Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Đề cương ôn tập triết học Cao học Kinh tế quốc dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.72 KB, 17 trang )

§Ò c¬ng triÕt
Ôn tập
Câu 1: Thông qua một số triết gia tiêu biểu của khuynh hướng duy vật anh (chị) hãy
làm rõ những tư tưởng biện chứng của triết học Hy Lạp la mã cổ đại.
Câu 2: Tại sao nói mối quan hệ giữa đức tin và lý tính là vấn đề trung tâm của triết học
Tây Âu thời trung cổ
Câu 3: Bằng những kiến thức triết học anh (chị) hãy làm rõ đặc điểm triết học thời kỳ
phục hưng ở Tây Âu.
Câu 4: Anh (chị) hãy làm rõ vấn đề nhận thức luận và phương pháp luận là một trong
những trọng tâm của thiết học Tây Âu thời cận đại.
Câu 5: Từ lập trường triết học duy vật biện chứng anh (chị) hãy đánh giá về chủ nghĩa
duy vật nhân bản của Phoi-ơ-bắc.
Câu 6: Anh (chị) hãy trình bày triết lý của Phật giáo về thế giới và con người.
Câu 7: Triết học Trung Hoa cổ đại:
+ Khổng tử
+ Lão Tử
+ Pháp Gia
Câu 8. Vấn đề con người trong triết học Mác - Lênin và ở nước ta hiện nay
Câu 9. Thống nhất nguyên tắc giữa lý luận và thực tiển trong triết học Mác - Lênin
(nhận định của Chủ Tịch Hồ Chí Minh về nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là
nguyên tắc cao nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin)
Câu 10. Chủ nghĩa duy vật Mác - Lênin cơ sở lý luận của thế giới quan khoa học
Câu 1: Thông qua một số triết gia tiêu biểu của khuynh hướng duy vật anh (chị)
hãy làm rõ những tư tưởng biện chứng của triết học Hy lạp - La Mã cổ đại.
Đất nước Hy lạp ở vào vị trí rất thuận lợi về tầi nguyên, khí hậu, đất đai, đặc biệt có đường
biên giới biển bao quanh do vậy rất thuận lợi trong việc bang giao với các nước khác (tiếp
nhận, thừa kế những tri thức, tài nguyên của các nước khác). Quan hệ Hàng - Tiền là quan hệ
đượ hình thành sớm nhất ở Hy lạp, là nội lực kinh tế để yểm trợ cho sự lớn mạnh của giai cấp
chủ nô. Hy lạp là nước đầu tiên thực hiện chế độ liên bang. Hy lạp là đất nước của sử thi, thần
thoại (1/3 kho sử thi của thế giới). Hy lạp còn là đất nước của tôn giáo, do đó sinh hoạt tôn
giáo là một bộ phạn quan trọng hình thành nên các tri thức về tôn giáo (trở thành một bộ phận


trong triết học đầu tiên).
Tư tưởng biện chứng trong triết học của một số triết gia khuynh hướng duy vật
Hy lạp - La mã cổ đại.
Trong thời kỳ sơ khai của triết học, cùng với cuộc đấu tranh giữa quan điểm duy vật và
duy tâm về bản thể luận, còn có cuộc đấu tranh giữa quan điểm biện chứng với quan điểm siêu
hình về bản tính thế giới.
1. Hêraclít (540 - 475 TCN) coi bản nguyên của thế giới là lửa và khẳng định bản tính
thế giới là "mọi thứ đều trôi qua". Tính đặc thù của tư tưởng này chính là ông thừa nhận sự
thống nhất mâu thuẩn của vận động và đứng im, sinh thành và hiện hữu. ở Hêraclít vận động
và đứng im là một sự thống nhất của các mặt đối lập, giống như đấu tranh và hài hoà, chúng
không tồn tại thiếu nhau và thể hiện ra thông qua nhau. Ông vừa thừa nhận dòng sông luôn
chảy. mặt triết họcời thường xuyên và liên tục biến đổi, vừa thừa nhận không có cái gì ổn định
và bất biến hơn là dòng sông luôn chảy và mặt trời thường xuyên chiếu sáng. Nói cách khác,
tính biến đổi của dòng sông không loại trừ sự đứng im và tính xác định của dòng sông không
loại trừ sự vận động (chảy) của nó. Hêraclít nói rõ hơn "khi biến đổi, nó đứng im" (nghỉ ngơi).
Từ đó ta suy ra rằng chính Hêraclít là người nói về cái hài hoà trong đấu tranh, thống nhất

1


§Ò c¬ng triÕt
trong phân đôi, bất biến trong biến đổi, đồng nhất trong khác biệt, vĩnh cửu trong nhất thời.
Khái niệm triết học co bản của tư tưởng về bản tính thế giới của Hêraclít là Logos. Thuật ngữ
này làm nên nội dung cốt lõi của phép biện chứng Hêraclít.
Theo ông , trước hết Logos là sự thống nhất của mọi cái hiện hữu. Thống nhất ở đây có
nghĩa là sự đồng nhất của cái đa dạng, là sự hài hoà giữa các mặt đối lập. Vốn là tư tưởng cơ
bản trong phép biện chứng, ông thường sử dụng tư tưởng này với tính kiê đinh và nhất quán.
Ông phê phán các tiền bối như Hêxiốt, Pitago, Xênôphan… không hiểu sự thống nhất. ông cho
rằng ngày và đêm, thiện và ác không phải là một, đó là điều ai cũng hiểu. Nhưng ngày và đêm,
thiện và ác, cũng như mội đối lập tạo nên một chỉnh thể thống nhất thì là điều ít ai hiểu.

Đương nhêi dễ hiểu rằng các kiểu đối lập trên là nối tiếp nhau, tạo ra tính chu kỳ và tính lặp lại
nhất định. Nhưng người ta, theo Hêraclít không hiểu được rằng bản thân tính chu kỳ và tính
lặp lại đó được quy định bởi sự thống nhất, sự hoà hợp, sự hài hoà giữa các mặt đối lập, tức
bởi "logos" phổ biến. Nói tới sự thống nhất của các mặt đối lập, Hêraclít chỉ muốn nói rằng
các mặt đối lập giả định với nhau nhưng và không thể có được nếu thiếu nhau chứ không phải
là sự trùng hợp tuyệt đối: chẳng hạn không thể biết quý sức khoẻ nếu không biết đối lập của
nó là bệnh. Hêraclít nói rằng "Bệnh tật làm cho sức khoẻ trở nên quý giá, ngọt ngào". Thứ hai
là quan hệ giữa Logos chủ quan và logos khách quan, tức là khả năng thống nhất giữa chúng.
Hêraclít đã giải quyết vấn đề một cách khẳng định. Ông cho rằng tư duy vốn có sở mọi người
và Logos thế giới con người (củ quan) có khả năng phù hợp với Logos thế giới (khách quan),
mặc dù điều đó không diễn ra thường xuyên và hoàn toàn không phải ở mọi người. Khả năng
ấy suy ra rằng việc nhận thức Logos của thế giới bên ngoài là có thể đựơc. Con đường đạt tới
khả năng ấy the Hêraclít là bằng sự nỗ lực của bản thân và quan hệ với Logos thế giới bên
ngoài.
Đóng góp cơ bản của Hêraclít trong lịch sử phép biện chứng là cách trình bày đầu tiên
về quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Ông đã cố thể hiện bản chất mâu
thuẫn của các sự vật trong ogos" chủ quan và chỉ ra sự thống nhất biện chứng của nhận thức và
biện chứng của thế giới.
Đối lập với biện chứng của Hêraclít là phép biện chứng "phủ định" của trường phái
Êlê, với chủ trương vạn vật bất biến, không sinh thành, không diệt vong với hai đại biểu lớn là
Páctêmít (khoảng cuối thế kỷ VI đầu thế kỷ V TCN) và Dênôn (khoảng 490 - 430 TCN). Vấn
đề lớn trong triết học Páctêmít là quan hệ giữa tồn tại và hư vô, tồn tại và tư duy, vận động và
đứng im. Cuộc tranh luận giữa Hêraclít với Páctêmít là cuộc tranh luận giữa một người xem sự
vật trong vận động với một người xem sự vật trong trạng thái yên tĩnh. Tư tưởng triết học của
Páctêmít thể hiện ở ba luận điểm: coi vận động, biến đổi là hư ảo, bác bỏ quan điểm không
gian rỗng thuần tuý; coi tồn tại và tư duy đồng nhất với nhau vừa như quá trình, vừa như kết
quả. Tư duy là tư duy chỉ khi nào có vật thể, và vật thể là vật thể hiện hữu chỉ khi nào ta tư
duy được với tính cách nó có như một hiện thể đặc trưng coi thế giới không có sinh thành,
xuất hiện và diệt vong. Dênôn đã cụ thể hoá và phát triển nguyên lý "vạn vật đồng nhất thể" và
vạn vật bất biến bằng phương pháp trưng dẫn chứng lý và nghịch lý. Ông đã đặt ra quan hệ

giữa vận động và đứng im, giữa liên tục và gián đoạn, giữa hữu hạn và vô hạn, song ông chưa
có điều kiện để bàn tới tính biện chứng theo cách nhìn hiện đại về các mối quan hệ ấy. Mặt
tích cực của nhà biện chứng theo nghĩa cũ này là các nghịch lý (aporia) của ông thực sự kích
thích tư duy, khuyến khích tinh thần hoài nghi, tranh luận đi tới chân lý.
Vào thời cực thịnh của triết học, tư tưởng biện chứng được thể hiện trong tư tưởng của
Xôcrát (469 - 399 TCN). Ông trình bày quan điểm của mình chỉ bằng lời nói, dưới hình thức
hội hoạ hay tranh luận, theo phương pháp đặc biệt, đặc trưng cho ông; đó là phương pháp
Xocrát, phương pháp này có bốn bước.
+ Mỉa mai là thủ pháp phản biện bằng cách nêu hàng lạot câu hỏi có tính chất mỉa mai
nhằm dồn người đối thoại vào thế mâu thuẫn, thừa nhận những khiếm khuyết trong lập luận
của mình, từ đó thừa nhận chân lý.

2


§Ò c¬ng triÕt
+ Đỡ đẻ với nghĩa là người thầy, người dẫn dắt không bỏ mặc người đang đối thoại với
mình (học trò chẳng hạn) ở tình trạng không lối thoát mà chủ động nêu ra những vấn đề mới,
giúp họ đạt tới chân lý. Việc đó giống như bác sĩ giúp người mẹ sinh ra đứa con.
+ Quy nạp là quá trình đi phân tích những hành vi riêng lẻ đến khái quát để nắm bắt
bản chất con người và đời sống xã hội.
+ Xác định Hay định nghĩa là bước cuối cùng của tiếp cận chân lý: gọi đúng tên sự vật,
chỉ ra đúng bản chất của nó, xác định đúng những chuẩn mực hành vi đạo đức, tiến tới xây
dựng một khoa học về cái thiện phổ quát, giúp con người sống hạnh phúc, hợp lý trí.
Tư tưởng biện chứng của triết học duy vật cổ đại Hy lạp - La mã ra đời sớm nhất trong
lịch sử, được đánh giá cao và được nhiều nhà triết học sau này tiếp thu, phát triển. Tuy nhiên,
phép biện chứng ở giai đoạn nay là "phép biện chứng khách quan tự phát" có nghĩa là khi phát
triển các yếu tố của phép biện chứng trên thực tế, các nhà triết học Hy lạp về chủ quan đã
không ý thức được nó, đã không tự giác xây dựng thành hệ thống. Khi phản ánh tính chất biện
chứng tự hiên xã hội và tư duy, phép biện chứng tự phát đó đã tồn tại dưới hai hình thức: phép

biện chứng khẳng định và phép biện chứng phủ định…
Câu 5: Từ lập trường triết học duy vật Anh (Chị) hãy đánh giá về CNDV chủ
nghĩa duy vật nhân bản của Phoi-ơ-Bắc.
Lút-vích Phơ Bách (28/7/1804 - 1872) nhà duy vật nổi tiếng của triết học cổ điển Đức,
một trong những bậc tiền bối của triết học Mác. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình luật
sư nổi tiếng, theo học ở trường đại học tổng hợp Béclin, tham gia phái Hêghen trẻ về sau ông
tách khỏi phái Hêghen trẻ và trở thành người phê phán Hêghen và bắt đầu xây dựng học thuyết
duy vật. Các tác phẩm triết học lớn của ông là: "Phê phán triết học Hêghen" năm 1839, "Bàn
về sự chết" năm 1840, "Bản chất của đạo thiên chúa" năm 1841, "Đề cương cho sự cải cách
triết học " năm 1842, "những nguyên lí cơ bản của triết học tương lai" năm 1843, "Bản chất
của tôn giáo" năm 1845. Trong đó nổi bật nhất là triết học duy vật nhân bản, tức học thuyết về
con người, ở đó Phơ - Bách đã hoàn thành lập luận cho những quan điểm duy vật của ông, và
đánh một đòn quan trọng vào triết học duy tâm của Hêghen, vào chủ nghĩa duy tâm nói chung,
những tác phẩm của ông đã đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành chủ nghĩa vô thần và
trong quá trình đấu tranh phê phán tôn giáo. Phơ Bách dẫn câu nói nổi tiếng của Gơ-tơ: "Ai có
khoa học… người đó không cần tôn giáo". Trong học thuyết của mình mặc dù có vai trò rất to
lớn đối với nền triết học nhân loại và trong cuộc đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái
của tôn giáo. Đặc biệt triết học nhân bản của ông góp phần quan trong trong việc khẳng định
về nguồn gốc, bản tính của con người, tu vậy thiếu sót của ông trong học thuyết nhân bản đó là
khong thừa nhận mặt xã hội của con người.
Theo đánh giá của Mác, Phơ bách là nhà triết học duy vật khá triệt để trong tự nhiên,
sông vẫn là nhà triết học siêu hình. Ông cho rằng giới tự nhiên tồn tại khách quan và nó là cái
nôi của loài người, tự nhiên thống nhất ở tính vật chất, tự nhiên phong phú, đa dạng nhưng
cũng chỉ là biểu hiện của vật chất .
Tính nhân bản trong triết học nhân bản của Phơ Bách.
Sở dĩ được gọi là triết học nhân bản bởi vì: ông cho rằng triết học của ông xuất phát từ
con người và lấy con người làm trung tâm.
Con người trong triết học Phơ Bách là con người bằng xương bằng thịt, nó tồn tại trong
không gian và thời gian, nó có năng lực tư duy và óc quan sát, mục đích của ông là chống lại
duy tâm và tôn giáo, vì con người của chủ nghĩa duy tâm là con người tinh thần, con người của

tôn giáo là con người khinh chê thân xác, coi thân xác là sự bẩn thỉu.
Con người trong triết học của ông là con người thống nhất giữa cơ thể với tư duy, trong
đó cơ thể là nền tảng của tư duy. Như vậy ông đã đem quan điểm duy vật của mình vào giải
quyết con người, không chỉ vậy ông còn giải quyết vấn đề tư duy con người do đâu mà có, ông
khẳng định tư duy của con người có được là do con người có một cơ quan tổ chức vật chất cao
đó là bộ óc. Tuy nhiên quan điểm duy vật này không phải là duy vật biện chứng mà nó đứng

3


§Ò c¬ng triÕt
trên quan điểm sinh học vì ông ta khẳng định rằng trung tâm của triết học, vấn đề cơ bản của
triết học là nghiên cứu về mối quan hệ giữa các nghành sinh học.
Con người trong triết học của Phoi-ơ-bắc còn có bản tính cộng đồng (duy vật trực
quan) ở đây ông đã loé lên một quan điểm, đó là hoàn cảnh sống và điều kiện sống ảnh hưởng
đến tư duy của con người. (điều này sau này được Mác phát triển thành tồn tại xã hội quyết
định ý thức xã hội). Ông nói: "kẻ ở trong lều tranh sẽ suy nghĩ khác kẻ ở trong lâu đài, ở trong
cung điện", ông đã thấy được nhân tố kinh tế ảnh hưởng đến tư duy con người: "đói nghèo
trong thân xác thì nghèo nàn trong trí óc"
Phơ bách cho rằng con người có 3 đặc trưng, đó là: lí tính ; ý chí ; tình cảm. Như vậy
thì con người trong quan điểm của ông đã thiếu đi mặt rất quan trọng, mặt tạo nên tính người mà sau này Mác đã chỉ ra đó là mặt xã hội của con người.
Ông còn cho rằng con người còn có bản tính túng thiếu (điều này hết sức vô lí). Như
vậy ông đã xem con người với tư cách là một cá thể người chứ không phải là một con người
xã hội. Tuy vậy chúng ta cũng phải thấy những điểm cần lưu tâm đó là: mặc dù con người của
Phoi - ơ - bắc chỉ là một sinh vật hữu tình, đau khổ và túng thiếu, mặc dù nó là sản phẩm của
tự nhiên tồn tại một cách thụ động nhưng nó vẫn biểu hiện một khía cạnh nào đó của thực tế
xã hội lúc bấy giờ đó là nó thể hiện nguyện vọng của giai cấp Tư sản Đức lúc bấy giờ là muốn
đấu tranh để giải phóng con người với tư cách là cá nhân thoát ra khỏi những ràng buộc của
phong kiến do vậy ở khía cạnh xã hội con người của ông phản ánh nguyện vọng của giai cấp
Tư sản.

Con người trong triết học của Phơ bách là con người phi lịch sử, phi giai cấp đứng trên
các quan hệ xã hội, vì vậy đó là con người không hiện thực và con người kiểu như vậy thì
không cần đến Phoi-ơ-bắc giải quyết, mà chủ nghĩa duy tâm, các nhà duy vật trước đó đã giải
quyết, đặc biệt là chủ nghĩa duy vật Pháp.
Như vậy nếu CNDV ở Phoi-ơ-bắc là một bước tiến lên của CNDV thì Phoi-ơ-bắc lại
tiếp tục "say rượu" (duy tâm) trong lịch sử và xã hội. Qua đó có thể khẳng định rằng vấn đề
con người trong Phoi-ơ-bắc vẫn là vấn đề bỏ ngõ, mang tính duy tâm rộng mở.
Con người trong Phoi-ơ-bắc là con người không hoạt động thực tiễn vì vậy lí luận của ông chỉ
là lí luận suông. Do không hiểu rõ bản chất của con người một cách khoa học, Phoi-ơ-bắc đã
lấy tình yêu thương của con người làm bản chất của con người và xem đó là động lực để gắn
kết con người lại với nhau. cuối cùng ông ta đã tạo ra một tôn giáo mới đó là "tôn giáo tình
yêu" ở đó mọi người được tôn trọng nhau, thay nhau làm "Chúa" của nhau.
Phoi-ơ-bắc là nhà triết học duy vật sog trong triết học của ông đã không áp dụng một
cách đến cùng chủ nghĩa duy vật. Nhìn chung các quan điểm củ ông về con người cũng có
nhiều điểm hợp lí nhất định: Thứ nhất nó thể hiện quan điểm duy vật khi khẳng định con
người cũng như xã hội loài người là sản phẩm của tự nhiên. Thứ hai, ông đề cao tính cá thể
của mỗi người. điều này thể hiện nguyện vọng của giai cấp Tư sản Đức lúc bấy giờ muốn đấu
tranh đòi giải phóng nhân cách cá nhân con người khỏi mọi hệ thống giáo lí, trật tự xã hội hà
khắc của nước Đức phong kiến quý tộc. Tuy nhiên hạn chế của Phơ bách là ở chổ ông không
nhận thấy được bản chất xã hội của con người, cũng như vai trò hoạt động của con người trong
nhận thức và cải tạo thế giới, mực dù đôi khi ông có nhắc đến sự hoạt động của con người, tuy
vậy con người trong triết học của ông là con người phi lịch sử, phi giai cấp, phi dân tộc và vì
thế cực kì trừu tượng chứ không cụ thể. Ông phê phán tôn giáo nhưng thực tế ông chỉ phê
phán thiên chúa giáo mà thôi, còn tôn giáo nói chung, theo ông vẫn cần thiết đối với đời sống
con người.
Tóm lại CNDV của Phoi-ơ-bắc chưa thật sự là duy vật đó là triết lí của một nhà duy
vật nhưng duy tam trong giải quyết con người. Vì vậy trong quan điểm về lịch sử, xã hội con
người trong triết học của ông được xếp đồng hàng với các nhà duy tâm và ông là nhà triết học
tiêu biểu nhất trong quan niệm, đánh giá về duy vật về tự nhiên nhưng duy tâm về xã hội.


4


§Ò c¬ng triÕt
Câu 6: Anh (chị) hãy trình bày triết lý của Phật giáo về thế giới và con người.
Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới, với khoảng 350 triệu tín đồ, tập
trung chủ yếu ở các nước ĐNA. Ra đời vào giữa thế kỷ VI TCN ở vùng bắc Ấn Độ (nay thuộc
Nepal). Người sáng lập ra đạo phật là Si-đa-ta, sau khi thành phật ông có tên là Thích-camâu-ni. Kinh điển phật giáo hiện nay rất đồ sộ, gồm ba bộ phận gọi là Tam Tạng, gồm: Tạng
kinh (ghi lại những thuyết pháp của Thích-ca-mâu-ni), Tạng luật (ghi lại giáo điều, giới luật),
Tạng luận (là những tác phẩm bình chú giải thích về kinh phật). Tư tưởng chính học cơ bản
của Phật giáo nguyên thủy chủ yếu nói về thế giới quan và nhân sinh quan của Phật Thích-camâu-ni.
- Về thế giới quan: khác với đạo Bàlamôn, quan điểm luân hồi của đạo phật không
phải là một vòng luẫn quẩn mà thoát ra khỏi cái vòng đó, trở thành giác ngộ ở cõi nát bàn.
Phật giáo không thừa nhận có đấng sáng tạo, nghĩa là thế giới chúng ta kể thế giới vật chất và
tinh thần không do ai sáng tạo ra hết, các sự vật hiện tượng chỉ là sự kết hợp của vật chất và
danh. Nó được thể hiện ở các quan điểm chính sau đây:
+ Duyên khởi: vạn vật đều do nhân duyên mà có. Nhân duyên là nguyên nhân và điều
kiện. Duyên giúp cho nhân biến thành quả. Phật giáo cho rằng mọi sự vật, hiện tượng đều do
nhân duyên hòa hợp mà thành. Duyên khởi từ tâm mà ra, tâm là cội nguồn của vạn vật. Phật
giáo nguyên thủy chủ trương vô tạo giả tức không có vị thần tối cao nào tạo ra thế giới. Quan
niệm vô tạo giả gắn liền với quan niệm vô ngã, vô thường.
+ Vô ngã: không có một thực thể tối thượng tồn tại vĩnh hằng. Trong thế giới, vạn vật
và con người được cấu tạo từ các yếu tố sắc như đất, nước, lửa, gió và danh, tức tinh thần như
thụ, tưởng, hành, thức chứ không có đại ngã và tiểu ngã.
+ Vô thường: không có cái gì trường tồn và vĩnh cửu cả.Trong thế giới, sự xuất hiện
của vạn vật là kết quả hội tụ tạm thời giữa sắc và danh, khi sắc và danh tan ra, chúng sẽ mất đi.
Điều này có nghĩa là vạn vật luôn nằm trong chu trình sinh - trụ - dị - diệt, chúng luôn bị cuốn
vào dòng biến hóa hư ảo, vô cùng theo luật nhân quả.
Như vậy, thế giới quan của Phật giáo nguyên thủy mang tính vô thần, nhị nguyên luận
ngả về phía duy tâm chủ quan và có chứa những tư tưởng biện chứng chất phác. Thế giới quan

chỉ là điều kiện, còn triết lý Phật giáo nằm trong Nhân sinh quan.
- Về nhân sinh quan: là nội dung chủ yếu của triết lý Phật giáo nguyên thủy, được
trình bày trong thuyết Tứ diệu đế (bốn chân lý tuyệt diệu, linh thiêng) với bốn bộ phận là: khổ
đế, nhân đế, diệt đế và đạo đế. Nhân sinh quan đầy tính nhân bản, duy tâm chủ quan, không
tưởng và thần bí. Triết lý của Phật giáo là cái khổ và mục đích của Phật giáo là giải khổ. Cái
quan trọng của đạo phật là giải thích được vì sao con người ta khổ. Theo đạo Phật người ta
khổ vì không nhận thức được biến hóa hợp hợp tan tan ở trong vũ trụ. Tóm lại do không biết
được rằng mọi cái đều vô thường nên nghĩ rằng mọi cái là thường, từ đó nãy sinh ra lòng
tham, lòng khát, nên phải tìm cách để thỏa mãn. Chính ham muốn đó đã dẫn con người khỗ từ
kiếp này sang kiếp khác, gọi là luân hồi, và kết quả của kiếp trước là nguyên nhân của kiếp sau
gọi là nghiệp báo. Nếu không tin, không hướng thiện…ngày càng sa vào vòng tội lỗi thì
nghiệp báo càng khốc liệt. Để giải thoát con người khỏi kiếp nạn trầm luân đó thì đạo Phật đã
đưa ra Tứ diệu đế, để làm rõ nguồn gốc, nguyên nhân, con đường giải thoát khỏi khổ.
+ Khổ đế: là lý luận về những nỗi khổ rõ ràng ở thế gian. Theo Phật có 8 nỗi khổ là
sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, sở cầu bất đắt, oán tăng hội và ngũ uẩn.
+ Tập đế: là lý luận về những nguyên nhân dẫn đến nỗi khổ nơi cuộc sống con người.
Phật giáo cho rằng con người còn chìm đắm trong bể khổ khi không thoát ra khỏi dòng sông
luân hồi. Mà luân hồi là do nghiệp tạo ra. Sở dĩ có nghiệp là do lòng ham muốn, tham lam,
ngu dốt và si mê, được gọi là Tam độc (tham, sân, si) gây ra. Nhân đế còn được diễn giải trong
thuyết Thập nhị nhân duyên gồm vô minh, hành, thức, danh - sắc, lục nhập, xúc, thụ, ái, thủ,
hữu, sinh, lão - tử. Trong 12 nguyên nhân trên, vô minh là nguyên nhân thâu tóm tất cả, vì vậy
diệt trừ vô minh là diệt trừ tận gốc sự đau khổ nhân sinh.

5


§Ò c¬ng triÕt
+ Diệt đế: là lý luận về khả năng tiêu diệt được nỗi khổ nơi cuộc sống để đạt đến niết
bàn. Khi vô minh được khắc phục thì tam độc biến mất, luân hồi chấm dứt, niết bàn sẽ xuất
hiện. Diệt đế bộc lộ tinh thần lạc quan của PG vì nó vạch ra cái hiện tại đen tối, xấu xa của

mình, để cải đổi, kiến tạo lại nó thành một cuộc sống tốt đẹp hơn. PG thể hiện khát vọng nhân
bản, muốn hướng con người đến cõi hạnh phúc “tuyệt đối”, muốn hướng khát vọng chân chính
của con người.
+ Đạo đế: là lý luận về con đường diệt khổ, giải thoát. Nó thể hiện nội dung cơ bản
trong thuyết Bát chính đạo, khi đã đạt được bát chính đạo thì thực hiện được chân lý vô nhân
ngã, nghĩa là không có người và cũng không có ta, đưa chúng sinh đến nát bàn, đó là: chính
kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính tinh tấn, chính niệm, chính
định. Bát chính đạo là suy nghĩ, nói năng và hành động đúng đắn… về thực chất, thực hành
bát chính đạo là khắc phục tam độc bằng cách thực hiện tam học gồm: giới, định và tuệ. Trong
đó, tham được khắc phục bằng định, si được khắc phục bằng tuệ.
Phật giáo khuyên chúng sinh thực hành Ngũ giới, rèn luyện Tứ đẳng…, Phật giáo phản
đối chế độ đẳng cấp, tố cáo xã hội bất công, đòi bình đẳng công bằng xã hội, khuyên chúng
sinh luôn suy nghĩ về điều thiện và làm điều thiện. Như vậy, nhân sinh quan của Phật giáo
nguyên thủy mang tính nhân bản sâu sắc nhưng cũng chứa đầy tính chất duy tâm chủ quan.
Câu 5: Tư tưởng cơ bản của triết học Khổng Tử
Khổng Tử (551 - 479 TCN) người sáng lập nho giáo. Khổng Tử tên thật là Khổng Khâu,
tên chữ là Khổng Ni, sinh ở Khúc Phụ nước Lỗ. Gia đình ông thuộc loại nghèo. Ông ham học
thích nghiên cứu thi, thư, lễ, nhạc đời trước. Khổng Tử là nhà tư tưởng lớn, có ảnh hưởng tới
văn hoá Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam. Tài liệu chủ yếu để nghiên cứu Khổng
Tử là cuốn Luận ngữ, ghi lại lời của Khổng Tử và học trò. Hiện nay Lỗ luận ngữ được xem là
bản chính. Trong cuộc đời của Khổng Tử có 4 điều cấm kỵ:
+ Không ra vào suy nghĩ trống rỗng, Trung Quốc coi Khổng Tử là cha đẻ của chủ nghĩa
thực dụng, là chủ nghĩa bàn đến những cái có ích cho cuộc sống của con người.
+ Không nghiêm ngặt trong phán đoán của mình, không bảo thủ trong nhận xét của
mình.
+ Không biểu thị thái độ ngoan cố.
+ Không nghĩ về bản thân mình.
Về tư tưởng của Khổng Tử:
1. Tư tưởng về bản thể luận và biến dịch
Trước hết, Khổng Tử khẳng định: "Thiên, địa, vạn vật nhất thể", tức trời đất, vạn vật

trong vũ trụ là một thể thống nhất, giao hoà với nhau.
Giao hoà thể hiện ở chỗ: chúng tự sinh thành, tự vận động, tự biến hoá không ngừng
nghỉ theo đạo, tức là có tính quy luật. Sự vận động, biến đổi đó là do sự tương tác giữa âm và
dương trong một thể thống nhất và có quy luật thể hiện ở chỗ: cái lực vô hình mạnh mẽ làm
cho dương phát triển cực độ và hoá ra âm, và âm đến cực độ hoá ra dương. Và cái giữ cho âm
- dương, trời - đất trung hoà đó là đạo; đoạ là huyền bí, là linh diệu, nó lan toả khắp trong vũ
trụ nên không ai có thể cưỡng được đạo mà phải chấp nhận đạo. Vì thế, cái cao nhất, quyết
định nhất là thiên mạnh, cái sẽ quyết định sự vận động, biến đổi, diệt vong của thiên địa, vạn
vật.
Khổng Tử tin vào mạnh trời:
+ Trời là đấng chúa tể, có nhân cách, ý chí, tình cảm... Ông nói: "Mắc tội với trời, không
còn cầu khẩn gì được nữa"; "Ta dối ai, dối trời chăng?"; "Trời sinh đức ở nơi ta"; trời có nói gì
đâu, mà bốn mùa đều vận hành, trăm vật đều sinh trưởng".
+ Đạo có thi hành được hay không là do thiên mệnh. Bản thân ông kế thừa đạo nhà Chu
cũng do mệnh trời. Khi bị vây khốn ở Khuông, ông nói: "Trời mà muốn dứt bỏ cái văn hoá

6


§Ò c¬ng triÕt
này thì ta đây không được dự vào cái văn hoá ấy. Trời mà chưa muốn dứt bỏ cái văn hoá ấy,
thì người nước Khuông làm gì được ta".
+ Trời và người có tác dụng tương hỗ với nhau, tức hiện tượng tự nhiên có ảnh hưởng
đến đoạ đức con người và ngược lại đạo đức con người cũng có ảnh hưởng đến các hiện tượng
tự nhiên. Kinh Thư nói: "Đứng đắn thì mưa phải thời; yên ổn thì nắng phải thời; mưu trí thì
lạnh phải thời; thánh minh thì gió phải thời". "Ngông cuồng thì mưa luôn; tiếm loạn thì nắng
luôn; nóng nảy thì lạnh luôn; u mê thì gió luôn".
+ Ông nói với Tử Hạ: " Sinh tử hữu mạng, phú quý tại thiên", ông cho rằng không hiểu
mạnh trời thì không phải là người quân tử, hay nói cách khác là người quân tử thì phải tuân
theo mạnh trời.

Ông còn cho rằng đã là người quân tử thì không chỉ mạnh trời mà còn phải sợ bậc đại
nhân, tức là sợ chử tín, sợ cái uy và phải biết nghe lời thánh hiền.
Ngoài mạnh trời theo ông con người còn chịu sự chi phối của quỷ thần, là lực lượng linh
thiêng cần phải tránh xa. Quỷ thần là do khí thiêng trời đất tạo ra, tai ta không nghe thấy, mắt
ta không nhận thấy nhưng nó tồn tại bên cạnh chúng ta. Chúng ta phải kính cẩn quỷ thần
nhưng phải tránh xa bằng cách không nên bàn luận, không nên sùng bái quỷ thần. Đối với quỷ
thần, sống chết, ông có thái độ kính nhi viễn chi: " Chưa biết thờ người, sao biết thờ quỷ",
"Chưa biết cái sống, làm sao biết cái chết".
Tóm lại, quan điểm bản thể luận và biên dịch của khổng tử có mâu thuẩn: một mặt ông
thừa nhận thế giới là một chỉnh thể luôn vận động, biến hoá do sức mạnh âm - dương mang
lại, điều đó cho thấy trong triết học của ông có tư tưởng duy vật và tư tưởng biện chứng.
Nhưng khi giải thích về nguồn gốc của âm - dương thì ông phải biện dẫn đến thiên mạnh, quỷ
thần, điều nay về sau đã bị các học nho khuyếch đại lên và giai cấp thống trị lợi dụng để mị
dân.
2. Quan niệm của Khổng Tử vè chính trị - đạo đức
Khổng Tử nói: " Tôi chưa thấy ai yêu đức như yêu sắc đẹp của phụ nữ", " lấy thiện báo
ác là người ngu xuẩn vì khi đó lấy gì báo thiện", " người quân tử nghĩ về đạo chứ không nghĩ
về ăn uống", " đối với con người lòng nhân ái quan trọng hơn nước với lửa, tôi thấy có người
chết vì nước với lửa chứ chưa ai chết vì lòng nhân ái", "ở đời lễ vật cao nhất mà mọi người
giành cho nhau đó là lòng bao dung"...
Toàn bộ những quan niệm về tư tưởng - chính trị - đạo đức - xã hội của Khổng Tử là
nhằm giải quyết những vấn đề bức bách của thời kỳ Xuân Thu, giải quyết những mối quan hệ
đã bị suy vị, tha hoá thời đó.
Với Khổng Tử, xã hội là một thể các mối quan hệ giữa người với người, giữa gia
đình và xã hội, giữa trời và người. Nhưng cái lõi, cái trung tâm của quan hệ xã hội là đạo đức.
Và đường lối của Khổng Tử là đúc trị. Đạo đức là gốc, là đường lối của chính trị và chính trị
được thực hiện bằng đạo đức, cái điều chỉnh quan hệ xã hội là đạo đức, ông viết: "lấy đạo đức
để làm chính trị, ví như sao bắc thần ở yên một chỗ mà mọi sao khác đều hướng về nó". Chính
vì thế, những người làm chính trị phải là những người có đạo đức và phải luôn trao dồi đạo
đức, tu thân theo: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.

Chính trị là thủ đoạn của giai cấp, vấn đề là mục đích của thủ đoạn là gì cho nên người
làm chính trị phải là người có nhân.
• Chữ nhân
Chữ nhân thể hiện ở chỗ: Với gia đình, người làm chính trị phải thể hiện được là người
chủ hoà thuận, phải là người tề gia, sau đó mới có thể trị quốc, bình thiên hạ.
Chữ nhân là hạt nhân cơ bản trong đức của Khổng Tử, đó là đức của trời đất, là gốc của
điều nghĩa, điều trí, điều tín, điều dũng; tóm lại là gốc của người quân tử. Ngoài ra nhân là cái
quyết định mối quan hệ giữa con người với con người. Vì thế mà nhân trong triết học của
Khổng Tử là đa nghĩa, đa dạng và tuỳ vào từng trường hợp cụ thể mà được hiểu khác nhau.
Song hiểu theo cách nào thì nhân vẫn là cái gốc của đạo đức, của xã hội.

7


§Ò c¬ng triÕt
Theo Khổng Tử: Sữa mình theo lễ là nhân, yêu người là nhân, nói ít thì gần với điều
nhân. Còn những người thích ăn mặc trau chuốt, ăn nói sắc sảo là ít có đức nhân. Nhưng có lẽ,
điều quan trọng là điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người, cái gì mình muốn lập thì
cũng lập cho người khác, cái gì mình muốn đạt thì cũng mong cho người khác thành đạt. Như
vậy là nhân của Khổng Tử đối lập với cái ích kỷ, đây là quan niệm có những giá trị nhất định
và quan niệm này phảng phất trong Phật giáo sau này.
Theo ông nhân quy định động cơ của người làm việc. Trước hết phải làm những việc khó
khăn rồi mới nghĩ đến hưởng thụ, thu hoạch. Về mặt nhận thức: có nhân là người có trí vì có
trí mới phân biệt đâu là thiện, là ác và người có nhân phải có dũng để dám nhận ra sai lầm của
mình.
Tuy nhiên trong quan niệm về chữ nhân của Khổng Tử có điểm mâu thuẫn: ông rất đề
cao chữ nhân nhưng với ông chữ nhân chỉ giành cho những người quân tử, còn kẻ tiểu nhân
không có nhân. Ông nói: "người quân tử có khi phạm vào điều bất nhân nhưng chưa hề có kẻ
tiểu dân có nhân".
Có thể nói nhân là cái trở thành học thuyết nhân trị, đức trị trong Khổng Tử nhưng để

nhân trị đi vào đời sống hiện thực thì Khổng Tử đề ra tư tưởng chính danh.
• Học thuyết chính danh:
Sự vật tồn tại khách quan, để biểu hiện nó phải dùng ngôn ngữ. Cái ngôn ngữ để biểu
hiện đó là danh. Danh đối lập với thực. Danh có nội hàm. Sự luôn thay đổi nên nội hàm của
danh cũng luôn thay đổi. Nhưng ngôn ngữ lại có tính ổn định nên danh thường lạc hậu hơn
hiện thực, không thay đổi kịp so với hiện thực tất xã hội có biến loạn.
Theo Khổng Tử, xã hội loạn lạc là do danh không chính, tức danh không phù hợp với
thực, từ đó làm cho kỷ cương phép tắc đảo lộn. Ông nói: "chính sự là làm cho mọi việc ngay
thẳng, công minh". Mỗi người đều có một địa vị, bổn phận nhất định, và tương ứng với nó là
một danh nhất định. Mỗi danh đều có những tiêu chuẩn riêng. Người nào mang danh nào phải
thực hiện những tiêu chuẩn của danh đó nếu không phải gọi bằng danh khác. "Chính là làm
cho mọi việc ngay thẳng". Chính danh là vua cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha cho ra cha, con cho
ra con ( Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử). Ông nói: "Nếu danh không chính thì lời không
thuận; lời không thuận thì việc không thành; việc không thành thì lễ nhạc không rõ ràng được;
lễ nhạc không rõ ràng thì hình phạt không trúng; hình phạt không trúng thì dân không biết làm
ăn ra sao". Chính vì vậy, nếu được mời tham gia chính sự. Khổng Tử "ắt phải chính danh
trước đã". Ông viết sách Xuân Thu nhằm tuyên truyền học thuyết chính danh.
Chính danh là phải tôn trọng tôn ti trật tự, cái mà Nho giáo gọi là luân. Trong Ngũ luân
(vua-tôi, cha-con, anh-em, bạn-bè, quân-thần, phụ-tử, phu-phụ, huynh-đệ, bằng-hữu) có ba
mối quan hệ cơ bản, tam cương ( quân vi thần cương, phụ vi tử cương, phụ vi thê cương). Mỗi
quan hệ có những tiêu chuẩn riêng, chẳng hạn quân nhân thần trung, phu từ tử hiếu, phu
xướng phụ tòng... Trong năm mối quan hệ trên, Khổng Tử chú trọng hai mối quan hệ: vua-tôi,
cha-con.
+ Vua-tôi. Khổng Tử chủ trưởng dùng đức trị, tức người thống trị, tự lấy đạo đức của
mình để cảm hoá người bị trị làm cho họ không chống lại, ông phản đối hình, chính (pháp trị).
Ông nói: "Nếu lấy hình và chính mà trị thì dân không dám làm nhưng biết hổ thẹn mà còn
không dám làm".
Theo ông, đối với dân, lòng tin là quan trọng nhất, sau mới đến lương thực, và sau nữa
mới đến binh lực. Nhà cầm quyền phải giúp cho dân giàu có. Khi đã giàu rồi thì nhà cầm
quyền phải giáo hoá dân.

Tôi đối với vua phải trung(trung thành, hết lòng, thành tâm)
+ Cha-con. Cha từ, con hiếu.
Hiếu ở ông chủ yếu được xét trên góc độ tâm. Hiếu không chỉ phụng dưỡng người đã
sinh ra mình, mà phải có lòng thành kính, hiếu kông phải nhất nhất theo cha mẹ mà phận làm
con thấy cha mẹ lầm lỗi phải can gián một cách nhẹ nhàng.

8


§Ò c¬ng triÕt
Ông nói: "Chỉ xét cái đáng theo mà theo mới gọi là trung, hiếu". Quân có nhân thì thần
mới trung; phụ có từ thì tử mới hiếu. Đó là quan hệ hai chiều mà ít người để ý.
Thực ra trong học thuyết chính danh, Khổng Tử vẫn trọng danh hơn thực, trọng xưa hơn
nay, từ đó ông đã gạt bỏ nhiều giá trị đạo đức mang tính nhân loại.
3. Quan niệm của Khổng Tử về Giáo dục:
Theo Khổng Tử để xây dựng một xã hội thái bình thì có 03 việc lớn cần phải làm:
- Làm cho dân đông.
- làm cho dân trí.
- Dạy cho dân biết lễ nghĩa.
Có thể thấy, trong Khổng Tử đường lối chính trị chi phối giáo dục; dạy cho người ta biết,
người ta hiểu có hiệu quả gấp mấy lần bạo lực, pháp luật. Với quan niệm đó, Khổng Tử khẳng
định: Giáo dục là cần thiết cho mọi người, hữu giáo vô loại. Bởi vì không có giáo dục thì con
người giống như viên ngọc không mài thì cuũng vô dụng, người không học là người vô đạo và
muốn cũng làm cũng không biết đâu mà làm.
Nội dung giáo dục của Khổng tử là nhân, lễ, nghĩa, trí, tín; tóm lại nó thể hiện đường lối
chính trị. Trong đó, chữ nhân là trung tâm, tiếp đến là lễ.
Quan điểm mới của ông trong giáo dục là đề cao việc nêu gương, làm gương kết hợp với
thuyết giáo tuỳ nghi, tuỳ đối tượng mà nên nói cái gì. Người học phải nổ lực suy nghĩ, để tâm
tìn ra đầu mối phải kết hợp giữa học với hành, giữa tri thức với cuộc sống. Ông nói: "Đọc
thuộc 300 kinh thư nhưng giao cho việc hành chính mà không làm được thì không ích gì".

Đối tượng học theo ông không phải những tri thức về sản xuất.
Mẫu người đào tạo của ông là quân tử. Quân tử chủ yếu chỉ phẩm chất đạo đức mà người
đó đạt được. Theo ông, chức tước, giàu sang chưa chắc là người quân tử; nghèo chưa hẳn là kử
tiểu nhân. Quân tử phải đạt được 9 điều: 1. Nhìn cho minh bạch, 2. nghe cho rõ ràng, 3. sắc
mặt luôn ôn hoà, 4. tướng mạo đoan trang, 5. nói năng trung thực, 6. làm việc trong sự kính
cẩn, 7. có nghi hoặc phải hỏi, 8. khi giận phải nghĩ đến hậu quả, 9. thấy lợi phải nghĩ đến
nghĩa.
Mục đích học là để làm quan gánh vác việc quốc gia đại sự. Học để tu nhân, tề gia trị
quốc, bình thiên hạ, đó là đường đi của người quân tử. Người quân tử phải có nhân, trí, dũng.
Nhân là không lo, trí là không lầm, dũng là không sợ.
Quá trình giáo dục, Khổng Tử yêu cầu phải trực tiếp nghiên cứu vạt tỉ mỉ để nắm được
dấu hiệu cơ bản của sự vật, có nghĩa là ông đề cao phương pháp dạy trực quan. Theo ông trong
giảng dạy phải tạo ra niềm say mê cho người học và người dạy. Đối với trò, thầy phải khiêm
tốn và trò có thể học bất cứ giá nào. Còn trò thì phải chủ động tìm tòi, hướng tới tri thức mới,
trò phải được uốn nắn từ nhỏ.
* Giá trị và địa vị của Khổng Tử:
Học thuyết của Khổng Tử là học thuyết mang tính chất đạo đức - chính trị - xã hội hơn là
triết học. Ông chủ trương đường lối chính trị và đường lối này là phạm trù trung tâm quyết
định các phạm trù khác.
Triết học của ông mâu thuẫn, đan xen giữa duy vật và duy tâm và điều nmày đã bị giai
cấp thống trị lợi dụng, thêm bớt tuỳ tiện theo hướng duy tân, thậm chí là thần bí để mị dân.
Ông là nhà giáo dục vĩ đại, nhưng không đưa đến sự giải phóng trí tuệ và tài năng con
người, mà lại đề ra việc giải phóng bằng con đường tu dưỡng đạo đức.
Học thuyết của ông là một thứ triết học không hoàn chỉnh cải lương, bảo thủ và đầy mâu
thuẫn; nó có phần tích cực cứu thế nhưng bằng con đường đức trị (lễ trị) có xu hướng phục cổ.
Tư tưởng của ông đến thời Hán Vũ Đế mới chiếm vai trò độc tôn.
Câu 6: Đánh giá về triết học, tư tưởng của Lão Tử:

9



§Ò c¬ng triÕt
Lão Tử (579-479 TCN) là người nước Sở, toàn bộ tư tưởng triết học của Lão Tử được
gói gọn trong cuốn đạo đức kinh.
Tư tưởng nền tảng của triết học Lão Tử đó là " Đạo". Ý nghĩa mà Lão Tử dành
cho "đạo" có hai mặt rất cơ bản:
- "Đạo" là bản nguyên của thế giới vật chất. Đạo không phải là thứ vật thể đặc biệt,
cố định mà nó là cái bản nguyên sâu kín, huyền diệu là khối "hỗn độn", "mập mờ". "thấp
thoáng", không có đặc tính, hình thể, "nhìn không thấy", "nghe không thấy", "bắt không
được", lúc đầu đạo chưa được phân chia, nó vẫn tồn tại tuyệt đối bao khắp cả vũ trụ, có trước
trời và đất, và là cái từ đó vạn vật có danh, có tính, có hình, có thể sinh ra. Do "không biết nó
tên là gì, nên đặt tên cho nó là đạo, gượng gọi là lớn". Vậy, "Đạo có trước trời đất" ; "Đạo sinh
nhất, sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". Do chỗ đạo rất huyền diệu, khó nói rõ danh
trạng, bỡi vậy Lão Tử lại dẫn một khái niệm khác là "vô"để thể hiện vạn vật trong thiên hạ đều
sinh ra từ hữu (tức vạn vật sinh ra từ nhất, nhị, tam), hữu sinh ra từ vô (tức nhất, nhị, tam lại
được sinh ra từ đạo).
- Đạo còn là con đường, là quy luật chung về sự sinh thành, biến hoá của mọi vật,
hiện tượng trong vũ trụ"
Quy luật chung ấy vừa có trước sự vật, vừa nằm trong sự vật. Quy luật chung về sự
biến hoá tự thận của mỗi sự vật gọi là "Đức" vũ trụ. Đức chính là tiềm tại của Đạo. Đức theo
Lão Tử là một phạm trù thuộc vũ trụ quan, chứ không phải là phạm trù của luân lí, Lão Tử chỉ
rõ rằng Đạo sinh ra, đức nuôi nấng bảo tồn lấy. Nhờ cái lực của Đức mà làm cho bản thể nằm
trong hiện tượng biến hoá. Cội nguồn của mọi quy luật chung ấy, theo Lão Tử vật nào cũng có
thể thống nhất của hai mặt đối lập vừa xung khắc, vừa liên hệ, dựa vào nhau. Ông nói "ai cũng
biết đẹp là đẹp, tức là có cái xấu, hai mặt dài ngắn dựa vào nhau mới có chên lệch" và "trong
vạn vật, không vật nào không cõng âm bồng dương" Lão Tử cho rằng sự phát triển đến cực
điểm thì sẽ trở thành mặt đối lập, với chính nó. Do đó, "Hoạ là chổ dựa của phúc" "phúc là cổ
náu của hoạ", gió to không suốt sáng, mưa lớn không suốt ngày, trong thiên hạ "cái mềm làm
chủ cái cứng". Đó là quy luật tự nhiên, là "Đạo trời" chi phối sự vật, hiện tượng tự nhiên cũng
như xã hội.

Phép biện chứng trong TH Lão Tử: Theo Lão Tử, toàn thể xã hội bị chi phối bởi hai
quy luật chung. Đó là quy luật bình quân và quy luật phản phục. Luật bình quân là luôn giữ
cho sự vật được thăng bằng, theo một trật tự điều hoà tự nhiên, không có cái gì thái quá, bất
cập. Ông nói: "cái gì khuyết ắt được tròn đầy, cái gì cong sẽ được thẳng, cái gì cũ thì sẽ mới,
cái gì ít sẽ được, đầy sẽ mất". Quá trình vận động của vạn vật còn tuân theo quy luật phản
phục, nghĩa là "phát triển đến cực điểm thì sẽ trở thành cái đối lập với chính nó" . Phản phục
có nghĩa là vạn vật biến hoá nối tiếp nhau theo một vòng tuần hoàn đều đặn, nhịp nhàng, bất
tận như bốn mùa xuân, hạ, thu, đông thay đổi qua lại. Vòng tuần hoàn bất tận ấy, Lão Tử gọi
là "thiên quân". Phản phục có nghĩa là trở về với đạo tự nhiên "vô vi". Trở về với đạo tự nhiên
vô vi là trở về với cái gốc của mình, bền bỉ, lâu dài. Như vậy là "không làm gì cả, mà không gì
không làm", tức không làm những gì trái với "đạo".
Quan điểm của Lão Tử về chính trị - xã hội (vô vi).
Mở rộng quan niệm về "Đạo" vào trong đời sống xã hội, Lão Tử đề xướng học thuyết
"Vô vi" qua đó ông trình bày quan điểm về nhân sinh hành vi. Lão Tử cho rằng bả tính nhân
lọai có hai khuynh hướng. Một khuynh hướng "hữu vi", hữu dục là khuynh hướng can thiệp
đến trời đất, con người dẫn đến xa "đạo thường". Khuynh hướng "vô vi" vô dục là khuynh
hướng trở về nguồn gốc để sống với tự nhiên, tức là hợp thể với đạo, Rời tự nhên là xa đạo,
con người sẽ đi đến tiêu diệt. Vì vậy "vô vi" theo nghĩa tự nhiên là "không làm gì". Nhưng
trong tư tưởng của Lão Tử, "vô vi" là "đem cái tự nhiên mà giúp một cách tự nhiên, không tư
tâm, không vị kỉ" - nghĩa là sống, hoạt động theo lẽ tự nhiên, thuần phác, không can thiệp,
không làm trái với bản tính tự nhiên. Hành động hay nhất là đừng can thiệp đến việc đời và
nếu cần phải "làm" thì hãy "làm cái không làm" (vi - vô vi) một cách kín đáo, khéo léo. Ông
coi đây là giải pháp an bang tế thế vì ông thấy "dân đói vì trên bắt thuế nhiều, dân khó trị vì

10


§Ò c¬ng triÕt
trên dùng đạo hữu vi, dân mà coi thường cái chết vì quá cầu cái sống". Do đó "đem cái chết
mà doạ dân chúng là không ích gì khi ta dồn họ vào nơi tuyệt vọng, và lại còn gây nên nạn đao

binh thì hậu quả vô cùng tai hại".
Như vậy, suy nghĩ đến thời cuộc, Lão Tử nghĩ đến cách dùng đạo trị nước - nghĩa là
phải áp dụng thuật xử "lấy vô vi mà xử sự, lấy bất ngôn mà dạy đời". Để lập quân bình trong
xã hội thì vô vi là trừ khử những thái quá, nâng đỡ cái bất cập, là "bất tranh nhi thiện thắng"
bằng đấu tranh theo phép nhu thuật (nhu nhược thắng cương thường). Muốn lấy vô vi mà xử
sự, phải có những con người đã gột sạch tâm tư, tự dục, có như vậy thì mới có tinh thần cách
mạng với bản thân và xã hội, mới không chịu sự khuất phục của uy quyền, vì họ là đạo. Từ
quan điểm "vô vi", Lão tử đã rút ra phương châm sống là "biết tri túc", "không cạnh tranh và
bạo động", "công thành thân thoái", "dĩ đức báo oán".
Tóm lại mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng tư tưởng về đạo của Lão Tử đã có những
biểu hiện sâu sắc của phép biện chứng, tư tưởng của Lão Tử có ảnh hưởng sâu sắc đến văn
hoá, tư tưởng của Trung Hoa.
Câu 8: Vấn đề con người trong triết học Mác và ở nước ta hiện nay.
Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều nghành khoa học, ví dụ: tâm lí học, dân
tộc học, đạo đức học, sinh vật học,... nhưng để giải quyết vấn đề chung nhất về con người thì
lại là nhiệm vụ của triết học. Triết học chỉ nghiên cứu những quy luật chung nhất liên quan
đến nhân sinh quan của con người, khả năng, năng lực của con người,... nhưng triết học Mác
không lấy con người làm đối tượng nghiên cứu mà lấy mục đích giải phóng con người làm
mục đích nghiên cứu, giải phóng con người.
Sự hình thành vấn đề về con người trong triết học Mác: Ngay từ nhỏ Mác đã trăn trở
về vấn đề con người và người ta thường hay lấy tiểu luận lúc còn ở trường tung học phổ thông
của Mác để chứng minh điều này. Trong tiểu luận đó ông đã viết một câu nổi tiếng: "Nếu một
người chọn nghề trong đó người đó làm được nhiều việc cho nhân loại...". ý tưởng dùng triết
học để giải phóng con người, dùng triết học để khắc phục tình trạng tha hoá ở con người Mác
đã thể hiện rõ ở quan niệm là: Triết học không chỉ có chức năng giải thích thế giới mà còn cải
tạo thế giới.
Triết học Mác không nghiên cứu con người một cách trừu tượng mà nghiên cứu nhận
thức con người hiện thực. Mác khẳng định rằng con ngưòi có đời sống hiện thực và đời sống
đó nó vận động và biến đổi cùng với sự vận động và biến đổi của hiện thực. Việc biến đổi hiện
thực đặc biệt quan trọng là việc biến đổi phương thức sản xuất đó cũng chính là quá trình làm

biến đổi cá nhân. Vì vậy sự tha hoá của con người phải tìm ở trong xã hội và đó cũng chính là
con người để nhận thức việc giải phóng con người.
Vậy tại sao triết học không lấy con người làm đối tượng nghiên cứu: Vì con người là
một khách thể có nội dung hết sức phong phú và sự tồn tại của nó bao hàm nhiều mặt, nhiều
quan hệ phức tạp vì vậy nó được nghiên cứu bởi hiều nghành khoa học. Với chức năng của
mình (chức năng phương pháp luận) thì triết học không thể giới hạn vào từng mặt đó.
Vấn đề cơ bản của triết học đó là vấn đề giữa tư duy và tồn tại, và đây cũng là vấn đề
chung nhất của con người cho nên triết học phải nghiên cứu.
Đối tượng của triết học rất rộng, nó bao quát cả tự nhiên, xã hội và tư duy vì vậy mỗi
học thuyết triết học chỉ góp một phần nhất định vào việc nghiên cứu đó, kể cả triết học Mác
cũng không thể giải quyết tất cả những vấn đề về con người đựơc.
Vậy bản chất con người là gì ?
Vấn đề bản chất con người trong lịch sử triết học đã có nhiều quan điểm khác nhau.
Trước hết quan điểm của chủ nghĩa duy tâm: CNDT cho rằng bản chất con người là những gì
đã được quy định sẳn từ những thế lực siêu tự nhiên. Chẳng hạn Khổng Tử cho rằng: bản tính
con người là tính thiện con người khi mới sinh ra như một tờ giấy trắng. Mạnh Tử thì cho rằng
khi con người sinh ra thì bản tính của nó là ác.

11


§Ò c¬ng triÕt
Với CNDV trước Mác lại duy tâm về vấn đề con người, họ quy bản chất của con người
về những bản tính, những trạng huống tâm lí của con người. Không ít những nhà triết học
Anh, Pháp kể cả Phoi ơ Bắc mặc dù đã thấy được sự ảnh hưởng của yếu tố môi trường đối với
con người, những không lí giải được sự tác động này trên lập trường khoa học đối với việc
hình thành nên bản chất con người, nghĩa là các nhà khoa học đó chỉ xem xét con người, bản
chất con người từ gốc độ tự nhiên, ngay bản thân Arixtốt và các nhà duy vật Pháp thì đã thấy
con người là một sinh vật - xã hội, nhưng cái tính xã hội đó ở trong con người mà các nhà triết
học này nhìn nhận thấy không phải do các quan hệ xã hội tạo thành mà bẩm sinh ra nó đã có

tính xã hội (duy tâm).
Vậy triết học Mác giải quyết như thế nào ?
Xuất phát điểm của việc giải quyết bản chất con người là chỉ có thể xem xét con người
trong đời sống hiện thực thì mới hiểu đúng đựơc bản chất con người.
Từ đó Ông đi đến định nghĩa bản chất con người: "Trong tính hiện thực của nó bản chất của
con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội"
Vậy triết học Mác quên đi mặt tự nhiên của con người ? Với triết học Mác thì con người là
một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học và xã hội. Như vậy cái sinh học và cái xã hội nó
hoà chung với nhau vào trong một thực thể đó là con người. Vì vậy việc phân định giữa mặt
sinh học và mặt xã hội chỉ có ý nghĩa tương đối, tức là về mặt nhận thức phải hiểu con người
là sự thống nhất giữa mặt sinh học và xã hội (các hoạt động bản năng cảu con người là sự phát
triển cao nhất của xã hội).
Vậy triết học Mác có quên vấn đề con người không ?
Yếu điểm của CNDV trước Mác là không thấy được mặt xã hội trong quá trình hình
thành con người, đó chính là khuyết điểm trầm kha nhất của CNDV trước Mác. Mác nhấn
mạnh bản tính xã hội của con người trong điều kiện xã hội bấy giờ là cần thiết để chỉ rõ khuyết
điểm của CNDV trước Mác.
Như vậy người nào nói CNDV Mác bỏ quên mặt xã hội của con người thì người đó
đang siêu hình.
Như vậy bản chất con người không phải là cái gì trừu tượng mà bản chất con người
được thể hiện ở trong hiện thực mà thực tế là các quan hệ xã hội đã tạo thành bản chất của con
người, trong đó quan hệ về kinh tế là quan trọng nhất, mà sâu xa là quan hệ sở hữu tư liệu sản
xuất. Ngoài ra họ còn chịu sự ảnh hưởng của điều kiện kinh tế cuả bản thân, địa vị giai cấp
trong việc hình thành bản chất đó.
Vì vậy theo quan điểm Mác không có cái gọi là bản chất chung cho mọi con người
(mặc dù là quan hệ xã hội) từ thời đại này sang thời đại khác, mỗi một bản chất nó tương ứng
phương thức sản xuất đó (mỗi chế độ xã hội sẽ tạo ra một bản chất người của chế độ đó) mỗi
một chế độ (PTSX) có một kiểu tương ứng cho chế độ đó.
Trong tính hiện thực củ nó chỉ ra con người ở đây là con người cụ thể, con người bằng
xương bằng thịt, có tên, tuổi… chứ không phải là một khái niệm người (cho nên triết học Mác

không bỏ quên con người mà còn hơn hẳn các quan niệm trước đó)
Kết luận phương pháp luận: Nếu con gười thuộc về một thời đại thì sẽ không có thiên
tài, lãnh tụ của mọi thời đại mà lãnh tụ chỉ là lãnh tụ của một thời đại.
Có nhiều quan nịêm cho rằng con người đang tha hoá vậy trong Chủ Nghĩa Xã Hội con
người có tha hoá không và khắc phục sự tha hoá con người trong CNXH như thế nào ?
Hê ghen là người đã sử dung thuật ngữ tha hoá với ý nghĩa là chuyển thành cái khác.
Như vậy khái niệm tha hoá đó được hiểu là con người đã đánh mất bản chất của mình, tức mất
đi những bản chất tốt đẹp, còn ở Hê ghen là sự chuyển đổi từ tinh thần xuống giới tự nhiên
(chiều hướng xấu).
Theo Mác sở dĩ con người bị tha hoá là do lao động bị tha hoá (hiện nay đang đấu
tranh để giải quyết vấn đề này, nhiều người cho rằng sự tha hoá bắt đầu từ cái tôi) vì sản phẩm
lao động của con người tạo ra trở thành cái đối lập chi phối chính cuộc sống của người lao

12


§Ò c¬ng triÕt
động (sản phẩm của người lao động làm thuê tạo ra và chính sản phẩm đó sẽ quay trở lại thống
trị con người - giá cả), đồng thời lao động của con người không còn là sự sáng tạo và niềm vui
của con người nữa mà nó trở thành lao động cưởng bức con người, như vậy lao động chính là
một trong những nguồn gốc tạo thành con người, nói cách khác lao động làm cho con người
có tính người thì bấy giờ lao động quay lại tước đoạt tính người của con người, phủ định tính
người, phủ định con người (con người tự tạo ra sản phẩm để làm tha hoá chính mình do bởi
chế độ sở hữu tư nhân)
Vậy làm thế nào để khắc phục được sự tha hoá mà nguyên nhân là bởi lao động bị tha
hoádo vậy việc công hữu về sở hữu và công hữu ở trong CNXH đó là: Công hữu không phải là
tước đoạt sở hữu tư nhân mà phải phủ định SHTN, công hữu có nghĩa là xác lập một chế độ
công hữu XHCN mà ở đó thống nhất giữa sở hữu xã hội với sở hữu cá nhân.
Vấn đề con người ở Việt Nam hiện nay:
Con người Việt Nam là kết quả phát triển lâu dài của lịch sử Việt Nam. Những mặt

tích cực của người Việt Nam trong lịch sử được ĐCSVN coi là một phần bản sắc của dân tộc
bao gồm những giá trị bền vững, những tin hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam vun đắp
nên qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là: lòng nòng nàn yêu nước, ý
chí tự cường dân tộc, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng
nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; tinh tế
trong ứng xử, giản dị trong lối sống. Những mặt hạn chế của người Việt Nam trong lịch sử bộc
lộ qua: những hạn chế của truyền thống dân chủ, làng xã, tập quán sản xuất tiểu nông, đề cao
thái quá kinh nghiệm và tính hai mặt của một số truyền thống.
Cách mạng Việt Nam đang diễn ra trong những biến đổi sâu sắc, phức tạp của thế giới;
trên những thành tựu lớn lao mà dân tộc VN đã đạt được và trước những cơ hội và những
thách thức mà người VN phải nắm bắt và vượt qua. Hòa bình, hợp tác và phát triển đang trở
thành xu thế của thời đại hiện nay. Ở nước ta, trải qua quá trình đổi mới, cơ sở vật chất kỷ
thuật của nền kinh tế được tăng cường. Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định. Môi trường
hòa bình, hợp tác, liên kết quốc tế và những xu thế tích cực trên thế giới tạo điều kiện để người
VN tiếp tục phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực phục vụ sự nghiệp CNHHĐH. Đồng thời 4 nguy cơ đối với người VN đến nay vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan
xen tác động lẫn nhau. Tình trạng tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống của một bộ phận không nhỏ CBĐV đang cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, gây bất bình và làm nản lòng tin trong nhân dân. VN vẫn còn là nước
kinh tế kém phát triển.
Từ tình hình thực tế của đất nước và thế giới, từ mục tiêu chung là “độc lập dân tộc gắn
liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, nhiệm vụ của
cách mạng VN trong giai đoạn hiện nay là: “Phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, tiếp tục đổi
mới, đẩy mạnh CNH-HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc VN XHCN”. Thực tiển đang đòi hỏi
người VN phải đạt được những yêu cầu mới để thực hiện nhiệm vụ từng giai đoạn cách mạng
trong mục tiêu chung trước những diễn biến đa dạng, phức tạp của thế giới, trước những cơ
hội và thách thức của chính mình.
Đồng thời với việc kiên trì đấu tranh chống thoái hóa, biến chất, xây dựng con người
VN trong giai đoạn cách mạng hiện nay là hình thành và phát triển ở con người những đức
tính cơ bản sau: Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và
CNXH, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo lạc hậu, đoàn kết với nhân dân

thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; có ý
thức tập thể, đoàn kết phấn đấu vì lợi ích chung; có lối sống lành mạnh, cần kiệm, trung thực,
nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước cộng đồng; lao động chăm chỉ; thường
xuyên học tập nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẫm mỹ và thể lực.
Để đạt được điều này người VN đã và đang tập trung đầu tư vào những lĩnh vực chủ
yếu nhất của XH như:

13


§Ò c¬ng triÕt
- Trên lĩnh vực kinh tế, thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN. Đây là vận dụng một trong những quy luật nền tảng xây dựng
con người mới là: Xây dựng con người phải thông qua cơ chế lao động. Tạo công ăn việc làm,
kích thích năng lực lao động của con người.
- Trên lĩnh vực chính trị, khẳng định con đường đi lên CNXH trên nền tảng của chủ
nghĩa nhằm nâng cao tính tích cực chính trị của nhân dân, tạo điều kiện để nhân tham gia
nhiều hơn vào quản lý nhà nước và xã hội.
- Trên lĩnh vực xã hội, giải phóng con người khỏi sự thao túng của các quan hệ xã hội
cũ đã lỗi thời, kế thừa truyền thống tốt đẹp, xây dựng những hệ thống chuẩn mực quan hệ mới.
- Trên lĩnh vực GD-ĐT - KHCN được coi là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, là nền tảng và động lực thúc đẩy mạnh CNH, HĐH
đất nước.
- Trên lĩnh vực văn hóa: Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được
coi là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Mọi hoạt động của văn hóa
nhằm xây dựng con người VN phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể
chất...
Câu 9: Nguyên tắc thống nhất giữa lí luận và thực tiễn trong triết học Mác Lênin (Nhận định của Chủ Tịch Hồ Chí Minh về nguyên tắc thống nhất giữa lí luận và
thực tiễn là nguyên tắc cao nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin)
Một trong những khuyết điểm của CNDV trước Mác đó là không thấy được vai trò của

thực tiễn đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Chính vì thế CNDV trước Mác đã sa vào
CNDT khi giải quyết các vấn đề xã hội. Sự ra đời của triết học Mác đã tạo ra bước ngoặt trong
lịch sử tư tưởng cuả xã hội loài người mà một trong những biểu hiện của nó là thấy được vai
trò to lớn của thực tiễn không chỉ đối với xã hội mà cả với quá trình nhận thức.
Thực tiễn trong quan điểm của Mác - Lênin: "Thực tiễn là những hoạt đông có mục
đích mang tính lịch sử - xã hội nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội". Với quan điểm đó thì
thực tiễn không phải là toàn bộ hoạt động của con người mà là những hoạt động vật chất (phân
biệt hoạt động thực tiễn với hoạt động tinh thần, hoạt động lí luận). Một trong những đặc trưng
cơ bản của hoạt động thực tiễn đó là con người phải sử dụng các công cụ vật chất, sức mạnh
vật chất của mình để tác động vào tự nhiên, xã hội để làm biến đổi chúng phù hợp với mục
đích của con người và đó cũng là quá trình con người làm biến đổi tự nhiên và nhận thức của
mình, chính vì thế hoạt động thực tiễn nó thể hiện tính năng động, sáng tạo và là quá trình đối
tượng hoá.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động chỉ có ở con người vì vậy nó là phương thức tồn tại cơ bản
của con người và xã hội loài người và cũng chính vì thế mà nó là phương thức đầu tiên và chủ
yếu của mối quan hệ giữa con người với thế giới.
Thực tiễn là hoạt động có tính chất loài (người) vì thế nó không phải là hoạt động của
một số cá nhân riêng biệt vì vậy về nội dung và hình thức thực hiện nó có tính lịch sử - xã
hội.
Bất kỳ hoạt động thực tiễn nào cũng chứa đựng, cũng bao gồm những yếu tố như: mục
đích, phương tiện và kết quả. Những yếu tố này liên hệ với nhau và nó là những yếu tố không
thể thiếu trong hoạt động thực tiễn của loài người.
Vậy sự thống nhất giữa lí luận và thực tiễn cần được xem xét dưới góc độ nào ?
Về mặt nhận thức: Nhận thức là quá trình con người phản ánh một cách biện chứng
thế giới khách quan trên cơ sở thực tiễn lịch sử - xã hội. Nghĩa là mỗi một điều kiện lịch sử,
thực tiễn khác nhau, xã hội khác nhau sẽ quy định cách thức, phương thức trình độ phản ánh
khác nhau. Xã hội phát triển, thực tiễn phát triển thì nhận thức cũng phát triển tương ứng. Vì
vậy con đường nhận thức đi từ không biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ biết nông đến
biết sâu, từ không đầy đủ, không chính xác đến đầy đủ, chính xác hơn.


14


§Ò c¬ng triÕt
Ví dụ như: Nhận thức về nguyên tử: Thời cổ đại thì nguyên tử được coi là dạng vật
chất nhỏ nhất không thể phân chia, ngày nay dựa vào các phương tiện hổ trợ ta có thể khẳng
định được rằng nguyên tử không phải là dạng vật chất nhỏ nhất, và nguyên tử có thể phân
chia.
Nhận thức theo quan điểm của triết học Mác - Lênin là sự thống nhất của hai giai đoạn:
cảm tính và lí tính, đây là hai giai đoạn thống nhất của một quá trình (mục đích của việc chia
các giai đoạn nhận thức là để thấy được nguồn gốc của nhận thức).
Từ việc nhận thức đó tất yếu dẫn đến việc xuất hiện lí luận. Lí luận là hệ thống
những tri thức phản ánh những mối liên hệ bản chất, những tính quy luật củ thế giới
khách quan. Như vậy, lí luận là kết quả của quá trình nhận thức, Nó khác với quan điểm cảu
tôn giáo. Lí luận là sản phẩm của sự phát triển cao của nhận thức, là trình độ cao của nhận
thức. Xét về mặt chất, lí luận là một hệ thống tri thức đựơc khái quát từ thực tiễn nó phản ánh
những mối liên hệ bản chất khách quan của thế giới như vậy xét về nguồn gốc thì lí luận được
hình thành trong mối liên hệ với thực tiễn và như vậy thì lí luận không thể tách rời thực tiễn, lí
luận tồn tại trong sự liên hệ tác động qua lại với thực tiễn đó là một sự thực. Vậy trong mối
quan hệ tác động qua lại đó thực tiễn giữ vai trò gì:
- Thực tiễn là cơ sở mục đích và động lực chủ yếu và trực tiếp của lí luận. Vì vậy
chúng ta có thể khẳng định rằng không có thực tiễn, không có nhận thức thì không có lí luận.
Chính vì vậy trong nhận thức, trong lí luận có một yêu cầu nghiêm ngặt đó là phải có quan
điểm thực tiễn.
Quan điểm thực tiễn đòi hỏi nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên thực tiễn, đi
sâu vào thực tiễn và phải coi trọng việc tổng kết thực tiễn, vì nếu xa rời thực tiễn tức là xa rời
nguồn gốc lí luận sẽ rơi vào các sai lầm như giáo điều, máy móc, bệnh quan liêu, chủ nghĩa xét
lại.
Quan điểm thực tiễn cũng đòi hỏi phải giải quyết mối quan hệ giữa lí luận với thực tiễn
một cách biện chứng nghĩa là không được coi nhẹ lí luận, không đựơc nâng cao hay hạ thấp

một trong những mặt của nhận thức biện chứng đó.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lí ở chổ chỉ có thực tiễn mới xác định được, kiẻm
nghiệm được tính đúng đắn của lí luận để từ đó bác bỏ hoặc tiếp nhận. Đồng thời thực tiễn là
tiêu chuẩn của chân lí cũng cần được hiểu nó vừa có tính tuyệt đối vừa có tinhd tương đối:
Tuyệt đối vì nólà tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm nghiệm chân lí, tương đối vì thực
tiễn luôn luôn vận động, biến đổi nên nó không phải là những tiêu chí vĩnh cữu tuyệt đích cuối
cùng.
Lí luận có vai trò hết sức to lớn đối với thực tiễn, nó tác động trở lại thực tiễn, góp
phần làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động của con người (Bác Hồ: "Nó là kim chỉ nam
cho hoạt động của con người"), nhưng do lí luận phản ánh một cách gián tiếp và trừu tượng
cho nên nó có khả năng xa rời thực tiễn vì vậy không được cường điệu hoá vai trò của lí luận
mà phải thấy chúng tồn tại trong mối quan hệ biện chứng. Với điều này Chủ Tịch Hồ Chí
Minh viết: "Thống nhất giữa lí luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc căn bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin, thực tiễn không có lí luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng và
lí luận mà không liên hệ với thực tiễn thì là lí luận suông". "Đảng ta kết hợp được chủ nghĩa
Mác - Lênin với tình hình thực tế của đất nước ta cho nên đã thu được nhiều thắng lợi lớn
trong công tác" tuy nhiên vẫn có những khuyết điểm. Bác Hồ viết: "Tuy vậy việc khái chân lí
của chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn của cách mạng Việt Nam chưa được hoàn hảo, có
nhiều sai lầm do sự thiếu sót kết hợp đó".
Nếu vi phạm mối quan hệ biện chứng giữa lý luận với thực tiễn sẽ là bệnh kinh
nghiệm và bệnh giáo điều, bệnh giáo điều là bệnh sách vở, bệnh mà người xưa nói là "tầm
chương trích cú" nặng về những diẽn giải sách vở mà không đối chiếu với thực tiễn, tức mọi
cái đều xuất phát từ sách vở mà xa rời thực tiễn, áp dụng một cách rập khuôn máy móc mà
không tính đến điều kiện lịch sử cụ thể, không tính đến điều kiện thực tế của địa phương
mình, đất nước mình. như vậy bệnh giáo điều là bệnh xem nhẹ thực tiễn và thiếu quan điểm

15


§Ò c¬ng triÕt

lịch sử cụ thể. Bệnh kinh nghiệm là bệnh coi thường lý luận, coi thường giới trí thức, bảo thủ,
trì trệ và thường thoả mãn với kinh nghiệm của bản thân, rất ngại học lý luận.
Câu 10: Vì sao CNDV Mác xít lại là cơ sở lí luận của thế giới quan khoa học:
Thế giới quan là hệ thống những quan điểm của con người về thế giới, về vị trí của con
người trong thế giới nhằm giải đáp vấn đề mục đích và ý nghĩa của cuộc sống của con người.
Thế giới quan thần thoại đặc trưng cho người nguyên thuỷ ở giai đoạn sơ khai của loài người,
nó phản ánh những kết quả cảm nhận ban đầu của con người về thế giới, ở đó hiện thực và
tưởng tượng, lí trí và tín ngưỡng nó hoà quyện vào nhau.
Thế giới quan tôn giáo là thế giới quan duy tâm. Nó phản ánh hiện thực một cách hư
ảo và nền tảng của thế giới quan tôn giáo đó chính là niềm tin tôn giáo (đức tin)
Vậy thế giới quan triết học: triết học là lí luận về thế giới quan nó diễn tả những vấn
đề của thế giới bằng một hệ thống các khái niệm, phạm trù. lí luận, nó không chỉ nêu mà còn
chứng minh bằng lí tính.
Vậy vai trò lí luận của triết học đối với thế giới quan thể hiện như thế nào và tại
sao triết học Mác-Lênin lại là cơ sở lí luận khoa học của thế giới quan khoa học:
Triết học là hạt nhân lí luận của thế giới quan. Hạt nhân vì ngoài quan điểm triết học
nó còn bao gồm các quan điểm về chính trị, kinh tế, đạo đức, thẩm mĩ,… Tuy nhiên những cái
này phải dựa trên cơ sở lí luận chung là triết học.
Triết học Mác mới là cơ sở lí luận khoa học của thế giới quan khoa học mà thôi, vì triết
học duy tâm (bao gồm cả duy tâm chủ quan và duy tâm khách quan) đều không phản ánh đúng
hiện thực khi họ khẳng định ý thức là cái quyết định (chủ nghĩa duy tâm là lí luận sai lầm về
triết học )
Sở dĩ chủ nghĩa duy tâm sai lầm vì: Về mặt nhận thức họ cường điệu, khuyếch đại, thổi
phồng, tuyệt đối hoá một mặt của quá trình nhận thức. Về mặt xã hội, những người duy tâm
thường bị giai cấp thống trị sử dụng làm vũ khí tinh thần để củng cố giai cấp thống trị.
Chủ nghĩa duy vật Mác xít đã giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học từ quan
điểm thực tiễn, nó thống nhất thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện (CNDV trước
Mác thường tách rời thế giới quan với phép biện chứng) trong khi đó ở các nhà duy tâm lại rất
xem trọng phép biện chứng. Công lao của Mác là ở chổ cứu chủ nghĩa duy vật khỏi phép siêu
hình và đưa phép biện chứng ra khỏi quan điểm duy tâm, đã tạo nên sự thống nhất giữa thế

giới quan duy vật và phương pháp biện chứng.
Chủ nghãi duy vật Mác là chủ nghĩa duy vật triệt để bởi vì ở Mác chủ nghĩa duy vật đã
đựơc vận dụng và mở rộng quán triệt vào nghiên cứu xã hội trở thành chủ nghĩa duy vật lịch
sử, vì vậy triết học Mác không chỉ duy vật về tự nhiên mà còn duy vật cả về lịch sử và xã hội
đây là điểm cống hiến vĩ đại nhất của triết học Mác, giải phóng triết học khỏi duy tâm và thần
bí.
Chủ nghĩa duy vật Mác thống nhất tính cách mạng với tính khoa học, giữa tư tưởng với
khoa học cho nên được thể hiện ở câu nói nổi tiếng: "Các nhà triết học trước kia chỉ biết giải
thích thế giới song vấn đề cơ bản là cải tạo thế giới"
Vậy để bồi dưỡng thế giới quan khoa học:
- Phải khách quan trong việc xem xét, yêu cầu khi xem xét các sự vật hiện tượng phải
khách quan, tức phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
- Phải phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức và nhân tố con người, trong đó:
+ Phải chống thái độ thu động, ỉ lại, bảo thủ, trì trệ, phải nâng cao trình đọ cho đảng
viên, cán bộ. Đặc biệt trong tình hình thế giới hiện nay phải củng cố, bồi dưỡng nhiệt tình, ý
chí cách mạng, trong đó phải nhận thức đúng về lợi ích, phải biết kết hợp các loại lợi ích khác
nhau: lợi ích kinh tế, chính trị, lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân, xã hội trên tinh thần khách quan,
khoa học.

16


§Ò c¬ng triÕt
+ Phải khắc phục, ngăn chặn bệnh chủ quan, duy ý chí. Bệnh này ở nước ta chủ yếu do
thiếu kiến thức, kém lí luận, sự lạc hậu về nhận thức lí luận .
Để khắc phục ta phải tiến hành nhiều biện pháp khác nhau: trước hết cần phải đổi mới
về tư duy lí luận nhất là tư duy về CNXH, phải thực hiện dân chủ hoá nội bộ đảng, dân chủ
hoá xã hội, chống tình trạng tư tưởng bảo thủ, quan liêu, giấy tờ. Phải hành động phải nhận
thức đúng quy luật khách quan và hành động theo quy luật khách quan.


17



×