Tải bản đầy đủ (.doc) (141 trang)

Thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Lý Biên Cương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (609.78 KB, 141 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
----------------

ĐẶNG THỊ BÍCH THUỲ

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
TIỂU THUYẾT LÝ BIÊN CƯƠNG

Chuyên ngành: LÝ LUẬN VĂN HỌC
Mã số: 60.22.32

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. BIỆN MINH ĐIỀN

NGHỆ AN, 2013


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Tiểu thuyết – “cỗ máy cái” của văn học hiện đại, thể loại “không
đông cứng”, luôn thích nghi với những chuyển động phong phú của đời sống,
ngày càng khẳng định vị thế của mình trong nền văn học. Theo M.Bakhtin:
“Tiểu thuyết là thể loại văn chương duy nhất đang biến chuyển và chưa định
hình (…). Nòng cốt thể loại của tiểu thuyết chưa hề rắn lại và chúng ta chưa
thể dự đoán được hết những khả năng uyển chuyển của nó”. Trong văn học
đương đại Việt Nam, mặc dù chưa xuất hiện được những cuốn tiểu thuyết để


đời, gây chấn động dư luận song cũng đã có nhiều cuốn tiểu thuyết đáng để
đọc, trong số đó có tiểu thuyết của Lý Biên Cương (1941 – 2010). Với lối văn
phong nhẹ nhàng, điềm đạm, đôn hậu và hào hoa; số phận nhân vật được khai
thác đến chiều sâu, đến từng khía cạnh để người đọc cảm nhận, chiêm nghiệm


3
về cuộc sống, về con người vì thế mà tác phẩm của ông đã để lại nhiều ấn
tượng sâu sắc cho những ai đã từng đọc tiểu thuyết của ông.
1.2. Trong cuộc đời của mỗi nhà văn, mỗi người sẽ lựa chọn cho mình
một thể loại văn học nào đó. Có người sẽ chỉ gắn bó với một thể loại nhưng
cũng có những người thử sức ngòi bút của mình trên nhiều thể loại khác nhau.
Thông thường ít có nhà văn sẽ thành công trên các thể loại mà mình đã chọn.
Cái cuối cùng đọng lại trong lòng độc giả vẫn chỉ là một thể loại nào đó. Lý
Biên Cương sáng tác bằng khá nhiều thể loại khác nhau (truyện ngắn, thơ,
tiểu thuyết,…) và trên thực tế, nhiều người nhận xét rằng truyện ngắn là thể
loại ông thành công nhất. Riêng về thể loại tiểu thuyết, ông chỉ có ba cuốn là
Cửa sóng, Một kiếp đàn ông và Phù du. Song mỗi cuốn đều có sức hấp dẫn
riêng của nó, rất đáng để ta đọc và tìm hiểu, nghiên cứu. Đọc tiểu thuyết Lý
Biên Cương ta sẽ thấy có một thế giới nghệ thuật độc đáo – một thế giới nghệ
thuật rất đáng được nghiên cứu.
1.3. Tiểu thuyết Lý Biên Cương đã đặt ra nhiều vấn đề về hiện thực cuộc
sống cũng như về cuộc sống của con người. Thế giới và con người trong tiểu
thuyết được Lý Biên Cương nhìn bằng con mắt cảm thông, một cái nhìn
không quá cay nghiệt, chua chát nhưng lại khiến độc giả càng đọc càng thấy
thấm thía. Hiện thực trong tiểu thuyết là một hiện thực rộng lớn, từ gia đình
tới xã hội với biết bao nhiêu vấn đề về tình cảm vợ chồng, cha con, anh em;
khát vọng hạnh phúc tình yêu đôi lứa; về những mặt được cũng như mất về
những chủ trương, chính sách của Nhà nước;… Con người được nhìn nhận
trong mối quan hệ đa chiều, phải đối mặt với bao hệ luỵ từ cuộc sống. Và

cuộc sống dù có khó khăn thế nào, Lý Biên Cương vẫn không nguôi có một
niềm tin mãnh liệt vào con người, vào cuộc sống. Bên cạnh đó, ông còn đặt ra
những vấn đề đáng suy nghĩ về nghệ thuật viết tiểu thuyết đó là đã là người
cầm bút thì cần phải có một cái nhìn đa chiều về cuộc sống, dám xông thẳng
vào hiện thực để cho ra đời những tác phẩm có giá trị chứ không nên đứng


4
ngoài nhìn bằng con mắt hời hợt để rồi cho ra đời những tác phẩm bằng
phẳng, giản đơn.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Cho tới thời điểm hiện nay, chưa có một công trình nghiên cứu cụ
thể nào về tiểu thuyết Lý Biên Cương.
2.2. Trên các báo mạng, blog có xuất hiện một số bài viết, song chủ yếu
bàn về thể loại truyện ngắn của Lý Biên Cương.
Trong sự nghiệp viết văn của mình, truyện ngắn là thể loại mà Lý Biên
Cương tập trung viết nhiều nhất. Nhìn vào số lượng tác phẩm văn học của Lý
Biên Cương, có thể thấy truyện ngắn chiếm số lượng lớn nhất. Chính nhà văn
Lý Biên Cương cũng tự nhận rằng: “Tôi chẳng có gì đặc biệt. Lúc đầu hăng
hái viết đủ thể loại, đăng hầu hết các báo chí, sau chỉ chuyên viết truyện, nhất
là truyện ngắn. Tôi yêu truyện ngắn, một thể loại thực sự thử thách những can
đảm của ngòi bút. Hình như ở đây tôi mới gặp chính tôi. Truyện ngắn bừng
cháy sức mạnh con người trong chốc lát, trước đó hầu như không nghĩ ra,
hoặc sau đó nếu không cướp thời gian để thể hiện thì nó sẽ tuột đi rất nhanh,
hối tiếc không nổi”.
Trong bài “Điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Lý Biên Cương”
(www.baoquangninh.com, 18/03/2012), tác giả Hoàng Thị Khuyên bước đầu
đã có những khái quát chung về nghệ thuật tạo dựng điểm nhìn của Lý Biên
Cương trong các truyện ngắn viết về đất và người vùng mỏ Quảng Ninh.
Theo tác giả, Lý Biên Cương đã sử dụng những điểm nhìn bên trong lẫn điểm

nhìn bên ngoài “để có thể diễn tả được tất cả các ngõ ngách của đời sống và
nội tâm con người vùng than Quảng Ninh, miền đất mà nhà văn từng gắn bó
máu thịt, phần lớn trong tác phẩm của mình”. Với điểm nhìn bên trong, Lý
Biên Cương đã sử dụng các thủ pháp kể chuyện ở ngôi thứ nhất, ngôi thứ ba
(Than con gái, Đêm ấy vùng than ai thức, Ở nơi hòn than rửa sạch, Người
bán than rong, Đêm mưa, Ngọn đèn…). Người kể chuyện hoà nhập vào với
nhân vật để có thể nói lên những tâm sự thầm kín của mình. Ở nhiều tác phẩm


5
khác, tác giả còn sử dụng hình thức viết thư và nhật kí đã đem lại một cái nhìn
bên trong thuần tuý, giúp cho người đọc có thể vào tận ngóc ngách những suy
tư, tình cảm của tâm hồn nhân vật (Như thư của cô con gái gửi cho ông già
Hậu trong truyện ngắn Than; của Quang và Thêm trong Hôm nay của than;
của Hạ viết cho Tiên trong truyện ngắn Hồ quang; bức thư của người con gái
và người con trai mà bác sĩ Huân còn giữ trong Người tôi yêu mến; nhật ký
của Ngân viết về Mây trong truyện ngắn Mắt và sóng, nhật ký của anh liệt sĩ
hy sinh từ lâu, nay Hiệp và Vân mới tìm thấy cùng bộ hài cốt trong truyện
vừa Câu chuyện ngắn về con đường dài... ). Với điểm nhìn bên trong như vậy,
“nhà văn vừa chủ quan hoá được thế giới, vừa giữ được tính khách quan của
người kể chuyện. Người kể chuyện trong trường hợp này chỉ nhìn từ một
phía, một điểm. Nghĩa là người kể chuyện không biết hết, bình đẳng đối thoại
với bạn đọc đề bộc lộ những suy tư, trăn trở trước những biến cố trong cuộc
đời. Điểm nhìn bên trong giúp nhà văn có điều kiện khơi sâu nội tâm nhân vật
với những hồi ức, kỷ niệm, sự giãi bày tình cảm càng rõ nét hơn”. Cùng với
việc sử dụng điểm nhìn bên trong, Lý Biên Cương còn sử dụng điểm nhìn bên
ngoài “nhằm thể hiện được tính khách quan tối đa cho trần thuật. Các sự kiện
diễn ra tự nhiên như cuộc đời vốn thế, nó giúp nhà văn bao quát nhiều phương
diện và góc độ của hiện thực cuộc sống”. Ngoài ra, Hoàng Thị Khuyên còn
cho người đọc thấy Lý Biên Cương đã sử dụng nghệ thuật di chuyển điểm

nhìn. Đó là sự dịch chuyển điểm nhìn từ người kể chuyện vào nhân vật và từ
nhân vật này sang nhân vật khác (Bây giờ ta lại nói về nhau, Gắn bó một
vùng lò cháy, Giai điệu thành thị, Hạt mưa bay ngang, Gió hát, Đêm ấy vùng
than ai thức, Vợ chồng ông già mù, Hồ quang,…). Bằng việc di chuyển điểm
nhìn như vậy đã làm cho câu chuyện trở nên khách quan hơn, có khả năng
bao quát được nhiều vấn đề, đồng thời cho thấy một cái nhìn đa chiều của tác
giả về nhiều vấn đề khác nhau trong cuộc sống.
Trên trang web: , có bài “Chất thơ trong
truyện ngắn Lý Biên Cương” của Phạm Văn Học. Theo tác giả bài viết, cái


6
đọng lại trong tâm trí người đọc khi đọc những truyện ngắn của Lý Biên
Cương chính là chất thơ lan toả trong mỗi câu chữ. Chất thơ trong truyện
ngắn Lý Biên Cương được toát lên “từ cách sử dụng ngôn ngữ gợi cảm giàu
hình ảnh, giàu nhịp điệu… Chất thơ toát lên ngay từ góc độ nhà văn tiếp cận,
khám phá và cảm nhận thiên nhiên, con người. Điều đó được thể hiện ngay từ
cách đặt tên truyện ngắn “rất thơ” như: Sâm cầm ơi sâm cầm, Thu cảm, Mười
hai cửa bể, Giai điệu thành thị, Sữa thơm dòng sông Hương, Người ơi người
ở, Bây giờ ta lại nói về nhau, Hạt mưa bay ngang… Những cái tên mới đọc
lên đã thấy du dương, cuốn hút người ta”. Để tạo ra chất thơ đó, tác giả sử
dụng nhiều phương thức nghệ thuật khác nhau, trước hết tác giả sử dụng hình
thức kể chuyện ở ngôi thứ nhất, sử dụng lớp ngôn ngữ giàu sức gợi cảm, gợi
hình: “Câu văn của ông co duỗi linh hoạt, có khi dồn dập như chính cái hối hả
của đời sống Vùng mỏ, có lúc lại mênh mang buồn nhớ, khi lại êm đềm
phẳng lặng như mặt nước Vịnh Hạ Long…”; đồng thời tác giả còn sử dụng
biện pháp điệp từ, điệp cấu trúc câu và sử dụng nhiều câu hỏi như một niềm
trăn trở khôn nguôi cùng với đó là cách kết thúc câu chuyện đầy bất ngờ đã
tạo nên những dư vị thơ đậm đà.
Trên blogs , Trần Chiểu có bài

viết “Vĩnh biệt nhà văn Lý Biên Cương” đã chỉ ra rằng truyện ngắn là thể loại
chủ đạo và đã khái quát một cách chung nhất những nét độc đáo ở thể loại
truyện ngắn của Lý Biên Cương. Đó là “cái cuối cùng đọng lại, cái mà người
đời không thể không nhắc đến ông – đó là truyện ngắn – một phong cách nửa
hào hoa, nửa dung dị, nhưng tinh tế, sâu lắng và đặc biệt, nó mang đậm sắc
thái của một miền đất thợ thuyền nghiệt ngã và mơ mộng không thể trộn lẫn.
Khác hẳn nhiều cây bút truyện ngắn cùng thời, bút pháp Lý Biên Cương luôn
điềm đạm và đôn hậu. Các nhân vật của ông dù đứng ở tuyến nào, hoàn cảnh
u tối nào, vẫn được dành những “khoảng không” để hướng về ánh sáng. Lược
bỏ sự “làm duyên” (đôi khi) – Lý Biên Cương vẫn là cây bút truyện ngắn có
đẳng cấp”.


7
Ngoài những bài viết đi sâu tìm hiểu về thể loại truyện ngắn của Lý Biên
Cương còn nhiều bài viết khác đưa ra những nhận xét, nhìn nhận một cách
chung nhất về các sáng tác của nhà văn Lý Biên Cương.
Bài viết “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay” (www.cand.com,
17/02/2009) của tác giả Dương Hướng không chỉ giúp ta hình dung về cuộc
đời lắm thăng trầm của Lý Biên Cương mà còn cho độc giả thấy được nỗi
niềm của Lý Biên Cương khi gửi gắm những tâm trạng của mình vào trang
viết. “Giờ nhìn lại sự nghiệp sáng tác của ông, tôi giật mình thấy tất cả những
tác phẩm của ông đều có bóng hình ông trong đó. Như thể tiểu thuyết và cuộc
đời lặn ngụp vào nhau. Đắm say có, hờn ghen có, hận thù có, phản bội có. Tôi
đọc Người đàn bà ngang qua đời tôi thấy rõ nỗi lòng đau đớn của ông trút lên
trang viết thật sống động. Những chi tiết cứ sởn da gà khi đêm đêm nằm với
người tình mà mình yêu thương lại cứ phải nghe tiếng gõ cửa bất thường của
thằng đàn ông khác mò đến, rình rập. Tiếng gõ cửa cứ nhoi nhói vào tim”.
Với bài viết này, người đọc mới thấy câu nói “văn là đời” rất đúng với nhà
văn Lý Biên Cương. Và trong bài “Lý Biên Cương thăm thẳm đường đời”

(duonghuongqn.vnweblogs.com, 01/11/2009), Dương Hướng một lần nữa lại
khẳng định điều này: “Hãy đọc tên các tác phẩm (những đứa con tinh thần)
của ông, ta cảm nhận như thể số trời đã định. Âm vang của ngôn từ nghĩa ngữ
cứ bám riết vào từng đoạn đường đời thăm thẳm nỗi gian truân của ông. Nó
vận vào ông, hay ông vận vào nó? Nhưng với ông, nó ám ảnh mãi, nó mê
hoặc, nó đeo đuổi suốt cuộc đời ông – cả vinh quang và cay đắng, cả niềm vui
nỗi buồn, cả khát khao trống vắng, cả cô đơn và đau đớn... Mỗi câu mỗi chữ
đều gợi lên ý tứ sâu sắc, và những nỗi buồn man mác”.
Trong bài viết “Nhà văn Lý Biên Cương – người thức cùng than”
(www.baoquangninh.com, 11/05/2008), tác giả bài viết đã cho thấy những ân
tình mà Lý Biên Cương dành cho vùng đất mỏ Quảng Ninh. Hầu như cả cuộc
đời viết văn của mình, Lý Biên Cương đã dành rất nhiều tâm huyết để viết về
đất và người xứ mỏ. Theo số liệu tác giả bài viết đưa ra thì từ truyện ngắn


8
Than con gái (1965) đến truyện ngắn Nghe gió hun hút thổi (2007), gồm có
40 truyện ngắn và 6 truyện vừa, với gần 850 trang sách. Đọc những trang sách
này ta có cảm tưởng như đây là một bức tranh lớn, mà mỗi truyện trong đó là
những gam màu khác nhau, phản ánh cả chặng đường hơn bốn mươi năm qua
của vùng Than. Và mặc dù đây chỉ là một phần trong gia tài văn chương của
nhà văn nhưng nó cũng đã cho thấy sự sung sức, bền bỉ của một cây bút nặng
lòng với vùng Than, cho thấy một lối viết riêng, tạo nên phong cách rất đặc
trưng của nhà văn Lý Biên Cương. Đó là sự kết hợp rất nhuần nhuyễn giữa
chất hiện thực với chất lãng mạn bay bổng khi miêu tả cuộc sống. Nói đúng
hơn, nhà văn luôn tìm tòi, khai thác những nét lấp lánh thi vị của cuộc sống từ
những chi tiết về tính cách, về mối quan hệ giữa con người với con người
v.v... hết sức dung dị trong đời thường. Thêm vào đó là giọng văn nhẹ nhàng,
tinh tế, với những chi tiết được chọn lọc đặc sắc nên câu chuyện càng hấp
dẫn. Lý Biên Cương không chỉ bó hẹp ngòi bút của mình ở thể loại văn xuôi

mà ở thể loại thơ cũng đã có rất nhiều bài đáng để ta đọc. Trong bài viết
“Người tử tế”, (www.thaongochn.vn, 08/06/2012), tác giả bài viết đã có
những nhận xét vô cùng tinh tế: “Nếu đã biết ông, ta còn biết ông là một nhà
thơ đúng nghĩa. Những bài thơ của ông gợi nhiều sự liên tưởng đa thanh, đa
âm. Những câu thơ vấn vít, như có, như không, gợi mở về những điều bình dị
mà lại chan chứa yêu thương cháy bỏng”.
Nhìn chung, các bài viết về Lý Biên Cương đã đưa ra những nhận xét,
những lời bàn luận một cách khái quát về văn phong Lý Biên Cương. Và thể
loại được nhiều người tập trung chú ý nhất vẫn là thể loại truyện ngắn. Từ
những bài viết đó, phần nào giúp người đọc hiểu thêm về phong cách văn
xuôi Lý Biên Cương.
2.3. Có thể xem luận văn của chúng tôi là công trình đầu tiên đi sâu
nghiên cứu thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Lý Biên Cương.
3. Đối tượng và giới hạn của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu


9
Thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Lý Biên Cương
3.2. Giới hạn của đề tài
Đề tài bao quát toàn bộ tiểu thuyết (gồm ba cuốn: Cửa sóng, Một kiếp
đàn ông, Phù du) của Lý Biên Cương
Văn bản tác phẩm dùng để khảo sát, luận văn dựa vào cuốn: Tiểu thuyết
Lý Biên Cương, Nxb Công an nhân dân, 2006.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Qua khảo sát tiểu thuyết Lý Biên Cương (ba tác phẩm: Cửa sóng, Một
kiếp đàn ông, Phù du), luận văn nhằm xác định ở đây có một thế giới nghệ
thuật hấp dẫn và đi sâu phân tích, luận giải cơ cấu thế giới nghệ thuật ấy, tìm
ý nghĩa xã hội, thẩm mĩ của nó.

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.2.1. Đưa ra một cái nhìn chung về tiểu thuyết của Lý Biên Cương trong
bối cảnh tiểu thuyết Việt Nam đương đại
4.2.2. Khảo sát, phân tích, xác định, tập hợp các hiện tượng tạo thành thế
giới nghệ thuật (con người và hiện thực) được nhận thức, phản ánh trong tiểu
thuyết Lý Biên Cương.
4.2.3. Khảo sát, phân tích, xác định cách thức tạo dựng thế giới nghệ
thuật (bút pháp, giọng điệu, ngôn ngữ,…) của Lý Biên Cương trong ba cuốn
tiểu thuyết: Cửa sóng, Một kiếp đàn ông, Phù du.
Cuối cùng rút ra một số kết luận về thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Lý
Biên Cương, đồng thời đề xuất một số vấn đề về tìm hiểu, nghiên cứu tiểu
thuyết Việt Nam đương đại.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, trong đó
có các phương pháp chủ yếu: phương pháp thống kê – phân loại, phương
pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp so sánh – loại hình, phương pháp cấu
trúc – hệ thống…


10
6. Đóng góp và cấu trúc của luận văn
6.1. Đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình tìm hiểu thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Lý Biên
Cương với một cái nhìn tập trung và hệ thống.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc
tìm hiểu, nghiên cứu tiểu thuyết của Lý Biên Cương nói riêng, tiểu thuyết
Việt Nam đương đại nói chung.
6.2. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận
văn được triển khai trong ba chương:

Chương 1. Tiểu thuyết Lý Biên Cương trong bối cảnh của tiểu thuyết
Việt Nam đương đại
Chương 2. Hiện thực và con người trong tiểu thuyết Lý Biên Cương
Chương 3. Phương thức tạo dựng thế giới nghệ thuật tiểu thuyết của
Lý Biên Cương
Chương 1
TIỂU THUYẾT LÝ BIÊN CƯƠNG
TRONG BỐI CẢNH TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
1.1. Một cái nhìn chung về tiểu thuyết Việt Nam đương đại
1.1.1. Cơ sở xã hội, thẩm mỹ của tiểu thuyết Việt Nam đương đại
Năm 1975, chiến tranh kết thúc, nước Việt Nam thu về một mối, hòa
bình lập lại, một cuộc sống mới tàn trề tương lai, hi vọng trong mỗi con người
Việt Nam. Song hiện thực cuộc sống không phải lúc nào cũng như ta mong
đợi, bên cạnh một cuộc sống tự do, dân chủ, hòa bình thì con người cũng phải
đối mặt với bao khó khăn, nghiệt ngã của chính hiện thực đó. Cuộc sống
không hề giản đơn, xuôi chiều mà trở nên phức tạp, đa chiều theo cơn lốc
xoáy của cơ chế thị trường.


11
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986), Đảng chủ trương
“đổi mới toàn diện” trên tất cả các lĩnh vực, trong đó văn học nghệ thuật cũng
được đổi mới. Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị giành riêng cho Văn nghệ, đã
khẳng định rằng: “Văn học nghệ thuật là một bộ phận trọng yếu của cách
mạng tư tưởng văn hóa”, “là bộ phận đặc biệt nhạy cảm của Văn hóa, thể hiện
khát vọng của con người về chân, thiện, mĩ; có tác dụng bồi dưỡng tình cảm,
tâm hồn, nhân cách, bản lĩnh của các thế hệ công dân, xây dựng môi trường
đạo đức xã hội” (Trích Nghị quyết của Bộ Chính trị về Văn học, Nghệ thuật
và Văn hóa, Tuần báo Văn nghệ, số 51 – 52, ra ngày 19/12/1987). Ngày 06 –
07/10/1987, Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã đến nghe các văn

nghệ sĩ tâm tình, trao đổi mọi vấn đề về văn học nghệ thuật và cuộc sống một
cách cởi mở. Đồng chí yêu cầu: “Các nhà văn trong thời kì đổi mới có quyền
nói thẳng, nói thật mọi vấn đề trong cuộc sống của chúng ta, miễn là anh đứng
trên quyền lợi, lập trường của dân tộc”.
Các văn nghệ sĩ như thực sự được “cởi trói”, họ hồ hởi cầm bút, hăng hái
đi vào những mặt trận nóng bỏng, những vùng đen, những mảng khuất của
hiện thực mà trước đó người ta còn e dè, không dám đụng chạm. Có thể nói,
không khí “đổi mới” như một luồng sinh khí mới tiếp thêm sức mạnh cho
những người cầm bút.
Bên cạnh đó, với chính sách mở nền kinh tế của nhà nước thật sự đã làm
cho cuộc sống của người dân được khởi sắc. Nhân dân được tiếp xúc với
nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới, có cơ hội mở rộng tầm mắt, vốn
hiểu biết của mình. Nhưng cũng chính sự du nhập của cuộc sống hiện đại
“không gốc rễ”, của lối sống chạy theo cơ chế thị trường v.v.. đã đem lại bao
nhiêu mặt tiêu cực đòi hỏi người ta phải lên tiếng, phải cảnh giới để làm sao
“hòa nhập chứ không hòa tan”, vẫn giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc. Những
biến động dữ dội trong nền chính trị thế giới, những vấn đề nóng bỏng mà
nhân loại phải đối diện đều có ảnh hưởng tới trạng thái tâm lí, cách cảm, cách


12
nghĩ của người Việt Nam, từ đó nảy sinh nhu cầu nhận thức lại các vấn đề của
cuộc sống.
Sự chuyển biến về hoàn cảnh xã hội, ý thức xã hội đã dẫn đến sự thay đổi
về thị hiếu thẩm mĩ tương ứng với sự thay đổi các thang chuẩn xã hội của cuộc
sống. Nhiều chuẩn mực cũ đã mất đi tính tuyệt đối và được nhìn nhận lại, trở
nên uyển chuyển và linh hoạt hơn. Con người mới với tư duy và mĩ cảm mới,
với những thị hiếu mới trong một bối cảnh mới của cấu trúc lịch sử xã hội, văn
hóa là những tiền đề có tính căn bản cho sự vận động của văn học Việt Nam.
Thế giới quan, nhân sinh quan của công chúng văn học sau Đổi mới có

thể được nhìn nhận từ chính những thay đổi trong thế giới quan và nhân sinh
quan của lực lượng sáng tác. Có thể thấy từ sau Đổi mới, văn học nói chung
và tiểu thuyết nói riêng đã có một đội ngũ tác giả đông đảo, từ những tác giả
đã trưởng thành trước và sau năm 1975 đến những tác giả trẻ tuổi ở các thế hệ
7X, 8X, 9X khác nhau. Những thế hệ tác giả này thực sự đã có sự chuyển
biến lớn về thế giới quan, nhân sinh quan để phù hợp với xu thế chung của
thời đại được chuyển biến, đổi thay qua các thời kì khác nhau.
Văn học bao giờ cũng mẫn cảm với không khí tinh thần và nhu cầu thời
đại. Trạng thái tâm lí xã hội đã được các nhà văn thể hiện qua những ý tưởng
mới, cách nói mới. Sự trăn trở, đổi mới ấy bắt đầu từ ý thức của cá nhân, dần
dần chuyển dịch vào ý thức nghệ thuật. Thế giới quan, nhân sinh quan chi
phối trực tiếp tới phong cách nghệ thuật, hình thành nên tư tưởng nghệ thuật
của nhà văn, nhưng thế giới quan là một sản phẩm vừa mang tính cá nhân vừa
mang tính thời đại, dân tộc. Trong văn học 1945 – 1975, cả dân tộc cùng có
chung nhiệm vụ, chung khuôn mặt, tâm hồn, văn chương nghệ thuật đã thể
hiện thế giới quan giai cấp, dân tộc một cách thống nhất. Khuynh hướng sử
thi và cảm hứng lãng mạn là âm hưởng chủ đạo trong các sáng tác văn học.
Khuynh hướng này đòi hỏi người cầm bút nhìn con người và cuộc đời không
chỉ bằng con mắt của cá nhân mình mà chủ yếu là con mắt có tầm bao quát
lịch sử, dân tộc và thời đại. Với cái nhìn sử thi và cảm hứng lãng mạn, nhiều


13
nhà văn, nhà thơ đã dồn tâm huyết để viết về những con người đại diện cho
tinh hoa và khí phách, phẩm chất và ý chí của toàn dân tộc.
Sau Đổi mới, thế giới quan, nhân sinh quan của các nhà văn đã có một sự
vận động mang tính bước ngoặt. Thế giới quan dân tộc, thời đại dần dịch
chuyển vào thế giới quan của con người cá nhân đặt trong bối cảnh phức tạp,
phong phú và toàn nguyên của thế sự đời tư. Khuynh hướng thế sự, đời tư lấn
át khuynh hướng sử thi và điều này cũng dễ hiểu vì hoàn cảnh lịch sử, xã hội

đã thay đổi thì thế giới quan của các nhà văn cũng phải thay đổi theo cho phù
hợp. Khuynh hướng nhận thức lại hiện thực với cảm hứng phê phán mạnh mẽ.
Cảm hứng trào lộng gần như vắng bóng trong khoảng thời gian 30 năm văn
học kháng chiến nay xuất hiện trở lại và trở thành cảm hứng chủ đạo. Tiểu
thuyết đánh dấu mốc cho khuynh hướng này là Thời xa vắng của Lê Lựu. Đây
là một hiện tượng văn học nổi bật của những năm 86 – 87. Nguyễn Minh
Châu tiếp tục đổi mới mình trong các quan niệm về hiện thực, về chiến tranh
(Cỏ lau và Mùa trái cóc ở miền Nam), Bảo Ninh viết về thân phận con người,
về Nỗi buồn chiến tranh. Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc
Trường, Đám cưới không có giấy giá thú của Ma Văn Kháng là những bức
tranh hiện thực cuộc sống đời thường với những mảng sáng tối, phức tạp đầy
dằn vặt, nhức nhối… Từ những năm cuối của thập kỉ 90 thế kỉ XX đến nay,
tình hình ở Việt Nam cũng như thế giới có nhiều biến động, giới nhà văn cũng
cho ra đời biết bao tác phẩm đề cập tới những vấn đề nóng hổi, gai góc của
cuộc sống, đi sâu vào khám phá thế giới nội tâm phong phú, phức tạp của con
người. Trên văn đàn xuất hiện hàng loạt tác phẩm và nhiều cuốn đã để lại
những tiếng vang lớn như Hồ Qúy Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa
(Nguyễn Xuân Khánh), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Cõi người rung chuông tận
thế, Mười lẻ một đêm, Trong sương hồng hiện ra (Hồ Anh Thái), Cánh đồng
bất tận (Nguyễn Ngọc Tư),… Cá tính sáng tạo của nhà văn với tư cách là chủ
thể thẩm mĩ, có ảnh hưởng rất lớn đối với việc ra đời một tác phẩm văn học.
Nó là động lực thúc đẩy sự phát triển của văn học.


14
Cá tính sáng tạo của các nhà văn như Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu, Bảo
Ninh, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Xuân Khánh,…
không chỉ giúp họ khẳng định mình trên văn đàn mà còn tạo ra một diện mạo
mới cho văn học, giúp cho tiểu thuyết Việt Nam đương đại đứng vững hơn,
ngày càng phát triển hơn và chứng tỏ được uy thế của mình so với các thể loại

khác, làm cho nền văn học Việt Nam trở nên đa sắc.
1.1.2. Bức tranh chung của tiểu thuyết Việt Nam đương đại
Sau khi hòa bình lập lại (1975) đặc biệt là từ sau Đại hội VI (1986) tới
nay, văn học Việt Nam không ngừng đổi mới mình để có thể vận động theo
hướng hòa nhập với tiến trình văn học thế giới. Vận động theo hướng này là
xu thế tất yếu, là lẽ tồn tại của văn học nói chung, của tiểu thuyết nói riêng.
Quan sát tiến trình vận động của tiểu thuyết từ 1986 tới nay, có thể thấy “Đổi
mới” và “Hội nhập” là những biểu hiện nổi bật của thể loại tiểu thuyết.
Con đường của tiểu thuyết trong hơn 30 năm qua cũng trải qua không ít
thăng trầm, nhưng vẫn luôn là sự vận động với những tìm tòi nỗ lực để đổi
mới. Ở chặng đầu thời kì đổi mới (nửa cuối những năm 80 và đầu thập kỉ 90),
tiểu thuyết gặt hái được nhiều thành công, có những tìm tòi, bứt phá mạnh
bạo về nghệ thuật, gây được tiếng vang trong công chúng và hiệu ứng xã hội
rộng rãi. Nhưng tiếp đó, trong khoảng 7, 8 năm, tiểu thuyết Việt Nam lại gần
như rơi vào tình trạng trầm lắng mà có người đã cho là khủng hoảng. Cuối
thập kỉ 90 đến nay, người ta lại chứng kiến sự phục hồi nở rộ của tiểu thuyết,
với sự đa dạng về đề tài, khuynh hướng nghệ thuật, bút pháp. Tiểu thuyết Việt
Nam đương đại đã có sự đổi mới lớn trên cả phương diện nội dung lẫn hình
thức nghệ thuật.
Tiểu thuyết Việt Nam đương đại trong giai đoạn tiền Đổi mới (1975 –
1985) trước hoàn cảnh lịch sử của đất nước, trước sự đòi hỏi của bạn đọc,
buộc các nhà văn phải thay đổi cách viết cũng như cách nhìn nhận con người
và cuộc sống. Nhưng thay đổi như thế nào thì họ chưa biết, chưa có một cách
định hình chắc chắn. Họ vẫn viết theo quán tính sử thi của giai đoạn văn học


15
1945 – 1975, những vấn đề khuất lấp của đời sống chưa được nhìn nhận tuy
nhiên màu sắc sử thi đã nhạt dần như: Miền cháy (1977 – Nguyễn Minh
Châu), Đất trắng, tập 1 (1979 – Nguyễn Trọng Oánh), Trong cơn gió lốc

(1980 – Khuất Quang Thụy), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983 –
Nguyễn Minh Châu),… Chỉ đến khi bước vào giai đoạn Đổi mới (1986), văn
học được nhìn nhận lại bằng con mắt cởi mở hơn. Và cũng chính vì lẽ đó mà
văn học gánh trên vai sứ mệnh nặng nề hơn trên con đường phục vụ cho đời
sống tinh thần của con người với biết bao bộn bề, phức tạp.
Tư duy tiểu thuyết thay đổi khiến cho phạm vi đề tài, chủ đề được mở
rộng hơn. Tiểu thuyết không dừng lại ở những vấn đề cơ bản của đời sống
chính trị, xã hội mà đã tìm đến một hiện thực rộng lớn hơn của đời sống nhân
sinh thế sự. Những mảng đề tài phong phú từ hiện thực chính trị tới cuộc sống
đời tư, từ sinh mệnh lớn lao của cả cộng đồng tới số phận từng cá nhân cùng
bao vấn đề bề bộn, phức tạp của đời thường đã đem lại cho tiểu thuyết đương
đại một gương mặt mới mẻ, chân thực, đậm chất nhân văn và thật sự gần gũi
với con người. Nếu như trước đây, đề tài của văn học nói chung, tiểu thuyết
nói riêng chỉ xoay quanh những vấn đề như đề tài về chiến tranh, người nông
dân,… thì nay phạm vi đề tài không dừng lại ở những giới hạn chật hẹp nữa,
các nhà văn đã thoát khỏi “chủ nghĩa đề tài”, tìm đến những “tầng vỉa” sâu xa
hơn nữa. Bên cạnh những chủ đề, đề tài đã sẵn có ta bắt gặp những mảng mới
mẻ hơn như trinh thám, viễn tưởng, kinh dị,… rồi các yếu tố sex, less,…
trong các sáng tác về tình yêu, hôn nhân, gia đình ngày càng xuất hiện nhiều
hơn. Theo những điều tra xã hội học của nhóm nghiên cứu đề tài “Công
chúng và giao lưu quảng bá văn học thời kỳ đổi mới” do Tôn Thảo Miên làm
chủ nhiệm [52]. Kết quả điều tra ngẫu nhiên trên 636 đối tượng tại Hà Nội đã
cho thấy 65.9% số người được hỏi đã chọn đề tài hôn nhân, tình yêu cho sự
đọc của mình. Các đề tài tiếp theo cũng minh chứng một sự chuyển dịch trong
thị hiếu thẩm mĩ của công chúng: đề tài chiến tranh 37.1%, đề tài nông thôn
37%, lịch sử 31.9%, trinh thám 31%… Các tác phẩm hướng tới giá trị tư


16
tưởng cao, mang tầm vóc nhân văn, nhân bản thu hút được 69.1% số đối

tượng tham gia khảo sát. Tiếp sau đó, các tác phẩm đề cao tính nghệ thuật
cũng thu hút được tới 50.2% công chúng. Các chủ đề khác như tâm linh, vô
thức thu hút 41.3%, trào phúng 38.8%. Rất đáng để ý là trong số những khảo
sát này, chủ đề tình dục, sex chỉ thu hút được 14.3%. Những con số này đã
cho thấy sự đa dạng, phong phú trên phương diện đề tài, chủ đề và từ đó cũng
giúp ta nhận thấy được khuynh hướng thẩm mĩ của công chúng hiện đại và
thấy được rằng các tác giả tiểu thuyết cũng đang cố gắng vận hành mình theo
xu thế thời đại chính vì vậy mà bức tranh tiểu thuyết trở nên đa dạng hơn.
Văn chương hôm nay hướng tới những vùng khuất lấp của hiện thực, đào
sâu vào tâm linh, vô thức, trưng ra những biểu hiện phức tạp, đa bội của đời
sống con người. Không thể nói rằng văn chương đi vào mặt trái của hiện thực,
bởi lẽ với nghệ thuật mang ý niệm hướng tới nhân sinh đích thực thì không có
chủ đề, đề tài nào là mặt trái. Ta có thể nói đến câu của Marx ở đây: “không
có gì liên quan đến con người mà lại xa lạ với tôi”. Văn chương sau Đổi mới
đã nỗ lực truy cầu điều ấy. Thị hiếu của người sáng tác muốn dấn thân đến
những nẻo vùng khác nhau của mĩ cảm, của tư duy cũng như người đọc khao
khát có được những trải nghiệm mới, bổ sung vào thực đơn tinh thần vốn đã
đến lúc nghèo nàn và nhạt nhẽo. Con người cá nhân trỗi dậy, đòi sống đời
sống bản thể của mình. Tác phẩm Bức tranh của Nguyễn Minh Châu, viết
xong từ trước Đổi mới, là một ẩn dụ về những thay đổi trong đời sống tinh
thần của con người. Cái khẩn thiết của sự sống, cái chân thực của thế sự là ở
chỗ: trong mỗi con người đều có phần ánh sáng và bóng tối, rồng phượng lẫn
rắn rết, thiên thần và ác quỷ… Con người bây giờ là một bản thể quy chiếu
với các giá trị phổ quát và đòi sống như một “con người toàn nguyên”.
Có thể nói, tiểu thuyết là “công cụ hữu hiệu” của văn học để tái hiện lịch
sử theo nhãn quan người viết và tiểu thuyết suy cho cùng vẫn là miêu tả số
phận con người. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà tiểu thuyết đã khắc hoạ
khá đầy đặn về lịch sử của một gia đình, một dòng tộc hay một đời người gắn



17
với những biến động của lịch sử, với những thăng trầm của đời sống xã hội:
Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Bến không chồng,
Dưới chín tầng trời (Dương Hướng), Dòng sông mía (Đào Thắng), Cõi người
(Từ Nguyên Tĩnh), Bến đò xưa lặng lẽ (Xuân Đức), Trăm năm thoáng chốc
(Vũ Huy Anh), Cánh đồng lưu lạc (Hoàng Đình Quang), Cõi mê (Triệu
Xuân), Luật đời và cha con, Lửa đắng (Nguyễn Bắc Sơn), Thượng đế thì cười
(Nguyễn Khải), Gia đình bé mọn (Dạ Ngân), Mẫu thượng ngàn, Đội gạo lên
chùa (Nguyễn Xuân Khánh), Ba người khác (Tô Hoài), Một mình một ngựa
(Ma Văn Kháng)… Các nhà văn đã có một cái nhìn soi thấu một đời người,
một thân phận trong hành trình của thế kỷ XX gắn với chiều dài lịch sử qua
bao cuộc “bể dâu”. Mỗi tiểu thuyết là một cách khai thác sâu hơn về cõi
người, cõi đời để đạt được một tầm sâu cho nhận thức về cõi nhân sinh.
Hơn nữa, không dừng lại ở cuộc sống của những người trong nước mà
tiểu thuyết còn có thêm mảng đề tài về cuộc sống con người Việt Nam ở hải
ngoại: Chinatown, Paris 11 tháng Tám, T. mất tích (Thuận), Tìm trong nỗi
nhớ, Trên đỉnh dốc (Lê Ngọc Mai), Gió từ thời khuất mặt (Lê Minh Hà),
Thảo (Võ Hoàng Hoa), Và khi tro bụi (Đoàn Minh Phượng), Quyên (Nguyễn
Văn Thọ)... Sự góp mặt đó làm giàu có hơn đời sống của thể loại, làm cho
diện mạo tiểu thuyết phong phú và đa dạng hơn đồng thời tiếng nói về cuộc
đời và con người trong tiểu thuyết cũng giàu sắc điệu và đa nghĩa hơn.
Nhìn chung tiểu thuyết Việt Nam đương đại được viết theo hai xu
hướng: tiểu thuyết viết theo thi pháp truyền thống và tiểu thuyết viết theo thi
pháp hiện đại. Tiểu thuyết viết theo thi pháp truyền thống hấp dẫn người đọc
trước hết bằng nội dung chuyện kể, bằng những diễn biến đời sống của một
nhân vật mang tính cách giống hay khác với họ. Tính thẩm mỹ của tiểu thuyết
bộc lộ ở sự hài hòa, nhất quán của tổng thể và các phân đoạn khiến câu chuyện
mạch lạc, lôi cuốn. Về cấu trúc, tiểu thuyết truyền thống dựa trên một cốt
truyện, thu hút sự chú ý của người đọc và câu chuyện phải đi tới một kết thúc
có hậu, trả độc giả về với “trật tự quen thuộc của đời sống”. Bên cạnh việc vẫn



18
bám sát khung thể loại truyền thống thì tiểu thuyết truyền thống đã có sự gia
tăng một số yếu tố như thay đổi điểm nhìn trần thuật, sử dụng yếu tố huyền ảo,
yếu tố trào lộng,… Thuộc xu hướng này có nhiều cây bút thuộc các thế hệ đã
sáng tác từ trước 1975, trong đó có các nhà văn lão làng như Tô Hoài, Nguyễn
Khải, Hồ Phương, Nguyễn Xuân Khánh, Ma Văn Kháng; các nhà văn trưởng
thành từ thời kì kháng chiến chống Mỹ và sau khi kết thúc chiến tranh như Lê
Lựu, Chu Lai, Khuất Quang Thụy, Trung Trung Đỉnh, Nguyễn Bảo, Lê Văn
Thảo, Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Quang Hà, Lý Biên Cương,…
Những tiểu thuyết viết theo hướng hiện đại rất chú trọng trong việc đổi
mới hình thức thể loại bằng cách vận dụng những kĩ thuật tự sự hiện đại
phương Tây, trên cơ sở đổi mới quan niệm về tiểu thuyết. Khởi đầu của xu
hướng này là Thiên sứ của Phạm Thị Hoài, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo
Ninh, xuất hiện ở chặng đầu thời kì Đổi mới. Nhưng dường như xu hướng tìm
tòi này không được tiếp tục trong khoảng gần 10 năm ở thập kỉ 90, phải đến
vài năm cuối thế kỉ XX mới có lác đác một vài tiểu thuyết thể hiện sự phá
cách về hình thức thể loại, và sang đầu thế kỉ XXI cho đến nay, chúng ta mới
chứng kiến sự bừng nở thật sự của xu hướng đổi mới cách viết này bởi sự
xuất hiện của hàng loạt tiểu thuyết mới và lạ về cách viết như Thoạt kì thủy,
Ngồi của Nguyễn Bình Phương, Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối của Tạ
Duy Anh, Khải huyền muộn của Nguyễn Việt Hà, Người sông mê của Châu
Diên… Một số cây bút người Việt định cư ở nước ngoài cũng thể hiện khát
vọng đổi mới tiểu thuyết, trong đó ấn tượng hơn cả là Chinatown, Pari 11
tháng 8, T. mất tích của Thuận, Và khi tro bụi của Đoàn Minh Phượng.
Những tiểu thuyết kể trên không cuốn nào có được sự kết tinh nghệ thuật cao
và làm chấn động dư luận nhưng rõ ràng đã tạo được sự chú ý, thậm chí phân
lập bạn đọc một cách sâu sắc. Phần lớn các tác giả kể trên đều là những cây
bút đang ở độ sung sức và đã có độ chín nhất định trong tư duy nghệ thuật.

Với những sáng tác độc đáo về hình thức nghệ thuật, họ góp phần thúc đẩy


19
công cuộc đổi mới tiểu thuyết Việt Nam hiện đại và tạo cho mình chỗ đứng
vững chắc trong lòng bạn đọc.
Như vậy, khát vọng làm mới tiểu thuyết đang ngày càng thu hút nhiều
cây bút thuộc các thế hệ khác nhau, đặc biệt là lớp người viết trẻ. Cùng với tư
duy nhạy bén, người viết trẻ có điều kiện tiếp xúc và vận dụng nhiều hơn kỹ
thuật viết mới vào tiểu thuyết, tuy không phải trường hợp nào cũng đạt được
sự nhuần nhuyễn và độ chín. Nhìn chung, xu hướng cách tân đã góp phần
đáng kể làm thay đổi diện mạo của tiểu thuyết Việt Nam ở đầu thế kỉ XXI,
ngày càng thu hút được sự chú ý của bạn đọc, đồng thời cũng ít nhiều làm
thay đổi thị hiếu tiếp nhận của công chúng.
M. Butor – tiểu thuyết gia nổi tiếng của Pháp thế kỉ XX cho rằng: “Trong
cuộc kiếm tìm và hướng tới sự đổi mới, điều quan trọng là phải thấy được sự
cần thiết phải thay đổi bản thân khái niệm của tiểu thuyết…”. Đổi mới tư duy
và nghệ thuật tiểu thuyết được khởi đầu và dẫn dắt từ sự đổi mới quan niệm về
thể loại. Trong môi trường văn hóa, văn học được mở rộng giao lưu và hội
nhập, nhiều xu hướng tiểu thuyết hiện đại phương Tây và những lý thuyết mới
về tiểu thuyết được giới thiệu ở Việt Nam đã tác động thực sự đến quan niệm
về cách viết của nhiều nhà văn. Quan niệm mới về tiểu thuyết ở nước ta hiện
nay chịu ảnh hưởng nhiều từ lý luận của M.Bakhtin và M.Kundera, mặt khác
cũng tiếp nhận ảnh hưởng của trào lưu tiểu thuyết mới, chủ nghĩa hiện thực
huyền ảo và cả những ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại trên thế giới.
Tính chất động, luôn biến đổi và không dừng lại ở bất kì mô hình nào là
một đặc điểm bao trùm của tiểu thuyết. Nhận thức về đặc điểm này của tiểu
thuyết đã trở thành một quan niệm chung của hầu hết các cây bút tiểu thuyết
thuộc các thế hệ khác nhau. Nhà văn Tô Hoài từng phát biểu: “…thật là
không thể cho tiểu thuyết một nghĩa cố định. Tiểu thuyết lúc nào cũng phát

triển và biến đổi. Tiểu thuyết có một khả năng tung hoành không bờ”. Những
cây bút theo đuổi sự cách tân tiểu thuyết theo hướng hiện đại đã rất mạnh dạn


20
tìm tòi thể nghiệm, sáng tạo nhiều kiểu dạng tiểu thuyết, làm đa dạng hóa bức
tranh thể loại tiểu thuyết Việt Nam hôm nay.
Hướng đến tính dân chủ là điểm nổi bật trong quan niệm tiểu thuyết của
các cây bút theo xu hướng cách tân hiện đại. Tính chất dân chủ thể hiện trước
hết ở việc giải phóng tiểu thuyết khỏi nhiệm vụ phản ánh hiện thực một cách
đầy đủ. Tiểu thuyết giờ đây không còn là tấm gương soi của thời đại, không
nhất thiết phải là một hiện thực khả tín như quan niệm của nhà văn Nguyễn
Công Hoan trước đây: “tiểu thuyết là bịa như thật”. Hiện thực trong tiểu
thuyết hôm nay chỉ là một khả thể, thậm chí có thể là một hiện thực bất khả
tín. Ở góc độ chủ thể sáng tạo, tính dân chủ thể hiện ở chỗ: tiểu thuyết không
chỉ là tiếng nói của dân tộc và thời đại mà quan trọng hơn còn là phát ngôn
thể hiện tư tưởng, quan niệm riêng của ngưởi nghệ sĩ. Nhà văn hoàn toàn có
quyền đề xuất những chuẩn mực giá trị mới, có quyền trình bày những kinh
nghiệm cá nhân.
Hướng đến tính trò chơi cũng là một quan niệm mới về tiểu thuyết. Tiếng
gọi của trò chơi là một trong những tiếng gọi mà nhà văn M.Kundera đã lắng
nghe được từ những cuốn tiểu thuyết ra đời vào thế kỉ XVIII ở châu Âu. Ông
đã rất có lý khi cho rằng: “Ở bên ngoài tiểu thuyết, người ta sống trong thế
giới của những điều khẳng định, mọi người đều tin chắc ở lời nói của mình:
một nhà chính trị, một nhà triết học, một người gác cổng,… Trong lãnh địa
của tiểu thuyết, người ta không khẳng định: đây là lãnh địa của trò chơi và
của những giả thuyết. Sự chiêm nghiệm của tiểu thuyết do vậy, trong bản chất
của nó, mang tính nghi vấn, giả thuyết”.
Tính trò chơi đã giải phóng tiểu thuyết khỏi chức năng giáo huấn, bớt đi
tính chất nghiêm trang và đề cao tính giải trí – một chức năng quan trọng của

văn chương, mà trước đây chưa được chú ý. Mặt khác tính trò chơi giúp cho
nhà văn thỏa sức sáng tạo, anh ta được quyền tự do thể nghiệm những hình
thức nghệ thuật mới. Anh ta có thể tạo ra một thế giới giả tưởng hoàn toàn
không có thật, không đáng tin, nhưng cũng không cần thuyết phục bạn đọc


21
phải tin vào thế giới đó. Nhà văn Hồ Anh Thái đã bộc lộ suy nghĩ: “Với tôi,
tiểu thuyết là một giấc mơ dài, nó thuộc về thế giới này nhưng lại như ở đâu
đó xa xôi lắm. Tôi thường ví von nó là một giấc mơ mà khi tỉnh dậy người ta
vừa mừng như thoát được cơn ác mộng, lại vừa nuối tiếc vì phải chia tay với
những điều đời thực không thể có”. Sự bộc bạch này cũng lí giải vì sao trong
thế giới nghệ thuật của ông thường đan cài các yếu tố thực và ảo, hữu lí và phi
lí. Nhưng cũng cần phải nhận thấy rằng, tính trò chơi ấy vẫn có sự “nguy
hiểm” (từ dùng của Phan Thị Vàng Anh), nó có thể thành công nhưng cũng có
thể thất bại. Mà trong văn học nghệ thuật, thất bại thường nhiều hơn thành
công, chính điều đó buộc các chủ thể sáng tạo, bao giờ cũng phải nỗ lực ở
mức cao nhất, năng lượng sáng tạo phải luôn dồi dào.
Từ trước đến nay, dung lượng của tiểu thuyết vẫn được coi là một trong
những tiêu chí cơ bản để phân biệt nó với các loại hình văn xuôi như truyện
ngắn, truyện vừa... Sự thu hẹp về quy mô tác phẩm là đặc điểm dễ nhận ra đầu
tiên về mặt hình thức. Hầu hết các tiểu thuyết theo xu hướng cách tân đều chỉ
có số trang từ khoảng 150 đến 250 trang, một số ít có thể đến 300 trang.
Chính vì vậy, “tiểu thuyết ngắn” trở thành một thuật ngữ định danh cho
những cuốn tiểu thuyết “gọn nhẹ” này. Thực ra trước đây Nguyễn Khải cũng
đã có những tiểu thuyết ngắn thiên về chính luận – triết luận, như Chủ tịch
huyện, Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người… nhưng sang đầu thế kỉ XXI,
xu hướng thu gọn quy mô tác phẩm mới thật sự được nhiều nhà văn lựa chọn,
một mặt để phù hợp với văn hóa đọc thời hiện đại, mặt khác nó cũng nằm
trong ý thức làm mới tiểu thuyết. Tiểu thuyết đã được giải phóng khỏi chức

năng phản ánh bức tranh đời sống xã hội, không phụ thuộc vào một cốt truyện
có đầy đủ thành phần. Nhà văn quan tâm đến cách kể câu chuyện hơn là nội
dung câu chuyện. Từ phía người sáng tác, Tạ Duy Anh, tác giả của các tiểu
thuyết ngắn đã nhận định: “Xu hướng ngắn, thu hẹp bề ngang, vừa khoan sâu
chiều dọc, đa thanh hóa sự đối thoại, nhiều vỉa ý nghĩa, bi kịch thời đại được
dồn nén trong một cuộc đời bình thường, không áp đặt chân lý là dễ thấy.


22
Tiểu thuyết ít mô tả thế giới hơn là tạo ra một thế giới theo cách của nó. Ở
con người có thể chiêm ngưỡng mình từ nhiều chiều hơn là chỉ thấy cái bóng
của mình đổ dài xuống lịch sử”. Mặt khác sự thu hẹp dung lượng của tiểu
thuyết còn phụ thuộc vào sự tương ứng giữa hình thức nghệ thuật với tinh
thần của cái hiện thực mà nó phản ánh. Đó là cái hiện thực rời rạc, phân mảnh
mà các tiểu thuyết gia hôm nay tìm thấy nơi ẩn náu phù hợp với các mảnh tự
sự rời rạc tựa như các truyện ngắn riêng rẽ được lắp ghép thành một sinh thể
tiểu thuyết. Trong đó, mảnh này suy tư, liên tưởng về mảnh kia, đoạn này
chồng chéo lên đoạn kia tạo nên sự pha trộn, xâm nhập của truyện ngắn kịch,
tiểu luận triết học, thơ ca, báo chí, nhật ký, huyền thoại vào tiểu thuyết, tạo
nên cấu trúc phức hợp. Ở đây vấn đề “thay đổi dung lượng” cũng liên quan
mật thiết với vấn đề xâm nhập của các thể loại khác vào cấu trúc nghệ thuật
của tiểu thuyết.
Kết cấu phức hợp và sự pha trộn nhiều thể loại là đặc điểm nổi trội của
cấu trúc văn bản tiểu thuyết cách tân theo hướng hiện đại. Tiểu thuyết giờ đây
có thể dung hợp trong nó nhiều thể loại khác nhau như thơ, kịch, tiểu luận,
phóng sự, nhật kí, tự truyện… Khả năng phối kết, thu hút các thể loại khác
khiến cho tiểu thuyết luôn có xu hướng đổi mới cả về khả năng lẫn nhu cầu
khai thác tiềm năng của chính nó. Trong Pari 11 tháng 8 của Thuận, ở mỗi
chương được xen vào những mẩu tin báo chí về trận nắng nóng khủng khiếp
năm 2003 ở Pháp, ngoài ra tác giả còn đưa vào ba tiểu luận xã hội của ba tác

giả khác nhau, tất cả những phần này đều tách biệt hẳn với thành phần truyện
chính. Tạ Duy Anh cũng là một nhà văn có sự tìm tòi trong việc thể nghiệm
tính liên văn bản. Trong Đi tìm nhân vật, tác giả đã trích dẫn nguyên văn lời
tự thú trong cuốn sổ của tiến sĩ N, nhật kí Trần Bân, lá thư của Thảo Miên,
đặc biệt còn đưa bốn truyện cổ tích vào kết cấu tác phẩm. Trong Phiên bản,
Nguyễn Đình Tú đã pha trộn cả kinh thánh và lí thuyết tội phạm học,…
Kiểu kết cấu truyện lồng trong truyện cũng thường gặp ở các tiểu thuyết
thuộc xu hướng này. Chinatown của Thuận có tiểu thuyết I’m Yellow của nhân


23
vật “tôi”, nhưng “tôi” lại là tác giả của Made in Vietnam do chính Thuận sáng
tác trước đó, rồi nhân vật trong Made in Vietnam lại “lẻn vào được hai truyện
ngắn” của nhân vật “tôi”. Hiện tượng này còn có thể gặp trong Đi tìm nhân vật
của Tạ Duy Anh, Khải huyền muộn của Nguyễn Việt Hà, Blogger của Phong
Điệp nhưng ở hình thức đơn giản hơn. Với kiểu kết cấu này, bạn đọc khó mà
rạch ròi được đâu là câu chuyện nhà văn kể, đâu là câu chuyện được lồng vào.
Việc cố tình tạo nên sự nhập nhằng giữa câu chuyện của nhà văn và câu chuyện
của nhân vật gây khó khăn cho bạn đọc trong việc tiếp nhận tác phẩm, nhưng
mặt khác lại gợi sự tò mò, hứng thú nhất định.
Lắp ghép cũng là một thủ pháp được sử dụng khá rộng rãi. Dấu hiệu của
lắp ghép là sự chuyển đổi đột ngột về nội dung, sự kiện trong những không
gian và thời gian khác nhau. Trong Giã biệt bóng tối, Tạ Duy Anh đã tạo
dựng một kết cấu thật sự lỏng lẻo khiến ta có cảm giác nhìn thấy cả những
đường ghép vô cùng rõ nét; cuốn tiểu thuyết như là tập hợp của những truyện
ngắn được móc nối vào nhau mà cái sườn chung là câu chuyện về một chú bé
mồ côi. Kết cấu trong Blogger của Phong Điệp cũng khá độc đáo, với ba tuyến
truyện được cắt vụn thành nhiều mảnh nhỏ và sắp xếp xen kẽ nhau. Kỹ thuật
cắt dán khiến bạn đọc không cảm thấy nhàm chán khi phải theo dõi cả ba tuyến
truyện, bởi vừa đọc họ vừa phải tự sắp xếp lại các thành phần cốt truyện sao

cho hợp lí. Với sự pha trộn thể loại và lắp ghép trong kết cấu, tiểu thuyết không
chỉ được lạ hóa mà đường biên thể loại cũng mở ra vô tận. Cũng từ đó hiện
thực không hiện lên như một mặt phẳng mà trở nên hỗn độn, đa tầng.
Trong tiểu thuyết hôm nay, như quan niệm của M.Kundera: “Nhân vật
không phải là sự mô phỏng một con người sống thật. Đó là một con người
tưởng tượng, một cái tôi thực nghiệm”. Một đặc điểm nổi rõ ở nhân vật của
tiểu thuyết cách tân theo hướng hiện đại là nó hiện ra như một phức thể, đa
bội và nhiều mâu thuẫn. Nguyễn Bình Phương là một trong những nhà văn
thể hiện rõ nhất sự phức tạp trong thế giới tâm linh, trong tiềm thức, vô thức
của con người. Thậm chí tiềm thức và vô thức đôi khi chiếm vai trò chủ đạo


24
trong việc điều khiển hành vi nhân vật và điểu khiển cả dòng chảy của mạch
tự sự trong tiểu thuyết của nhà văn này.
Các nhà văn còn làm “mờ hóa” chính các nhân vật của mình, thậm chí là
xóa bỏ nhân vật, biến nhân vật thành những kí hiệu, biểu tượng. Khác với tiểu
thuyết truyền thống, các chi tiết như tên tuổi, diện mạo, nghề nghiệp không có
tác dụng để nhận diện nhân vật, bởi chính các nhà văn đã cố ý xóa bỏ tất cả
đường viền nhân thân đó. Nhân vật “em” trong Trí nhớ suy tàn, T. trong T.
mất tích là những trường hợp như vậy. Cùng với việc làm mờ nhân vật, các
nhà văn còn tạo nên những nhân vật biến mất, những nhân vật vắng mặt.
Trong Đi tìm nhân vật của Tạ Duy Anh, “hắn” là nhân vật xuất hiện ở khắp
nơi nhưng chưa bao giờ có mặt bởi hắn “biết tàng hình”. Đến Giã biệt bóng
tối “hắn” trở lại trong hình ảnh của quỷ – kẻ luôn ẩn mình trong bóng tối, đe
dọa cuộc sống của con người. Bên cạnh đó, trong nhân vật còn có sự phân rã
về tính cách. Ở đây không còn những tính cách nổi bật như trong tiểu thuyết
truyền thống mà ở những dòng suy tư đứt nối, những mảnh gép tâm trạng,
những ám ảnh vô thức, những mê – tỉnh trong những trạng huống khác nhau.
Nhân vật như một thực thể lưỡng trị, đa diện. Chính những điều đó đã để lại

nhiều nhân vật có sức ám ảnh lớn.
Trong văn học Việt Nam đương đại, tiểu thuyết thực sự là một bức tranh
nhiều màu sắc và đa dạng về bút pháp. Bút pháp tả thực đã xuất hiện từ lâu
nhưng nó không chỉ được hiểu đơn giản là sự thể hiện một cách trung thành
về hiện thực như trước đây mà từ sau Đổi mới, các nhà tiểu thuyết không
muốn dừng lại là người “thư kí” trung thành mà họ cố gắng soi chiếu hiện
thực từ nhiều góc nhìn khác nhau. Điều quan trọng là bên cạnh thông tin sự
thật, người đọc phải tìm thấy trong thế giới nghệ thuật của nhà văn lượng
thông tin thẩm mĩ phong phú. Bút pháp tả thực còn được kết hợp với nhiều
thủ pháp nghệ thuật khác vì thế mà trở nên hấp dẫn. Điều đó có thể nhìn thấy
qua sáng tác của Ma Văn Kháng, Nguyễn Khắc Trường, Chu Lai, Tô Hoài,…


25
Sử dụng thủ pháp huyền thoại hóa cũng là đặc điểm của nhiều tiểu thuyết
cách tân theo hướng hiện đại. Yếu tố huyền thoại được thể hiện ở việc sáng
tạo những hiện tượng, sự vật kì ảo, siêu nhiên và tập trung nhất ở những nhân
vật kì ảo, có năng lực khác thường, các nhân vật bóng ma, quỷ, linh hồn.
Huyền thoại hóa có thể bằng cách phát triển và làm mới những mẫu gốc, có
thể là những sáng tạo hoàn toàn mới. Trong Cõi người rung chuông tận
thế của Hồ Anh Thái, nhân vật Mai Trừng được xây dựng như là một thiên sứ
có sức mạnh siêu nhiên, trừng phạt cái ác. Nhưng lạ ở chỗ, kẻ ác nhìn thấy cô
đã sợ nhưng những người yêu thương cô lại không thể ở gần cô. Nhân vật này
đã góp phần đắc lực trong việc thể hiện chủ đề tác phẩm: đề cao sức mạnh của
cái thiện trong việc chống lại các ác và chủ trương hóa giải hận thù. Việc sử
dụng bút pháp này không chỉ gia tăng chiều sâu và độ lấp lánh của hình tượng
mà còn có khả năng tăng cường sức mạnh ám chỉ trong tiểu thuyết, góp phần
mở rộng biên độ của các lớp nghĩa trong cấu trúc tác phẩm.
Sự đa dạng hóa điểm nhìn trần thuật và luân phiên thay đổi điểm nhìn
cũng là một đặc điểm cách tân nổi rõ trong nghệ thuật tự sự của các tiểu

thuyết theo hướng hiện đại ở đầu thế kỉ XXI. Khác với tiểu thuyết truyền
thống thường sử dụng điểm nhìn từ một người kể chuyện toàn tri, đáng tin
cậy, tiểu thuyết theo xu hướng hiện đại thường lựa chọn trần thuật từ điểm
nhìn của người kể chuyện không biết hết, thậm chí không đáng tin cậy, hoặc
điểm nhìn từ những con người dị biệt, khác thường. Trong Thiên thần sám
hối là một thai nhi, ở Thoạt kì thủy là một người điên loạn. Trong các tiểu
thuyết còn có sự luân phiên liên tục các điểm nhìn, chẳng hạn trong Phiên
bản, việc luân chuyển các điểm nhìn đã cho bạn đọc thấy được những phiên
bản khác nhau của nhân vật Diệu, cả sự tàn bạo, dã man và cả những ước mơ,
khát vọng trong sáng, thánh thiện…
Nói đến sự cách tân nghệ thuật của tiểu thuyết theo xu hướng hiện đại
không thể bỏ qua phương diện ngôn ngữ và giọng điệu. Đó là việc tạo ra ngôn
ngữ đa thanh, mang tính đối thoại và sự kết hợp của nhiều kênh ngôn ngữ. Đó


×