Tải bản đầy đủ (.doc) (135 trang)

Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Đức Ban

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (836.68 KB, 135 trang )

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
-----------

HOÀNG VĂN THANH

ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT
TRUYỆN NGẮN ĐỨC BAN

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

VINH, 2012
1


MỤC LỤC
Tran
g
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

1

2. Lịch sử vấn đề

1

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

7


4. Đối tượng và phạm vi khảo sát

8

5. Phương pháp nghiên cứu

8

6. Cấu trúc luận văn

8
Chương 1

TRUYỆN NGẮN ĐỨC BAN TRONG BỐI CẢNH TRUYỆN NGẮN

9

VIỆT NAM SAU 1975

1.1. Một cái nhìn khái lược về truyện ngắn Việt Nam sau 1975

9

1.1.1. Về đội ngũ

9

1.1.2. Các đề tài nổi bật

11


1.1.3. Những tìm tòi, thể nghiệm

17

1.1.3.1. Sự vận động ở dạng thức cấu trúc cốt truyện

17

1.1.3.2. Sự vận động đổi mới ở phương diện trần thuật

23

1.1.3.3. Sự vận động đổi mới ở phương diện ngôn ngữ

26

1.2. Đức Ban - đời và văn

31

1.2.1. Về cuộc đời

31

1.2.2. Con đường văn

32

1.2.3. Truyện ngắn - thành tựu nổi bật trong sáng tác của Đức

Ban

34

1.3. Đức Ban trong tiến trình văn xuôi Hà Tĩnh sau 1975

39

1.3.1. Một cái nhìn phác thảo về văn xuôi Hà Tĩnh

39

1.3.2. Đức ban - gương mặt xuất sắc của văn xuôi Hà Tĩnh

41

Chương 2
CỐT TRUYỆN VÀ NHÂN VẬT TRONG

44

TRUYỆN NGẮN ĐỨC BAN

2.1. Cốt truyện

44
2


2.1.1. Cốt truyện và vai trò của cốt truyện trong truyện ngắn

hiện đại

44

2.1.2. Các dạng cốt truyện trong truyện ngắn Đức Ban

47

2.1.2.1. Dạng cốt truyện biên niên

47

2.1.2.2. Dạng cốt truyện lồng trong truyện

50

2.1.3. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện

53

2.1.3.1. Kết cấu cốt truyện theo thời gian tuyến tính

53

2.1.3.2. Kết cấu cốt truyện đồng tâm

55

2.1.3.3. Kết cấu cốt truyện phi tuyến tính


58

2.2. Nhân vật

61

2.2.1. Nhân vật và vai trò nhân vật trong truyện ngắn hiện đại

61

2.2.1.1. Giới thuyết khái niệm nhân vật

61

2.2.1.2. Nhân vật trong truyện ngắn hiện đại

62

2.2.2. Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Đức Ban

63

2.4.2.1. Nhân vật từ góc nhìn xã hội

63

2.4.2.2. Nhân vật từ góc nhìn giới tính

68


2.4.2.3. Nhân vật từ góc nhìn nghề ngiệp

70

2.2.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

73

2.2.3.1. Miêu tả ngoại hình chi tiết cụ thể

73

2.2.3.2. Đặt nhân nhân vật vào tình huống bất ngờ

75

2.2.3.3. Cá thể hoá nhân vật qua ngôn ngữ, hành động

79

Chương 3
NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRUYỆN NGẮN ĐỨC BAN

3.1. Ngôn ngữ

86
86

3.1.1 Giới thuyết khái niệm


86

3.1.2. Vai trò của ngôn ngữ trong truyện ngắn

87

3.1.3. Đặc điểm của ngôn ngữ truyện ngắn Đức Ban

91

3.1.3.1. Kết hợp nhuần nhuyễn ngôn ngữ phổ thông và phương
ngữ
3.1.3.2. Sử dụng nhiều ngôn ngữ mang tính tạo hình
3.2. Giọng điệu

91
94
99

3.2.1. Giọng điệu và vai trò của giọng điệu trong truyện ngắn

99

3.2.2. Các sắc thái giọng điệu nổi bật trong truyện ngắn Đức

101

3



Ban
3.2.2.1. Giọng khách quan

102

3.2.2.2. Giọng hoài nghi mang tính chất vấn

105

3.2.2.3. Giọng suy tư, khắc khoải mang tính chiêm nghiệm về
thế sự nhân sinh

108

3.2.3. Nghệ thuật tổ chức giọng điệu

111

3.2.3.1. Điểm nhìn trần thuật

112

3.2.3.2. Nhịp điệu trần thuật

116

3.2.3.3. Sự hoà trộn, đan xen giọng kể, tả, bình

120


KẾT LUẬN

123

TÀI LIỆU THAM KHẢO

125

PHỤ LỤC

4


Tran
Bảng 01: Khảo sát, thống kê một số dạng hành động của nhân vật
trong 15 truyện ngắn của tuyển tập Đức Ban tác phẩm chọn
lọc
Bảng 02: Khảo sát, thống kê việc sử dụng từ địa phương trong 15
truyện ngắn của tuyển tập Đức Ban tác phẩm chọn lọc
Bảng 03: Khảo sát, thống kê các câu văn, đoạn văn sử dụng nhiều
ngôn ngữ mang tính tạo hình trong 15 truyện ngắn của
tuyển tập Đức Ban tác phẩm chọn lọc

g
83
93
97

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

1.1. Đức Ban thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành sau kháng chiến chống
Mỹ. Ông viết không nhiều, song khá đa dạng về thể tài (truyện ngắn, ký, kịch,
tiểu thuyết, chân dung văn học…). Trong đó, truyện ngắn được xem là thể
loại thành công nhất. Với truyện ngắn, ông đã khẳng định được tên tuổi của
mình trong văn Việt Nam đương đại. Nghiên cứu đặc điểm truyện ngắn Đức
Ban, vì vậy không chỉ để hiểu về tài nằng, cá tính của một nhà văn đã định
hình được phong cách, mà còn gợi mở nhiều vấn đề về những tìm tòi, thể
nghiệm của truyện ngắn đương đại Việt Nam.
1.2. Đức Ban là là cây bút chủ lực của văn xuôi Hà Tĩnh từ sau chống
Mỹ (1975) đến nay. Những sáng tác của ông góp phần làm giàu có thêm cho
văn xuôi Hà Tĩnh, vừa tạo được dấu ấn riêng trong truyện ngắn Việt Nam
mấy chục năm qua. Đến nay ông đã xuất bản trên 14 đầu sách. Nhiều tác
phẩm của ông đã được trao giải thưởng văn học, như: 3 Giải A cho các tập
truyện ngắn: Đêm thức, Chuyện vẫn còn và Kịch Nguyễn Biểu; 01 Giải B cho
tập truyện ngắn Hoa cúc vàng - Giải thưởng VHNT Nguyễn Du của UBND
tỉnh Nghệ tĩnh và UBND tỉnh Hà Tĩnh; 01 Giải A cho tập truyện ngắn Đêm
thức; Giải B cho truyện ngắn Sông nước - Cuộc thi truyện ngắn Báo Văn nghệ
- Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức (1998 - 2000)… Tuy nhiên cho đến nay,
những nghiên cứu về truyện ngắn Đức Ban nói riêng, văn xuôi Hà Tĩnh nói
5


chung chưa có nhiều thành tựu. Vì lẽ đó, nghiên cứu truyện ngắn Đức Ban
không chỉ để hiểu sáng tác của ông mà còn để hiểu hơn về văn xuôi Hà Tĩnh.
2. Lịch sử vấn đề
Cho đến nay, việc nghiên cứu, tìm hiểu về đặc điểm nghệ thuật truyện
ngắn Đức Ban vẫn là một vấn đề khá mới mẻ. Thuộc thế hệ những nhà văn
trưởng thành sau chiến tranh (1975), Đức Ban giữ một vị trí quan trọng trong
văn xuôi đương đại Xứ Nghệ. Ông hội tụ được một số phẩm chất của một
nghệ sỹ đường dài, như: vốn sống phong phú, khả năng giao lưu cởi mở, năng

lực tiếp nhận cái mới - “kỹ thuật nghề nghiệp”… và chính điều này đã tạo nên
sự vững chãi trên lộ trình văn nghiệp đầy thử thách. Từ một cậu học sinh
trung học, theo tiếng gọi của tổ quốc, ông gia nhập TNXP, để rồi cùng với
thời gian, năm tháng, sự khốc liệt của chiến tranh… là những hành trang thiết
thiết thực nhất để ông theo đuổi nghề văn sau này.
Hòa bình lập lại, Đức Ban được cử đi học đại học rồi tốt nghiệp Đại
học viết văn Nguyễn Du vào những khóa đầu tiên. Về công tác tại một tỉnh lẽ,
trải qua nhiều chặng đường, nhiều cương vị công tác khác nhau, từ biên tập và
sáng tác văn học, Chủ tịch Hội Văn học và Nghệ thuật, Giám đốc Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch… cho đến Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn việt Nam
tại Hà Tĩnh, thì văn chương vẫn cứ đeo đẳng ông cho tới tận bây giờ. Đối với
ông, “nghiệp văn” là con đường không đơn thuần chỉ có sự say mê, mà ở đó
còn là thử thách, là kinh nghiệm sống, là việc không ngừng học hỏi và trau
dồi kiến thức cho bản thân. Điều này đã được tái hiện khá đầy đủ qua những
dòng tự bạch của chính nhà văn: “... Gần ba chục năm cầm bút, tôi chưa bao
giờ viết vì miếng cơm manh áo cho dù tôi đã hàng chục năm sống thiếu thốn
và cả nghèo đói nữa. Ấy là điều mỗi lúc ngoảnh nhìn tự thấy bằng lòng. Còn
nữa, chưa khi nào tôi tự bằng lòng với trang viết của mình. Cứ khao khát
không nguôi thông qua ngôn ngữ chế biến tư tưởng tình cảm của mình thành
những món ăn ngon cho đời. Cứ luôn thấy mình mắc nợ. Cứ luôn thấy mình
tài hèn sức mọn trước văn chương nghệ thuật... Chao ôi cái nghề văn mới

6


khắc nghiệt làm sao. Và có lẽ vì thế mà tôi cũng như bao người khác yêu nó
đến kiệt sức”[8].
Cho đến nay, Đức Ban đã xuất bản 14 tập sách (bao gồm truyện ngắn,
truyện vừa, kịch, tiểu thuyết và truyện viết cho thiếu nhi) với các tác phẩm
chính như: Nơi có chuyện cổ tích (Tập truyện ngắn); Hoa cúc vàng (Tập

truyện ngắn); Trăng vỡ (Tiểu thuyết); Đêm thức (Tập truyện ngắn); Khúc hát
ngày xưa (Tập truyện ngắn); Mạng nhện bạc (Tập truyện vừa); Nguyễn Biểu
(Kịch)… Qua các tác phẩm xuất bản và các giải thưởng đã trao, phần nào cho
thấy sự thành công khá đa dạng của nhà văn trên nhiều phương diện của đời
sống cũng như các thể loại văn học (từ truyện ngắn, truyện vừa, kịch, tiểu
thuyết và truyện viết cho thiếu nhi…). Nhưng có lẽ Đức Ban thành công hơn
cả là ở thể loại truyện ngắn. Với một “thi pháp tự sự” đổi mới có chọn lọc đã
đem tác giả đến với những thành công, những giải thưởng… và quan trọng
hơn, đó là một vị trí đáng kể của nhà văn Đức Ban trong làng văn đương đại
Xứ Nghệ cũng như trong lòng bạn đọc cả nước. Tác phẩm của ông đã thu hút
sự quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình và đông đảo bạn đọc trong cả
nước, một cách lặng lẽ, tự nhiên.
Bàn về truyện ngắn Đức Ban, Nguyễn Thị Nguyệt trong bài Nghĩ từ
văn xuôi Đức Ban đăng tải trên Website đã phân tích
khá cụ thể, bao quát trên cả hai phương diện con người và tác phẩm của nhà
văn Đức Ban. Theo tác giả “... Với những đóng góp quan trọng của mình cho
mảng văn xuôi, Đức Ban được xem là nhà văn tiêu biểu nhất của Hà Tĩnh
trong vòng ba chục năm lại đây. Bút lực dồi dào, vốn sống, vốn hiểu biết
phong phú, sâu sắc cộng với niềm đam mê, tâm huyết và đặc biệt là sự lao
động thực sự nghiêm túc, cẩn trọng với nghề văn chương chữ nghĩa đã tạo
nên những thành công đã được ghi nhận của ông” [60, tr. 1]. Cũng theo tác
giả, từ tập truyện ngắn đầu tiên Mưa rừng (1978) cho đến tập truyện dài được
xuất bản gần đây nhất Mạng nhện bạc (2004), trải qua quá trình sáng tác hơn
ba thập kỷ sau chiến tranh với bao thăng trầm, biến động của cuộc sống,
nhưng tất cả những hiện thực, những vang động đó đều có sự lắng động trong
7


các tác phẩm của ông. Đức Ban viết khá nhiều về mảng đề tài chiến tranh, hậu
chiến tranh và cùng với những vấn đề của nó đã có mặt trong hầu hết các

truyện ngắn của ông (Khúc hát ngày xưa, Người đàn bà choàng khăn, Sông
nước, Cô Tề làng tôi, Chuyện vẫn còn, Mồng mười tháng tám... cho đến tiểu
thuyết Trăng vỡ). Trong những truyện ngắn này, mảng hiện thực mờ tối, chìm
khuất trong hiện thực đời sống thời hậu chiến được phản ánh khá đậm trong
truyện ngắn Đức Ban. Bên cạnh đó, đề tài nông thôn bối cảnh những năm sau
chiến tranh như một bức tranh xã hội thu nhỏ với tất cả những gì tốt đẹp,
thuần khiết lẫn ấu trĩ, lệch lạc, thành kiến, đố kị và thù hận... cũng là thế giới
nghệ thuật đặc trưng của Đức Ban.
Cùng trên cách nhìn nhận và đánh giá đó, trong cuốn Nhà văn Hà Tĩnh
đương đại của hai tác giả Hà Quảng và Nguyễn Văn Quang, do NXB Đại học
Quốc gia Hà nội phát hành năm 2011 đã cho thấy một nhà văn Đức Ban với
một vị trí đáng kể trong số các nhà văn đương đại Xứ Nghệ. Sự thành công
của ông hôm nay không đơn thuần chỉ là sự say mê, mà còn là một thử thách,
một kinh nghiệm sống, một sự học hỏi, tu dưỡng không ngừng…, hơn cả
chính là ý thức, trách nhiệm với nghề. Thực tế đó đã mang lại cho ông sự
thành công khá đa dạng và phong phú trong đời sống cũng như trong sáng tác
văn học. Nhưng theo các tác giả, thành công nhất của Đức Ban có lẽ là truyện
ngắn. Nhiều tác phẩm của ông đã gây được ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn
đọc trong cũng như ngoài nước. Cũng theo tác giả của cuốn sách, thì nông
thôn là mảng đề tài được thể hiện khá đầy đặn trong tác phẩm của Đức Ban.
Với cách nhìn cuộc sống dưới góc độ mới, tác phẩm Đức Ban đã tiếp cận một
lối viết khác trước, không đơn giản, nhất thể hóa đời sống vốn đa chiều, đa
phương, nhiều nghịch lý. Cùng với đề tài nông thôn, thì đề tài chiến tranh
cũng được tác giả nói đến trong một số truyện ngắn (Sông nước, Mồng mười
tháng tám, Cô Tề làng tôi, Chuyện vẫn còn…). Ở mảng đề tài này tác giả
không trực tiếp miêu tả các trận chiến, hay đời sống hậu phương thời binh lửa
mà tập trung vào thân phận người lính, những người TNXP thời hậu chiến.

8



Trong bài Truyện ngắn được giải Báo văn nghệ - mười năm còn lại
đăng trong tập Phê bình - Tiểu luận Mùa màng văn học mấy năm qua của tác
giả Văn Chinh do Nhà xuất bản Hội nhà văn phát hành năm 2010 đã có đánh
giá, nhận xét khá hay và sâu sắc về Đức Ban và các nhà văn cùng thời đối với
thể loại truyện ngắn viết về thời hậu chiến. Đó là tính đa dạng của giọng điệu
của các số phận. Bên cạnh đó, nhà văn đã chú ý hơn đến khía cạnh thua thiệt
của nhân vật, họ lẫn khuất ở đâu đó dưới lam lũ đời thường, quá khứ chiến
tranh thi thoảng mới hiện về như một kỷ niệm buồn đau đã xa vời, đôi khi
như không phải là chính họ. Nó được thể hiện qua một số tác phẩm đạt giải
của Báo Văn nghệ, như: Một lứa bên trời (Trần Thị Huyền Trang), Người
đàn ông huyền thoại (Hồ Tĩnh Tâm), Nghề sông nước (Đức Ban), Nửa mặt
trăng trong mặt trời (Phạm Thị Ngọc Liên)…
Trên Website , đăng bài Đức Ban với đề
tài nông thôn thời hậu chiến của tác giả Yến Nhi đã có những nhận xét khá cụ
thể về tác giả và mảng đề tài trong tác phẩm. Theo tác giả, Đức Ban là người
có một vốn sống phong phú, một khả năng giao lưu cởi mở và một năng lực
tiếp nhận cái mới của kỹ thuật nghề nghiệp. Chính vì vậy mà khi viết, phản
ánh về mặt trái của cơ chế thị trường ở nông thôn, với nhiều nghịch cảnh
nhưng tác giả không đem đến cho người đọc những bi quan tuyệt vọng, nó
như những “âm án” trong đông y, là những liệu pháp tinh thần giúp con nguời
cảnh tỉnh, giữ vững ý chí đấu tranh trong những hoàn cảnh cam go. Với đề tài
nông thôn, ông đã chọn một lối đi riêng, đề cập đến mảng khuất khó nhìn thấy
trong đời sống những người nông dân sau chiến tranh với một bút pháp hiện
thực mới, tạo được hiệu ứng thẩm mỹ không theo lối mòn ở nhiều tầng lớp
độc giả. Đây thực sự là những đóng góp tạo nên một khuynh hướng mới mẻ
trong dòng chảy của văn xuôi đương đại của nhà văn Đức Ban.
Trong bài Nhà văn Đức Ban với việc đổi mới truyện ngắn đăng trên
trang và tác giả Trần Thị
Anh Thư đã đánh giá: “Diễn ngôn một cách khiêm tốn chăng nữa thì Nhà văn

Đức Ban vẫn chiếm một vị trí đáng kể trong số các nhà văn đương đại Hà
9


Tĩnh” [94, tr. 1]. Theo tác giả, sự đóng góp của Đức Ban đối với truyện ngắn
được thể hiện ở các khía cạnh: Viết về một hiện thực lớn của xã hội, ngòi bút
Đức Ban biết lảy ra vấn đề từ những sự việc hằng ngày tưởng như bằng lặng
nhưng lại có sức nổi sóng (biết chọn chi tiết để tạo tình huống); là lối kể
chuyện pha màu sắc “cổ tích thời hiện đại” (Khúc hát ngày xưa, Miếu làng,
Chuyện cổ tích…); sự kết hợp các yếu tố hữu thức với vô thức. Tính chất “ky
ảo, hư tưởng” xuất hiện trong tác phẩm như một thành phần không thể thiếu
của cấu trúc hình tượng (Đêm thức, Hoa đại…); là lối kết cấu tương phản
(Mồng mười tháng tám), “truyện trong truyện” (Sông Nước ,Sóng Bến
Duềnh), đồng hiện ( Mạng nhện)…; nhịp điệu câu văn gấp gáp, từ ngữ chân
quê, nhiều than, nhiều hỏi... ; nhân vật trong truyện của anh đa phần có số
phận không may mắn: một lão Trìu, ông Dụt, con Hệ, con Nợi... Cũng từ
đánh giá đó, thì tác giả đã đưa ra một nhận định là đang có một thế hệ tác giả
trẻ chịu ảnh hưởng của phong cách truyện ngắn Đức Ban đang dần đông, góp
phần làm phong phú nền văn chương tỉnh nhà thời ky mới.
Tại trang với bài Thử điểm lại văn xuôi Nghệ An
qua những chặng đường đã có sự ghi nhận, đánh giá cao những đóng góp của
của Đức Ban và các nhà văn cùng thời (thời tỉnh Nghệ Tĩnh) “Phải nói rằng
các tác giả thời điểm ấy đã chịu khó bám sát, nghiên cứu, lăn lộn với cuộc
sống trong thực tiễn, say mê sáng tạo văn học nghệ thuật nên đã đem lại một
số thành công đáng kể”… “Trong những năm gần đây, trải qua thời gian vừa
chia tách tỉnh, đội ngũ văn xuôi của tỉnh nhà có khoảng thời gian bị hẫng hụt,
Hồng Nhu chuyển về Huế, nhà văn Đức Ban về Hà Tĩnh, nhà văn Đặng Văn
Ký, Hồ Hữu Nại, Nguyễn Xuân Phầu, Chính Tâm… đã qua đời. Bồi dưỡng
để hình thành đội ngũ viết văn xuôi đâu phải ngày một, ngày hai, có khi phải
chờ đợi đến cả vài thế hệ” [57, tr. 1].

Với bài viết nhan đề Văn học thiếu nhi Hà Tĩnh đăng trên trang
Trần Thị Ái Vân đã có sự nhìn nhận về
nhà văn Đức Ban ngoài việc là một nhà văn tiêu biểu của Hà Tĩnh có nhiều
thành tựu trong truyện ngắn, còn có những đóng góp đáng kể bằng những
10


sáng tác hay viết cho thiếu nhi đã được tập hợp và in trong các tập truyện:
Hoa cúc vàng (NXB Kim Đồng, 1984), Những tiếng chim (NXB Thuận Hoá,
1986), Con mèo mun (NXB Kim Đồng, 2007). Truyện thiếu nhi của Đức Ban
mở ra một thế giới ky thú khi ông viết về những loài vật gần gũi với các em
như những cánh chim, những chú mèo, những con châu chấu áo xanh, những
bông hoa trong vườn… Đây cũng là một lĩnh vực thể hiện năng lực tìm tòi,
khám phá, góp phần tạo nên sự đa dạng trong cách viết của nhà văn.
Qua việc điểm lại những bài viết trên đã cho thấy một Đức Ban đa dạng
trong cách viết với nhiều thể loại khác nhau, từ truyện ngắn, tiểu thuyết,
truyện vừa, kịch…, tất cả đều đọng lại những dấu ấn nhất định. Nhưng đóng
góp đáng kể nhất vẫn là mảng văn xuôi, nhất là trên lĩnh vực truyện ngắn. Với
những đóng góp quan trọng của mình cho mảng văn xuôi nói chung cũng như
truyện ngắn nói riêng, Đức Ban được đánh giá, ghi nhận và xem là nhà văn
tiêu biểu nhất của Hà Tĩnh trong vòng ba chục năm lại đây. Bút lực dồi dào,
vốn sống, vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc cộng với niềm đam mê, tâm huyết
và đặc biệt là sự lao động thực sự nghiêm túc, cẩn trọng với nghề văn chương
chữ nghĩa đã tạo nên những thành công đã được ghi nhận của ông.
Tuy nhiên, cho đến nay có thể thấy chưa có những bài viết mang tính
nghiên cứu về truyện ngắn của Đức Ban. Đa phần các ý kiến mới chỉ dừng lại
ở những cảm nhận sơ lược, bước đầu về tác giả, tác phẩm với công chúng.
Bên cạnh đó, với một vài cuốn sách và các bài viết được đăng tải trên các tờ
báo mạng hoặc các tờ báo không chuyên cũng phần nào cho thấy đích hướng
tới, khác nhau của người viết. Trong khi đó, như đã nói ở trên, với những gì

đã có, Đức Ban đã chứng tỏ được một bút lực dồi dào, sự cẩn trọng, nghiêm
túc trong lao động nghệ thuật... và đã mang lại những thành công đã được ghi
nhận. Từ thực tế đó đã gợi ý cho chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu: Đặc
điểm nghệ thuật truyện ngắn Đức Ban.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

11


3.1. Như tên đề tài đã xác định, mục đích nghiên cứu của đề tài là khảo
sát, phân tích, chỉ ra những đặc điểm nổi bật của truyện ngắn Đức Ban trên cả
hai phương diện: nội dung tư tưởng và nghệ thuật thể hiện.
3.2. Với mục đích trên, đề tài đặt ra nhiệm vụ:
Thứ nhất, Khảo sát và bước đầu nhận diện vị trí Đức Ban trong bối
cảnh truyện ngắn Việt Nam thời chống Mỹ đến nay.
Thứ hai, Chỉ ra được những đặc sắc của truyện ngắn Đức Ban trên hai
phương diện nội dung và nghệ thuật.
Thứ ba, ở một chừng mực nhất định, chỉ ra được những dấu ấn phong
cách truyện ngắn Đức Ban.
4. Đối tượng và phạm vi khảo sát
4.1. Đối tượng khảo sát của đề tài là thế giới nghệ thuật của truyện
ngắn Đức Ban. Nói tới thế giới nghệ thuật là nói tới toàn bộ sáng tạo nghệ
thuật mang tính chỉnh thế của nhà văn trong tác phẩm. Tuy nhiên, ở đây
chúng tôi giới hạn đối tượng khảo sát ở một số phương diện nổi bật, như: Cốt
truyện, nhân vật, ngôn ngữ và giọng điệu.
4.2. Phạm vi tư liệu khảo sát chính là cuốn Đức Ban tác phẩm chọn lọc,
Nxb Hội nhà văn, 2009. Ngoài ra chúng tôi còn lựa chọn khảo sát thêm một
số tác phẩm của Đức Ban đăng tải trên các báo, tạp chí Trung ương và địa
phương.
5. Phương pháp nghiên cứu

Để giải quyết nhiệm vụ đề tài đặt ra, chúng tôi sử dụng một số phương
pháp, như: Khảo sát, thống kê; Phân tích tổng hợp; Cấu trúc - hệ thống; So
sánh đối chiếu.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài mở đầu và kết luận, luận văn được cấu trúc thành 3 chương:
Chương 1. Truyện ngắn Đức Ban trong bối cảnh truyện ngắn Việt Nam
sau 1975
Chương 2. Cốt truyện và nhân vật trong truyện ngắn Đức Ban
12


Chương 3. Ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Đức Ban
Và cuối cùng là danh mục tài liệu tham khảo.

Chương 1
TRUYỆN NGẮN ĐỨC BAN
TRONG BỐI CẢNH TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975
1.1. Một cái nhìn khái lược về truyện ngắn Việt Nam sau 1975
1.1.1. Về đội ngũ
Sau năm 1975, đất nước chuyển đổi trên nhiều phương diện, trong đó
có cả đời sống văn hoá và tư tưởng. Văn học đã có sự cựa mình thay đổi sau
chiến tranh, nhất là sau sự ra đời Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng,
Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị và đặc biệt là cuộc gặp mặt lịch sử của Tổng
Bí thư Nguyễn Văn Linh vào tháng 10 năm 1987 với các đại diện giới văn,
nghệ sỹ. Luồng gió mới đã thực sự “cởi trói”, tạo ra động lực lớn, kích thích
sự hăng say lao động, sáng tạo của các văn nghệ sỹ và bước đầu mang lại
những kết quả khá rõ nét. Bên cạnh những thành tựu của tiểu thuyết, thơ, ký,
kịch…, truyện ngắn thời ky này đã phát triển rực rỡ, và trở thành một thể loại
tiêu biểu của văn học sau 1975 - nó được xem như là một “cú hích” mạnh mẽ
và khả quan, tạo nên một phản ứng dây chuyền có tác dụng “kích nổ” cho

những thành tựu của truyện ngắn trong giai đoạn này.

13


Tạo ra, và làm được điều này, đầu tiên phải nói tới vai trò có tính chất
quyết định của đội ngũ các nhà văn tiêu biểu như: Vũ Thị thường, Nguyễn
Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Hồ Anh Thái, Y Ban, Võ
Thị Hảo, Trần Thị Mai, Dạ Ngân, Tạ Duy Anh, Nguyễn Thị Ấm, Lê Minh
Khuê, Thái Bá Tân, Phạm Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Xuân
Hà, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Thị Diệp Mai, Nguyễn Ngọc Tư... Qua đó cho
thấy sự phát triển hùng hậu, đa dạng mọi ngành nghề, mọi lứa tuổi, giới… đã
tham gia tích cực vào quá trình sáng tác văn học.
Nhìn vào đội ngũ nhà văn viết truyện ngắn sau 1975, một điều dễ thấy
là có sự kết hợp của nhiều thế hệ. Bên cạnh những nhà văn trưởng thành trong
kháng chiến chống Mỹ, như: Nguyễn Minh Châu, Bùi Hiển, Nguyễn Khải,
Nguyễn Quang Sáng, Ma Văn Kháng, Xuân Thiều, Nguyễn Trọng Oánh, Lê
Lựu… là sự xuất hiện của những cây bút trẻ. Họ đã góp phần làm thay đổi bộ
mặt và diện mạo của văn xuôi đương đại. Các sáng tác của Nguyễn Huy
Thiệp, Nguyễn Quang Lập, Tạ Duy Anh… đã mang lại cho văn xuôi những
sắc thái mới mẻ. Đọc những cây bút này, người ta có thể chê trách điều này,
điều nọ, thảo luận lại nhiều vấn đề, nhưng không thể không thừa nhận những
đổi mới mà họ đã đem đến trong văn xuôi giai đoạn này. Trên đà đổi mới đó,
sang đầu những năm 2000, văn xuôi đương đại lại có những chuyển động mới
ngoạn mục với những gương mặt đa dạng và độc đáo làm chấn động văn đàn:
Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Đình Tú, Nguyễn Danh
Lam… Dù chưa thật toàn mỹ, nhưng phải ghi nhận những chuyển động của
văn xuôi ở đầu Thế kỷ 21 hứa hẹn những thành tựu lớn…
Một đặc điểm khá nổi bật của truyện ngắn sau 1975 là sự xuất hiện
đông đảo những nhà văn nữ. Đây là một nét riêng, phản ánh tiến trình phát

triển và hội nhập của văn học Việt Nam sau 1975. Theo thống kê của Bùi Việt
Thắng, kể từ thời ky đổi mới (1986) đến nay có tới 75% người viết truyện
ngắn là nữ. Vì thế, đã có người xem đây là thời ky “âm thịnh, dương suy” của
truyện ngắn Việt Nam. Trong số đó nổi lên một số tên tuổi, như: Phạm Thị
Hoài, Y Ban, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Ấm, Dạ Ngân, Trần Thuy Mai,
14


Nguyễn thị thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Đỗ Bích Thuỷ, Võ thị Xuân Hà,
Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu… Nhiều sáng tác của họ đạt giải “thủ
khoa”, “á khoa” như: Hậu Thiên Đường của Nguyễn Thị Thu Huệ, Bức thư
gửi mẹ Âu Cơ của Y Ban, Người sót lại rừng cười của Võ thị Hảo, Thị trấn
hoa quỳ vàng của Trần Thuy Mai, Gia đình bé mọn của Dạ Ngân, Cánh đồng
bất tận của Nguyễn Ngọc Tư… Nhìn chung các nhà văn nữ có lúc đã vắt kiệt
sức mình để dâng hiến cái đẹp cho đời, nhưng để thực sự quyên mình, “hi
sinh” cho nghề nghiệp thì chưa có, do vậy danh hiệu viết truyện ngắn xuất sắc
nhất sau 1975 vẫn được trao tặng cho những cây viết nam, mà tiêu biểu là
Nguyễn Huy Thiệp với những đổi mới, cách tân mang tính đột phá về thể loại
truyện ngắn.
Có thể thấy, dù chỉ mới trong khoảng thời gian hơn 30 năm sau chiến
tranh (1975) nhưng văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói riêng đã có những
phát triển đáng kể trên nhiều phương diện. Sự phát triển này không chỉ ở chỗ
ngày càng xuất hiện đông đảo đội ngũ các nhà văn với hàng loạt tác phẩm
mới ra đời, mà cái quan trọng hơn trong sự phát triển của văn xuôi đã được
ghi nhận trên các bình diện như: đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người,
đổi mới tư duy nghệ thuật, đổi mới thể tài và phương thức thể hiện… Tất cả
những kết quả này không chỉ là luận chứng chứng tỏ bước phát triển của văn
xuôi sau 1975, mà còn là cơ sở, tiền đề để xem văn xuôi sau 1975 với tư cách
là một giai đoạn phát triển độc lập trong sự phát triển của văn xuôi Việt Nam
hiện đại. Văn xuôi Việt Nam sau 1975 là một hiện tượng đang phát triển.

1.1.2. Các đề tài nổi bật
Có thể nói, đề tài là cơ sở quan trọng nhất để nhà văn, người nghệ sỹ
khái quát, thể hiện chủ đề và xây dựng những hình tượng, những tính cách
điển hình. Tuy nhiên trong thực tế, có nhiều trường hợp đề tài, chủ đề hoà
quyện vào nhau không tách được, như một số tác phẩm ngụ ngôn, truyện
đồng thoại, một số thơ trữ tình… Do hoàn cảnh lịch sử cũng như những yêu
cầu chung của thời đại, nên chúng ta rất dễ dàng nhận ra hai dạng đề tài nổi
bật trong văn học Việt Nam hiện đại là đề tài người cán bộ chiến sỹ cách
15


mạng và quần chúng cách mạng, hai đề tài này thể hiện rõ nhất và tập trung
nhất ở giai đoạn 1945 - 1975. Nói như vậy không có nghĩa là giai đoạn này
không có những đề tài, chủ đề khác trong sáng tác văn học, ít nhiều, tập trung
hay không tập trung, có khi là sự thoảng qua, hay một dấu hiệu, một sự manh
nha… và sẽ là cơ sở, tiền đề quan trọng để các văn nghệ sỹ đi vào khái quát
hiện thực cuộc sống xã hội, điều này thể hiện rõ ở một loạt các đề tài, chủ đề
được mở ra trong sáng tác và đã đem lại những thành công rõ nét cho truyện
ngắn sau năm 1975 (nhất là từ sau 1986 lại nay).
Những năm đầu sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, nền văn
học cơ bản vẫn tiếp tục phát triển theo quán tính từ trong thời ky chiến tranh.
Đề tài về chiến tranh và người lính vẫn bao trùm lên hầu hết các sáng tác. Tuy
nhiên, trong truyện ngắn (vừa) thấy rõ nét một hướng đi vào những khoảnh
khắc thường nhật của chiến tranh, đi sâu hơn vào diễn biến tâm lý của nhân
vật, vào những cảnh ngộ và xung đột nội tâm. Bởi lẽ, “Truyện ngắn cũng có
ưu thế trong việc đặt nhân vật trong mối tương quan hôm qua và hôm nay, để
làm nổi bật lên những vấn đề có ý nghĩa đạo đức nhân sinh” [48]. Cùng quan
điểm này, tác giả Phan Cự Đệ cũng cho rằng “Cách khai thác những vấn đề
chiến tranh trong mối tương quan quá khứ - hiện tại như thế làm cho truyện
ngắn của ta sau 1975 có một bước phát triển mới, ngày càng hiện đại hơn, đáp

ứng nhu cầu bạn đọc ngày càng tốt hơn. Bởi nó không dừng lại ở trực giác mà
đi sâu vào tâm lý, tiềm thức”[18]. Điều này cho thấy, đã có sự đổi mới quan
niệm nghệ thuật về con người, đổi mới tư duy nghệ thuật, đổi mới hệ đề tài và
phương thức thể hiện… ở các nhà văn. Ngay tên gọi của tác phẩm đã phần
nào thể hiện điều đó. Nếu trước đây Lê Lựu là Người về đồng cói, Mở rừng
thì bây giờ là Thời xa vắng; Ma Văn Kháng trước đây là Xa phủ thì bây giờ là
Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới không có giấy giá thú; nếu Nguyễn
Quang Sáng trước đây là Chiếc lược ngà, Mùa gió chướng, Chị Nhung…. thì
bây giờ là Tôi thích làm vua, Thế võ… Rõ ràng trước một hiện thực mới, một
công chúng mới không cho phép nhà văn viết như cũ, sự đổi mới của các nhà
văn do đó gần như là một tất yếu sống còn của chính họ.
16


Một trong những đề tài nổi bật được nhiều thế hệ các nhà văn khai thác
sau 1975 đến nay đó là đề tài đạo đức. Điều này cũng dễ hiểu, vì sau 1975,
cuộc sống hòa bình bắt đầu với bao vấn đề mới mẻ, bức xúc thời hậu chiến.
Đời sống chính trị không còn là đối tượng phản ánh duy nhất của văn xuôi,
của truyện ngắn đương đại. Từ việc chỉ ra “đổi mới là yêu cầu bức thiết của
sự nghiệp cách mạng” đến sự “khuyến khích văn nghệ sĩ tìm tòi, sáng tạo, và
yêu cầu có những thể nghiệm mạnh bạo, rộng rãi trong sáng tạo nghệ thuật và
phát triển các loại hình và thể loại nghệ thuật, các hình thức biểu hiện”
(Nguyễn Đăng Mạnh), một hướng đi mới mở ra cho truyện ngắn đương đại.
Sự đổi mới đầu tiên có lẽ bắt đầu từ việc mở rộng phạm vi phản ánh hiện
thực. Từ một hiện thực chủ yếu được giới hạn trong đời sống chính trị xã hội,
truyện ngắn đương đại đã tìm đến một hiện thực rộng lớn hơn của đời sống
nhân sinh thế sự: “Hiện thực của đời sống hằng ngày với các quan hệ vốn dĩ
đa đoan đa sự, phức tạp chằng chịt, đan dệt nên những mạch nổi và mạch
ngầm của đời sống” (Nguyễn Văn Long). Đó là nền tảng cho sự mở rộng đề
tài trong truyện ngắn thời đổi mới, trong đó, đề tài đạo đức xã hội là một đề

tài mới mẻ, mảnh đất màu mỡ mà các nhà văn hướng đến. Từ đây, các nhà
văn truy tìm trong cơ chế thị trường đã làm nảy sinh tiêu cực, và không ngần
ngại đưa vào trang viết những hiện tượng tiêu cực của xã hội, thể hiện tính dự
báo trong thời đổi mới: Con người luôn cảnh giác, tránh xa cái phi đạo đức,
phi nhân cách. Lên án, phê phán những hiện tượng xấu xa, bỉ ổi, những việc
làm sai trái… Như vậy, đề tài đạo đức xã hội trước hết bắt nguồn từ sự nhận
thức của nhà văn trước hiện thực của cuộc sống, mà sự hiện hữu của nó là
những hiện tượng tiêu cực, sự tồi tệ, sự tha hoá, nhếch nhác của xã hội, sự suy
đồi đạo đức của con người. Truyện ngắn thời ky đổi mới thâm nhập vào đời
sống đạo đức xã hội, nhân sinh sang tái tạo đạo đức cho con người, đó là nỗi
ưu tư, trăn trở của mỗi nhà văn. Đây cũng là lý do để hàng loạt tác phẩm ra
đời như Người vãi linh hồn (Vũ Bão), Những người thợ xẻ (Nguyễn Huy
Thiệp), Ngôi nhà trên cát (Dương Thu Hương), Hậu thiên đường, Đêm dịu
dàng (Nguyễn Thị Thu Huệ), Bức tranh (Nguyễn Minh Châu), Kịch câm
17


(Phan thị Vàng Anh), Món tái dê, Lũ con hoang (Hồ Anh Thái), Kẻ sát nhân
lương thiện (Lại Văn Long)...
Truyện ngắn sau 1975, đã phát huy khả năng tiếp cận trên bình diện
đạo đức xã hội một cách nhanh nhạy và sắc bén. Nguyễn Minh Châu là nhà
văn tiên phong, nhạy cảm nhất. Ông lên tiếng kêu gọi mọi người hãy cứu lấy
nhân tình. Tác phẩm Cỏ lau, Mùa trái cóc ở miền Nam giúp ta hiểu sâu sắc về
hiện thực tha hoá, nguội lạnh của con người trước người thân và đồng loại.
Quá đó, tác giả cắt nghĩa vai trò của đồng tiền, địa vị, danh vọng đã đến lúc
làm mờ mịt con người, khiến họ có nguy cơ trở thành nạn nhân của chính
mình. Bùi Hiển với Cái bóng cột cũng đã trực tiếp lên tiếng báo động về sự
xuống cấp của con người. Qua việc khắc họa nhân vật, ông muốn đặt vấn đề
về sự tồn tại có ích của con người trên trái đất. Cá nhân luôn được quan tâm,
nhưng chủ nghĩa ích kỉ và sự thờ ơ thì phải bị lên án. Đây chính là tinh thần

nhân bản toát ra từ tác phẩm của nhiều nhà văn. Sự tha hoá đạo đức của con
người diễn ra mọi lúc, mọi nơi trong cuộc sống. Lúc xâm thực ào ạt, lúc nhấm
nháp dần mòn. Nó như một thứ vi trùng âm thầm, tinh vi len lỏi vào từng con
người, làm biến đổi nhân cách con người lúc nào không hay biết! Với tư cách
là người trong cuộc, Hồ Anh Thái hiểu đến từng chân tơ kẽ tóc cuộc sống
công chức, nên ông đã tái hiện rất chân thực các mảng tối, mảng khuất đằng
sau cái bề mặt hào nhoáng, lịch sự của thế giới trí thức công sở. Trong tác
phẩm Phòng khách, Hồ Anh Thái đã phơi bày lối sống thực dụng, hám danh
vọng, chạy theo vật chất của những kẻ hãnh tiến. Họ đã chen chúc cố lọt cho
được vào phòng khách của một vị quyền thế để giành cơ hội gặp giới ngoại
giao, hi vọng đến một nước để dự chiêu đãi quốc khánh tạo đà cho cả một
chuyến đi nước ngoài hoặc một cơ hội thăng tiến. Bên cạnh những dục vọng
sục sôi là lối sống ích kỉ, nhỏ nhen, đố kị, và nhiều khi dẫn đến sự độc ác, tàn
nhẫn trong việc đối xử lẫn nhau. Với cuộc sống nhàn nhã, tẻ nhạt trong văn
phòng khiến họ để ý, soi mói, ghen ghét, đố kị lẫn nhau. Họ ganh đua hơn
kém một cách kịch liệt dẫn đến kết cục bi thảm (Chim anh chim em). Họ thù

18


những kẻ ghét mình (Tự truyện). Họ nói xấu, bôi nhọ, hãm hại lẫn nhau
(Bóng ma trên hành lang).
Một khi, cuộc sống gia đình được đặt vào bối cảnh cụ thể, và chịu sự
tác động đa chiều của xã hội thì lối sống ích kỉ, buông thả theo những dục
vọng thấp hèn, đồng tiền trở thành lực vạn năng, bất chấp mọi nguyên tắc và
những chuẩn mực đạo đức, trong thực tế đã biến không ít những con người
trở thành bất nhân, bất nghĩa . Một khi con người đã đánh mất đi phần nhân
tính, thì chỉ còn là một động vật bình đẳng trước đồng loại. Đó là nỗi đau, là
niềm nhức nhối của lương tri mà Nguyễn Huy Thiệp gióng lên một hồi
chuông mang ý nghĩa cảnh báo trong truyện ngắn Tướng về hưu. Trong cơn

luân chuyển thời đổi mới, xã hội Việt Nam không chỉ có những con người tha
hoá trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, của tầng lớp trí thức, mà có cả sự tha hoá
của người già, trẻ, người lãnh đạo, nhà giáo, hoạ sĩ, bọn ma cô, buôn lậu.
Đồng tiền biến họ thành con thiêu thân, đắm chìm trong trường lạc. Sang
sông (Nguyễn Huy Thiệp) là cả một thế giới tha hoá, một bức tranh nhân thế:
Từ nhà sư, nhà giáo, nhà thơ, đến đôi tình nhân trẻ... đều trở thành kẻ đầu
hàng cái ác, để cái ác hoành hành. Cuộc sống càng hiện đại, con người càng
văn minh, thì càng xuất hiện nhiều cảnh nhố nhăng, bỉ ổi. Con người trong
cuộc sống hiện tại, luôn phải kiểm chứng mình thông qua nhiều mối quan hệ.
Đạo lý làm người đang có nguy cơ trở nên xa lạ với sự phát triển của văn
minh đô thị. Con người phải buộc thay mình, đổi dạng để thích nghi với quá
trình diễn biến phức tạp của cuộc sống. Vì thế, con người được đặt trong
những tình huống bắt buộc phải lựa chọn cho mình một hành vi đạo đức cụ
thể, qua đó, phẩm giá của con người được thẩm định một cách rõ nhất. Đọc
truyện ngắn Kịch câm (Phan Thị Vàng Anh) độc giả sững sờ trước những
xung đột và diễn biến trong thiên truyện. Sự im lặng đến trống vắng giữa
người cha và cô con gái qua màn kịch câm. Nội dung xoay quanh một tờ giấy
mà người con đọc được đã bộc lộ hết sự phản ứng của cô đối với thói đạo đức
giả của người bố đang nhân danh nhà giáo. Hướng về đề tài đạo đức xã hội,
các nhà văn đã thể hiện được bản lĩnh trong việc dùng ngòi bút tham gia trợ
19


lực vào cuộc đấu tranh giữa cái tốt, cái xấu, cái đạo đức và phi đạo đức đang
âm thầm diễn ra hằng giờ, hằng ngày ở ngoài xã hội, trong từng gia đình và
bên trong mỗi con người. Trên phương diện này, truyện ngắn thời đổi mới
thực sự là “chiến sĩ” tích cực, xuất sắc trên mặt trận tư tưởng của Đảng. Đi
theo hướng này, truyện ngắn đã mở ra một hướng tiếp cận hiện thực mới, góp
phần vào việc mở rộng đề tài, làm nên sự phong phú đa dạng của khu vườn
văn xuôi sau 1986.

Bên cạnh mảng đề tài đạo đức xã hội thu hút khá nhiều nhà văn tham
gia, hay nói đúng hơn là một vấn đề nhạy cảm, có sự ảnh hưởng sâu rộng đến
mọi mặt của đời sống xã hội đã nảy sinh, phát sinh trong thời bình, mà các
nhà văn là những người có sứ mệnh dự báo, phê phán, lên án “sự lệch
chuẩn”, thì mảng đề tài đời tư, thế sự cũng phát triển mạnh và dần trở thành
chính yếu trong sáng tác văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói riêng. Con
người bình thường, đời thường được chú ý và thể hiện sâu sắc với những số
phận bất hạnh, những thân phận bi kịch. Đấy là bi kịch của một thời con
người phải hy sinh “cái Tôi” cá nhân để vươn tới “cái Ta” tập thể một cách
giản đơn, cứng nhắc để rồi suốt đời thất bại. Đấy là bi kịch của những ân hận
xót xa, dằn vặt vì những lỗi lầm mà con người vô tình hay cố ý gây ra (Bức
tranh)… Có một khuynh hướng nổi lên rất rõ là sự nhận thức lại một thời. Dù
những “nhận thức lại” đó có chỗ chưa ổn, thậm chí có màu sắc “phủ định quá
khứ”, nhưng với cách nhìn đó hiện thực được đào sâu hơn, và cái quan trọng
là mang đến trong văn xuôi tính phân tích, tính triết luận cần thiết. Truyện
ngắn thế sự đã khơi đúng cái nguồn mạch sở trường của nó: đầy nếm trải, suy
tư, chiêm nghiệm, “giải phẫu” sự vật hiện tượng để đi đến cùng cái bản chất
của nó, và tác phẩm có ý nghĩa cảnh tỉnh và nhận thức rất sâu sắc, đáp ứng
được nhu cầu phân tích, lý giải suy tư về con người, xã hội của một thời đầy
biến động. Đấy là một bước phát triển quan trọng của văn xuôi phù hợp với
yêu cầu của hiện thực, của đối tượng phản ánh.
Cùng với đề tài đạo đức xã hội, đề tài đời tư thế sự, nhà văn đã không
ngần ngại khi đi vào những vùng khuất tối, gai góc của đời sống để khám phá,
20


phản ánh thế giới tinh thần đầy phức tạp và nhu cầu bản năng của con người,
đề cập đến những vấn đề bức xúc trong cuộc sống hiện đại... Với không khí
sôi nổi và dân chủ của văn học nước nhà thời kì đổi mới, văn xuôi viết về đề
tài lịch sử cũng có sự vận động, phát triển, đổi mới mạnh mẽ, thực sự gây ấn

tượng đối với độc giả. Cách nhìn nhận về lịch sử, quan niệm về lịch sử của
các nhà văn đa dạng hơn. Lịch sử không còn là “những xác chết và những sự
cố biên niên u lì” nữa mà được thổi vào tinh thần, hơi thở của cuộc sống hiện
đại. Chất liệu lịch sử được xử lí khác nhau ở mỗi nhà văn, nhưng nhìn chung
các tác giả đều cố gắng tìm kiếm những hướng đi mới, vượt thoát khỏi lối viết
truyền thống.
Với sự đổi mới đề tài, truyện ngắn sau 1975 có xu hướng trở lại với
con người cá nhân nhưng ở trình độ phát triển cao hơn, không phải kiểu con
người cá nhân chủ nghĩa, mà là một nhân cách với đầy đủ tính chất phức hợp
của nó. Sự đổi mới đề tài cùng sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người
đã đưa đến việc thay đổi hệ thống miêu tả, phương thức thể hiện, phương thức
tư duy… tạo nên bước phát triển đáng kể của truyện ngắn sau 1975.
1.1.3. Những tìm tòi, thể nghiệm
Trong cuộc sống thì sự tìm tòi, thể nghiệm luôn là một động lực thúc
đẩy tạo nên những giá trị mới, mang lại hiệu quả cao cho đời sống xã hội. Đời
sống văn học cũng vậy, nó không nằm ngoài quy luật đó. Xét về một mặt nào
đó, sự tìm tòi, thể nghiệm trong văn học không những là động lực thúc đẩy
các văn, nghệ sỹ đi tìm những giá trị mới của đời sống hiện thực, mà còn là
“chất men” gắn kết người nghệ sỹ với toàn bộ quá trình sáng tạo. Là một
trong những thể loại năng động nhất của văn học với những ưu điểm như về
dung lượng, thi pháp, tình huống, xây dựng hình tượng, nhân vật điển hình…
truyện ngắn luôn thay đổi do tác động của điều kiện lịch sử, văn hoá, xã hội.
Trước 1975, do tác động của điều kiện hoàn cảnh chiến tranh và yêu cầu của
Đảng về một nền văn nghệ cổ vũ, động viên cho hai cuộc kháng chiến giải
phóng dân tộc, văn học nói chung, truyện ngắn nói riêng mang đặc trưng “ký

21


hoá” và “sử thi hoá” rõ nét. Trong điều kiện hoàn cảnh mới của đất nước sau

1975, truyện ngắn đã có những thay đổi quan trọng.
Giới nghiên cứu cũng như giới sáng tác hầu như đều thống nhất sau
1975, truyện ngắn là thể loại gặt hái nhiều thành công, “được mùa thể loại”.
Nhà văn Nguyên Ngọc cho rằng tiếp theo “những vụ được mùa của truyện
ngắn, đây có thể coi là giai đoạn có nhiều truyện ngắn hay trong văn học Việt
Nam” [58, tr. 174]. Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng trong công trình “Truyện
ngắn, những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại” cũng khẳng định sự thành
công của truyện ngắn sau 1975: “...truyện ngắn phát triển mạnh mẽ cả về số
lượng và chất lượng”, “truyện ngắn có bước đột khởi nhờ vào ngọn gió lành
của công cuộc đổi mới” [82, tr. 201- 203]. Về cơ bản có thể thấy nổi rõ một
số hướng tìm tòi đổi mới sau :
1.1.3.1. Sự vận động ở dạng thức cấu trúc cốt truyện
Nhìn ở dạng thức cấu trúc cốt truyện, có lẽ đây là giai đoạn mà truyện
ngắn Việt Nam có dạng thức thể loại phong phú và đa dạng nhất so với từ
trước đến giờ. Có thể nói, luồng gió đổi mới đã tạo ra không khí sôi nổi chưa
từng có trong đời sống văn học với sự phát triển đột phá của các cá tính,
phong cách. Ở loại hình văn xuôi nghệ thuật, truyện ngắn, có lẽ là sân chơi
rộng rãi nhất để các cây bút thể nghiệm và trổ ra những tìm tòi, phát kiến mới.
Có khá nhiều những “tuyên ngôn mới” về văn chương được công bố, đi liền
với tuyên ngôn là những sáng tác mang tính kiểm chứng. Qua quan sát tìm
hiểu, chúng tôi nhận thấy một số dạng thức cốt truyện sau tiêu biểu thể hiện
sự tìm tòi đổi mới của truyện ngắn sau 1975.
Truyện cực ngắn, truyện ngắn, truyện siêu ngắn (truyện mi ni)
Truyện cực ngắn hay còn gọi là truyện ngắn mi ni là khái niệm để chỉ
những truyện ngắn dưới 1000 từ. Trên thế giới, dạng thức truyện ngắn mi ni
không còn quá mới mẻ. Từ những năm cuối của thế kỷ 19, đầu thế kỷ hai
mươi, Kapka đã viết những truyện ngắn dưới 500 từ. Truyện Làng gần nhất
nổi tiếng của ông dưới 100 từ. Một số truyện khác như Những thân cây, Về
những ẩn ngữ… chỉ khoảng 50 từ. Xu hướng viết truyện cực ngắn xuất hiện
22



và rộ lên thành phong trào ở nước ta chủ yếu xuất hiện từ sau 1975. Vào
khoảng giữa thập kỷ 80, Tạp chí Thế giới mới, phụ san của báo Giáo dục thời
đại, lần đầu tiên tổ chức cuộc thi truyện ngắn mi ni. Cuộc thi đã thu hút hàng
trăm cây bút với hàng nghìn tác phẩm trên khắp cả nước. Cuộc thi không chỉ
xới lên hứng thú viết truyện mi ni mà còn tạo dấu mốc, từ nay truyện mi ni sẽ
có chỗ đứng trong sự quan tâm của độc giả Việt Nam. Trong thời đại thông
tin như hiện nay, người ta đọc truyện qua Mobile, qua các trang Web điện tử
nên xu hướng viết truyện mi ni đang là sự lựa chọn của nhiều cây bút, nhất là
những cây bút thế hệ 8X, 9X.
Đặc điểm của truyện cực ngắn là sự giản lược tối đa tình huống, tình
tiết, chi tiết truyện. Nếu truyện ngắn “sống” bằng chi tiết thì truyện mi ni
“sống” bằng ý tưởng. Tình tiết, chi tiết, tình huống trong truyện mi ni không
có giá trị tạo dựng cốt truyện mà chỉ có ý nghĩa gợi ra ý tưởng. Người đọc
không phải quá bận tâm về tình tiết, chi tiết mà cần quan tâm đến sự gợi mở
của các tình tiết, chi tiết ấy. Ở truyện cực ngắn, tình tiết, chi tiết như chiếc
chìa khoá để mở ra những lớp ý tưởng mà tác giả muốn gửi gắm và người đọc
đồng sáng tạo. Truyện Con muốn sau đây của Thúy Bắc là một ví dụ:
Cu Tí, ngoài giờ học bán trú ở trường. Buổi tối và chủ nhật còn phải
thêm môn học đàn, học vẽ, học tiếng Anh. Thằng Tèo nhà bên cạnh bố mất
sớm, mẹ nó phải nuôi ba đứa em nên Tèo phải nghỉ học. Hàng ngày mỗi khi
nghe thấy tiếng đàn của Tí, Tèo rón rén nép mình bên hàng rào nhòm vô.
Nhìn ra thấy Tèo đứng đó, Tí mếu máo: - Ba ơi, con muốn được như
thằng Tèo. [11].
Ở truyện này, ý nghĩa của truyện không nằm trong chi tiết mà nằm
ngoài chi tiết, từ sức gợi của chi tiết: Tèo, đứa trẻ thiếu cha, thèm những gì
mình không có; Tí - quá đủ đầy sinh ra tâm lý ngược lại: muốn chối bỏ những
điều kiện quá đủ đầy mà với tuổi thơ, có khi đó lại là gánh nặng, là áp lực.
Triết lý rút ra từ đây: Hạnh phúc là cái gì thật khó giải thích, bất hạnh của kẻ

này đôi khi lại là niềm mơ ước của kẻ khác. Song, ý nghĩa của câu chuyện
không chỉ có thế. Từ mâu thuẫn đằng sau tiếng cười là nước mắt, là thông
23


điệp đầy day dứt: xã hội vẫn còn nhiều những cảnh ngộ éo le như hoàn cảnh
của cu Tí; làm sao để mọi đứa trẻ đều được đến trường? làm sao để có một
nền giáo dục lý tưởng - ở nền giáo dục ấy mọi trẻ em đều được quan tâm
đúng như tinh thần của câu khẩu hiệu: “Hãy giành cho trẻ em những gì tốt
nhất”. Ở môi trường giáo dục ấy, mọi trẻ em đều tìm thấy niềm vui, hạnh
phúc, tình bạn, và niềm tin yêu vào cuộc đời. Hoặc giả, có thể còn thông điệp
khác, hãy bớt chút thời gian để quan sát cuộc sống của những người xung
quanh, ta sẽ nhìn ra mình rõ hơn, có cách sống hài hoà hơn, biết chia sẻ và
cảm thông với đồng loại.
Truyện trong truyện và truyện liên hoàn
Ngược lại với kiểu truyện mi ni, dạng thức truyện trong truyện và
truyện liên hoàn lại là hình thức kéo dài truyện, chuyện nọ kéo sang chuyện
kia hoặc gối lên nhau thành các lớp truyện hoặc chuỗi truyện nhiều khi khá
phức tạp. Tiêu biểu cho kiểu kết cấu cốt truyện này là Nguyễn Huy Thiệp.
Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp rất nhiều chi tiết, tình tiết. Mỗi nhân vật
trong tác phẩm có thể tạo ra một đường dây sự kiện riêng, một mạch truyện
riêng. Tác giả giống như người ưa la cà, và cũng là người tinh thông mọi
chuyện, vì vậy, hễ cần dừng lại để lý giải, cắt nghĩa thì dường như ngay lập
tức điều đó sẽ được làm sáng tỏ ngay. Trong truyện Tướng về hưu người đọc
thấy có một loạt mạch truyện về các nhân vật có tên trong tác phẩm: Chuyện
về tướng Thuấn, liên quan đến nhân vật chính này là chuyện về vợ tướng, con
trai của tướng, cô con dâu, hai bố con người giúp việc, ông em họ xa, cô cháu
họ xa, thậm chí một kẻ tạt ngang câu chuyện như một vết nhơ như nhân vật
Khổng ở xí nghiệp nước mắm - nhà thơ cũng được tác giả “trích ngang” mấy
dòng đủ để hình dung về loại thi sĩ nửa mùa kém cỏi về nhân cách. Truyện

Con gái thuỷ thần là ba truyện ghép lại theo cấu trúc rất rời rạc: truyện thứ
nhất, truyện thứ hai, truyện thứ ba. Đặc biệt hơn, truyện Những ngọn gió Hua
Tát lại ghép từ 10 truyện, mỗi truyện đều có nội dung riêng, tình tiết riêng.
Song, có một điều đặc biệt là, mặc dù truyện của Nguyễn Huy Thiệp có nhiều
sự kiện, mạch truyện như vậy nhưng vẫn là truyện ngắn với những yêu cầu
24


nghiêm nhặt của thể loại, bởi những lý do sau: thứ nhất, mỗi truyện đều lấy
điểm tựa là một lát cắt tình huống cụ thể, một sự kiện chính gắn với một nhân
vật trung tâm. Mọi vấn đề xoay xung quanh tình huống chính ấy dù phức tạp
và rối ren đến mấy cũng là thành phần nằm “ngoài cốt truyện”. Cái “lõi” thực
của cốt truyện vẫn rất đơn giản. Chẳng hạn, truyện Tướng về hưu là tình
huống tướng Thuấn sau bao năm trận mạc về nghỉ hưu tại quê nhà. Trong
những ngày được tiếp cận với cuộc sống đời thường, vị tướng được chứng
kiến thực tiễn của thời mở cửa cơ chế. Tình huống của truyện Sang sông là
đứa bé tinh nghịch đút tay vào chiếc bình cổ. Tình huống của truyện Thương
nhớ đồng quê sự kiện cô cháu họ xa về thăm quê. Trước mắt cô gái từ bé đã
sống ở thị thành, từng du học bên Mỹ, con người và đồng quê Việt Nam thật
là một thế giới mới lạ đối với cô. Nhâm, người có nhiệm vụ đón cô gái, đồng
thời là “hướng dẫn viên” giúp cô tìm hiểu về con người và cuộc sống nơi
đây…Theo phong cách kết cấu cốt truyện của Nguyễn Huy Thiệp là Phan Thị
Vàng Anh và Nguyễn Ngọc Tư. Truyện ngắn Mười ngày của Phan Thị Vàng
Anh cũng được cấu trúc “rời” như vậy, từng ngày một, đúng mười ngày,
mười mẩu chuyện nhỏ về diễn biến tâm lý của một cô gái chờ đời người yêu
về quê nghỉ tết trong mười ngày. Hàng loạt các truyện: Đất đỏ, Khi người ta
trẻ, Si tình, Hoa muộn… cũng được đánh số các phần. Toàn bộ truyện ngắn
được “ghép” từ các mẩu chuyện nhỏ. Người đọc có cảm giác, việc kết thúc
hay kéo dài truyện hoàn toàn nằm trong “ngẫu hứng” của tác giả. Sự trễ nải
của mạch truyện nằm trong ý đồ của người viết, cũng là một phần tư tưởng

của truyện. Như vậy, khi “cài” các đường dây sự kiện xung quanh sự kiện,
tình huống chính, tác giả đã mở rộng phạm vi tiếp cận và phản ánh hiện thực.
Kiểu truyện lồng trong truyện thể hiện cách nhìn vừa bao quát song cũng thật
cụ thể, một cái nhìn đa diện, đa chiều về cuộc sống và con người.
Truyện giả thể loại: giả ngụ ngôn, giả cổ tích, giả truyền thuyết, truyện
truyền kỳ…
Giả thể loại cũng là một xu hướng làm mới dạng thức của truyện ngắn
sau 1975. Các dạng thức như: ngụ ngôn, cổ tích, truyền thuyết, về mặt hình
25


×