạt nhân chịu trách nhiệm trước giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và dân tộc thực hiện sứ mệnh lãnh đạo toàn bộ hệ thống
chính trị.
2. Khái niệm Phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản:
Là các hình thức, phương pháp, biện pháp, quy trình, lề lối làm việc, tác phong
công tác mà Đảng sử dụng để tác động vào đối tượng nhằm thực hiện tốt nội dung lãnh
đạo.

3. Phân tích phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong điều kiện Đảng cầm
quyền.
3.1. Lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, chủ trương, đường lối

18

18


Đảng xây dựng các cương lĩnh chính trị, đường lối, quan điểm, chủ trương, các
nghị quyết có tính nguyên tắc nhằm giải quyết các vấn đề lớn, có ý nghĩa chính trị quan
trọng.
Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội thông qua việc thể chế hóa cương lĩnh chính trị,
chiến lược, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng thành luật pháp và chính sách.
Các đảng viên của Đảng, nhất là đảng viên giữ cương vị lãnh đạo đưa cương lĩnh,
chiến lược, chính sách, chủ trương vào thực hiện trong quá trình công tác của mình.
Bằng cách đó, đường lối chủ trương của Đảng đi vào đời sống xã hội.
Từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, Đảng đã đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo
cách mạng Việt Nam. Quá trình lãnh đạo là quá trình xác định mục tiêu, phương pháp
cách mạng; tổ chức, tập hợp, giáo dục, động viên nhân dân thực hiện các mục tiêu cách
mạng mà Đảng đề ra. Trên cơ sở các chủ trương, nghị quyết, quan điểm của Đảng xây
dựng, Nhà nước thể chế hóa thành kế hoạch chương trình phát triển kinh tế xã hội 10
năm, 5 năm,.. và tương tự cho từng ngành, từng lĩnh vực đời sống xã hội.
Đảng lãnh đạo Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội bằng việc hoạch định
được đường lối, chủ trương, quyết định định hướng cho phong trào hoạt động của các tổ
chức này, thông qua hoạt động để cụ thể hóa các chủ trương nghị quyết đó. Để làm cho
Mặt trận và các các tổ chức chính trị - xã hội phải thực sự đoàn kết, tập hợp lực lượng,
gây dựng các phong trào xã hội để thực hiện nghị quyết của Đảng, chấp hành luật pháp
của Nhà nước, phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân.
Đảng lãnh đạo nhưng không áp đặt, bao biện làm thay, không tùy tiện can thiệp

vào các hoạt động của chính quyền, đoàn thể, không trái với pháp luật.
Hiện nay cần thể chế hóa và tăng cường vai trò của Đảng trong hoạt động lập pháp
và lập quy theo chuẩn mực Nhà nước pháp quyền.
Liên quan đến mục 2, Điều 4, Hiến pháp 2013: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó
mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách
nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”, cần xây dựng thể chế chịu trách
nhiệm về hoạt động lập pháp, lập quy với tư cách là đảng cầm quyền.
3.2. Lãnh đạo bằng giáo dục, thuyết phục
Đảng lãnh đạo Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị bằng công tác tư
tưởng, bằng các phương thức giáo dục, thuyết phục đối với mọi đảng viên và nhân dân
trong thực hiện cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước;
làm cho các chủ trương, chính sách, chương trình kế hoạch, mục tiêu hoạt động của Nhà
nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị được phổ biến rộng rãi trong nhân dân, làm
cho mọi người hiểu đúng, tự giác, nghiêm chỉnh chấp hành một cách có hiệu quả.
Thông qua việc sinh hoạt và hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên trong hệ
thống chính trị, Đảng luôn giáo dục, thuyết phục cán bộ, đảng viên hoàn thành nhiệm vụ
chính trị của mình, vừa nâng cao nhận thức chính trị, giáo dục đạo đức cách mạng, lối
sống lành mạnh đồng thời qua đó tạo sự đồng thuận trong cộng đồng dân cư, khơi dậy
niềm tin của người dân đối với sự lãnh đạo của Đảng.
19

19


Đảng lãnh đạo bằng công tác tư tưởng và thể chế cầm quyền trong lĩnh vực tư
tưởng. Nếu như trước đây, phương thức công tác tư tưởng của Đảng chủ yếu là tuyên
truyền, cổ động..., thì hiện nay phải tăng cường giải đáp, đối thoại, thuyết phục; coi
trọng việc giải đáp những vấn đề đặt ra từ thực tiễn; tăng cường đưa giáo dục pháp luật,
giáo dục khoa học chính trị, giáo dục kỹ năng lãnh đạo, quản lý hiện đại... vào các
chương trình đào tạo cán bộ chủ chốt của Đảng. Bên cạnh đó, Đảng cần tập trung giải

quyết tốt những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến vận mệnh của quốc gia, dân
tộc, vận mệnh của Đảng.
3.3. Lãnh đạo bằng công tác tổ chức, cán bộ
Đảng nắm chắc công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ và các tổ chức chính trị - xã hội.
Đảng nắm chắc các tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên trong hoạt động của Nhà nước
và các tổ chức chính trị - xã hội.
Đảng đề ra đường lối về công tác cán bộ và thống nhất quản lý cán bộ, đồng thời
tôn trọng quyền hạn và trách nhiệm của Nhà nước và các tổ chức.
Trong điều kiện hòa bình, dân chủ pháp quyền, thông qua việc bầu cử để sàng lọc,
tuyển chọn, sử dụng cán bộ đảng viên tham gia vào các cơ quan quyền lực Nhà nước,
tham gia các cơ cấu chính quyền. Vì bầu cử là sự tham gia, sự phán quyết, sự đánh giá
của toàn Đảng, toàn dân; là cuộc vận động chính trị rộng rãi nhất, nơi đó thể hiện năng
lực, trình độ, phẩm chất, nhân cách, kỹ năng chính trị của ứng cử viên trước nhân dân.
Đảng với tư cách vừa là một bộ phận nhân dân, vừa là một lực lượng lãnh đạo, thông
qua đó để tuyển chọn, đánh giá, sử dụng cán bộ.
Các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ chủ chốt phải chịu trách nhiệm trước Đảng về
việc thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành các nghị quyết cụ thể, thành các
văn bản pháp quy, thành kế hoạch chỉ tiêu, chính sách cụ thể.
Đảng lãnh đạo Nhà nước và các tổ chức của hệ thống chính trị bằng việc nắm chắc
và thường xuyên rà soát, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và của cả hệ thống chính
trị, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu bộ máy, từ đó bố trí tổ chức đảng, cán bộ,
đảng viên phù hợp với mô hình, tổ chức.
Hiện nay, Đảng cần tiếp tục lãnh đạo đổi mới công tác bầu cử, xây dựng hệ thống
bầu cử và hoạt động bầu cử của Đảng và của Nhà nước thật chuyên nghiệp, có chế định
về quyền của Đảng cử đảng viên ứng cử vào các cơ quan dân cử.
3.4. Lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát
Đảng lãnh đạo Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị, các lĩnh vực của
xã hội bằng việc thường xuyên kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng và đảng viên thông
qua:
- Lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chức năng của các tổ chức này tiến hành thanh tra,

kiểm soát, kiểm tra các hoạt động của cả tổ chức và cán bộ, đảng viên, công chức đảm
bảo thực hiện đúng các nguyên tắc của đảng.
- Xây dựng chương trình và triển khai thực hiện công tác giám sát thường xuyên và
đột xuất đối với các tổ chức đảng và đảng viên.
20

20


- Thể chế hóa công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong hệ thống kiểm soát
quyền lực Nhà nước. Hoạt động này bao gồm sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
kiểm tra, giám sát của Đảng, giám sát của cơ quan dân cử, thanh tra Nhà nước và giám
sát mang tính nhân dân (đặc biệt là thanh tra nhân dân và giám sát của các đoàn thể
nhân dân, của nhân dân). Cần luật hóa vai trò, hiệu lực pháp lý của công tác kiểm tra,
giám sát Đảng trong hệ thống kiểm tra, thanh tra, giám sát từ phía nhân dân đối với các
hoạt động của cơ quan Nhà nước, công chức Nhà nước.
3.5. Lãnh đạo bằng phát huy vai trò làm chủ của nhân dân
Đảng lãnh đạo Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị còn thể hiện bằng
việc phát huy vai trò làm chủ của nhân dân.
- Tôn trọng và phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng theo quy định của Hiến
pháp và pháp luật.
- Đảng hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức quần chúng hoạt động, khơi
dậy tính chủ động sáng tạo của quần chúng.
- Đảng tạo điều kiện cho Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội trở thành lực
lượng tham mưu, nòng cốt trong việc nắm bắt dư luận xã hội, phát huy dân chủ.
- Đảng tạo điều kiện cho Mặt trận và các tổ chức đoàn thể tăng thêm tính tự chủ,
năng động, sáng tạo hơn trong hoạt động gần dân, sát dân hơn, phát huy vai trò của
người có uy tín trong cộng đồng.
- Đảng động viên tạo điều kiện để các tổ chức đoàn thể và nhân dân tham gia và
thực hiện việc giám sát, phản biện xã hội đối với mọi hoạt động của tổ chức đảng,

CBCC một cách có hiệu quả.
4. Liên hệ
Hiện nay, Đảng ta vừa lãnh đạo Nhà nước và xã hội, vừa là đảng cầm quyền, trong
bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế.
Một đòi hỏi có tính sống còn là phải đổi mới phương thức lãnh đạo, phương thức cầm
quyền của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và năng lực cầm quyền phải thích ứng với
điều kiện mới, vừa bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng theo phương thức mới, thúc đẩy
sự phát triển của đất nước, vừa bảo đảm ổn định chính trị, củng cố niềm tin của nhân
dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Đây là một nhiệm vụ nặng nề và khó khăn, đòi hỏi rất
cao về bản lĩnh và trí tuệ của Đảng.
Đối với cơ quan việc xây dựng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới cũng đặt ra không ít khó khăn thách thức.
- Trước những yêu cầu và nhiệm vụ mới đặt ra, đòi hỏi Cấp ủy Đảng phải vận dụng
sáng tạo nhiều phương pháp, hình thức mới phù hợp với thực tiễn. Trong đó, Cấp ủy
chú trọng phương pháp lãnh đạo thông qua Ban Giám đốc, tích cực phát huy vai trò của
Ban Giám đốc trong việc thể chế hóa đường lối, chủ trương, nghị quyết của chi bộ bằng
các hình thức ban hành các nội quy, quy định, quy chế, kế hoạch hoạt động, biện pháp
quản lý,..Tăng cường phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật, các chế độ chính sách,..
trên văn phòng điện tử, trên trang Web của cơ quan.
21

21


- Về công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đảng viên, CBVC thấm nhuần đạo
đức cách mạng, thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật
trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân.
Với tư cách là “người lãnh đạo”, đảng viên của Đảng phải là người đi tiên phong,
gương mẫu, dẫn dắt quần chúng theo mình.

Với tư cách là “người đầy tớ”, đảng viên của Đảng là người thực thi công vụ, phục
vụ nhân dân.
Giáo dục cán bộ, đảng viên, viên chức phải biết tôn trọng Nhà nước, gương mẫu
chấp hành Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước đồng thời vận động gia đình và bà con
địa phương làm theo.
Cùng với việc đổi mới phương thức sinh hoạt của Chi bộ, việc đề ra nghị quyết Chi
bộ hàng tháng sát đúng đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao và phải đi vào thực
tế công việc chuyên môn, nghiệp vụ nhằm thực hiện tốt chương trình, mục tiêu kế
hoạch đề ra. Khi có đường lối, chủ trương đúng thì dễ dàng đạt được sự thống nhất
trong CBVC, có sự đoàn kết và đồng thuận cao.
- Phải tăng cường giải đáp, đối thoại, thuyết phục; coi trọng việc giải đáp những
vấn đề đặt ra từ thực tiễn; tăng cường đưa giáo dục pháp luật, bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ, kỹ năng lãnh đạo, quản lý hiện đại... vào kế hoạch đào tạo cán bộ chủ chốt
của Chi bộ Đảng, của cơ quan.
Kết hợp tuyên truyền, giáo dục tư tưởng với kích thích vật chất; kết hợp biện pháp
giáo dục với biện pháp hành chính; kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng với công tác tổ
chức và biện pháp kinh tế.
- Các nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng phải không trùng với các nhiệm vụ quản lý;
phân biệt và quy định rõ nhiệm vụ cụ thể của Cấp ủy, tránh tình trạng bao biện làm thay,
hoặc tồn tại song trùng, hình thức. Tăng cường đổi mới mô hình tổ chức bộ máy hành
chính Nhà nước từ tập trung quan liêu, sang phục vụ nhân dân; từ hệ thống công vụ
ngạch, bậc, sang mô hình vị trí việc làm.
Bố trí các phòng chức năng, các khoa chuyên môn theo đúng vị trí, chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn. Xác định vị trí việc làm, số lượng người làm việc và cơ cấu
viên chức theo chức danh nghề nghiệp, tiến đến chỉ tuyển dụng nhân sự đúng vị trí việc
làm.
- Cần phát huy đầy đủ hiệu lực quản lý của chính quyền (Ban Giám đốc, khoa,
phòng), tính tích cực của các đoàn thể (công đoàn, thanh niên, phụ nữ) và quyền làm
chủ của cán bộ, viên chức.
- Tăng cường hiệu quả làm việc của Ban Thanh tra nhân dân trong việc kiểm tra và

giám sát hoạt động của Đảng, chính quyền.
- Cải cách thủ tục hành chính, đổi mới phong cách giao tiếp, ứng xử tạo sự gần
dân, phục vụ nhân dân tốt hơn; lấy hiệu quả việc phục vụ nhân dân làm thước đo năng
lực, phẩm chất, cống hiến; hạn chế những hành vi tham nhũng, tiêu cực.
22

22


23

23



×