Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Ảnh hưởng của mật độ ương, thức ăn đến tỷ lệ sống, tăng trưởng của cá Điêu hồng (Oreochromis sp.) giai đoạn từ 5 đến 60 ngày tuổi tại địa bàn Hà Tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (730.73 KB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

BÙI KHẮC PHONG

ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ ƯƠNG, THỨC ĂN ĐẾN
TỶ LỆ SỐNG, TĂNG TRƯỞNG CỦA CÁ ĐIÊU HỒNG
(Oreochromis sp.) GIAI ĐOẠN TỪ 5 ĐẾN 60 NGÀY TUỔI
TẠI ĐỊA BÀN HÀ TĨNH

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN


VINH - 2012

2


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ ƯƠNG, THỨC ĂN ĐẾN
TỶ LỆ SỐNG, TĂNG TRƯỞNG CỦA CÁ ĐIÊU HỒNG
(Oreochromis sp.) GIAI ĐOẠN TỪ 5 ĐẾN 60 NGÀY TUỔI
TẠI ĐỊA BÀN HÀ TĨNH

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THUỶ SẢN
Mã số: 60.62.70


Người thực hiện:
Bùi Khắc Phong
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Ngọc Hùng

1


VINH - 2012

LỜI CẢM ƠN

Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo hướng dẫn
TS. Trần Ngọc Hùng, người đã định hướng và chỉ dẫn tận tình trong suốt
quá trình thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn.
Trong quá trình thực hiện đề tài tốt nghiệp Thạc sĩ tại Trại cá giống Đức
Long và gia đình anh Nguyễn Xuân Mạnh xã Đức Lạng huyện Đức Thọ, tôi
đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình cùng tôi triển khai và thu thập số liệu
trong thí nghiệm này. Cảm ơn Chi cục Nuôi trồng Thuỷ Sản Hà Tĩnh đã
cung cấp, hỗ trợ vật tư và kinh phí để cho tôi thực hiện đề
Tôi xin chân thành cảm ơn đến các giảng viên, Ban Giám hiệu, Khoa
Sau Đại học, khoa Nông Lâm Ngư - Trường Đại học Vinh đã tạo điều kiện
thuận lợi để tôi học tập, nghiên cứu và hoàn thành khoá học thạc sĩ.
Cảm ơn lãnh đạo Uỷ ban nhân dân huyện và Phòng Nông nghiệp –
Phát triển nông thôn huyện Đức Thọ đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để bản
thân có đủ thời gian thực hiện luận văn.
Nhân đây tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến những người thân trong gia đình,
bạn bè và đồng nghiệp đã động viên đã cổ vũ, giúp đỡ tôi trong quá trình học
tập, nghiên cứu.
Hà Tĩnh, ngày 20 tháng 9 năm 2012
Học viên


Bùi Khắc Phong

2


CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU TRONG LUẬN VĂN

Stt

Chữ viết tắt
CT
cm

mm
n
TN
TLS
NTTS
TT
Nxb

Diễn tả nghĩa
Công thức
Centimet
Mật độ
Milimet
Số lượng mẫu
Thí nghiệm
Tỉ lệ sống

Nuôi trồng thuỷ sản
Thứ tự
Nhà xuất bản

DANH MỤC CÁC BẢNG

Số bảng

Tên bảng
3

Trang


1.1.
1.2.
1.3.
1.4.

Nhu cầu Protein trong khẩu phần ăn của một số loài cá rô phi
Khẩu phần ăn của cá rô phi ở cá cỡ khác nhau
Phân biệt cá đực và cá cái qua các đặc điểm hình thái
Các hình thức nuôi cá điêu hồng ở các nước Đông Nam Á

2.1.
3.1.

Phương pháp xác định các chỉ tiêu nghiên cứu
Ảnh hưởng của mật độ đến tỷ lệ sống cá điêu hồng ương giai đoạn


3.2.

từ 5 đến 30 ngày tuổi
25
Ảnh hưởng của mật độ đến tăng trưởng chiều dài thân toàn phần

3.3.

của cá điêu hồng giai đoạn từ 5 đến 30 ngày tuổi
Ảnh hưởng của mật độ đến tăng trưởng khối lượng của

3.4.

giai đoạn từ 5 đến 30 ngày tuổi
27
Ảnh hưởng của mật độ đến tỷ lệ sống cá điêu hồng ương giai đoạn

3.5.

từ 30 ÷ 60 ngày tuổi
28
Ảnh hưởng của mật độ ương đến tăng trưởng chiều dài thân toàn

3.6.

phần trung bình của cá điêu hồng giai đoạn ương từ 30÷60 ngày tuổi
29
Ảnh hưởng của mật độ đến tốc độ tăng trưởng tuyệt đối và tốc độ
tăng trưởng tương đối chiều dài thân toàn phần của


8
9
11
13
22

26
cá điêu hồng

cá điêu hồng

giai

3.7.

đoạn từ 30 ÷ 60 ngày tuổi
30
Ảnh hưởng của mật độ ương đến tăng trưởng khối lượng toàn thân

3.8.

trung bình của cá điêu hồng giai đoạn ương từ 30 ÷ 60 ngày tuổi
31
Ảnh hưởng của mật độ đến tốc độ tăng trưởng tuyệt đối và tốc độ
tăng trưởng tương đối khối lượng thân toàn phần của

cá điêu hồng

32


3.9.

giai đoạn 30 ÷ 60 ngày tuổi
Ảnh hưởng của các loại thức ăn đến tỷ lệ sống của

3.10.

đoạn 5 ÷ 30 ngày tuổi
33
Ảnh hưởng của các loại thức ăn đến tăng trưởng chiều dài thân

3.11.

toàn phần của cá điêu hồng giai đoạn từ 5 đến 30 ngày tuổi
Ảnh hưởng của các loại thức ăn đến tăng trưởng khối lượng của

cá điêu hồng

giai

giai đoạn từ 5 ÷ 30 ngày tuổi
Ảnh hưởng của các loại thức ăn khác nhau lên tỷ lệ sống của

34


35

điêu hồng


3.12.

trong giai đoạn từ 30 ÷ 60 ngày tuổi
36
Ảnh hưởng của các loại thức ăn đến tăng trưởng chiều dài thân
điêu hồng

3.13.



4


toàn phần trung bình của cá điêu hồng giai đoạn ương từ 30÷60 ngày 37
3.14.

tuổi
Ảnh hưởng của loại thức ăn đến tốc độ tăng trưởng tuyệt đối và
tốc độ tăng trưởng tương đối chiều dài thân toàn phần của

cá điêu

3.15.

giai đoạn từ 30 ÷ 60 ngày tuổi
38
Ảnh hưởng của loại thức ăn đến tăng trưởng khối lượng toàn thân

3.16.


trung bình của cá điêu hồng giai đoạn ương từ 30 ÷ 60 ngày tuổi
39
Ảnh hưởng của loại thức ăn đến tốc độ tăng trưởng tuyệt đối và

hồng

tốc độ tăng trưởng tương đối khối lượng thân toàn phần của
hồng

giai đoạn 30 ÷ 60 ngày tuổi

5

cá điêu

40


DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hình

Tên hình

Trang

1.1.
1.2.
2.1.
3.1.


Hình thái bên ngoài cá điêu hồng
Cá điêu hồng bố mẹ
Sơ đồ khối nghiên cứu của đề tài
Tốc độ tăng trưởng chiều dài thân toàn phần trung bình của cá

4
16
20
29

3.2.

điêu hồng giai đoạn từ 30 ÷ 60 ngày tuổi
Tốc độ tăng trưởng khối lượng toàn phần trung bình của cá điêu

31

3.3.

hồng giai đoạn từ 30 ÷ 60 ngày tuổi ở các mật độ ương
Tốc độ tăng trưởng chiều dài thân toàn phần trung bình của cá

37

3.4.

điêu hồng giai đoạn từ 30 ÷ 60 ngày tuổi ở các loại thức ăn
Tốc độ tăng trưởng khối lượng toàn phần trung bình của cá điêu


39

hồng giai đoạn từ 30 ÷ 60 ngày tuổi

6


MỤC LỤC
Trang

1.
2.
3.
1.1.
1.1.1.
1.1.2.
1.1.3.
1.1.4.
1.2.
1.2.1.
1.2.2.

LỜI CẢM ƠN
CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU TRONG LUÂN VĂN
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Mục tiêu đề tài

Nội dung nghiên cứu
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Nguồn gốc xuất xứ và đặc điểm sinh học của cá điêu hồng
Nguồn gốc xuất xứ
Đặc điểm sinh học cá điêu hồng (rô phi đỏ)
Đặc điểm dinh dưỡng, sinh trưởng
Đặc điểm sinh sản
Tình hình sản xuất giống và nuôi cá điêu hồng trên thế giới
Thế giới
Tình hình sản xuất giống và nuôi cá điêu hồng (Oreochromis sp.)

ở Việt Nam
1.3.
Tìm hiểu quy trình sản xuất giống cá điêu hồng.
1.3.1. Nuôi vỗ cá bố mẹ
1.3.2. Cho cá đẻ và ấp trứng
1.4.
Dinh dưỡng của ấu trùng của cá rô phi

i
ii
iii
v
vi
1
1
2
2
3
3

3
4
7
9
11
11
13
15
15
16
17

Chương 2. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU, PHƯƠNG PHÁP, ĐỊA 19
ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
2.1.
2.2.
2.3.

Đối tượng nghiên cứu
Vật liệu nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu

19
19
19
19

2.3.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm
2.3.2. Phương pháp xác định các chỉ tiêu nghiên cứu
2.3.3. Phương pháp xử lý số liệu, đánh giá, so sánh

2.4.
Địa điểm và thời gian nghiên cứu

7

22
24
24


3.1.

Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
25
Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ ương đến tỷ lệ sống và

tăng trưởng của cá điêu hồng giai đoạn từ 5 đến 60 ngày tuổi
25
3.1.1. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ ương đến tỷ lệ sống, tốc
độ tăng trưởng của cá điêu hồng giai đoạn từ 5 đến 30 ngày tuổi
25
3.1.2. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ đến tỷ lệ sống của cá
giai đoạn từ 30 đến 60 ngày tuổi
28
Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của loại thức ăn đến tỷ lệ sống và
điêu hồng

3.2.

tăng trưởng của cá điêu hồng giai đoạn 5 đến 60 ngày tuổi

33
3.2.1. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của loại thức ăn đến tỷ lệ sống, tăng
trưởng của cá điêu hồng giai đoạn từ 5 đến 30 ngày tuổi
33
3.2.2. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của loại thức ăn đến tỷ lệ sống, tăng
trưởng của cá điêu hồng giai đoạn từ 30 đến 60 ngày tuổi
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
TÀI LIỆU THẢO KHẢO
PHỤ LỤC

36
41
43

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cá Điêu hồng hay còn gọi là cá rô phi đỏ (Oreochromis sp.) là loài cá
nước ngọt thuộc họ cá Rô phi (Cichlidae) có nguồn gốc hình thành từ lai tạo.
Năm 1968, người Đài Loan đã phát hiện một số cá bột rô phi cỏ
(Oreochromis mosambicus) có màu đỏ do bị đột biến bạch tạng không hoàn
toàn sau đó cho lai với loài rô phi vằn O.niloticus cho thế hệ F1 với 30% cá rô
phi màu đỏ (điêu hồng). Những cá thể F1 đỏ này tiếp tục được sinh sản và lai
tạo cho thế hệ cá có nhiều đặc điểm vượt trội [40].
Cá điêu hồng (Oreochromis sp.) là đối tượng nuôi chính ở nhiều nước
trên thế giới và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Hiện nay, có nhiều chương
trình lai tạo và xử lý đơn tính đực để chọn giống cá theo các mục tiêu cụ thể
8


khác nhau đang được thực hiện trên thế giới, nhằm nâng cao chất lượng như

sinh trưởng, chịu lạnh, độ dày thân, chuyển giới đực đảm bảo chất lượng cung
cấp cho người nuôi. Nuôi cá rô phi ở nước ta, những năm gần đây phát triển
đặc biệt là loài Oreochromis sp. và rô phi vằn O. niloticus. Cá điêu hồng là
loài dễ nuôi, nuôi được mọi hình thức nuôi, thịt cá ngon không có xương dăm,
giá thành phù hợp với người dân. Nên được xác định là loài cá nuôi chủ lực
trong cơ cấu đàn cá nuôi nước ngọt.
Thực tế nhu cầu về giống cá điêu hồng ở nước ta ngày càng tăng trong khi
các cơ sở sản xuất giống hiện nay không đáp ứng đủ nhu cầu của người nuôi.
Mặt khác do sử dụng các dòng cá điêu hồng không rõ nguồn gốc để sản xuất
giống nên chất lượng con giống thấp, người nuôi gặp nhiều rủi ro như cá lớn
chậm, cỡ cá thương phẩm nhỏ dẫn đến năng suất nuôi thấp.
Hiện nay, ở Hà Tĩnh đã có một số cơ sở sản xuất được giống cá điêu
hồng Oreochromis sp. và cung cấp cho người nuôi trên địa bàn tỉnh, tuy nhiên
số lượng cá giống chất lượng chưa ổn định, một trong những nguyên nhân do
quá trình ương nuôi con giống chưa xác định được mật độ ương và các loại
thức ăn phù hợp cho mỗi giai đoạn phát triển của cá.
Xuất phát từ thực tế, được sự hỗ trợ về vật tư và kinh phí của Chi cục
Nuôi trồng Thuỷ Sản Hà Tĩnh, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài nghiên
cứu “Ảnh hưởng của mật độ ương, thức ăn đến tỷ lệ sống, tăng trưởng
của cá điêu hồng (Oreochromis sp.) giai đoạn từ 5 đến 60 ngày tuổi tại địa
bàn Hà Tĩnh”
2. Mục tiêu của đề tài
Đánh giá ảnh hưởng mật độ, các loại thức ăn phù hợp nhằm nâng cao tỷ
lệ sống, tăng trưởng của cá điêu hồng ương giai đoạn từ 5 đến 60 ngày tuổi.
3. Nội dung nghiên cứu

9


- Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ đến tỷ lệ sống, tốc độ tăng truởng

của cá điêu hồng ương giai đoạn từ 5 đến 60 ngày tuổi.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của các loại thức ăn đến tỷ lệ sống, tăng
trưởng của cá điêu hồng ương giai đoạn từ 5 đến 60 ngày tuổi.

10


Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Nguồn gốc xuất xứ và đặc điểm sinh học của cá điêu hồng
1.1.1. Nguồn gốc xuất xứ
Theo Dương Nhựt Long (2004) từ năm 1968 người ta phát hiện một số
cá bột rô phi cỏ (Oreochromis mosambicus) có màu đỏ, do bị đột biến “bạch
tạng” không hoàn toàn. Người ta tiếp tục cho lai O. mosambicus đột biến bạch
tạng với loài O. niloticus (rô phi vằn) được thế hệ F1 có 30% là rô phi màu đỏ
(điêu hồng), những cá thể này có những chấm đen ở hai bên cơ thể gần như
đối xứng nhau. Những cá thể F1 đỏ này tiếp tục được sinh sản và đã nâng
được tỷ lệ đỏ lên 80%. Dòng cá này có thể đạt 500 - 600 gam hoặc hơn sau 5
tháng nuôi và đạt 1.200 gam trong 18 tháng [17].
Năm 1975, xuất hiện một cá cái rô phi đỏ có màu sáng và nặng 1.200 gam
trong vòng 18 tháng. Theo Dương Nhựt Long (2004) cho lai con này với con rô
phi đỏ khác thì được 4 nhóm: đỏ, nâu, đen, trắng nhạt. Dòng đỏ và trắng nhạt
hoàn toàn không còn chấm đen. Cho dòng đỏ này sinh sản thì có tỷ lệ màu đỏ
của F1 cao và màu đỏ rất ổn định [17]. Do dòng cá này có hình dạng và màu đỏ
rất giống cá tráp đỏ ở biển nên mới có tên “điêu hồng” hay “diêu hồng” (tráp đỏ
- chính xác phải gọi là “hồng điêu” theo tiếng Trung Quốc) [40].
Người ta còn lai rô phi màu đỏ (điêu hồng) với dòng O. aureus cho ra
được F1 có 65% màu đỏ toàn là đực, 35% màu đen thì có 7 - 8% là cá cái. Cá F1
lớn nhanh nhất là con đực, có thể đạt cỡ 2 - 3 kg. Khi lai cá điêu hồng với dòng
O. urolesis thì cho ra F1 có 65% đỏ, 35% đen và 100% là cá đực [17], [40].

Ở Việt Nam, trường Đại học Cần Thơ đã nhập 1 đàn cá điêu hồng từ
AIT (năm 1990) và thử nghiệm nuôi, nghiên cứu về sinh học, khả năng chịu
đựng của cá điêu hồng với độ mặn, pH, nhiệt độ,... Từ năm 1997, cá điêu

11


hồng được nhập về để nuôi thương phẩm. Hiện nay Việt Nam đã phát triển tốt
trong điều kiện khí hậu bản địa và là đối tượng nuôi có giá trị kinh tế.
Rô phi đỏ từ Đài Loan đã được du nhập sang nhiều nước trong khu vực
Đông Á và Đông Nam Á và cũng được phát triển với các hình thức nuôi thâm
canh hoặc quảng canh. Hiện nay, cá điêu hồng được phát triển rộng rãi ở rất
nhiều nước ở châu Á và một số nước trên thế giới với các dòng cá lai tạo khác
nhau, cách hình thức nuôi thâm canh trong lồng, ao đất, … [40].
1.1.2. Đặc điểm sinh học cá điêu hồng (rô phi đỏ) [17], [40]
1.1.2.1. Vị trí phân loại
Giới:

Animalia

Ngành: Chordata
Lớp:

Actinopterygii

Liên bộ:

Labroidei

Bộ:


Perciformes
Phân bộ: Labroidei
Họ:

Cichlidae

Giống:

Oreochromis

Loài:

Oreochromis sp.

Tên tiếng Anh: Red Tilapia
Tên tiếng Việt: Cá điêu hồng hay còn gọi diêu hồng, rô phi đỏ

Hình 1.1. Hình thái bên ngoài cá điêu hồng
1.1.2.2. Đặc điểm hình thái

12


Theo mô tả của Dương Nhựt Long (2004), cá điêu hồng Oreochromis
sp. toàn thân phủ vẩy có màu vàng đậm, hoặc vàng nhạt hoặc đỏ hồng, cũng
có thể gặp những cá thể có màu vàng, màu hồng xen lẫn những đám vẫy màu
đen nhạt. Thân cao, hình hơi bầu dục, dẹp bên. Đầu ngắn miệng rộng hướng
ngang. Hai hàm dài bằng nhau. Lỗ mũi gần mắt hơn mõm. Mắt tròn ở nữa
trước và phía trên đầu, khoảng cách giữa hai mắt rộng. Khởi điểm vây lưng

ngang với khởi điểm vây ngực, trước khởi điểm vây bụng. Vây ngực nhọn,
dài, mềm. Vây bụng to, cứng, chưa tới lỗ hậu môn, miệng cá điêu hồng bằng
1/9 chiều dài thân, có nhiều hàng răng nhỏ sắc [17]. Cá điêu hồng là loài có
kích thước lớn, tốc độ tăng trưởng nhanh, đẻ thưa, chất lượng thịt ngon thơm.
1.1.2.3. Môi trường sống
Do có nguồn gốc ở châu Phi nên khả năng chịu lạnh của cá rô phi kém
hơn so với khả năng thích nghi ở nhiệt độ cao. Cá rô phi có thể chịu đựng được
ở nhiệt độ 400C và chết nhiều khi nhiệt độ xuống dưới 10 0C [31]. Khi nhiệt độ
xuống dưới 200C kéo dài làm cho cá chậm phát triển, nhiệt độ thích hợp cho sự
phát triển và tăng trưởng của cá rô phi là 20-30 0C. Nhiệt độ càng thấp thì cá rô
phi càng giảm ăn, ức chế sự tăng trưởng và tăng rủi ro nhiều bệnh.
Khi nhiệt độ xuống thấp dưới 140C kéo dài làm cho cá rô phi đực mất khả
năng tiết sẹ, chúng chỉ tiết sẹ khi nhiệt độ nước tăng cao hơn [16]. Nhiệt độ thích
hợp cho ấp trứng cá rô phi là trên 20 0C [31]. Khi nhiệt độ xuống dưới 200C
trứng sẹ bị ung, cá bột phát triển bình thường ở nhiệt độ 20-30 0C [35]. Theo
Rana (1990) cá rô phi ấp trong miệng kéo dài khoảng 10-15 ngày ở nhiệt độ
200C, 4-6 ngày với nhiệt độ 280C và 3-5 ngày khi nhiệt độ ở mức 350C.
Khả năng chịu lạnh của các loài cá rô phi ở mỗi loài đều có sự khác
biệt, loài O. aures và T. zillii có khả năng chịu lạnh tốt nhất và kém nhất là
loài O. niloticus [35]. Nghiên cứu về giới hạn nhiệt độ thấp của Capii (1995)
về một số loài cá rô phi cho thấy giới hạn nhiệt đôh thấp của O. aures là 8-

13


8,50C, cao là 410C, O. niloticus thấp nhất là 11-130C và cao là 420C. Trong
cùng một loài thì ngưỡng chịu nhiệt của các dòng cũng có sự sai khác về khả
năng chịu lạnh. Theo Lê Quang Long (1961), khả năng thích ứng với các biên
độ nhiệt của cá rô phi còn phụ thuộc kích cỡ cá, sự thuần hoá và độ mặn của
môi trường nước. Cá hương chịu lạnh kém hơn và ở môi trường nước lợ cá

chịu lạnh tốt hơn do ở môi trường này này hạn chế được tối đa sự gây bệnh
của nấm [16]. Khả năng chịu lạnh của cá rô phi mang tính đặc trưng của
loài, song tính bảo thủ không cao vì thế nên đây là một cơ hội tốt cho việc
di giống và thuần hoá một số loài có giá trị kinh tế đến các môi trường
khác nhau [16], [17].
1.1.2.4. Độ mặn
Theo Lê Quang Long (1961) và Nguyễn Công Dân (2000), cá rô phi là
loài rộng muối, có khả năng sống được trong môi trường nước sông, suối, đập
tràn, ao hồ nước ngọt, nước lợ và nước nặm từ 0 - 40‰. Khả năng thích ứng
với độ mặn ở mỗi loài cũng đều khác nhau. Loài O. niloticus có ngưỡng muối
thấp nhất và loài có ngưỡng muối cao nhất là T. zinlii, O. aures [3], [16], [34].
Loài O. niloticus có thể sinh trưởng tốt trong môi trường có độ mặn lên
đến 32‰ sau khi chúng được thuần hoá trong điều kiện các nồng độ muối
khác nhau [34].
1.1.2.5. pH
Môi trường có pH từ 6,5-8,5 là thích hợp cho sự phát triển và sinh
trưởng của cá rô phi, tuy nhiên cá rô phi có thể chịu đựng trong môi trường
nước có pH giảm xuống 4 và lên cao tới 11. Theo Philipart và Ruwet (1982)
cá rô phi chết ở pH = 3,5 hay lớn 12 sau 2-3 giờ [34].
1.1.2.6. Ôxy hoà tan
Cá rô phi có thể sống được trong ao, đầm có màu nước đậm, mạt độ tảo
dày, có hàm lượng chất hữu cơ cao và hàm lượng ôxy hoà tan trong nước
14


thấp. Yêu cầu hàm lượng ôxy hoà tan trong nước của cá rô phi ở mức thấp
hơn 5-10 so với tôm sú. Theo Magid và Babiker (1995) loài O. niloticus và O.
mossambicus có thể chịu đựng được khi ngưỡng ôxy xuống còn 0,1 mg/l. Tuy
nhiên hàm lượng ôxy thấp kéo dài sẽ ảnh hưởng đến sinh trưởng và sinh sản
của cá rô phi Tilapia [32], [36].

1.1.3 Đặc điểm dinh dưỡng, sinh trưởng
1.1.3.1. Dinh dưỡng
Tính ăn của rô phi có liên quan mật thiết đến cấu tạo của cơ quan tiêu
hoá của cá. Cá điêu hồng có thực quản ngắn, dạ dày nhỏ, ruột dài xoắn nhiều
rất phù hợp với tập tính ăn tạp.
Theo Nguyễn Dương Dũng, Nguyễn Thị An (1998) tính ăn của cá rô
phi thay đổi theo từng giai đoạn phát triển và môi trường nuôi. Khi còn nhỏ
chúng ăn sinh vật phù du như tảo và động vật phù du nhỏ là chủ yếu như ấu
trùng, côn trùng. Khi trưởng thành, cá ăn mùn bã hữu cơ lẫn các loại tảo lắng
ở đáy ao, ăn ấu trùng côn trùng, thực vật thuỷ sinh [8]. Tuy nhiên trong ương
nuôi công nghiệp cá cũng ăn các loại thức ăn chế biến từ cá tạp, cua, ghẹ, ốc,
bột cá khô, bột ngô, bột sắn, khoai lang, cám mịn, bã đậu tương, bã lạc.
Theo Lê Văn Thắng (1999), nhu cầu dinh dưỡng của cá điêu hồng thay
đổi theo từng giai đoạn phát triển. Trong các yếu tố dinh dưỡng thì Protein
đóng vai trò quan trọng nhất cả về số lượng và chất lượng. Đối với cá nhỏ nhu
cầu Protein trong khẩu phần thức ăn nhiều hơn cá lớn, cá nuôi trong hệ thống
nghèo thức ăn tự nhiên đòi hỏi hàm lượng Protein trong khẩu phần thức ăn
cao hơn so với cá nuôi trong môi trường giàu thức ăn tự nhiên hay trong ao có
bón phân [18]. Cũng theo Lê Thanh Hùng (2008) nhu cầu Protein của cá điêu
hồng khá cao từ 28 - 35%, [14]. Trong nuôi công nghiệp thành phần thức ăn
công nghiệp được sản xuất tại những hãng có uy tín thường có đầy đủ thành

15


phần cơ bản bao gồm các chất dinh dưỡng cần thiết như đạm, vitamin, lipid.
Nhu cầu Protein của một số loài cá rô phi được thể hiện ở bảng 1.1.
Bảng 1.1. Nhu cầu Protein trong khẩu phần ăn của một số loài cá rô phi
Khẩu phần


Hệ thống

Protein (%)

nuôi
Bể nước
mặn
Lồng nước
mặn

Loài

Giai đoạn

Rô phi hồng
Florida

Cá bột - cá
thịt

20-30

Tilapia

Cỡ cá lớn

28

Cá bột


30-40

O. niloticus

Cá nhỏ

24

O. niloticus

Cá bột

40

O.niloticus

Cá lớn

27,5-35

Rô phi hồng
(điêu hồng)

Nguồn
Clark và ctv,
1990
Utanabe và ctv,
1990

Nước ngọt


Santiago, và
Laron, 1991

Bể nước
mặn
Ao nước
ngọt
Bể nước
ngọt

Shiau và Huang,
1990
Siddiqui và ctv,
1988
Tuấn và ctv,
1998

Thực tế trong quá trình nuôi để đạt được hiệu quả, năng suất và sản
lượng cao khi cá được cho ăn với khẩu phần ăn hợp lý, phù hợp với từng điều
kiện ao nuôi. Thông thường khẩu phần ăn của cá giảm dần theo % khối lượng
quần đàn khi cá đang tăng trưởng. Tuy nhiên, khẩu phần thức ăn của cá cần
được điều chỉnh thường xuyên theo điều kiện thời tiết, chất lượng nước và
tình trạng sức khoẻ của cá.
Bảng 1.2. Khẩu phần ăn của cá rô phi ở cá cỡ khác nhau
Cỡ cá (gam/con)
0-5
5-20
20-40
40-100


Khẩu phần ăn (% khối lượng quần đàn)
30 giảm xuống 20
14 giảm xuống 12
7 giảm xuống 6,5
6 giảm xuống 4,5
16


100-200
200-300

4 giảm xuống 2
1,8 giảm xuống 1,5

(Nguồn Melard và Philipart, 1981: Trích dẫn của Taco, 1988)
1.1.3.2. Sinh trưởng
Sự sinh trưởng của cá rô phi mang tính chất đặc trưng của loài, các loài
rô phi khác nhau có tốc độ sinh trưởng khác nhau. Loài O. niloticus có tốc độ
tăng trưởng và phát triển nhanh vượt trội só với các loài O. mossambicus [26].
Theo Dương Nhựt Long (2004), sau một tháng tuổi cá có thể đạt trọng lượng
2 - 3 g/con và sau khoảng 2 tháng tuổi có thể đạt 10 - 12 g/con. Cá cái sẽ lớn
chậm hơn sau khi tham gia sinh sản trong khi đó cá đực vẫn lớn bình thường
vì vậy trong đàn cá điêu hồng cá đực bao giờ cũng có kích thước lớn hơn cá
cái. Sau khoảng 5 - 6 tháng nuôi cá điêu hồng có thể đạt 200 - 250 g/con và
con cái có thể đạt 150 - 200 g/con. Tốc độ lớn của cá điêu hồng phụ thuộc vào
nhiệt độ môi trường, thức ăn, mật độ thả và kỹ thuật chăm sóc. Khi nuôi thâm
canh cá lớn nhanh hơn khi nuôi bán thâm canh hay là nuôi ghép [17].
1.1.4. Đặc điểm sinh sản
Theo Dương Nhựt Long (2004), sau 5 - 6 tháng tuổi cá điêu hồng có

thể tham gia sinh sản và cũng như loài rô phi nuôi ở nước ta đều có tập tính
làm tổ đẻ ở đáy ao. Khi sinh sản, làm tổ bằng cách dùng đuôi quậy bùn và đào
hố dưới đáy ao, đường kính tổ đẻ phụ thuộc vào kích cỡ con đực. Sau khi tổ
làm xong cá tự ghép đôi và tiến hành đẻ trứng. Hầu hết các loài điêu hồng đều
đẻ nhiều lần trong năm. Cũng theo Dương Nhựt Long (2004) số trứng trong
một lần đẻ phụ thuộc vào kích cỡ cá cái, trung bình mỗi lần cá đẻ từ 1.000 2.000 trứng [17].
Sau khi đẻ xong cá cái ngậm trứng và cá con mới nở trong miệng (cá
con được giữ trong miệng đến khi hết noãn hoàng). Trong thời gian ngậm

17


trứng và nuôi con, cá cái không bắt mồi vì vậy cá không lớn, cá chỉ bắt mồi
trở lại khi đã giải phóng hết con trong miệng. Theo Mair, Abucay, Skibiski,
Abella và Beardmore (1997) chu kỳ sinh sản của cá rô phi chia làm 5 giai
đoạn: Giai đoạn xây tổ và ghép đôi, giai đoạn rụng trứng, giai đoạn ấp trứng,
giai đoạn chăm sóc con, giai đoạn dinh dưỡng và phục hồi cho chu kỳ sinh
sản tiếp theo và thời gian giữa hai lứa đẻ tùy thuộc vào thức ăn, tuổi cá,
nhiệt độ [33].
Trứng thụ tinh được cá cái nhặt ấp trong miệng, sau 3 - 5 ngày trứng
nở, cá mẹ tiếp tục chăm sóc 9 - 10 ngày, sau đó cá con rời khỏi mẹ và sống
độc lập [33], [34]. Để phân biệt cá đực cá cái người ta dựa vào hình thái bên
ngoài và dựa vào kết quả giải phẫu tuyến sinh dục. Dựa vào phương pháp giải
phẩu tuyến sinh dục: Khi cá đạt cỡ 3-5 gam mổ lấy tuyến sinh dục sau đó
nhuộm dung dịch Aceto-Carmin, dùng kính hiển vi quan sát thấy những chấm
nhỏ li ti đó là tế bào sinh dục đực, con cái cho thấy những vòng tròn nhỏ đồng
đều hoặc có một vài cỡ khác nhau đó là cá thể cái (Guerrero và Shelton,
1974).

Bảng 1.3. Phân biệt cá đực và cá cái qua các đặc điểm hình thái

Đặc điểm phân biệt

Cá đực

Đầu

To và nhô cao

Lỗ niệu và lỗ sinh dục

Hình dạng huyệt

2 lỗ: Lỗ niệu sinh dục và
lỗ niệu hậu môn
Đầu thoát lỗ niệu sinh
dục dạng lồi, hình nón
dài và nhọn

18

Cá cái
Nhỏ, hàm dưới trễ do
ngậm trứng và con
3 lỗ: Lỗ niệu, lỗ sinh
dục và lỗ hậu môn
Dạng tròn, hơi lồi và
không nhọn như cá đực


1.2. Tình hình sản xuất giống và nuôi cá điêu hồng trên thế giới

1.2.1. Thế giới
Theo Phạm Anh Tuấn (1998), từ sau thế chiến thứ 2, cá rô phi trở thành
loài cá nuôi quan trọng. Người Nhật đã giúp phát triển loài này ở Indonexia,
Malayxia, và các nước châu Á khác. Hiện nay, cá rô phi được nuôi ở khắp nơi
trên thế giới [21].
Theo báo cáo của FAO (2004), Đài Loan được coi là đi đầu về nuôi cá
rô phi ở khu vực (từ 1946) và đạt sản lượng cao nhất thế giới 80.000 tấn năm
1982. Năm 1999 chỉ còn 57.269 tấn (54 triệu USD), năm 2000 khoảng 50.000
tấn (60 triệu USD) và chiếm 24% sản lượng cá nuôi ở Đài Loan. Diện tích nuôi
trên 8.300 ha (2000), có 1.921 ha nuôi đơn trong ao, 5.830 ha nuôi ghép trong
ao. Phương thức nuôi cá điêu hồng ở Đài Loan: nuôi đơn trong bể ximent hình
bát giác (tám cạnh) 100 m2, với nước tuần hoàn và sục khí. Cỡ cá thả 100 - 200
gam, mật độ 50 - 100 con/ m2. Dùng thức ăn công nghiệp 3 - 4 lần/ngày. Sau 3
- 4 tháng nuôi thu hoạch được 3 - 4 tấn/bể, cỡ cá trung bình 600 gam, tỉ lệ sống
90% và hệ số thức ăn 1,2 - 1,4. Ngoài ra còn nuôi trong bè 7 x 7 x 2,5 m, cỡ
mắt lưới bao quanh bè 1 cm. Cá thả 20 - 30 gam/con, mật độ 4.000 - 5.000 con/
bè. Dùng thức ăn viên cho ăn 3 lần một ngày. Cá đạt cỡ thương phẩm 600 gam
sau 4 - 5 tháng nuôi. Sản lượng 1 bè 4,3 - 5,4 tấn/2 vòng nuôi một năm. Tuy
sản lượng giảm nhưng sản phẩm cá điêu hồng Đài Loan có chất lượng
rất cao[41].
Ở Indonesia cá điêu hồng được nuôi ghép với các loài như cá chép, cá
mè vinh, tai tượng trong mô hình nuôi kết hợp, cho cá ăn thức ăn hoặc dùng
phân bón. Nuôi cá bè phát triển trên sông, kênh thủy lợi, hồ chứa. Bè có kích
thước 7x7x2 m. Với cá đơn tính đực thả 2.500 con/bè (cỡ cá 50gam, cho ăn
thức ăn công nghiệp). Sau 120 ngày thu được 1.000 kg cá/bè với hệ số thức
ăn 1,2. Nuôi trong ao nước lợ (15 ppt) diện tích 4.000m 2 cỡ cá 3-5 cm thả
19


10.000 con/ao, cho cá ăn thức ăn công nghiệp. Thu hoạch cá sau 110 ngày đạt

cỡ 200 gam năng suất 1,7-2 tấn/ao, tỉ lệ sống 80-85%[41].
Ở Thái Lan đã hoàn thiện công nghiệp tạo cá điêu hồng đơn tính đực và
ứng dụng phổ biến trong thập niên 90 thế kỷ trước, từ kỹ thuật của AIT. Có
trại sản xuất giống được xây dựng năm 1994, đến nay mỗi năm sản xuất 10 20 triệu cá giống đơn tính (99% đực). Về nuôi: ước tính 80% nuôi trong ao
nước ngọt và 20% trong ruộng lúa (cả điêu hồng và rô phi vằn). Nuôi ghép
với cá khác như chép, mè vinh, mè trắng, mè hoa và một số loài cá bản địa
khác. Nuôi kết hợp trên là chuồng nuôi gà, dưới là ao cá (nuôi thâm canh),
khá phát triển và năng xuất tương đối cao (20-30 tấn/ha). Hiện nay tổng sản
lượng cá rô phi của Thái Lan khoảng 150 ngàn tấn/năm. Năm 1998: 147.522
tấn [41].
Ở Malaysia được nhập công nghệ nuôi thâm canh cá điêu hồng trong
bè từ Singapore trong thập niên 1980. Cá giống 25-125 gam/con được thả
nuôi trong bể ximent tam giác (33 x 14 x 15m) với 250-1.000 kg cá giống /bể.
Cho ăn thức ăn công nghiệp và thay nước. Sau 4 tháng nuôi thu hoạch 4 - 6
tấn/ bể, cỡ cá 550 - 750 gam, hệ số thức ăn 1,9 và tỷ lệ sống 84%. Nuôi thâm
canh trong bè đặt trong sông, hồ chứa. Bè kích thước 4 x 3 x 2 m thả 2.000 cá
(cỡ 0,7 kg), nuôi sau 2 tháng thì giảm số lượng cá trong bè còn 600 con/bè,
nuôi tiếp 2 tháng để đạt cỡ 1kg/con và đưa xuất khẩu. Tỷ lệ sống thường đạt
90%, hệ số thức ăn 1,7 [41].
Bảng 1.4. Các hình thức nuôi cá điêu hồng ở các nước Đông Nam Á [41]
Stt
Nước
1 Inđonexia

Hệ thống nuôi
Nuôi ghép - Nước ngọt

Mức độ quản lý
Quảng canh


2 Malayxia

Bể xi măng và bè

Thâm canh

3 Myanmar

Nuôi đơn - Ao và bể ximent

Quảng canh

20


4 Singapore

Nuôi đơn - Bè nước lợ

Thâm canh

5 Đài Loan

Nuôi đơn - Bể ximent nước ngọt

Thâm canh

6 Thái Lan

Nuôi đơn/ghép - Nước ngọt


Thâm canh

7 Việt Nam

Nuôi đơn - Ao, bè nước ngọt
Bán thâm canh
(Theo nguồn: sonongnghiep.binhthuan.gov.vn)

Ngoài các nước trên, nuôi điêu hồng còn phát triển ở các nước
như Singapore (trong bè ngoài biển), Myamar (ao nước ngọt)
1.2.2. Tình hình sản xuất giống và nuôi cá điêu hồng (Oreochromis sp.) ở
Việt Nam
Từ năm 1994 đến nay, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy Sản 1 tiếp
nhận nhiều dòng cá rô phi vằn, điêu hồng thuần chủng của Ai Cập, Thái Lan,
Đài Loan và đã áp dụng nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật mới để cho ra được
những giống cá có những tính năng vượt trội. Những việc làm này đã và đang
tạo ra bước chuyển mới về nuôi cá rô phi ở nước ta vươn lên ngang tầm với
các nước lân cận trong khu vực Đông Nam Á [23], [41].
Tại Việt Nam, cá điêu hồng được nuôi chủ yếu ở Nam bộ tập trung ở
đồng bằng sông Cửu Long nơi có những điều kiện về thổ nhưỡng, thủy lưu
thích hợp. Hiện nay, trên các tuyến sông Tiền, sông Hậu, sông Cổ Chiên, có
525 lồng bè nuôi cá, tỉnh Tiền Giang có 1.600 bè nuôi cá, chủ yếu là nuôi cá
diêu hồng, sản lượng hàng năm khoảng 18.000 tấn, Vĩnh Long có 378 bè với
sản lượng hàng năm đạt 3.200 tấn [17], [23], [41]. Hình thức nuôi cá cũng rất
đa dạng, như nuôi lồng, bè, ao hồ, ruộng lúa khu vực ven sông, nuôi trong bể
xi măng, đăng quần.
Năm 2006, cá điêu hồng được du nhập vào Hà Tĩnh ban đầu nuôi ở dạng
mô hình trình diễn, nguồn giống lấy từ các tỉnh phía Nam, do phải mất một
thời gian cá mới thích ứng với môi trường mới dẫn đến kéo dài thời gian nuôi,

sau 8 tháng nuôi cá đạt 400-500gam/con, trong khi đó vào các tháng mùa

21


đông, nhiệt độ nước xuống thấp dưới 15oC là cá ngừng ăn ảnh hưởng đến sinh
trưởng phát triển của cá. Năm 2008, đã có một số cơ sở sản xuất cá giống điêu
hồng bước đầu thành công, nhưng do tỷ lệ cá giống hao hụt lớn cộng với chi
phí đầu vào cao làm đội giá thành cá giống khi xuất bán ra thị trường. Bên
cạnh đó do ảnh hưởng của những tháng mùa đông kéo dài với nền nhiệt thấp,
dưới 150C gây khó khăn cho công tác nuôi vỗ đàn cá bố mẹ.
Hiện nay, ở nước ta áp dụng các phương pháp cho cá đẻ và thu cá bột
như sau: 1. Phương pháp nuôi cá bố mẹ trong ao và cho đẻ tự nhiên bằng cách
cá bố mẹ được nuôi trong ao, cho ăn thức ăn đầy đủ, với thức ăn hỗn hợp chế
biến hoặc thức ăn viên công nghiệp hàm lượng đạm từ 25-28%, khẩu phần ăn
1-1,5%/ngày. Sau khi cá đẻ thì chuyển cá bố mẹ sang ao nuôi vỗ khác để cho
đẻ lứa tiếp theo và dùng ao cá đã đẻ làm ao ương cá bột thành cá giống. Cách
này dễ áp dụng cho các gia đình để tạo nguồn cá giống thả bù cho các lần
đánh tỉa cá thịt. Với cách này thì khó có thể sản xuất được số lượng lớn cá
giống để bán; 2. Phương pháp thả cá bố mẹ vào ao để cá đẻ tự nhiên, nuôi vỗ
và chăm sóc cá như ở phương pháp trên. Sau khi cá đẻ thì ương nuôi cá bột và
thu hoạch cá hương, cá giống đã được ương lớn trong ao. Biện pháp này cũng
cho năng suất thấp vì khi ương nhiều thế hệ trong ao, cá bột sẽ hao hụt nhiều
do bị cạnh tranh thức ăn và có tình trạng cá ăn thịt lẫn nhau ở các cỡ cá; 3.
Phương pháp thả cá bố mẹ vào ao đẻ, nuôi vỗ sau khoảng 2 tuần (ở nhiệt
độ trung bình 30 0 C và phương pháp chăm sóc như trên), thì cá bố mẹ sẽ
bắt đầu đẻ trứng. Khi cá đẻ xong, dùng vợt vớt hết cá bột chuyển sang
ương ở một ao riêng biệt. Cách này tuy năng suất có thể cao hơn nhưng vẫn
không thu được hết cá bột trong lứa đẻ; 4. Phương pháp chủ động thu trứng
hoặc cá bột điêu hồng để ương ấp nhân tạo, bằng cách chọn cá bố mẹ trọng

lượng từ 400-500 gam, với tỷ lệ cá đực/cá cái là 1/1. Cá bố mẹ có thể nuôi
vỗ trong ao đất hoặc bể xi măng hay trong giai với mật độ thả từ 4-5

22


con/m2. Cho ăn đầy đủ dinh dưỡng, khẩu phần để cá thành thục và đẻ tốt.
Khi cá bố mẹ đã thành thục và sẵn sàng đẻ trứng thì ta chuyển cá vào giai
cho đẻ. Khi cá bố mẹ đã đưa vào giai cho đẻ thì cứ 3-5 ngày thu trứng một
lần, tùy theo nhiệt độ nước. Trứng sau khi thu thì được phân chia theo giai
đoạn phát triển, làm sạch và ấp riêng từng lứa. Sau khi nở, các lứa tuổi cá
bột khác nhau cũng được ương riêng [41].
1.3. Tìm hiểu quy trình sản xuất giống cá điêu hồng
1.3.1. Nuôi vỗ cá bố mẹ
1.3.1.1. Tuyển chọn cá bố mẹ
Cá bố mẹ được tuyển chọn từ các ao, lồng nuôi cá thương phẩm về
nuôi vỗ thành đàn cá bố mẹ. Về tiêu chuẩn tuyển chọn cá bố mẹ. (Hình 1.2).
Cá khoẻ mạnh, bơi lội bình thường, không bị thương, dị tật, không bị bệnh.
Trọng lượng 300-500 gam/con chiếm 50% tổng đàn, trọng lượng 500-800
gam/con chiếm 50% tổng đàn. Số lượng 40- 50 con với tổng trọng lượng 35
kg. Tuổi cá từ 1-2 năm, tốt nhất là cá mới tham gia sinh sản lần đầu [17].

Hình 1.2. Cá điêu hồng bố mẹ

1.3.1.2. Nuôi vỗ

23



×