Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh
-----------------------
đậu văn phúc
NH GI HIU QU NG DNG QUY TRèNH GAP
LấN MT S CH TIấU MễI TRNG V TNG TRNG CA
TễM TH CHN TRNG (Penaeus vannamei) GIAI ON NUễI
THNG PHM TI QUNH BNG, QUNH LU, NGH AN
Chuyên ngành: SINH HọC THựC NGHIệM
Mã số: 60.42.30
Luận văn thạc sĩ sinh học
Ngời hớng dẫn khoa học:
TS. Trần Ngọc Hùng
Nghệ An - 2013
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bản luận văn này, trước hết tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn
sâu sắc tới TS.Trần Ngọc Hùng - người đã hướng dẫn tận tình và tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu của tác giả.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã nhận được sự quan tâm, giúp
đỡ và tạo điều kiện của Đảng uỷ, Ban giám hiệu Trường Đại học Vinh, Ban
chủ nhiệm Phòng Sau đại học, các thầy cô giáo, Khoa Sinh học, Trường Đại
học Vinh, bạn bè và những người thân trong gia đình. Nhân dịp này, tác giả
xin bày tỏ lòng biết ơn và sự trân trọng đối với những giúp đỡ quý báu đó.
Cảm ơn hợp tác xã nuôi trồng thủy sản Lộc Thủy, gia đình ông Hoàng
Xuân Tin đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tác giả trong suốt quá
trình thực nghiệm để tác giả hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn !
Nghệ An, ngày 01 tháng 09 năm 2013
Tác giả luận văn
Đậu Văn Phúc
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT................................................................3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CPSH
Chế phẩm sinh học
NTTS
Nuôi trồng thủy sản
NXB
Nhà xuất bản
CTTN
Công thức thí nghiệm
CT
Công thức
TS
Thủy sản
SL
Sản lượng
SX
Sản xuất
X
Giá trị trung bình
δ
Độ lệch chuẩn
mg
l
Miligam
lít
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT................................................................3
DANH MỤC HÌNH
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT................................................................3
6
MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Trong những năm gần đây nghề nuôi trồng thủy sản đã trở nên ngày
càng quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của nhiều quốc gia trên thế
giới nói chung và của Việt Nam nói riêng. Nuôi trồng thủy sản đã mang lại
hiệu quả kinh tế cao góp phần nâng cao đời sống của nhân dân và đóng góp
vào nền thu nhập quốc dân.
Nghệ An là một trong những tỉnh có tiềm năng lớn về diện tích mặt
nước nuôi trồng thuỷ sản, cả về nuôi trồng thủy sản nước ngọt cũng như nuôi
mặn lợ. Mặc dù hình thức nuôi rất đa dạng, song đối tượng nuôi chủ yếu vẫn
chỉ tập trung vào các đối tượng truyền thống nên giá trị còn thấp, chưa thực
sự mang lại hiệu quả trên một đơn vị diện tích nuôi trồng thuỷ sản, chưa phát
huy hết tiềm năng về diện tích.
Trong nhiều năm qua, với mục tiêu phát huy hiệu quả kinh tế trên một
đơn vị diện tích nuôi trồng, nhiều đối tượng nuôi mới đã được du nhập và
nuôi khảo nghiệm tại Nghệ An. Đặc biệt, nuôi mặn lợ trong những năm gần
đây đã có nhiều đối tượng nuôi mới có giá trị kinh tế đã được nuôi thử
nghiệm thành công và mang lại hiệu quả kinh tế cao như: Tôm sú, Tôm thẻ
chân trắng (Penaeus vannamei ), cá Chim biển, cá Vược, cá Mú, cá Bống
bớp...
Tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei ) là đối tượng nhập nội, có
nguồn gốc từ châu Mỹ. Tôm thẻ chân trắng là đối tượng nuôi mới có triển
vọng phát triển rộng rãi ở nhiều nước châu Á. Ưu điểm của nó là thịt thơm
ngon, giàu dinh dưỡng, mau lớn, thích nghi được với biên độ nhiệt độ nước và
độ mặn rộng. Tôm thẻ chân trắng có chu kỳ nuôi ngắn, từ 2,3 đến 3 tháng tuổi
là cho thu hoạch, chi phí đầu tư thấp,
Những năm gần đây, dịch bệnh, đặc biệt là bệnh virus đốm trắng, hội
chứng teo gan, tuỵ gây thiệt hại nghiêm trọng đối với nghề nuôi tôm ở Việt
Nam nói chung và tỉnh Nghệ An nói riêng. Bên cạnh đó, các rào cản kỹ thuật
7
của các thị trường nhập khẩu cũng ngày càng trở nên khắt khe đòi hỏi cần có
những giải pháp kiểm soát quá trình sản xuất theo những tiêu chuẩn phù hợp.
Các yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường đã khiến ngành nuôi
trồng thủy sản của Việt Nam phải hướng tới việc áp dụng GAP/BMP trong
sản xuất rất nhiều hàng hóa, bao gồm cả tôm và cá biển. Điều này đặt ra 2
thử thách lớn: i) Làm thế nào để khuyến khích hàng trăm ngàn cơ sở nuôi
thuỷ sản áp dụng GAP/BMP và; ii) Làm thế nào để người nuôi nhỏ lẻ ở vùng
nông thôn vốn có nguồn lực hạn hẹp cùng tham gia vào tiến trình này để họ
không bị mất đi những lợi ích xã hội từ nuôi trồng thuỷ sản.
Trong bối cảnh đó, việc ứng dụng hệ thống tiêu chuẩn thực hành nuôi
tốt vào thực tiễn sản xuất đặt ra cấp bách. Xuất phát từ thực tiễn đó, chúng tôi
đã lựa chọn đề tài “Đánh giá hiệu quả ứng dụng quy trình GAP lên một số
chỉ tiêu môi trường và tăng trưởng của tôm thẻ chân trắng (Penaeus
vannamei) giai đoạn nuôi thương phẩm tại Quỳnh Bảng, Quỳnh Lưu, Nghệ
An”
II. Mục tiêu của đề tài.
Đánh giá được hiệu quả ứng dụng quy trình GAP lên một số chỉ tiêu
môi trường và tăng trưởng của tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei).
8
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học về môi trường nuôi tôm thẻ chân trắng
1.1.1. Đặc điểm Tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei )
a) Hệ thống phân loại
Loài
Tôm
thẻ
chân
trắng
(Penaeus
vanamei) thuộc họ tôm thẻ (Penacidea)
Ngành: Arthropoda
Lớp: Crustacea
Bộ: Decapoda
Hình1.1 Tôm thẻ chân trắng
Họ chung: Penaeidea
Họ: Penaeus Fabricius
Giống: Penaeus
Loài: Penaeus vannamei, (Boone 1931).
b). Đặc điểm phân bố và nguồn gốc.
Tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei ) có nguồn gốc từ vùng biển xích
đạo Ðông Thái Bình Dương (biển phía Tây Mỹ La Tinh), phân bố chủ yếu ở
ven biển Tây Thái Bình Dương, châu Mỹ, từ ven biển Mexico đến miền
Trung Pêru, nhiều nhất ở biển gần Ecuador. Hiện nay tôm thẻ chân trắng đã
có mặt hầu hết ở các khu vực ôn và nhiệt đới bao gồm Đài Loan, Trung Quốc
và các nước ven biển thuộc khu vực Đông Nam Á [4].
c) Đặc điểm sinh trưởng
Cũng như các loài tôm he khác, tôm thẻ chân trắng phát triển qua 4 giai
đoạn ấu trùng chính là Nauplius, Zoea, Mysis, Postlarvae
Giai đoạn Nauplius: Nauplius không cử động được trong khoảng 30
phút, sau đó bắt đầu bơi và rất dễ bị lôi cuốn bởi ánh sáng. Nauplius thay vỏ
cả thảy 4 lần (N1 đến N5) mỗi lần kéo dài 7 giờ (theo các nhà sinh học Đài
9
Loan thì có đến 6 giai đoạn). Trong thời kỳ này ấu trùng cứ bơi một đoạn rất
ngắn rồi lại nghỉ và lại tiếp tục bơi. Không cần cho Nauplius ăn, chúng tự
nuôi sống bằng noãn hoàng có sẵn.
Giai đoạn Zoea: sau N5 ấu trùng chuyển sang giai đoạn Zoea, giai đoạn này
ấu trùng bơi liên tục, bắt đầu sử dụng thức ăn bên ngoài, chủ yếu là thực vật phù
du. Zoea thay vỏ hai lần từ Z1 tới Z3 trong 5 ngày, mỗi lần kéo dài 36 giờ.
Giai đoạn Mysis: thời kỳ này ấu trùng qua 3 giai đoạn (M 1, M2, M3). Mỗi
giai đoạn kéo dài 24 giờ. Mysis ăn cả thực vật phù du lẫn động vật phù du.
Trong khi Nauplius có khuynh hướng bơi gần mặt nước thì Mysis bơi hướng
xuống sâu và bơi ngược, đuôi đi trước, đầu đi sau.
Giai đoạn Postlarvae: sau thời kỳ này thì tôm con đã có đủ các bộ phận,
chúng dần dần hướng ra biển, rời xa các cửa sông và trở thành Juvenile. Từ
đây tôm trưởng thành
Tôm nhỏ thay vỏ cần vài giờ, tôm lớn cần 1- 2 ngày. Tốc độ lớn thời
gian đầu 3g/tuần lễ (mật độ nuôi 100con/m 2), tới cỡ 30g tôm lớn chậm dần
(1g/tuần lễ). Tôm cái thường lớn nhanh hơn tôm đực [4].
d) Tập tính sống
Tôm thẻ chân trắng sống ở vùng biển tự nhiên có các đặc điểm: đáy
cát, độ sâu 0 – 72m; nhiệt độ nước ổn định từ 25 – 32 0C , độ mặn từ 28 –
340/00, pH 7,7 – 8,3.
Tôm trưởng thành phần lớn sống ở ven biển gần bờ, tôm con ưa sống ở
các khu vực cửa sông giàu sinh vật thức ăn. Ban ngày tôm vùi mình trong
bùn, ban đêm mới bò đi kiếm ăn. Tôm thẻ chân trắng có sự thích nghi rất
mạnh đối với sự thay đổi đột ngột của môi truờng sống [4].
e) Đặc điểm dinh dưỡng
Tôm thẻ chân trắng là loài tôm ăn tạp. Giống như các loài tôm khác,
thức ăn của nó cũng cần thành phần: protid, lipid, vitamin và muối
khoáng...thiếu hay không cân đối đều ảnh hưởng đến sức khỏe và tốc độ
lớn của tôm. Khả năng tiêu tốn thức ăn của tôm thẻ chân trắng rất cao,
trong điều kiện nuôi lớn bình thường, lượng cho ăn chỉ cần bằng 5% thể
10
trọng tôm. Trong thời kỳ tôm sinh sản đặc biệt là giữa và cuối giai đoạn
phát dục của buồng trứng thì nhu cầu về lượng thức ăn hằng ngày tăng lên
gấp 3 – 5 lần.
Thức ăn cần hàm lượng protein 35% là thích hợp, (tôm sú cần 40%, tôm
he Nhật Bản cần 60% protein) [4].
f) Đặc điểm sinh sản
Trong thiên nhiên, tôm trưởng thành, giao hợp, sinh đẻ trong những
vùng biển có độ sâu 70 mét với nhiệt độ 26 – 28oC, độ mặn khá cao (35‰).
Trứng nở ra ấu trùng và vẫn sinh sống ở khu vực sâu này. Tới giai đoạn
Postlarvae, chúng bơi vào gần bờ và sinh sống ở đáy những vùng cửa sông
cạn. Nơi đây điều kiện môi trường rất khác biệt: thức ăn nhiều hơn, độ mặn
thấp hơn, nhiệt độ cao hơn ... Sau một vài tháng, tôm con trưởng thành, chúng
bơi ngược ra biển và tiếp diễn cuộc sống giao hợp, sinh sản làm trọn chu kỳ.
Cơ quan sinh dục
Tôm thẻ chân trắng trưởng thành phân biệt rõ đực cái thông qua cơ quan
sinh dục phụ bên ngoài.
Con đực: Giữa đôi mái chèo thứ nhất có một cơ quan gọi là petasmata.
Trong khi giao hợp petasmata sẽ chuyển tinh trùng sang thelycum của con cái.
Con cái: Con cái có một cơ quan gọi là thelycum để tiếp nhận tinh
trùng của con đực. Thelycum nằm ở phía bụng của phần ức, giữa cặp chân
đi thứ 4 và thứ 5.
Tôm thẻ chân trắng có thelycum mở khác với loại hình túi chứa tinh kín
như ở tôm sú và tôm he Nhật Bản. Trình tự của sinh sản mở là: (tôm mẹ) lột
vỏ→ thành thục→ giao phối→ đẻ trứng→ ấp nở. Tôm cái sau khi thành thục
sẽ đẻ trứng trực tiếp vào trong môi trường nước, trong điều kiện nhiệt độ và
độ mặn thích hợp trứng sẽ nở thành ấu trùng [13][4].
1.1.2. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của các yếu tố sinh thái đến khả
năng sinh trưởng và phát triển tôm thẻ chân trắng
a) Nhiệt độ
11
Tôm cũng như hầu hết các loài động vật sống dưới nước thuộc loại máu
lạnh, nhiệt độ cơ thể thay đổi theo nhiệt độ môi trường, vì vậy nhiệt độ là yếu
tố quan trọng ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của tôm. Nhiệt độ
ảnh hưởng tới nhiều phương diện trong đời sống của tôm: hô hấp, tiêu thụ
thức ăn, đồng hoá thức ăn, miễn nhiễm đối với bệnh tật, sự tăng trưởng...[13].
Nhiệt độ thường thay đổi theo mùa, ngày đêm và mỗi vùng miền khác
nhau. Thông thường nhiệt độ nước trong ngày thấp nhất vào lúc 2 đến 5 giờ
sáng, cao nhất vào buổi chiều lúc 14 giờ đến 16 giờ chiều. Tôm có thể chịu
đựng sự thay đổi nhiệt độ 0,2 oC/phút, nhưng khi nhiệt độ thay đổi đột ngột
3 – 4oC hoặc vượt quá sẽ gây sốc thậm chí còn gây chết. Nhiệt độ thích hợp
cho tôm loại Penaeus spp tại các ao hồ nhiệt đới khoảng 28 – 30 oC. Các thí
nghiệm ở Hawaii cho thấy tôm thẻ chân trắng sẽ chết nếu nhiệt độ môi
trường nước thấp hơn 15 oC, cao hơn 33oC trong 24 giờ hoặc lâu hơn nữa,
tôm sẽ ngạt nếu nhiệt độ khoảng 15 – 22 oC và 30 – 33oC. Với tôm thẻ chân
trắng nhiệt độ chấp nhận được là 23 – 30 oC, trong khoảng nhiệt độ này độ
lớn của tôm cũng tuỳ giai đoạn tăng trưởng của tôm. Thí nghiệm cho biết,
lúc còn nhỏ (1gr) tôm lớn nhanh hơn ở 30 oC, khi tôm lớn hơn(12 – 18gr)
tôm lại lớn nhanh nhất ở nhiệt độ 27 oC thay vì 30oC như lúc còn nhỏ. Khi
tôm lớn hơn nữa mà nhiệt độ lại cao hơn 27 oC thì môi trường nước này
hoàn toàn bất lợi cho sự tăng trưởng[13][14].
b) Độ mặn
Đây là yếu tố mà chúng ta có thể điều chỉnh được nếu có nguồn nước
ngọt và nước mặn dự trữ. Độ mặn có thể nuôi tôm thẻ chân trắng từ 10 – 30
ppt, tuy nhiên nếu độ mặn cao quá hoặc thấp quá cũng không tốt, nếu độ mặn
cao (>30 ppt) thì tôm rất chậm lớn, vì độ mặn cao hàm lượng các khoáng
cũng rất cao, do đó sẽ làm cho quá trình lột xác của tôm gặp nhiều khó khăn,
nếu tôm đã tới chu kỳ lột xác mà không lột được thì sẽ không phát triển và
chậm lớn. Hơn nữa nước mặn là môi trường thuận lợi cho sự phát triển của
12
các bệnh do vi khuẩn vibrio gây ra, đặc biệt là bệnh phát sáng. Độ mặn tốt
nhất cho sự phát triển của tôm thẻ chân trắng từ 10 – 25 ppt
Nếu độ mặn thấp (< 10 ppt) cũng không tốt, dễ phát sinh bệnh, vì trong
nước ngọt thiếu các khoáng (Na, Ca, Cl, Fe, Cu, P, Mn…). Đây là những
khoáng chất cần thiết cho sự tạo vỏ của tôm, nếu thiếu chúng tôm sẽ không
tạo được vỏ [7].
c) pH
pH của nước ao rất quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến
tôm nuôi và phiêu sinh vật. pH là một trong những chỉ tiêu quan trọng để
đánh giá chất lượng nuớc ao nuôi. Khi pH biến động thì sẽ ảnh hưởng tới các
quá trình sinh lý, sinh hoá trong cơ thể tôm, làm ảnh hưởng các yếu tố khác
trong ao như tảo, khí độc…pH phù hợp cho ao nuôi là 7,5 – 8,5, khoảng dao
động trong một ngày không được quá 0,5 [7].
Một vài chức năng của cơ thể tôm có thể bị ảnh hưởng trực tiếp do pH
quá cao hay quá thấp hay do sự biến động của nó, và như vậy sẽ có hại đến
tôm. pH thấp thường làm tổn thương bộ phụ và mang cũng như gây trở ngại
cho việc lột xác và làm cho tôm bị mềm vỏ.
NH3 và H2S là hai loại khí độc hoà tan trong nước. Các loại khí độc này
hiện diện trong ao dưới hai dạng: dạng khí có tính độc cao và dạng ion thì ít
độc hơn. Tỷ lệ giữa dạng khí và dạng ion bị ảnh hưởng bởi độ pH. Khi pH
cao, NH3 dạng khí sẽ nhiều và ít H2S hơn. Khi pH thấp thì H2S dạng khí nhiều
và ít NH3 dạng khí [7].
d) Độ kiềm
Độ kiềm là số đo tổng của carbonate và bicarbonate. Chúng có tác dụng
quan trọng trong nước thông qua khả năng làm giảm sự biến động của pH,
hạn chế các chất độc có sẵn trong ao nhằm không gây sốc cho tôm. Độ kiềm
ảnh hưởng rất lớn đến quá trình lột xác của tôm, độ kiềm cao làm cho tôm
khó lột xác nhưng nếu độ kiềm nước ao thấp làm cho tôm khó cứng vỏ mỗi
khi lột xác. Trong nuôi tôm thẻ chân trắng, độ kiềm rất quan trọng vì chu kỳ
13
lột xác của chúng rất ngắn và thường xuyên, sau mỗi lần lột xác chúng sẽ hấp
thụ một lượng lớn độ kiềm trong nước để sử dụng trong việc kiến tạo vỏ mới,
do đó việc kiểm tra độ kiềm thường xuyên trong ao là rất cần thiết nhất là khi
tôm lớn. Độ kiềm thích hợp trong ao nuôi tôm từ 80 – 130 mg/l [7],[14].
e) Oxy hòa tan (DO)
Hàm lượng oxy thích hợp là rất cần thiết cho một ao nuôi tốt ở cả hai hệ
thống nuôi năng suất thấp và cao. Tác hại do hàm lượng oxy thấp tuỳ thuộc
vào hàm lượng oxy có trong ao, thời gian và số lần tôm phải chịu đựng tình
trạng đó. Ở nồng độ oxy nhỏ hơn 4mg/l tôm vẫn bắt mồi bình thường nhưng
chúng tiêu hóa thức ăn không hiệu quả. Hàm lượng oxy thấp như thế có thể
ảnh hưởng đến tôm và dẫn đến tăng tính cảm nhiễm bệnh. Tỷ lệ chuyển hoá
thức ăn giảm và khả năng cảm nhiễm bệnh tăng sẽ làm giảm lợi nhuận. Nếu
hàm lượng oxy giảm thấp hơn nữa (2 – 3 mg/l) thì tôm sẽ ngừng bắt mồi và
yếu đi nhiều. Hàm lượng oxy thích hợp cho tôm sinh trưởng và phát triển là
lớn hơn 5mg/l [14].
Bảng 1.1. Hàm lượng oxi và phản ứng của tôm [8]
Oxi hòa tan (ppm)
0,3
1,0
2,0
3,0
4,0
5,0 – 6,0 – 7,0
Phản ứng của tôm
Tôm bị chết
Tôm bị ngạt thở
Tôm không lớn được
Tôm chậm lớn
Tôm sinh sống bình thường
Tôm khỏe mạnh và tăng trưởng nhanh
f). Độ trong
Độ trong của nước ở các ao nuôi chủ yếu phụ thuộc vào số lượng và đặc
tính khối chất cái bao gồm các sinh vật sống trong tầng nước và thể vẩn lơ
lửng. Giới hạn cho phép về độ trong từ 25 – 50 cm, nó thay đổi theo tuổi tôm,
khi mới thả tôm vào thì yêu cầu độ trong cao 40 – 50 cm, nhưng khi tôm lớn
độ trong sẽ thấp 25 – 30 cm. Độ trong quá lớn sẽ lập tức ảnh hưởng tới tôm,
khi đó tôm rất dễ bị sốc, tôm chậm lớn, phân đàn, ít ăn và dễ nhiễm bệnh,
14
đồng thời đáy ao dễ phát sinh bùn đáy. Nếu độ trong quá thấp (nước có màu
đậm) thì rất dễ ảnh hưởng đến hoạt động hô hấp của tôm nhất là vào ban đêm,
nguyên nhân chính là do tảo về ban ngày sẽ quang hợp nhưng về ban đêm
chúng sẽ hô hấp và làm giảm oxy trong nước. Độ trong thấp thì mang tôm rất
dễ bị tổn thương (đen mang, vàng mang) hay nhớt thân. Màu tảo đậm là
nguyên nhân làm dao động pH giữa ngày và đêm rất lớn [7].
g) Các khí hoà tan
CO2
Khí CO2 đóng vai trò quan trọng trong đời sống của vùng nước. CO 2 là
bộ phận cơ bản tham gia vào sự tạo thành chất hữu cơ trong quá trình quang
hợp. Nếu CO2 tồn tại dưới dạng khí tự do ở nồng độ cao sẽ không có lợi cho
tôm. Do chênh lệch giữa áp suất trong nước và trong máu tôm [14].
Hợp chất của Nitơ
Gồm 3 chất chính: amonia (NH4+), nitrite (NO2) và nitrate (NO3-).
Amonia: Trong ao hồ, amonia xuất hiện như một sản phẩm do sự biến
đổi của động vật trong nước cũng như từ sự phân huỷ các chất hữu cơ với tác
dụng của vi khuẩn. Trong nước amonia được phân chia làm 2 nhóm: nhóm
NH3 (khí hoà tan) và nhóm NH4+ (ion hoá).
Chỉ có dạng NH3 của amonia là gây độc cho tôm, NH 3 có tính độc cao
hơn NH4+ từ 300 đến 400 lần. Sự phân chia này chịu ảnh hưởng của pH,
nhiệt độ và độ mặn nhưng pH ảnh hưởng quan trọng hơn cả. Nếu tăng 1
đơn vị pH thì sẽ tăng 10 lần tỷ lệ của NH 3. Độ độc của amonia gây ra
không đáng ngại lắm trong ao tôm vì thực vật phiêu sinh (phytoplankton)
sẽ giữ cho độ độc này ở mức thấp, tuy nhiên nếu ao hồ có mật độ cao quá
thì mức NH3 vẫn có thể xuất hiện. Mức độ NH 3 thay đổi về ban đêm đáp
ứng sự thay đổi của pH và nhiệt độ. Dưới tác dụng của vi khuẩn, amonia sẽ
bị biến đổi thành nitrite (NO 2) (bởi Nitrosomonas bacteria) rồi nitrate
(NO3-) (bởi Nitrobacter bacteria).
15
Hình thức nitrate thường vô hại, nhưng trong môi trường nước mà lượng
chlorinity thấp thì nitrite sẽ gây độc cho tôm. Nitrite gây độc chủ yếu là tạo
thành chất methemoglobin và giảm sự chuyển oxygen tới tế bào [14].
Hydro sulfide (H2S)
Hydro sulfide là một chất khí, được tạo thành dưới điều kiện kỵ khí
(anaerobic condition). Cũng tương tự như amoni, hydro sulfide chia làm 2
nhóm: nhóm H2S (khí) và HS- (ion). Chỉ có dạng H2S là chất độc. pH rất có
ảnh hưởng tới độ độc của H2S, ví dụ: Với ao hồ có pH = 5 và ở 24 0C người ta
thấy 99,1% Hydro sulfide dưới dạng H2S, trong khi đó ở độ pH=8 với cùng
nhiệt độ 240C lại chỉ có 8% lượng Hydro sulfide dưới dạng chất độc [14].
1.1.3. Những nghiên cứu về dinh dưỡng tôm thẻ chân trắng
a) Protein
Protein là vật chất hữu cơ quan trọng, là nguyên liệu tạo các mô và các
sản phẩm khác trong cơ thể. Protein là chất xúc tác, thực hiện chức năng vận
chuyển, bảo vệ.
Trong tình trạng suy dinh dưỡng protein đóng vai trò quyết định, nếu cơ
thể tôm thiếu sẽ kéo theo thiếu các chất dinh dưỡng khác, thiếu protein kéo
dài sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của tôm. Để thoả mãn nhu cầu
protein ở tôm, ta có thể sử dụng các acid amin tổng hợp để cân đối nhu cầu
acid amin hoặc phối hợp các nguyên liệu.
Tôm he chân trắng không cần khẩu phần ăn có lượng protein cao như tôm
sú. Theo nghiên cứu của Colvin and Brand (1977) là 30%, Kureshy and Davis
(2002) là 32%. Trong đó, thức ăn có lượng protein 35% được coi như là thích
hợp hơn cả, trong đó khẩu phần ăn có thêm mực tươi rất được tôm ưa chuộng.
Men tiêu hoá protein của tôm chủ yếu ở dạng trypsine, không có pepsine
(Vonk, 1970). Ngoài ra trong dạ dày tôm có 85% số vi khuẩn tạo thành
chitinase. Ngoài việc cung cấp dinh dưỡng, quan trọng nhất là giúp tôm có
khả năng tiêu hoá chitinase một phức hợp của protein [2].
b) Lipid
16
Trong thành phần thức ăn của tôm thì lipid chứa năng lượng cao nhất, nó
không chỉ là chất dự trữ mà còn là thành phần thiết yếu của các tổ chức trong
cơ thể. Nếu năng lượng của thức ăn quá thấp thì tôm sẽ sử dụng nguồn năng
lượng từ các dưỡng chất khác, như protein để thoả mãn nhu cầu về năng lượng,
làm nâng cao chi phí thức ăn. Nếu năng lượng trong thức ăn quá cao thì sẽ làm
giảm sự hấp thu thức ăn và chất đạm tiêu hoá không đủ để tôm phát triển.
Tỷ lệ lipid trong thành phần thức ăn của tôm không thể vượt quá 10%,
tốt nhất là 5 – 7% [2].
c) Hydratcacbon.
Hydratcacbon là nguồn cung cấp năng lượng chủ yếu cho cơ thể (khoảng
60% năng lượng cho hoạt động sống của động vật). Tuy khả năng sản sinh ra
nhiệt lượng của hydratcacbon kém hơn so với lipid, song hydratcacbon lại có
ưu thế hoà tan được, vì vậy quá trình tiêu hoá hấp thu dễ dàng.
Ở giáp xác có nhiều men tiêu hoá hydratcacbon như: amylaza, maltaza,
kitinaza, cellulaza (Kooiman, 1964), nhờ đó giáp xác có thể tiêu hoá một
thành phần cellulose nên chúng có thể ăn thực vật và rong tảo.
Thức ăn nhiều xơ sẽ đưa kết quả xấu vì cơ quan ruột, dạ dày của tôm
ngắn, thức ăn nhanh chóng đi qua và thời gian tiêu hoá bị hạn chế. Nhưng
chất xơ đóng vai trò là chất nền cho quá trình lên men của vi sinh vật sống
trong ống tiêu hoá, vì vậy trong thức ăn tôm người ta thường bổ sung khoảng
5% bột cỏ hoặc rong biển. Ngoài vai trò là chất nền trong chất xơ tồn tại một
lượng nước nhất định, chính lượng nước này có tác dụng duy trì dịch ruột làm
tăng quá trình hấp thu chất dinh dưỡng [2].
d) Vitamin.
Vitamin là những chất hữu cơ có bản chất hoá học khác nhau, cơ thể
động vật có nhu cầu một lượng nhỏ trong thức ăn để đảm bảo sự sinh trưởng
và phát triển bình thường. Vitamin nhóm B, C và E được cho là cần thiết phải
cho vào thức ăn. Vitamin D, C khi dùng với số lượng nhiều đã cho thấy phản
ứng đối kháng, dẫn đến bệnh thừa vitamin. Trong thành phần các premix
vitamin dùng cho tôm luôn có vitamin A và K [2].
17
e) Khoáng.
Khoáng là những nguyên tố hoá học cần thiết để xây dựng nên cơ thể và
tham gia vào quá trình trao đổi chất của động vật. Tôm có khả năng hấp thụ
muối khoáng từ môi trường nước nên nhu cầu muối khoáng của tôm thấp và
khác với động vật trên cạn. Shewbartetal (1973) cho rằng nhu cầu Ca, K, Na
và Cl của tôm có thể thoả mãn do áp suất thẩm thấu. Photpho trong nước biển
thấp nhưng trong thịt tôm lại có nhiều, nên cần thêm photpho vào trong khẩu
phần thức ăn tôm hỗn hợp khoáng từ 2 – 5% [2].
1.2. Tình hình nuôi tôm thẻ chân trắng trên thế giới và Việt Nam
1.2.1. Tình hình nuôi tôm thẻ chân trắng trên thế giới
Tôm thẻ chân trắng là đối tượng nuôi có nguồn gốc ở khu vực Nam và
Trung Mỹ (Wyban J.,2007). Đây là đối tượng được nuôi phổ biến ở Tây bán
cầu, chiếm hơn 70% các loài tôm he Nam Mỹ. Sản lượng tôm thẻ chân trắng
chỉ đứng sau tổng sản lượng tôm sú trên toàn thế giới. Các quốc gia Châu Mỹ
như Ecuado, Mexico, Panama là những quốc gia có nghề nuôi tôm thẻ chân
trắng phát triển từ đầu những năm 1900. Tổng sản lượng của tôm thẻ chân
trắng ở các nước Nam Mỹ đạt 200.000 tấn trị giá 1,2 tỷ USD vào năm 2002.
Ngày nay tôm thẻ chân trắng được du nhập, thuần hoá và nuôi ở nhiều
nước trên thế giới, trong đó có các nước ở Châu Á (Mathew Brigg et al.,2004).
Bảng 1.2. Du nhập tôm thẻ chân trắng ở một số nước Châu Á
Năm
Quốc Gia
nhập Nguồn gốc
Lý do nhập
khẩu
Trung Quốc 1988 Taxas
Đa dạng hoá đối tượng nuôi, trình diễn
Đài Loan
1995 Hawaii
Bệnh đốm trắng trên Tôm sú
Thái Lan
2000 Đài Loan
Bệnh đốm trắng trên tôm sú
Việt Nam
1997 Trung Quốc Bệnh đốm trắng trên tôm sú, chịu lạnh
Philipin
2001 Đài Loan
Bệnh đốm trắng trên tôm sú
Indonesia
2001 Hawaii
Bệnh đốm trắng trên tôm sú
Malaysia
2001 Đài loan
Bệnh đốm trắng trên tôm sú
Ấn Độ
2001 Đài Loan
Bệnh đốm trắng trên tôm sú
Tôm thẻ chân trắng được nuôi thí điểm ở Châu Á từ những năm
1978 – 1979, nhưng về phương diện thương mại thì chỉ bắt đầu từ những
18
năm 1996 khi nó được du nhập vào Trung Quốc, Đài Loan và tiếp sau là
Philippines, Indonesia, Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Ấn Độ. So sánh
với loài tôm bản địa nuôi phổ biến ở Châu Á mà cụ thể là tôm sú, những
lý do sau đây giúp tôm thẻ chân trắng có thể được du nhập và nuôi nhiều
ở nhiều nước thuộc châu lục này.
Theo Đào Văn Trí, 2005 sản lượng tôm thẻ chân trắng ở nước ta năm
2004 đạt 5.000 tấn, diện tích nuôi khoảng 1.600 ha, tổng diện tích nuôi tôm bị
bệnh là 110 ha (thống kê chưa đầy đủ). Theo Đào Văn Trí, 2005 hiệu quả
nuôi trong việc nuôi tôm thẻ chân trắng ở nước ta đáp ứng được yêu cầu của
người nuôi. Kết quả điều tra của Đào Văn Trí (2005) cho biết, 80% số hộ nuôi
tôm thẻ chân trắng tại các tỉnh Nam Trung Bộ cho rằng thời gian nuôi ngắn
(90-110 ngày), dễ nuôi, chi phí sản xuất thấp, lợi nhuận thu nhập cao (khoảng
120.000triệu đồng/ha/vụ). Nguyên nhân thất bại trong nuôi thương phẩm tôm
thẻ chân trắng đó là: Con giống mua trôi nổi, nguồn giống thả không rõ ràng,
chưa thật sự hiểu biết về quy trình nuôi, trong khi ao nuôi nằm trong vùng ao
nuôi có điều kiện môi trường xấu, thường có dịch bệnh xuất hiện [28].
Nuôi tôm luôn chiếm ưu thế trong giáp xác và nuôi trồng thuỷ sản, sản
lượng nuôi tôm năm 2000 của thế giới là 1.087.111 tấn, chiếm tỷ lệ 66% giáp
xác nuôi, trị giá 6.880 tỷ USD, chiếm 73,4% giá trị trong nuôi giáp xác (Phạm
Minh Đức, 2002)[6].
Năm 2002 sản lượng thuỷ sản thế giới đạt mức 38,9 triệu tấn với mức
giá trị 53,8 tỷ USD. Tuy nhiên giáp xác nuôi chỉ hiếm 5,3% về sản lượng thuỷ
sản thế giới và chiếm 20,1% về giá trị thuỷ sản toàn cầu vào năm 2002
(Mathew et al.,2004).
Sản lượng nuôi tôm toàn cầu năm 2002 đạt mức 1,48 triệu tấn (FAO,
2002; Chamberlain; 2003). Tôm P. monodon vẫn giữ vai trò ổn định khoảng
600.000 tấn từ năm 1994 - 2002, tuy nhiên sự đóng góp về sản lượng lại
giảm từ 63% xuống còn 40% vào năm 2002, nguyên nhân do sản lượng tôm
P. chinensis và đặc biệt lúc bấy gìơ là sản lượng P.vannamei hơn 500.000 tấn
19
(FAO, 2002). Hiện tại P. vanamei đang phát triển mạnh ở các nước Châu Á
đặc biệt là Trung Quốc và Thái Lan.
Hiện nay các loài tôm được nuôi nhiều nhất là P.monodon, tôm P.
chinensis và tôm P. vannamei. Riêng 3 loài này đã chiếm trên 86% sản lượng
tôm nuôi của thế giới. Nếu tính về sản lượng thì tôm P. monodon chỉ xếp thứ
20 trong số các loài thuỷ sản nuôi, nhưng về giá trị thì chúng đứng đầu với
4.046 tỷ USD trong năm 2000. Các loài giáp xác nuôi khác bao gồm cả nuôi
nước ngọt đạt 386.185 tấn, chiếm 23,4 % sản lượng nuôi của giáp xác, các
loài Cua 140.256 tấn chiếm 8,5%.
Nhìn chung nghề nuôi tôm ở Việt Nam đã và đang đạt được những
thành tựu đáng khích lệ, song vẫn còn những tồn tại làm hạn chế kết quả và
hiệu quả nuôi tôm.
Nghiên cứu về kỹ thuật nuôi tôm thẻ chân trắng có thể kể đến
Honculata Primavera J. (1992), cũng như hệ thống nuôi trồng thuỷ sản khác,
các trang trại nuôi tôm thịt hiện nay có 4 hình thức sau: Quảng canh truyền
thống, quảng canh cải tiến, bán thâm canh và thâm canh (trích dẫn bởi Phạm
Xuân Thuỷ, 2004), nhưng theo Ronnback (2001) có 5 mức nuôi với mức đầu
tư khác nhau từ quảng canh truyền thống đến siêu thâm canh, nhưng về mặt
kỹ thuật có thể chia thành 3 mức chung đó là Quảng canh, bán thâm canh và
thâm canh. Cách phân chia này dựa vào trình độ nuôi, mức đầu tư và trình độ
kỹ thuật. Hình thức nuôi tôm thẻ chân trắng được FAO chia làm hình thức
quảng canh, bán thâm canh, thâm canh và siêu thâm canh, tương ứng với mật
độ thả nuôi thấp, trung bình, cao và cực kỳ cao (Boone , 1931)[24].
Mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng chủ yếu xuất hiện ở các nước Châu Á
và một vài trang trại nuôi tôm ở châu Mỹ La Tinh. Tôm được nuôi chủ yếu
trong các ao nuôi đất hình vuông, hình tròn có diện tích từ 0,1 – 1,0 ha, mực
nước ao thường 1,5m mật độ nuôi từ 60- 300con/m2. Cho tôm ăn thức ăn
nhân tạo 4 - 5 lần trên ngày với hệ số chuyển đổi thức ăn FCR 1,4 - 1,8. Năng
20
suất nuôi tôm 7.000 - 20.000 kg/ha/vụ, mỗi năm có thể nuôi 2- 3 vụ, năng
suất tối đa lên đến 30 – 35.000 kg/ha/ vụ [24].
Đối với mô hình nuôi siêu thâm canh tôm thẻ chân trắng đã được thực
hiện ở Mỹ trong hệ thống mương nổi đặt trong nhà kính. Con giống dòng SPF
có chất lượng nuôi tốt, cỡ giống 0,5 - 2 gam. Hệ thống mương nổi có diện
tích 282 m2. Mật độ thả nuôi 300 - 450 con/ m 2 sau 3 đến 5 tháng đạt 28.000
đến 68.000 kg/ha/vụ. Tốc độ tăng trưởng 1,5 g/ tuần, tỷ lệ sống đạt 55 – 91%,
khối lượng trung bình 16 – 26 gam và FCR là 1,5 – 2,6 [24].
Trên cơ sở đó các mô hình khép kín như mô hình nuôi ít thay nước, mô
hình tuần hoàn hình thành và được giới thiệu vào năm 1994 ở Thái Lan, trong
quá trình phát triển nuôi tôm ở Thái Lan, để mở rộng diện tích người nuôi đã
xây dựng ao nuôi sâu vào vùng nước ngọt (khoảng 100km), lấy nước lợ từ các
con sông để nuôi tôm, từ đó hình thành nên mô hình nuôi tôm ở độ mặn thấp.
Quá trình phát triển của mô hình này diễn ra mạnh mẽ vào những năm cuối
tôm ở độ mặn thấp cũng trên cơ sở ít thay nước nhưng do xa biển, hạn chế về
nguồn nước mặn nên độ mặn thấp. Theo ước tính ở Thái Lan có khoảng
18.530 ha nuôi tôm ở độ mặn thấp, đóng góp khoảng 40% sản lượng tôm của
Thái Lan (Szuter& Plaherty, 2002). Hạn chế ở mô hình này là chi phí xây
dựng cơ bản cao, kỹ thuật quản lý môi trường tốt...
Một mô hình khác cũng xuất hiện trong khoảng thời gian này là mô
hình nuôi thâm canh kết hợp với nuôi cá. Kỹ thuật đã được thử nghiệm đầu
tiên tại Philippines để sử dụng hiệu quả các vùng nuôi tôm bị bỏ hoang là
chuyển các ao nuôi bỏ hoang sang nuôi cá rô phi. Từ đó đã hình thành nên kỹ
thuật nuôi kết hợp giữa cá rô phi và tôm nước lợ tại đảo Nergos khoảng năm
1996, trước hết là nuôi luân canh giữa tôm và cá dần dần có các hình thức
khác như nuôi cá trong lồng đặt trong ao nuôi tôm hay nuôi cá trong ao lắng
(ao chứa nước cấp cho nuôi tôm). Trong vài năm gần đây, cá rô phi cũng
được nuôi phổ biến trong các trại nuôi tôm tại các nước ở tây bán cầu
(Mexico, Ecuado và Peru), nhằm hạn chế dịch bệnh tôm và tận dụng cơ sở hạ
21
tầng của các trại nuôi tôm nhằm tạo ra sản phẩm xuất khẩu (thịt cá rô phi)
trong điều kiện nuôi tôm không đạt hiệu quả, chính vì thế sản lượng cá rô phi
tăng nhanh sau khi xảy ra dịch bệnh tôm ở Nam Mỹ. Hình thức nuôi phổ biến
là nuôi luân canh tôm và cá rô phi trong ao lắng chứa nước và xử lý nước thải.
Tại Thái Lan, theo kết quả điều tra của dự án PD/A CRSP năm 2002,
việc nuôi tôm kết hợp nước lợ với cá rô phi đang trở nên phổ biến trong vài
năm gần đây (Yang Yi & K.Fitzsimmons, 2002). Các hình thức nuôi kết hợp
gồm: Nuôi cá rô phi trực tiếp trong ao tôm, nuôi cá rô phi trong lồng hay đăng
quầng lưới trong ao tôm, nuôi cá rô phi trong ao lắng - chứa nước cấp cho ao
nuôi tôm, hình thức nuôi tôm luân canh với cá rô phi sau khi dịch bệnh xảy ra.
Lý do người nuôi tôm áp dụng mô hình này là nhằm cải thiện chất
lượng nước, giảm chất thải, hạn chế dịch bệnh tôm nuôi và giảm sử dụng
thuốc và hoá chất. Khi so sánh hiệu quả kinh tế, mô hình nuôi tôm kết hợp với
cá rô phi cho kết quả cao hơn nuôi tôm đơn và cũng cao hơn nuôi luân canh
tôm và cá rô phi.
Mô hình nuôi thuỷ sản thân thiện với rừng (Mangrove frendlyaquaculture) đã được hình thành từ vài thập kỷ qua ở nhiều quốc gia như:
Indonesia, Myanmar, Việt Nam, Thái Lan...nhằm mục đích khôi phục và bảo vệ
rừng vừa phát triển kinh tế thông qua nuôi trồng thuỷ sản (Fitzgerald JR,2006) [7].
Trên thế giới đã có nhiều nước trở thành cường quốc nhờ xuất khẩu
thuỷ sản như Trung Quốc, hay Mỹ là quốc gia đi đầu, mà gần đây có những
nước như Đài Loan, Băng lades...và có những thành tựu nghề nuôi tôm, trở
thành nghề mũi nhọn, đồng thời các nước có rất nhiều kinh nghiệm, kỹ thuật
nuôi tôm. Một số công trình nghiên cứu khoa học được công bố như sản xuất
giống nhân tạo 1963 và sau đó là những công trình khám phá ra những loại
thức ăn nhân tạo, tự nhiên có giá trị thích hợp trong nuôi trồng thuy sản. Từ
những bước ngoặt đó nghề nuôi tô sú đã có những bước đột phá mạnh mẽ từ
mức độ tăng trưởng 1,2% năm 1993 lên đến 9,4% năm 2003.
22
Qua những thành công đó các nhà khoa học tiếp tục áp dụng đối tượng
khác nhau như tôm bạc, tôm thẻ chân trắng hay cua ... đưa con giống chủ
động vào sản xuất nhân tạo và nâng sản lượng ngày một tăng. Hiện nay với
xu thế tiến ra biển và đa dạng hoá đối tượng nuôi là một hướng phát triển của
các nước trên thế giới.
Theo thống kê, sản lượng tôm thẻ chân trắng đứng hàng thứ hai
sau tôm sú nhưng ở châu Mỹ sản lượng tôm he chân trắng đứng hàng
đầu, đạt 86.000 tấn (1990), 132.000 tấn (1992), 191.000 tấn (1998) và
đạt gần 200.000 tấn năm 1999 [6].
Ecuador coi nuôi tôm thẻ chân trắng là ngành sản xuất lớn, sản lượng tôm
nuôi chiếm 95% tổng sản lượng của khu vực châu Mỹ, năm 1991 là 103.000 tấn.
Năm 1993, do gặp dịch bệnh hội chứng Taura (Taura Symdrome Virus) sản
lượng giảm còn 1/3, sau 2-3 năm khôi phục lại đạt 120.000 tấn (1998), 130.000
tấn (1999) rồi lại gặp đại dịch bệnh đốm trắng còn 35.000 tấn (2000) [6].
Một số nước như Mexico, Panama, Eelize, Peru, Colombia… cũng có
tình hình phát triển tương tự Ecuador. Sau khi được nhiều nước Châu Mỹ
nuôi nhân tạo thành công và có hiệu quả cao, tôm thẻ chân trắng được di
giống sang Hawaii . Từ đây tôm thẻ chân trắng lan sang Châu Á, Đông Nam
Á. Nhiều nước Đông Nam Á đã nhập tôm thẻ chân trắng để nuôi như:
Philippin, Inđônêsia, Malaixia, Thái Lan, Việt Nam... với hy vọng đa dạng
hóa các sản phẩm tôm xuất khẩu để nhằm tránh tình trạng chỉ trông cậy phần
lớn vào tôm sú hiện nay. Tôm thẻ chân trắng được nhập khẩu vào Châu Á vì
người ta nhận thấy một số loại tôm bản địa chủ yếu hiện đang được nuôi cho
năng suất thấp, mức độ tăng trưởng chậm và có khả năng mang bệnh, việc
khoanh vùng nuôi tôm thẻ chân trắng khép kín và sự phát triển của các dòng
giống tôm thẻ chân trắng chọn lọc và thuần hóa đã đưa tôm thẻ chân trắng trở
thành đối tượng quan tâm lớn của ngành nuôi tôm thời kỳ hiện nay. Trên phạm
vi toàn cầu, tôm thẻ chân trắng đang chiếm tới 2/3 tổng sản lượng tôm nuôi
toàn thế giới. Ở châu Á, trong giai đoạn từ 2001-2006, tôm sú chỉ duy trì ở một
23
sản lượng nhất định, thì tôm thẻ chân trắng nhảy vọt lên 1,5 – 1,6 triệu tấn
(năm 2006) và ước đạt 1,8 triệu tấn (2009). Đặc biệt, việc gia tăng nhanh sản
lượng tôm thẻ chân trắng là do các nước đã sản xuất được tôm bố mẹ sạch bệnh
và áp dụng các biện pháp khoa học công nghệ nâng cao năng suất, chất lượng
tôm. Đặc biệt ở Thái Lan trong năm 2004 sản lượng tôm thẻ chân trắng đã đạt
tới 300.000 tấn, chiếm tỷ lệ cao trong sản xuất tôm biển với sản lượng chiếm
xấp xỉ 80%. Khảo sát tại Thái Lan cho thấy, nước này đã chuyển sang nuôi
tôm thẻ chân trắng đời thứ 7, sạch bệnh. Người nuôi tôm ở Thái Lan đã nuôi
thành công tôm thẻ chân trắng cỡ lớn (vượt tôm sú), có ưu thế vượt trội về
năng suất, đạt 25-30 tấn/ha/vụ; lợi nhuận thu được cao gấp 2 - 3 lần so với tôm
sú. Dự báo sản lượng tôm nuôi của Thái Lan năm 2008 sẽ đạt 533.000 tấn,
gồm 160.000 tấn tôm sú và 373.000 tấn tôm thẻ chân trắng. Còn tại
Philippines, Bộ Nông nghiệp nước này cũng đã dỡ bỏ lệnh cấm nhập khẩu và
nuôi tôm thẻ chân trắng ở nước này sau những nghiên cứu kỹ lưỡng cho thấy
việc nuôi tôm thẻ chân trắng hiệu quả cao, lại không đe dọa môi trường, góp
phần đa dạng sinh học. Tôm thẻ chân trắng được thế giới công nhận là một
trong ba loài tôm he nuôi có nhiều ưu điểm và sản lượng cao nhất với nhiệt độ
và độ mặn rất rộng, có thể nuôi theo nhiều hình thức bán thâm canh, thâm canh
và nuôi công nghiệp trong các ao đầm nước mặn lợ [18].
Thực hành nông nghiệp tốt (Good Agriculture Practices - GAP) là
những nguyên tắc được thiết lập nhằm đảm bảo một môi trường sản xuất an
toàn, sạch sẽ, thực phẩm phải đảm bảo không chứa các tác nhân gây bệnh
như chất độc sinh học (vi khuẩn, nấm, virus, ký sinh trùng) và hóa chất (dư
lượng thuốc kháng sinh, kim loại nặng), đồng thời sản phẩm phải đảm bảo
an toàn từ ao nuôi đến khi sử dụng. Tiêu chuẩn của GAP về thực phẩm an
toàn tập trung vào 4 tiêu chí sau: Tiêu chuẩn về kỹ thuật sản xuất, nuôi
trồng; Tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm; Tiêu chuẩn về môi trường làm việc;
Truy nguyên nguồn gốc.
24
Nguyên lý của GAP là nhận diện các mối nguy gây mất an toàn vệ sinh
thực phẩm, gây ra dịch bệnh cho thủy sản nuôi và gây hại đến môi trường tại
từng công đoạn nuôi; kiểm soát, ngăn chặn các mối nguy để chúng không xảy
ra hoặc chỉ xảy ra ở dưới mức giới hạn cho phép. Điều kiện áp dụng GAP là
vùng nuôi nằm trong vùng quy hoạch, thiết kế ao đầm nuôi tương đối hoàn
chỉnh và phải có hệ thống kênh cấp, thoát nước riêng biệt.
Nội dung thực hiện GAP (12 nội dung chính ): Lựa chọn địa điểm và xây
dựng cơ sở nuôi phù hợp; Quản lý chất lượng tôm giống và mật độ thả giống;
Lựa chọn, quản lý thức ăn và cho ăn; Quản lý tổng hợp ao nuôi; Quản lý sử dụng
hóa chất, chế phẩm sinh học xử lý ao đầm; Quản lý sức khỏe thủy sản nuôi;
Quản lý sử dụng thuốc; Kiểm soát chất lượng nước thải, rác thải và bùn đáy ao;
Quan hệ cộng đồng trong vùng nuôi; Tu bổ và xử lý hệ thống nuôi sau thu
hoạch; Quản lý hoạt động sau thu hoạch; Ghi chép và quản lý hồ sơ nuôi tôm.
Nhằm đảm bảo an toàn cho sức khoẻ con người, an toàn môi trường và
vật nuôi, dựa vào các bằng chứng cho thấy thuỷ sản nuôi trồng cần phải có
các biện pháp kiểm soát ở phạm vi trại nuôi. Các thị trường nhập khẩu thuỷ
sản lớn (EU, Mỹ, Nhật, Úc, Canada…), các tổ chức quốc tế ( AFTA, WHO,
FAO-WHO..) đã đưa ra các quy định chặt chẽ và yêu cầu nước xuất khẩu phải
tuân theo các qui định về an toàn thực phẩm và vệ sinh thú y trong thực phẩm
thuỷ sản nuôi, bao gồm: các chỉ tiêu, mức giới hạn các chỉ tiêu liên quan đến
mối nguy vật lý, hoá học và sinh học; phương pháp lấy mẫu và phân tích; áp
dụng HACCP trong kiểm soát các loại mối nguy; trình tự kiểm soát và xử lý
vi phạm; các qui định chi tiết về tổng tạp khuẩn, vi sinh vật gây bệnh, độc tố,
thuốc kháng sinh, thuốc trừ sâu, kim loại nặng… Do vậy, nhiều nước đã thiết
lập và thực hiện chương trình GAP như Mỹ, Pháp, NaUy, Thái Lan, Ấn độ,
Hàn quốc …
Kể từ năm 1991, Thái Lan đã trở thành nước xuất khâu tôm nuôi số một
trên thế giới chiếm 30% tổng lượng xuất khẩu tôm nuôi toàn cầu. Hằng năm,
25
Thái Lan sản xuất khoảng 300.000 tấn. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích to
lớn, nghề nuôi tôm cũng có những tác động đáng lo ngại cho môi trường và đời
sống, ví dụ như làm ô nhiễm nguồn nước, phá huỷ rừng ngập mặn và hệ sinh
thái ven biển. Ðể hạn chế bớt những tác động tiêu cực trên và đối phó với
những yêu cầu ngày càng cao về vệ sinh, an toàn thực phẩm của các thị trường
trên thế giới, Cục Nghề cá (DOF) Thái Lan đã áp dụng hai Hệ thống kiểm tra
chất lượng đối với nghề nuôi tôm xuất khẩu. Ðó là Hệ thống Chất lượng GAP
(Thực tiễn Nuôi tốt) là tiêu chuẩn chất lượng cho các trại sản xuất giống và các
trại nuôi thuỷ sản; và Hệ thống chất lượng CoC (Quy tắc ứng xử trong Nuôi
trồng thuỷ sản) là tiêu chuẩn chất lượng dùng cho toàn bộ hệ thống sản xuất
tôm nuôi, từ nuôi đến chế biến. Các sản phẩm tôm nuôi của Thái Lan phải đạt
tiêu chuẩn cao về thân thiện với môi trường, không có dư lượng kháng sinh và
các tiêu chuẩn quốc tế khác.
1.2.2. Tình hình nuôi tôm thẻ chân trắng ở Việt Nam
Tại Việt Nam, tháng 9/2001 đơn vị đầu tiên được Bộ Thủy sản cho phép
đưa tôm thẻ chân trắng vào sinh sản nhân tạo để bán ra thị trường là công ty
Duyên Hải ở tỉnh Bạc Liêu. Tiếp đến tôm thẻ chân trắng được nuôi thử
nghiệm ở một số tỉnh miền Bắc và miền Trung. Nguồn tôm giống nhập ngoại
chủ yếu từ Trung Quốc, Đài Loan, Mỹ, trong đó nhiều nhất là Trung Quốc,
chủ yếu nhập qua đường tiểu ngạch, rất khó kiểm soát.
Tôm thẻ chân trắng được nuôi phổ biến trên cả nước tập trung tại các tỉnh
Ninh Thuận, Quảng Ngãi, Bình Thuận, Thừa Thiên - Huế, Quảng Bình,
Quảng Trị, Hà Tĩnh, Nghệ An… Nuôi tôm trên cát phát triển mạnh đến mức
các Bộ, ngành và chính quyền các cấp không thể kiểm soát được. Nếu như năm
2002, cả nước có 593,8 ha nuôi tôm trên cát thì đến năm 2003 tăng lên 1131
ha; đến hết năm 2005 diện tích nuôi tôm trên cát được các tỉnh miền trung đưa
vào quy hoạch hơn 20.000 ha. Theo thống kê của ngành Thủy sản, năm 2008
cả nước đạt sản lượng 50.000 tấn tôm thẻ chân trắng. Năm 2009 sản lượng tăng
lên gấp 10 lần. Miền Trung là khu vực có các điều kiện thích hợp cho tôm thẻ