Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

Cấu trúc mật độ và tỉ lệ thành phần các nhóm chân khớp bé (microathropoda) ở đai cao 800 900m của vưưòn quốc gia xuân sơn, tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (808.09 KB, 47 trang )

Luận văn tốt nghiệp

Trờng ĐHSP H Nội 2

mở đầu

1. Lý do chọn đề tài
Khu hệ động vật đất, trong đó nhóm động vật Chân khớp bé
(Microarthropoda) với kích thớc cơ thể nhỏ bé (từ 0,1-0,2 đến 2-3 mm)
thờng chiếm u thế về số lợng. Microarthropoda ở đất gồm chủ yếu là các
đại diện của Ve bét (Acarina) và Bọ nhảy (Collembola). Ngoài ra, còn có rết
tơ (Myriapoda: Symphyla), côn trùng đuôi nguyên thuỷ, bọ hai đuôi và bọ ba
đuôi (Insecta: Protura, Diplura, Thysanura). Chúng tham gia tích cực vào các
quá trình sinh học của đất, quá trình vận chuyển năng lợng và vật chất, quá
trình làm sạch đất khỏi các ô nhiễm chất thải (hữu cơ và hoá học), chất phóng
xạ. Chúng làm gia tăng độ màu mỡ của đất thông qua các hoạt động sống của
mình [10].
Ve bét và Bọ nhảy đợc đặc biệt quan tâm, bởi chúng rất nhạy cảm với
các sản phẩm hoá chất sử dụng trong sản xuất nông nghiệp, với sự thay đổi
các yếu tố khí hậu môi trờng và tính chất đất, đồng thời là véc tơ lan truyền
nhiều nhóm kí sinh trùng, mầm bệnh và các chất gây ô nhiễm trong môi
trờng đất. Do có số lợng nhiều, nên Ve bét là đối tợng thích hợp cho các
nghiên cứu chỉ thị sinh học điều kiện môi trờng. Hệ sinh thái đất rừng, bao
gồm cả lớp thảm lá phủ và thân cây gỗ mục, thảm rêu quanh thân gỗ, là những
sinh cảnh sống đa dạng và thích hợp cho nhiều nhóm Ve giáp và Chân khớp bé
khác. Do có cấu trúc dinh dỡng phong phú, bao gồm những nhóm chuyên hoá,
phân huỷ và ăn xác cây gỗ mục, phân huỷ cơ học xác mùn thực vật, hay những
nhóm ăn nấm, nên chúng có vai trò quan trọng đảm bảo sự cân bằng trong cấu
trúc hệ vi nấm và vi khuẩn [6, 8, 12].
Trong quá trình hoạt động sống của mình, Bọ nhảy hoàn trả lại cho đất
các nguyên tố nh canxi, cacbon, góp phần thay đổi chất lợng axit mùn,



Nguyễn Đình Hải _K31C

-1-

Khoa Sinh - KTNN


Luận văn tốt nghiệp

Trờng ĐHSP H Nội 2

cải tạo chất lợng đất. Do có kích thớc nhỏ, số lợng lớn, vòng đời ngắn,
sinh sống ở khắp loại hình sinh cảnh, khắp mọi địa hình từ sa mạc đến vùng
băng tuyết, từ Bắc cực đến xích đạo, có độ thích nghi sinh thái cao, phơng
pháp thu bắt dễ dàng nên Bọ nhảy là đối tợng nghiên cứu thích hợp phục vụ
cho việc nghiên cứu về hình thái, sinh thái cá thể và quần thể, là vật chỉ thị
sinh học tốt trong việc đánh giá các tác động yếu tố môi trờng (Kiều Thị
Bích Thuỷ, 1998) [20].
Vờn Quốc gia Xuân Sơn là một trong những địa điểm có tính đa dạng
sinh học cao. Tại đây, môi trờng tự nhiên và thảm thực vật còn giữ đợc khá
tốt. Đã có những nghiên cứu tơng đối đồng đều về khu hệ động thực vật của
vờn nh: Thú, chim, lỡng c, bò sát nhng riêng về khu hệ côn trùng và
động vật Chân khớp bé cha đợc quan tâm [17].
Xuất phát từ những vấn đề trên chúng tôi chọn đề tài: Cấu trúc mật
độ và tỉ lệ thành phần các nhóm Chân khớp bé (Microarthropoda) ở đai cao
800-900 m của vờn Quốc gia Xuân Sơn, tỉnh Phú Thọ.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài: Nhằm cung cấp, bổ sung thêm dẫn liệu mới về cấu
trúc mật độ và tỉ lệ thành phần các nhóm Chân khớp bé (Microarthropoda)

theo tầng phân bố ở đai cao 800-900 m của vờn Quốc gia Xuân Sơn, tỉnh Phú
Thọ.
Mục đích trên của đề tài đợc cụ thể hóa trong những nội dung sau:
1. Nghiên cứu cấu trúc mật độ và tỉ lệ thành phần của quần xã Chân
khớp bé (Microarthropoda) bao gồm 2 nhóm chủ yếu là Acarina và
Collembola ở 3 tầng phân bố: tầng rêu, thảm lá và tầng đất (0-10 cm).
2. Nghiên cứu cấu trúc mật độ và tỉ lệ thành phần các nhóm phân loại
của Acarina và Collembola ở 3 tầng phân bố nêu trên.

Nguyễn Đình Hải _K31C

-2-

Khoa Sinh - KTNN


Luận văn tốt nghiệp

Trờng ĐHSP H Nội 2
Chơng 1
TổNG QUAN TI LIệU

1.1. Tình hình nghiên cứu nhóm động vật Chân khớp bé trên thế giới
Sự phát triển của thực vật có ý nghĩa lớn lao đối với sự tồn tại của đời
sống con ngời và động vật. Trong khi đó, sự phát triển của thực vật lại phụ
thuộc vào dinh dỡng khoáng trong đất mà chủ yếu phụ thuộc vào quá trình
phân huỷ lớp xác thực vật và động vật. Thảm thực vật không chỉ là một kho
chứa dinh dỡng cho cả hệ sinh thái mà còn là thành phần bắt buộc phải có
của hệ sinh thái đó. Độ đa dạng của thảm thực vật quyết định độ đa dạng của
cả phức hệ sinh thái. Quá trình phân hủy chất hữu cơ trong đất bao gồm là xác

thực vật, xác động vật phần lớn phụ thuộc vào hoạt động của động vật đất.
Chính sự hoạt động của hệ động vật đất lại có ảnh hởng quyết định tới độ sâu
của tầng đất thông qua sự tạo độ ẩm, sự khoáng hoá và từ đó ảnh hởng tới độ
thoáng khí, độ thấm của đất. Nh vậy, có thể nói chính hệ động vật đất đã ảnh
hởng quyết định đến thành phần, tính chất của đất và góp phần hoàn thành
chu trình tuần hoàn vật chất trong tự nhiên [10].
Chiếm sinh khối chủ yếu trong đất là nhóm Chân khớp nhỏ mà thành
phần chủ yếu là hai nhóm Collembola và Acarina. Trên thế giới, nhóm động
vật Chân khớp bé đã đợc nghiên cứu và mô tả vào khoảng giữa thế kỉ XVIII.
Nghiên cứu của Krivolutsky (1978) cho thấy ở vùng đất thảo nguyên
của Liên Xô cũ, phức hợp Oribatida thay đổi về thành phần loài và độ phong
phú theo sự phát triển của quá trình trồng rừng, điều này chứng tỏ có sự thay
đổi nhất định điều kiện môi trờng sống ở đất và tầng thảm lá rừng (Vũ
Quang Mạnh, 2004) [10].
Nhóm động vật Collembola là những Chân khớp nguyên thuỷ đã đợc
biết đến cách đây rất lâu. Dạng hoá thạch của chúng thuộc kỷ Dề Von đã đợc

Nguyễn Đình Hải _K31C

-3-

Khoa Sinh - KTNN


Luận văn tốt nghiệp

Trờng ĐHSP H Nội 2

phát hiện tại vùng đầm lầy Thụy Điển có tuổi cách đây 400 triệu năm. Một
dạng hoá thạch khác: Protentomobrya walkeri Folsom, 1937 đợc phát hiện ở

vùng Ban tích vào kỷ Paleozoi. Cả hai dạng này đều thuộc về những họ ngày
nay [21]. Nhiều công trình đã tìm hiểu sự thích nghi của Collembola với thành
phần không khí và tính chất hoá học của nơi c trú. Giống nh các động vật
sống c trú trong phân động vật và phần thực vật bị thối rữa, nhiều loài
Collembola bền vững với nồng độ cao của một số khí độc và hàng loạt
Collembola sống trong đất nhiễm mặn nặng hay vùng triều. Những
Collembola trởng thành ăn nấm, tảo, vi khuẩn, các vụn thực vật thối rữa,
thậm chí có trờng hợp chúng ăn thịt lẫn nhau (dẫn theo Kiều Thị Bích Thuỷ,
1998) [20].
Trên thế giới, loài Collembola đầu tiên đợc Linne mô tả vào năm 1758
tại Thụy Điển và sau đó là hàng loạt các công trình nghiên cứu về khu hệ
Collembola ở các địa điểm khác nhau thuộc các khu vực khác nhau của các
châu lục ra đời bởi các tác giả nh: Muller 1876; Templeton 1835; Boheman
1865; Brause 1869; Labbok 1898; Schaffer 1899 (Nguyễn Trí Tiến, 1995)
[21].
Cho đến nay, công trình nghiên cứu Khu hệ Collembola Châu Âu của
tác giả Gisin, 1960 và Collembola Ba Lan trong mối liên quan với khu hệ
Collembola thế giới của Stach (1947 - 1963) đợc coi là cơ bản và đầy đủ
nhất (Nguyễn Trí Tiến, 1995) [21].
Nghiên cứu của Chernova (1988) cho thấy về số lợng, nhóm
Collembola chỉ đứng sau Oribatida, chúng có mặt ở khắp nơi trên trái đất, liên
quan tới tất cả các kiểu đất, các kiểu thảm thực vật từ vùng đài nguyên lạnh
giá, đến vùng xích đạo rậm rạp. Kết quả điều tra của Stebaeva (1988) khẳng
định trong mọi trờng hợp, sự phân bố theo chiều thẳng đứng của Bọ nhảy
tơng ứng và chặt chẽ với cấu trúc và chế độ nớc, không khí của đất và rất dễ

Nguyễn Đình Hải _K31C

-4-


Khoa Sinh - KTNN


Luận văn tốt nghiệp

Trờng ĐHSP H Nội 2

bị thay đổi dới ảnh hởng của các nhân tố bất kì. Vì vậy, Collembola có thể
làm chỉ thị chính xác cho điều kiện của đất (Nguyễn Trí Tiến, 1995) [21].
Ngày nay, đã có hơn 7000 loài Collembola đã đợc phát hiện và ngày
càng có thêm nhiều loài mới đợc bổ sung. Nhiều nhà khoa học nớc ngoài đã
tập trung đi sâu vào nghiên cứu sinh thái, sinh học, khu hệ Collembola.
1.2. Tình hình nghiên cứu nhóm động vật Chân khớp bé ở Việt Nam
Động vật Chân khớp bé ở Việt Nam đã đợc bớc đầu nghiên cứu từ
những năm 30 của thế kỷ XX, ban đầu chỉ là những nghiên cứu lẻ tẻ của các
tác giả nớc ngoài khi kết hợp với các nhóm sinh vật khác. Sau này chúng
đợc nghiên cứu kỹ và có rộng hơn ở nhiều kiểu sinh cảnh khác nhau bởi
nhóm một số tác giả trong nớc. Nhiều kết quả nghiên cứu về Ve bét, Bọ nhảy
Việt Nam đã đợc công bố ở một số hội nghị, hội thảo trong nớc và quốc tế
cũng nh trên các tạp chí chuyên ngành.
Gần đây, đã có các nghiên cứu về cấu trúc nhóm Microarthropoda theo
các sinh cảnh, các đai cao khí hậu, theo các tầng thẳng đứng trong đất (Vũ
Quang Mạnh 1982, 1989, 1990, 1993; Vơng Thị Hòa 1996; Vũ Quang
Mạnh, Vơng Thị Hoà, Nguyễn Trí Tiến, Đỗ Huy Trình 2002; Hà Hoài Nam
2003; Nguyễn Trọng Năm 2003; Vũ Quang Mạnh, Nguyễn Xuân Lâm, Khiếu
Thị Nhàn 2005; Đào Duy Trinh 2006) [3, 5, 6, 7, 8, 16, 18, 19, 27].
Vũ Quang Mạnh (1990) đã tổng kết tất cả các công trình nghiên cứu về
Microarthropoda ở Việt Nam cho đến thời điểm đó. Tác giả rút ra kết luận về
thành phần, đặc điểm phân bố và số lợng Microarthropoda, nêu một số quy
luật sinh thái quyết định sự hình thành cấu trúc định tính và định lợng của

quần xã Oribatida ở đất. Đồng thời tác giả dẫn ra danh sách 117 loài Oribatida
đã biết ở Việt Nam, cùng đặc điểm phân bố của chúng theo vùng địa lý, loại
đất và hệ sinh thái [7].
Năm 1967, lần đầu tiên trong công trình New Oribatids from Viet
Nam, hai tác giả Hungari là J. Balogh và S. Mahunka đã giới thiệu khu hệ,

Nguyễn Đình Hải _K31C

-5-

Khoa Sinh - KTNN


Luận văn tốt nghiệp

Trờng ĐHSP H Nội 2

danh pháp học và đặc điểm phân bố của 33 loài Ve giáp, trong đó đã mô tả tới
29 loài và 4 giống mới cho khoa học. Tiếp theo đó là khu hệ Ve giáp của Việt
Nam đã đợc các tác giả nớc ngoài nh: Tiệp Khắc (trớc đây), Liên Xô
(cũ), Bungari, Canada, Tây Ban Nha, Ukaraina và Nhật Bản nghiên cứu [29,
30, 31, 32].
Vũ Quang Mạnh (1994) giới thiệu danh sách gồm 28 loài Oribatida
sống ở đất vùng ven biển Yên Hng (Quảng Ninh), đảo Cát Bà (Hải Phòng) và
đồng bằng Sông Hồng (Từ Liêm - Hà Nội) cùng phân bố của chúng theo sinh
cảnh, theo độ cao so với mặt nớc biển, trong đó tác giả nêu mối liên hệ giữa
Oribatida vùng đảo Cát Bà, vùng ven biển với Oribatida ở sâu trong đất liền
[9].
Vũ Quang Mạnh, Vơng Thị Hoà (2002) có nhận xét cấu trúc quần xã
Ve giáp ở hệ sinh thái đất có liên quan rõ rệt với sự suy giảm của cây gỗ rừng.

Nó có thể đợc xem xét và đánh giá nh một đặc điểm sinh học, chỉ thị quá
trình diễn thế của thảm rừng Tam Đảo nói riêng và của Việt Nam nói chung.
Mặt khác có sự thay đổi đặc điểm đa dạng thành phần loài của quần xã Ve
giáp theo chiều thẳng đứng, từ thảm rêu quanh thân cây và vụn thực vật, nằm
trên mặt đất từ 0+100 cm, cho đến lớp thảm lá rừng phủ trên mặt đất, lớp đất
mặt 0-10 cm và lớp đất sâu 11-20 cm ở hệ sinh thái rừng Tam Đảo. Chỉ số này
có thể đợc xem xét nh một yếu tố chỉ thị sinh học các diễn thế ở hệ sinh thái
rừng Việt Nam [12].
Năm 2004, Vũ Quang Mạnh, Nguyễn Xuân Lâm nghiên cứu quần xã
động vật chân khớp bé ở các đai cao của vờn quốc gia Tam Đảo, không phát
hiện sự khác biệt đáng kể trong cấu trúc nhóm, trong phân bố thẳng đứng của
nhóm Microarthropoda và của Acarina. Khi nghiên cứu về đai cao khí hậu của
hệ sinh thái đất rừng, phát hiện thấy sự khác biệt về mật độ quần xã
Microarthropoda và Acarina. Mật độ của Acarina đạt lớn nhất ở hệ sinh thái

Nguyễn Đình Hải _K31C

-6-

Khoa Sinh - KTNN


Luận văn tốt nghiệp

Trờng ĐHSP H Nội 2

rừng của đai cao 900 m, còn ở đai cao 1300 m và 450 m, số lợng cá thể đồng
đều [13].
Vũ Quang Mạnh, Nguyễn Xuân Lâm (2005) nghiên cứu đặc trng phân
bố và tính chất địa động vật của khu hệ Ve giáp (Acarina: Oribatida) ở Việt

Nam. Khu hệ này hiện biết với 158 loài, thuộc 46 họ, mang tính chất ấn ĐộMã Lai và thuộc vùng địa động vật đông phơng. Khu hệ có nhiều động vật
chung với khu hệ Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia, Philipin, cùng Nhật Bản và
các đảo vùng nam Thái Bình Dơng. Khu hệ Ve giáp Việt Nam có tính
chuyên biệt cao, với 76 loài (chiếm 48,10%) chỉ mới phát hiện ở riêng lãnh
thổ Việt Nam. Tại một số vùng núi phía bắc khu hệ động vật Ve giáp đã gặp
một số yếu tố động vật Cổ Bắc, thuộc các giống Nothrus C.L. Koch, 1836;
Metabelba Grandjean, 1956; Tectocepheus Berlese, 1913; Oppia C.L. Kock,
1836; Xylobates Jacot, 1929; Scheloribates Berlese, 1908; Orbatella Bank,
1895; Achipteria Berlese, 1885 và Galumna Heyden, 1826 [14].
Năm 1994 - 1997, khi điều tra tác động của thuốc trừ sâu (Vofatox,
Moniror, Padan...) đợc sử dụng trong sản xuất nông nghiệp ở vùng trồng rau,
cây cảnh thuộc Đông Anh, Thanh Trì, Từ Liêm (Hà Nội), Thờng Tín (Hà
Tây), Nguyễn Trí Tiến (2000) đã nhận thấy tác động của các hóa chất bảo vệ
thực vật nói chung (trong đó có thuốc trừ sâu và diệt cỏ), đặc biệt là nhóm lân
hữu cơ, cacbonat đã làm giảm số lợng loài, giảm tính đa dạng của Bọ nhảy
nói riêng và khu hệ động vật không xơng sống nói chung, khi so sánh đối
chứng. Thuốc trừ sâu thể hiện những mức độ tác động khác nhau đến động vật
đất: nếu phun ở nồng độ thích hợp (0,02%) thì thuốc có tác dụng kích thích sự
phát triển của một số nhóm Bọ nhảy và Chân khớp khác. Trong trờng hợp
ngợc lại, thuốc sẽ gây tác động xấu tiêu diệt nhiều loài mẫn cảm vốn là
những loài có số lợng ít nhng tham gia quyết định vào độ đa dạng của quần
xã. Đồng thời làm xáo trộn cấu trúc nội tại, làm thay đổi tỉ lệ thành phần
nhóm, làm thay đổi cấu trúc u thế... (Vũ Quang Mạnh, 2004) [10].

Nguyễn Đình Hải _K31C

-7-

Khoa Sinh - KTNN



Luận văn tốt nghiệp

Trờng ĐHSP H Nội 2

Trong thời gian từ 1998 - 2005, Nguyễn Trí Tiến đã mô tả và công bố
28 loài Bọ nhảy mới cho khoa học đã bổ sung thêm hàng trăm loài cho khu hệ
Collembola ở Việt Nam.
Nguyễn Trí Tiến (2003) khi nghiên cứu đánh giá ảnh hởng của phân
bón với công thức khác nhau đến nhóm Bọ nhảy ở đất bạc màu (Hiệp Hòa,
Bắc Giang) đã ghi nhận đợc có 44 loài Bọ nhảy thuộc 27 giống, 12 họ. Bọ
nhảy phân bố tơng đối đồng đều ở cả 2 độ sâu đất (0-10cm và 11-20cm). Mật
độ trung bình (con/m2) Bọ nhảy dao động từ 26570 con/m2 đến 30000 con/m2
có 5 loài Bọ nhảy có khả năng sống thích hợp trong đất bạc màu là: L.
punctiferus, X. humicola, C. thermophilus, S. bothrium và B. parvula. Trên
đất bạc màu, khi đất đợc đầu t các loại phân bón và sản phẩm phụ nói
chung đều làm tăng số lợng loài, mật độ và thay đổi sự phân bố của Bọ nhảy
theo độ sâu đất, thay đổi các nhóm loài u thế và phổ biến [22].
ảnh hởng của phân bón vi sinh đến sự đa dạng của động vật đất đã
đợc Nguyễn Trí Tiến và cộng sự điều tra ở vùng trồng chuyên canh rau Gia
Xuyên, Gia Lộc, Hải Dơng (2004-2006), ở vùng chuyên trồng lúa của 5
huyện (Nam Định) (2005-2007), ở đất trồng đậu tơng xã Bảo Hiệu, Yên
Thủy (Hòa Bình) (2004-2005) của Phạm Đức Tiến cùng cộng sự cũng đi đến
kết luận: phân bón vi sinh có tác động tích cực tới hệ sinh vật đất, tới Bọ nhảy,
làm số lợng loài a thích với loại phân này gia tăng số lợng (Gia Xuyên,
Bảo Hiệu), nhng mặt khác thì phân vi sinh và cách chăm sóc cây trồng theo
IBM cũng làm giảm tính đa dạng loài, giảm tính đồng đều của cả quần xã
(Bảo Hiệu). (Nguyễn Trí Tiến, Nguyễn Thị Thu Anh, 2006; 2008; Nguyễn Trí
Tiến và cộng sự, 2007; Phạm Đức Tiến cùng cộng sự, 2007) [23, 24, 25, 26].
Nhìn chung trong những năm gần đây, Chân khớp bé đã đợc điều tra

nghiên cứu ở nhiều địa phơng trong cả nớc, các địa điểm nghiên cứu thuộc
nhiều hệ sinh thái khác nhau, tập trung chủ yếu vào các vờn Quốc gia, khu
bảo tồn thiên nhiên. Tuy nhiên, do đặc điểm c trú phân tán, gắn bó chặt chẽ

Nguyễn Đình Hải _K31C

-8-

Khoa Sinh - KTNN


Luận văn tốt nghiệp

Trờng ĐHSP H Nội 2

với điều kiện sinh thái của nơi sống cụ thể, nên việc điều tra nghiên cứu về
khu hệ, sinh thái của nhóm này cần đợc tiến hành liên tục, rộng khắp nhằm
ngày càng đợc bổ sung đầy đủ hơn những dẫn liệu mới về thành phần loài
cũng nh đặc điểm c trú của chúng, mở ra khả năng khai thác những mặt lợi
ích từ chúng phục vụ cho khoa học và thực tiễn.

Nguyễn Đình Hải _K31C

-9-

Khoa Sinh - KTNN


Luận văn tốt nghiệp


Trờng ĐHSP H Nội 2
Chơng 2

Đối tợng, thời gian, địa điểm
v phơng pháp nghiên cứu

2.1.

Đối tợng nghiên cứu
Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu về nhóm động vật Chân khớp bé

(Microarthropoda ) ở đất thuộc Vờn quốc gia Xuân Sơn, tỉnh Phú Thọ, trong
đó phân tích chủ yếu là các đại diện thuộc 2 nhóm:
Nhóm Ve bét (Acarina) thuộc lớp Hình nhện (Arachnida), phân ngành
Có kìm (Chelicerata), ngành Chân khớp (Arthropoda) gồm các nhóm phân
loại nhỏ sau: Oribatida, Gamasina, Uropodina, Acarina khác.
Nhóm Bọ nhảy (Collembola) thuộc phân lớp Sâu bọ hàm ẩn
(Entognatha), lớp Sâu bọ (Insecta), phân ngành Có ống khí (Tracheata), ngành
Chân khớp (Arthropoda) gồm các nhóm phân loại nhỏ sau: Poduromorpha,
Entomobryomorpha, Symphypleona.
2.2.

Địa điểm nghiên cứu
Căn cứ vào những đặc điểm về vị trí địa lý, địa hình của vờn Quốc gia

Xuân Sơn, chúng tôi đã tiến hành thu mẫu tại đai cao 800-900 m: Yếu tố khí
hậu của vùng này có đặc điểm nhiệt đới ẩm gió mùa với mùa hè thờng nóng
ẩm, ma nhiều còn mùa đông ma ít và lạnh do ảnh hởng của gió mùa Đông
Bắc, vì thế chu kỳ mùa về nhiệt độ và độ ẩm thể hiện tơng đối rõ rệt. Sự phân
hoá độ cao cũng ảnh hởng sâu sắc đến tính chất thổ nhỡng, khí hậu và quyết

định sự khác biệt trong cấu trúc hệ thực bì của đai cao địa lý này [4, 17].

Nguyễn Đình Hải _K31C

- 10 -

Khoa Sinh - KTNN


Luận văn tốt nghiệp

Trờng ĐHSP H Nội 2

Hình 1: Địa điểm thu mẫu đai cao 800-900m đỉnh núi Ten
2.3.

Thời gian nghiên cứu.
Chúng tôi đã tiến hành thu 3 đợt mẫu từ tháng 11 năm 2007 đến tháng 9

năm 2008. Tất cả các mẫu đợc thu sau khi đã khảo sát môi trờng, chọn địa
điểm thu mẫu và thu theo phơng pháp chuẩn của Ghilarov, 1975 [2].
Mẫu sau khi thu đều đợc xử lý và phân tích đồng bộ. Mẫu đất đợc lọc
và tách Microarthropoda tại phòng thí nghiệm bộ môn Động vật của trờng
Đại Học S Phạm Hà Nội 2.
2.4. Phơng pháp nghiên cứu.
Mẫu định lợng của Chân khớp bé đợc thu ở 3 tầng phân bố: tầng rêu,
tầng thảm lá và tầng đất của sinh cảnh rừng tự nhiên thuộc đai cao địa lý 800 900 m.

Nguyễn Đình Hải _K31C


- 11 -

Khoa Sinh - KTNN


Luận văn tốt nghiệp

Trờng ĐHSP H Nội 2

2.4.1. Thu mẫu định lợng ở đất, thảm lá và rêu
Mẫu đất định lợng đợc lấy ở độ sâu 0-10 cm (kí hiệu 0-10). Kích
thớc của mỗi mẫu thu là 5x5x10 cm. Mẫu đất đợc thu bằng hộp sắt có diện
tích bề mặt cắt tơng ứng 25 cm2.
Đối với thảm lá rừng phủ trên mặt đất (ký hiệu 0), mẫu định lợng là tất
cả lá mục, cành cây, xác hữu cơ phủ trên mặt đất có diện tích 20cm x 20cm.
Đối với các mẫu là thảm rêu bám trên thân cây gỗ rừng, xác vụn thực
vật ở trên mặt đất nằm ở độ cao từ 0 + 100 cm trên mặt đất (ký hiệu 0+100),
mẫu định lợng là số lợng rêu thu gom trung bình từ 250 gr đến 500 gr/mẫu.
Tất cả các mẫu sau khi thu đợc ở thực địa đều đợc cho ngay vào túi
nilon riêng, bên trong có nhãn, ghi những thông số cần thiết (ngày, tháng lấy
mẫu, sinh cảnh, tầng phân bố) rồi buộc chặt lại. Các mẫu thu đợc trong
cùng một tầng đợc để vào một túi nilon to, để khỏi lẫn và đỡ mất thời gian
khi tách lọc.
Cả 3 loại mẫu: tầng đất, thảm lá, tầng rêu đều đợc thu nhắc lại 5 lần
cho mỗi đợt điều tra.
2.4.2. Tách lọc mẫu động vật chân khớp bé
Nhóm Chân khớp bé đợc tách ra khỏi đất theo phơng pháp phễu lọc
Berlese- Tullgren, dựa theo tập tính hớng đất dơng và hớng sáng âm của
động vật đất. Mẫu đất trong phễu lọc sẽ khô dần, sau đó Microarthropoda chui
sâu dần xuống lớp đất phía dới, qua lới lọc và rơi xuống đáy phễu, vào ống

nghiệm có đựng dung dịch định hình là formol 4%.
Các phễu lọc Berlese- Tullgren có cấu tạo nh sau: Phễu đợc làm
bằng thuỷ tinh hoặc giấy cứng, có chiều cao 30 cm, đờng kính miệng 20 cm,
đờng kính vòi 1,5 cm. Bộ đợc đặt trên giá gỗ, vòi phễu gắn với ống nghiệm
chứa dung dịch formon 4% bên trong có etiket ghi giống nhãn túi nilon. Mẫu
đất đặt trong các rây lọc hình trụ, có lới lọc bằng nilon, đờng kính lỗ dới
1x1mm, đờng kính rây lọc 15 cm với thành bằng kim loại cao 5 cm. Trớc
khi đặt mẫu vào rây, đất hay xác thực vật đợc bẻ nhỏ, vụn và rải đều trên mặt
lới, phần đất hoặc lá vụn lọt qua lỗ lới sẽ đợc đổ trở lại sau khi đặt rây vào

Nguyễn Đình Hải _K31C

- 12 -

Khoa Sinh - KTNN


Luận văn tốt nghiệp

Trờng ĐHSP H Nội 2

phễu. Các mẫu đợc lọc liên tục trong 7 ngày đêm trong điều kiện phòng thí
nghiệm [6].
Sau thời gian lọc, chúng tôi dùng dây chun bó các ống nghiệm đã đợc
nút bông có cùng tầng phân bố với nhau, rồi lần lợt đặt vào bình miệng rộng
có chứa dung dịch formon 4% để khi tiến hành phân tích thì các mẫu không bị
nhầm lẫn và hỏng.
2.4.3. Phân tích mẫu động vật Chân khớp bé và xử lí số liệu
Để có thể phân tích và tính đếm số lợng các mẫu động vật Chân khớp
bé, chúng tôi đặt giấy lọc có chia ô lên phễu thuỷ tinh, rồi đổ riêng mỗi ống

nghiệm đã thu mẫu lên trên giấy lọc. Sau khi đã lọc hết nớc, đặt tờ giấy lọc
có chứa các động vật vào hộp lồng Petri để phân tích dới kính lúp 2 mắt.
Dùng kim nhặt riêng từng nhóm phân loại và tính đếm số lợng, đối với Ve
bét và Bọ nhảy chúng tôi chỉ tách riêng thành các nhóm sau:
Ve bét: Tách thành 4 nhóm chính bao gồm: Oribatida, Gamasina,
Uropodina và các Acarina khác.
Bọ nhảy: Tách thành 3 nhóm chính bao gồm: Poduromorpha,
Entomobryomorpha, Symphypleona.
Mỗi ống nghiệm đựng mẫu đều có nhãn ghi lại các thông số cần thiết
và nút bằng bông không thấm nớc. Để giữ mẫu đợc lâu không bị giòn, nát
cần bổ sung vào dung dịch định hình một vài giọt Glixerin.
Tất cả các mẫu đã phân tích, sau khi đợc Ths. Đào Duy Trinh kiểm tra,
sẽ đợc cho vào ống nghiệm nhỏ chứa dung dịch định hình trong có nhãn ghi
địa điểm, thời gian, sinh cảnh, tầng phân bố rồi nút bằng nút bông không thấm
nớc.
Số liệu trong phần kết quả nghiên cứu, đợc qui đổi ra: số lợng cá
thể/1m2 thảm lá hay 1m2 đất và số lợng cá thể/1kg rêu.
2.5. Vị trí phân loại, một vài nét về đặc điểm sinh học và dấu hiệu chuẩn
loại Bọ nhảy (Collembola)
- Vị trí phân loại (theo Thái Trần Bái, 2001) [1]:

Nguyễn Đình Hải _K31C

- 13 -

Khoa Sinh - KTNN


Luận văn tốt nghiệp


Trờng ĐHSP H Nội 2

Bọ nhảy (Collembola) thuộc: Phân giới động vật đa bào (Metazoa)
Động vật đa bào chính thức (Eumetazoa)
Động vật có miệng nguyên sinh (Protostomia)
Ngành Chân khớp (Arthropoda)
Phân ngành Có ống khí (Tracheata)
Lớp Sâu bọ (Insecta)
Phân lớp Sâu bọ hàm ẩn (Entognatha).
- Vài nét về đặc điểm sinh học của Bọ nhảy (Collembola) (theo Nguyễn
Trí Tiến, 1995) [21]:
+ Kích thớc và hình thái ngoài: Đa số Bọ nhảy có kích thớc khoảng
0,3-8 mm chiều dài thân. Có một số đại diện có chiều dài đến 5-9 mm
(Morulila, Tomocerus) và một số loài khác có kích thớc rất nhỏ 0,2-0,7
mm (Neelidae). Cơ thể chia 3 phần: đầu, 3 đốt ngực và 6 đốt bụng. Đầu có cơ
quan thụ cảm ở đốt râu thứ 3 và ở gốc râu, trớc vết mắt, 3 đốt ngực mang 3
đôi chân. Đốt ngực 1 mang phần phụ (gọi là ống bụng). Phần phụ ở đốt bụng
3 là quai móc (gồm một số răng và một lông ở gốc), đốt bụng 4 mang chạc
nhảy (cơ quan giúp Bọ nhảy vận động).
+ Về sinh học: Bọ nhảy là nhóm động vật còn mang một số đặc điểm
nguyên thủy, thể hiện ở thụ tinh ngoài, không có sự giao phối bên trong cơ
thể. Trứng Bọ nhảy rất nhạy cảm với sự khô hanh. Đờng kính từ 0,15 - 0,3
mm. Bọ nhảy lột xác ở tất cả các tuổi của giai đoạn trởng thành. Số lần lột
xác rất lớn, ở một số loài tới 50 lần. Sự phát triển từ lúc nở đến lúc chết của Bọ
nhảy chỉ phân biệt ở 2 giai đoạn: giai đoạn non (từ lúc trứng nở đến khi thành
thục sinh dục), giai đoạn trởng thành (từ lúc thành thục sinh dục đến cuối
đời).
- Đặc điểm chuẩn loại: những đặc điểm hình thái chính đợc sử dụng
trong định loại Bọ nhảy: hình dạng cơ thể, sự phân chia các đốt, hình dạng lớp
vỏ da, sự có mặt và cách sắp xếp mắt giả trên thân. Dạng vảy, lông và sự có

mặt của chúng trên một số phần của cơ thể.

Nguyễn Đình Hải _K31C

- 14 -

Khoa Sinh - KTNN


Luận văn tốt nghiệp

Trờng ĐHSP H Nội 2

- Để phân biệt Bọ nhảy với các đại diện chân khớp khác, chủ yếu dựa vào
một số đặc điểm:
+ Kích thớc: thờng từ 0,3-3 mm.
+ Hình dạng: Phân biệt đầu, ngực, bụng. Bụng gồm 6 đốt. Phần kết thúc
thân thờng có lông dạng gai nhọn, chạc nhảy ngắn hoặc dài. Có đủ 3 cặp
chân ở phần ngực. Thân thờng phủ lông hay vảy. Không có cánh, giữa ngực
và bụng không thắt lại. Râu thẳng, có từ 4-6 đốt.
2.6. Vị trí phân loại, hình thái chung, đặc điểm để phân biệt các nhóm
Ve, bét với các nhóm khác của lớp Hình nhện (Arachnida) và đặc điểm
phân biệt các nhóm Ve, bét chính (Oribatida, Gamasina, Uropodina và
Acarina khác)
- Vị trí phân loại (theo Vũ Quang Mạnh, 2004) [10]:
Ve bét (Acarina) thuộc: Ngành Chân khớp (Arthropoda)
Phân ngành Có kìm (Chelicerata)
Lớp Hình nhện (Arachnida)
- Hình thái chung của Ve, bét (Acarina):
+ ở đa số đại diện, thân nối liền thành một khối, không tách thành các

phần riêng biệt. Tuy nhiên, ở một số đại diện khác phần ngực và phần bụng
dính liền thành một khối, phần đầu tách riêng khỏi thân.
+ Thân có chân xúc giác (Pedipaldi) tơng đối ngắn. Đầu mang 2 đôi
phần phụ (kìm và chân xúc giác), tách riêng khỏi cơ thể. Đốt bàn chân có lông
cứng hoặc mềm, phân biệt rõ ràng.
- Đặc điểm chính để phân biệt Ve, bét (Acarina) với các nhóm khác của
lớp Hình nhện (Arachnida):
+ Các đốt liền nhau, không có ranh giới. Nếu có sự phân đốt thì nó không
tơng ứng với các đốt thân.
+ Phần trớc cơ thể (Gnathosoma) rất linh hoạt, gồm có đôi kìm và đôi
chân xúc giác.
+ Từ trứng nở ra ấu trùng có 6 đốt rồi thành ấu trùng 8 đốt.

Nguyễn Đình Hải _K31C

- 15 -

Khoa Sinh - KTNN


Luận văn tốt nghiệp

Trờng ĐHSP H Nội 2

- Đặc điểm phân biệt các nhóm Ve, bét chính: Oribatida, Gamasina,
Uropodina và Acarina khác.
+ Nhóm Oribatida (Crytostigmata): Vỏ cơ thể chuyển thành cứng hoặc
tạo thành vỏ bọc cứng. Có đôi lông đặc biệt trớc cơ thể (gọi là Trichobotri).
Không có gai cứng ở đốt bàn chân, cơ thể thờng sẫm màu.
+ Nhóm Gamasina: Vỏ cơ thể mềm, thờng không có màu sắc, có 4 cặp

chân dài, có 1 đôi lỗ thở nằm giữa cơ thể, 1 đôi lỗ thở nằm giữa gốc chân 2 và
3. Cơ thể có hình Ovan.
+ Nhóm Uropodina: Vỏ cơ thể mềm, hình dạng thân dẹp theo hớng lng
bụng. Cơ thể có dạng hình đĩa bay hay hình con rùa.
+ Nhóm Acarina khác: tất cả các dạng Ve, bét khác còn lại, ngoài 3
nhóm trên (O, G, U) chúng tôi xếp chung vào nhóm này.

Nguyễn Đình Hải _K31C

- 16 -

Khoa Sinh - KTNN


Luận văn tốt nghiệp

Trờng ĐHSP H Nội 2
CHƯƠNG 3

Vi nét khái quát về điều kiện tự nhiên
khu vực nghiên cứu

3.1. Vị trí địa lý, địa hình và đất đai
Vờn Quốc gia Xuân Sơn có tổng diện tích là: 15048 ha. Trong đó,
phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: 11148 ha, phân khu phục hồi sinh thái: 3000 ha
và 900 ha dành cho phân khu hành chính, dịch vụ (hình 1) [28].
Vờn Quốc gia Xuân Sơn nằm chủ yếu trên địa bàn xã Xuân Sơn, thuộc
huyện Thanh Sơn, của tỉnh Phú Thọ, tiếp giáp với hai tỉnh Hòa Bình và Sơn La.
Có tọa độ địa lý 2105- 21011 vĩ độ Bắc, 104050- 104058 kinh độ Đông.
Vờn Quốc gia Xuân Sơn nằm ở cuối dãy núi Puluông, với khoảng 40%

tổng diện tích đất đai phân bố độ cao trên 700 mét. Phía Tây bắc khu bảo tồn
thiên nhiên là dãy núi Cấm, với đỉnh cao khoảng 1140 mét; còn Tây nam là
dãy núi Voi với hai đỉnh Voi và Ten, tơng ứng cao khoảng 1390 và 1250
mét; dọc Đông bắc là dãy núi đất, nằm cao trung bình 0-700 mét; với hai hệ
thống sông suối chính, là Thang và Chiềng.

Nguyễn Đình Hải _K31C

- 17 -

Khoa Sinh - KTNN


Luận văn tốt nghiệp

Trờng ĐHSP H Nội 2

Hình 1: Vờn Quốc gia Xuân Sơn, Phú Thọ
3.2. Khí hậu
Đặc điểm nổi bật của khí hậu Việt Nam nói chung, của khu vực Đông
Bắc (trong đó có Phú Thọ nói riêng là nóng, ẩm và ma nhiều theo mùa - khí
hậu nhiệt đới ẩm gió mùa. Miền Bắc của Việt Nam có mùa hè nóng, ẩm và lợng
ma lớn, mùa đông ít ma và khá lạnh do chịu ảnh hởng của gió mùa Đông
Bắc, mùa xuân có ma phùn.
Dới đây là các chỉ số khí hậu chính của vờn Quốc gia Xuân Sơn, Phú Thọ
[17, 28]:
Nhiệt độ trung bình hàng năm (0C)

Nguyễn Đình Hải _K31C


- 18 -

22,2

Khoa Sinh - KTNN


Luận văn tốt nghiệp

Trờng ĐHSP H Nội 2

Nhiệt độ thấp tơng đối (0C)

15,3

Lợng ma trung bình (mm)

1826

Độ ẩm trung bình (%)

86

3.3. Tài nguyên thực vật
Rừng nhiệt đới Việt Nam vô cùng đa dạng và phong phú. Đây là một
kho tài nguyên sinh vật quý báu, gìn giữ trong lòng nó một hệ sinh vật vô
cùng phong phú gồm nhiều loài thực vật, động vật quý hiếm trong đó có hệ
động vật đất. Rừng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với môi trờng sống của
con ngời. Vờn Quốc gia Xuân Sơn cũng mang nhiều đặc điểm của rừng
nhiệt đới Việt nam, có rất nhiều thuận lợi cho quá trình phát triển của sinh vật.

Vờn Quốc gia Xuân Sơn tuy có diện tích không lớn, nhng có mức độ
đa dạng cao cả về các kiểu thảm thực vật cũng nh hệ thực vật. Có thể coi đây
là sự thu hẹp của tất cả các vùng thiên nhiên vừa là phổ biến đặc trng, vừa là
độc đáo, đặc sắc chẳng những cho khí hậu nhiệt đới gió mùa Đông Nam ở
châu á mà còn là một trong số rất ít vùng trên thế giới còn giữ lại đợc các
thảm thực vật tự nhiên trên núi đá vôi.
Trên địa bàn vờn Quốc gia Xuân Sơn ta có thể gặp các loại thảm rừng
chính: rừng kín thờng xanh ma mùa nhiệt đới phát triển trên núi thấp, rừng
kín thờng xanh ma mùa á nhiệt đới trên núi cao, rừng lùn, rừng kín thờng
xanh ma mùa phát triển trên núi đá vôi, rừng kín thờng xanh ma mùa nhiệt
đới trên núi trung bình, trảng cây trên núi đá và rừng tre nứa
3.4. Tài nguyên động vật
Vờn Quốc gia Xuân Sơn lu giữ trong nó một hệ động vật tơng đối
phong phú, đa dạng, thờng gặp, với hầu hết đại diện của các lớp động vật,
bao gồm từ động vật không xơng sống đến các động vật có xơng sống thuộc
các nhóm cao trong thang tiến hoá. Tại khu bảo tồn này chúng ta thờng gặp
một số các nhóm động vật chính với các hệ sinh thái chủ đạo sau:

Nguyễn Đình Hải _K31C

- 19 -

Khoa Sinh - KTNN


Luận văn tốt nghiệp

Trờng ĐHSP H Nội 2

Nhóm động vật không xơng sống trong hệ sinh thái thuỷ vực. Động

vật không xơng sống hay gặp là thân mềm nh ốc, trai; giáp xác nh tôm,
cua; giun đốt nh giun nhiều tơ, ít tơ và đỉa; sâu bọ nh phù du, cánh lông,
cánh úp, cánh cứng, hai cá.
Nhóm động vật không xơng sống trong hệ sinh thái đất. Trong các
nhóm động vật không xơng sống đa bào nhỏ trong đất, trớc hết phải kể đến
giun tròn thực vật (Nematoda), là nhóm gây hại thực vật, có thể tập trung đến
hàng triệu cá thể trên 1 mét vuông mặt đất quanh vùng rễ cây. Bên cạnh đó là
rất nhiều loài động vật đất có ích, chúng tham gia vào quá trình tái tạo, hình
thành kết cấu đất làm tăng độ phì nhiêu cho đất, thực hiện quá trình tuần hoàn
vật chất, làm sạch môi trờng đất.
Nhóm động vật không xơng sống ở hệ sinh thái cạn. Đây là nhóm
động vật vô cùng đa dạng gồm rất nhiều loài khác nhau nh châu chấu, cào
cào, dế, cánh nửa nh bọ xít nhiều nhóm cánh cứng và cánh phấn. Đây không
chỉ là những nhóm sâu bọ số lợng nhiều, thành phần loài đa dạng mà còn có
vai trò quan trọng trong việc ăn phá hoại cây xanh, nh lá hoa, củ quả của hệ
sinh thái trên cạn, đồng thời lại là những mắt xích quan trọng trong chuỗi và
lới thức ăn của hệ sinh thái này.
Nhóm động vật có xơng sống trong vờn Quốc gia Xuân sơn cũng rất
đa dạng. Bao gồm nhiều loài khác nhau, thuộc các chi, các họ, các bộ và các
lớp khác nhau.
Lỡng c và bò sát đã thống kê đợc tới 53 loài. Chúng gồm có 23 loài
lỡng c thuộc 7 họ khác nhau nh: Cóc bùn (Pelobatidae), Cóc (Bufonidae),
Nhái bén (Hylidae), ếch (Ranidae), ếch cây (Phacophoridae), Nhái bầu
(Microhylidae) và ếch giun (Coeciliidae). ở đây hiện đã biết đến 30 loài Bò sát
thuộc 11 họ khác nhau nh: Tắc kè (Gekkonidae), Nhông (Agamidae), Thằn lằn

Nguyễn Đình Hải _K31C

- 20 -


Khoa Sinh - KTNN


Luận văn tốt nghiệp

Trờng ĐHSP H Nội 2

bóng (Scincidae), Trăn (Boidae), Rắn nớc (Colubridae), Rắn hổ (Elapidae), Rắn
lục (Viperidae), Rùa đầm (Emydidae) và Ba ba (Trionychidae).
Lớp chim có 168 loài chim của 45 họ, thuộc 15 bộ đó là Hạc, Cắt, Gà,
Sừu, Rẽ, Bồ câu, Vẹt, Cu cu, Cú, Cú muỗi, Yến, Nuốc, Sả, Gõ kiến, Sẻ.
Động vật thuộc lớp Thú có trong vờn Quốc gia này hiện biết tới 61
loài thuộc 24 họ và 8 bộ. Đó là các bộ Nhiều răng, ăn sâu bọ, Tê tê, Dơi, Gậm
nhấm, ăn thịt, Móng guốc ngón chẵn, Linh trởng.
3.5. Điều kiện kinh tế xã hội của khu vực nghiên cứu
Điều kiện kinh tế xã hội, văn hoá và giáo dục của cộng đồng dân c tại
vờn Quốc gia Xuân Sơn rất khó khăn và còn thấp kém. Trong vờn hiện có
tổng số 190 hộ gia đình và có khoảng 1040 ngời sinh sống.
Giáo dục trong khu vực đã đợc chú trọng. Hầu hết các xã có trờng tiểu
học và trờng trung học cơ sở (cấp I và II). Các xóm đều có lớp cắm bản từ
lớp 1 đến 3 hoặc lớp 5. Giáo viên hầu hết là ngời trên địa bàn huyện. Trên
90% học sinh trong độ tuổi tiểu học đợc đến trờng. Tuy nhiên, số học sinh
trong độ tuổi trung học cơ sở chỉ có khoảng 50% đợc đến trờng, và trung
học phổ thông chỉ có 25%.
Hầu hết các phòng học và phòng ở giáo viên đều là nhà tạm, chỉ có
phòng học ở xóm Lấp là mới đợc xây dựng kiên cố.
Nh vậy, với số lợng loài thực vật và động vật rất phong phú và đa
dạng, vờn Quốc gia Xuân Sơn quả là một bảo tàng thiên nhiên vô giá nhng
còn ít đợc khám phá và nghiên cứu. Do đó chúng tôi đã chọn đai cao địa lý
800-900m (thuộc núi Ten) ở vờn Quốc gia Xuân Sơn để nghiên cứu nhóm

động vật chân khớp bé [17, 28].
Theo Vũ Tự Lập (1976), đai cao địa lý 800-900m có các đặc điểm nh
sau:

Nguyễn Đình Hải _K31C

- 21 -

Khoa Sinh - KTNN


Luận văn tốt nghiệp

Trờng ĐHSP H Nội 2

Đai nhiệt đới hơi ẩm đến ẩm ớt trên núi, chuyển tiếp từ nhiệt đới sang
á nhiệt đới. Sự phân hoá về độ cao biểu hiện rất rõ trong ba đai cao địa lý
thuộc vờn Quốc gia Xuân Sơn. Do sự tăng nhanh của bức xạ bớc sóng dài ở
bề mặt đất khiến cho cán cân bức xạ có chiều hớng giảm đi mỗi khi lên cao,
đồng thời cũng do lợng ẩm ở các vùng núi cao tăng lên do có lợng ma lớn
hơn và lợng nớc bốc hơi giảm đi. Sự phân hoá độ cao thành các đai cao địa
lý phụ thuộc chặt chẽ vào độ cao tuyệt đối, vị trí địa lý, hớng núi và chịu ảnh
hởng trực tiếp của chế độ gió. Đai cao địa lý có độ cao 800 900m là đai á
nhiệt đới trên núi có tính chất chuyển tiếp từ đai nhiệt đới chân núi lên đai á
nhiệt đới trên núi. Trong các điều kiện tự nhiên nh thế, hệ sinh vật cũng thể
hiện sự chuyển tiếp từ rừng nhiệt đới sang á nhiệt đới với các họ cây đặc trng
cho rừng á nhiệt đới nh các loài cây thuộc họ Dẻ, họ Long não, Mộc lan, Bồ
đề... Kết cấu tầng tán của rừng thuộc đai cao địa lý này cũng đơn giản hơn so
với đai cao có độ cao thấp hơn. Đất rừng có lợng mùn tăng cao hơn, đồng
thời có tỷ lệ C/N cũng cao hơn. Quần xã động vật trong rừng á nhiệt đới cũng

kém đa dạng và phong phú hơn so với rừng nhiệt đới chân núi thấp. Các loài
động vật nhiệt đới thờng tha thớt [4].

Nguyễn Đình Hải _K31C

- 22 -

Khoa Sinh - KTNN


Luận văn tốt nghiệp

Trờng ĐHSP H Nội 2
Chơng 4
Kết quả nghiên cứu

4.1. Cấu trúc mật độ và tỉ lệ thành phần quần xã Chân khớp bé
(Microarthropoda) ở tầng rêu
4.1.1. Cấu trúc mật độ và tỉ lệ thành phần quần x Chân khớp bé
Bảng 1.1 giới thiệu về cấu trúc mật độ và tỉ lệ thành phần của quần xã
Chân khớp bé ở tầng rêu.
Bảng 1.1. Cấu trúc mật độ và tỉ lệ thành phần của quần xã Chân khớp bé
Chân khớp bé
Tầng
phân bố

Acarina
Mật độ
trung bình


Mật độ
%

(cá thể/kg)
Tầng rêu

419

Tổng

Collembola
trung bình

Mật độ
%

(cá thể/kg)
58

306

trung bình

%

(cá thể/kg)
42

725


100

Qua bảng 1.1 và biểu đồ 1.1, chúng tôi nhận thấy:
- Xét về cấu trúc mật độ: Mật độ trung bình của quần xã Chân khớp bé là
725 cá thể/kg. Trong đó, mật độ trung bình của Acarina là 419 cá thể/kg,
nhiều hơn mật độ trung bình của Collembola (306 cá thể/kg).
- Xét về tỉ lệ thành phần của 2 nhóm: Nhóm Acarina chiếm 58%, nhiều
gấp 1,4 lần so với nhóm Collembola (42%).

Nguyễn Đình Hải _K31C

- 23 -

Khoa Sinh - KTNN


Luận văn tốt nghiệp

Trờng ĐHSP H Nội 2

Biểu đồ 1.1. Tỉ lệ thành phần của 2 nhóm Acarina và Collembola ở
tầng rêu
4.1.2. Cấu trúc mật độ và tỉ lệ thành phần các nhóm phân loại của Acarina
và Collembola
Bảng 1.2 và bảng 1.3 giới thiệu về cấu trúc mật độ và tỉ lệ thành phần
các nhóm phân loại của Acarina và Collembola ở tầng rêu.
Bảng 1.2. Cấu trúc mật độ và tỉ lệ thành phần các
nhóm phân loại của Acarina
Acarina


Tầng
phân
bố
Tầng
rêu

Oribatida

Gamasina

Uropodina

Acarina khác

Tổng

MĐTB

%

MĐTB

%

MĐTB

%

MĐTB


%

MĐTB

%

214

51

70

17

65

15

70

17

419

100

Bảng 1.3. Cấu trúc mật độ và tỉ lệ thành phần các
nhóm phân loại của Collembola
Collembola


Tầng
phân
bố
Tầng
rêu

Poduromorpha

Entomobrymorpha

Symphypleona

Tổng

MĐTB

%

MĐTB

%

MĐTB

%

MĐTB

%


199

65

75

25

32

10

306

100

Chú thích:
MĐTB: Mật độ trung bình (đơn vị: cá thể/kg)

Nguyễn Đình Hải _K31C

- 24 -

Khoa Sinh - KTNN


Luận văn tốt nghiệp

Trờng ĐHSP H Nội 2


Đi sâu vào cấu trúc mật độ và tỉ lệ thành phần các nhóm phân loại của
Acarina và Collembola ở tầng rêu, qua bảng 1.2, 1.3 và biểu đồ 1.2 chúng tôi
nhận thấy:
Đối với nhóm Acarina:
- Xét về cấu trúc mật độ: Mật độ trung bình của Oribatida là cao nhất
(214 cá thể/kg), tiếp đó là Gamasina và Acarina khác có mật độ trung bình
tơng đơng nhau (70 cá thể/kg), cuối cùng là nhóm Uropodina với giá trị mật
độ trung bình thấp nhất (65 cá thể/kg).
-

Xét về tỉ lệ thành phần: Oribatida chiếm u thế hơn cả với 51%, tiếp đó

là Gamasina và Acarina khác với tỉ lệ ngang nhau (17%), cuối cùng là
Uropodina với 15%.
Đối với nhóm Collembola:
- Xét về cấu trúc mật độ: Mật độ trung bình của Poduromorpha là cao
nhất (199 cá thể/kg), sau đó đến Entomobrymorpha (75 cá thể/kg), cuối cùng
là Symphypleona chỉ có 32 cá thể/kg.
- Xét về tỉ lệ thành phần của nhóm thì Poduromorpha chiếm u thế nhất
với 65%, tiếp đó là Entomobrymorpha 25% và cuối cùng là Symphypleona chỉ
chiếm 10%.
Nh vậy, sau khi khảo sát về cấu trúc mật độ và tỉ lệ thành phần nhóm
phân loại của quần xã Chân khớp bé ở tầng rêu chúng tôi nhận thấy: Đối với
nhóm Acarina thì Oribatida chiếm u thế nhất cả về mật độ trung bình và tỉ lệ
thành phần, còn Uropodina có mật độ trung bình và tỉ lệ thành phần thấp nhất.
Đối với nhóm Collembola thì Poduromorpha có giá trị cao nhất cả về mật độ
trung bình và tỉ lệ thành phần, Symphypleona có giá trị mật độ trung bình và tỉ
lệ thành phần thấp nhất.

Nguyễn Đình Hải _K31C


- 25 -

Khoa Sinh - KTNN


×