Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Hiệu quả nghệ thuật của biện pháp quy định trong thơ hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (611.14 KB, 57 trang )

Khãa luËn tèt nghiÖp

Sv: Trần Thị Phương

1

K32B Ngữ văn


Khãa luËn tèt nghiÖp

Sv: Trần Thị Phương

2

K32B Ngữ văn


Khãa luËn tèt nghiÖp

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Nghiên cứu văn bản dưới góc độ ngôn ngữ, trong cuốn “Làm văn”
(tập 1), hai tác giả Lê A và Đình Cao đã viết: “Văn bản là một hệ thống
gồm một chuỗi câu được sắp xếp theo hình tuyến và được tổ chức chặt
chẽ, trong đó mỗi câu là một đơn vị liên kết của văn bản. Các đơn vị của
văn bản tổ hợp gắn bó với nhau tạo thành một cấu trúc hoàn chỉnh nhằm
thực hiện ý đồ giao tiếp chung”.
Nếu ở lĩnh vực “Ngữ pháp văn bản”, văn bản được nghiên cứu
như một sản phẩm đã hình thành thì ở lĩnh vực “Phong cách học”, văn
bản được nghiên cứu với tư cách là một “phương tiện ngôn ngữ”, được sử


dụng nhằm mục đích tu từ. Tác giả Đinh Trọng Lạc đã khẳng định: “Văn
bản với tư cách là sản phẩm của hoạt động lời nói, không phải là một
chuỗi câu hoặc đoạn văn được tạo lập ra một cách tuỳ tiện mà là một thể
thống nhất toàn vẹn được xây dựng theo những quy tắc nhất định” [3,7].
Dựa vào những cách thức phối hợp sử dụng các mảnh đoạn của
văn bản, căn cứ vào tính chất của kiểu quan hệ tồn tại giữa các bộ phận
văn bản, tác giả Đinh Trọng Lạc đưa ra ba biện pháp tu từ văn bản: biện
pháp quy định, biện pháp hoà hợp, biện pháp tương phản.
Việc nghiên cứu lý thuyết chung về văn bản ở góc độ phong cách
học là một điều rất mới mẻ mà tác giả Đinh Trọng Lạc là người đặt nền
móng cho một chuyên ngành khoa học ngôn ngữ mới và đầy triển vọng.
Chính vì vậy, trong phạm vi khoá luận này, chúng tôi xin được vận dụng
lý thuyết phong cách học văn bản của tác giả Đinh Trọng Lạc để đi sâu
tìm hiểu hiệu quả nghệ thuật của việc sử dụng biện pháp quy định trong
thơ Hồ Chí Minh. Chúng tôi hy vọng khoá luận này sẽ đóng góp một
Sv: Trần Thị Phương

3

K32B Ngữ văn


Khãa luËn tèt nghiÖp
phần nhỏ vào việc tìm hiểu và khẳng định một vấn đề lý thuyết về phong
cách học.
1.2 Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam,
không chỉ là một nhà yêu nước vĩ đại, một nhà chính trị tài ba, một nhà
ngoại giao kiệt xuất, một nhà quân sự thiên tài mà còn là một nhà văn,
nhà thơ lớn với phong cách nghệ thuật riêng. Suốt cuộc đời cống hiến và
hi sinh quên mình, Bác đã để lại cho dân tộc những di sản văn hoá cao

đẹp trong đó các tác phẩm văn chương nghệ thuật giữ một vị trí quan
trọng. Xuyên suốt những trang thơ của Người, chúng ta bắt gặp sự kết
hợp hài hoà tạo nên vẻ đẹp lấp lánh giữa chất thép và chất tình, giữa thi sĩ
và chiến sĩ. Biện pháp quy định được Bác sử dụng linh hoạt, sáng tạo có
vai trò đặc biệt giúp tạo nên vẻ đẹp ấy.
Từ ý nghĩa khoa học và thực tiễn nêu trên, chúng tôi lựa chọn
nghiên cứu đề tài “Hiệu quả nghệ thuật của biện pháp quy định trong
thơ Hồ Chí Minh” để góp phần hiểu sâu thêm về vẻ đẹp tâm hồn cũng
như phong cách nghệ thuật của Người đồng thời thấy được tác dụng to
lớn của biện pháp quy định đối với thơ Bác.
2. Lịch sử vấn đề
2.1 Nghiên cứu từ góc độ văn học
Cho đến nay đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu về thơ
văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh
2.1.1 Cuốn “Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhà thơ lớn của dân tộc Việt
Nam”, NXB Văn hoá thông tin, 2000, tập hợp, tuyển chọn 42 bài phê
bình, nghiên cứu, phân tích, bình giảng tiêu biểu về thơ Hồ Chí Minh.
Các bài viết đều cho thấy một tâm hồn lớn của nhà thơ, chiến sĩ Hồ Chí
Minh. “Có thể nói sự thống nhất kì diệu giữa tuyên truyền và nghệ thuật,
Sv: Trần Thị Phương

4

K32B Ngữ văn


Khãa luËn tèt nghiÖp
giữa thơ và chính trị, đấu tranh và tình thương, cao thượng và bình dị,
tính dân tộc và tính Đảng, truyền thống và hiện đại, lãng mạn và hiện
thực…” (Hà Minh Đức) đã tạo nên một phong cách thơ độc đáo, một chất

riêng đặc sắc trong những “vần thơ thép” của Bác.
2.1.2 Cuốn “Vẻ đẹp thơ văn Chủ tịch Hồ Chí Minh”, NXB Giáo dục,
2006, tập hợp những bài viết về thơ văn Hồ Chí Minh đã từng in trên các
số tạp chí “Văn học và tuổi trẻ”. Các bài viết đi vào khám phá, cảm nhận
vẻ đẹp lấp lánh trên từng trang thơ của Bác cũng như vẻ đẹp ẩn trong một
tâm hồn lớn, nhân cách lớn đồng thời cũng đưa ra những cách tiếp cận, lý
giải dưới nhiều góc độ đối với những bài thơ của Người. Mặc dù có nhiều
ý kiến khác nhau nhưng tựu chung lại các tác giả đều thống nhất ở nhận
định: thơ Hồ Chí Minh là vẻ đẹp hài hoà trong sự giản dị, vừa có sự kế
thừa vừa đậm nét sáng tạo.
2.2 Nghiên cứu từ góc độ ngôn ngữ học
2.2.1 Ở góc độ ngôn ngữ, giáo sư Đinh Trọng Lạc là người đầu tiên tìm
hiểu biện pháp tu từ văn bản. Có thể coi ông là người đặt viên gạch đầu
cho việc xây dựng nền móng nghiên cứu các biện pháp tu từ văn bản.
Trong Tạp chí Ngôn ngữ (số 4/1992), với bài “Vấn đề xác định,
phân loại và miêu tả các phương tiện tu từ và các biện pháp tu từ”, tác
giả Đinh Trọng Lạc đưa ra sự phân biệt của mình về biện pháp tu từ và
phương tiên tu từ xét ở góc độ văn bản. Giáo sư Đinh Trọng Lạc đã định
nghĩa: “Biện pháp tu từ văn bản là những cách phối hợp nội dung các
mảnh đoạn của văn bản có khả năng đem lại hiệu quả tu từ có sự tác
động qua lại các mảnh đoạn này với nhau” [7,46]. Dựa trên kiểu quan hệ
của các mảnh đoạn văn bản, tác giả đưa ra ba kiểu quan hệ: quan hệ quy
định, quan hệ hoà hợp, quan hệ tương phản. Như vậy quan hệ quy định là
Sv: Trần Thị Phương

5

K32B Ngữ văn



Khãa luËn tèt nghiÖp
một trong những biện pháp tu từ văn bản có tác dụng chi phối điệu tính tu
từ của đoạn văn chứa đựng biện pháp này.
Biện pháp quy định còn được giáo sư Đinh Trọng Lạc đề cập tới
trong một số cuốn sách khác như:
- Đinh Trọng Lạc (1994), Phong cách học văn bản, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
- Đinh Trọng Lạc (1997), Phong cách học Tiếng Việt, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
- Đinh Trọng Lạc (1999), Nguyễn Thái Hoà, Phong cách học tiếng
Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.
Qua việc tìm hiểu những công trình nghiên cứu của giáo sư Đinh
Trọng Lạc, chúng ta không thể phủ nhận vai trò cũng như đóng góp quan
trọng của tác giả đối với vấn đề lý thuyết của biện pháp quy định.
2.2.2 Xét riêng ở lĩnh vực ngôn ngữ thì thơ Hồ Chí Minh cũng đã được
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau:
- Nghiên cứu thơ Hồ Chí Minh ở cấp độ ngữ âm, hai tác giả Vũ
Minh Tuân và Lương Duy Thứ trong “Thơ Người toả sáng” khi nhận
định bài thơ “Người bạn tù thổi sáo” đã viết: “Bài thơ gợi lên một âm
điệu man mác buồn, khép lại bài thơ vẫn như còn âm hưởng. Bốn câu thơ
giàu nhạc điệu, đồng thời cũng giàu hình ảnh”[15,42]. Chế Lan Viên khi
cảm thụ “Tức cảnh Pác Bó” đã bình câu thơ “Bàn đá chông chênh, dịch
sử Đảng” như sau: “Từ những âm bằng êm đềm chuyển qua những dấu
trắc, nặng (dịch), sắc (đá), hỏi (sử) đanh thép rắn rỏi”[15,79]. Tác giả
Vũ Thị Kim Xuyến trong “Truyền thống văn hoá trong thơ chữ Hán Hồ
Chí Minh” cho rằng: “Thơ chữ Hán của Người phảng phất âm hưởng thơ
Đường, thơ Tống”.
Sv: Trần Thị Phương

6


K32B Ngữ văn


Khãa luËn tèt nghiÖp
- Ở cấp độ từ ngữ, cũng có rất nhiều bài viết nghiên cứu về nghệ
thuật dùng từ trong thơ Hồ Chí Minh. Huy Cận trong “Hồ Chí Minh một người hiền của thời đại, người nghệ sĩ dấn thân đầu tiên của Việt
Nam” đã khẳng định: “Những bài thơ, bài văn của Người đối với chúng
ta là những hình mẫu về cách viết, trong đó sự trong sáng long lanh của
niềm cảm xúc, mỗi chữ khơi dậy những âm vang sâu thẳm trong tâm hồn
người đọc”. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Chú thì cho rằng: “Hồ Chí
Minh có một hệ thống quan điểm văn chương trong đó có quan điểm về
thơ được phát biểu với một hình thức ngôn ngữ rất cô đúc, lời ít mà ý
nhiều, có nội dung lớn lao, cơ bản, tiến bộ” [16,33]. Tác giả Lê Trí Viễn
khi thẩm bình bốn câu thơ đề từ của “Nhật kí trong tù” đã viết: “Hai
mươi chữ mà bao nhiêu ý nghĩa! Một hoàn cảnh một con người, một
quyết tâm, một tư thế, một tuyên ngôn. Chữ Hán đâu, tiếng Việt đó, rất
sát. Lời trong, ý rõ. Như thế là thanh thoát, hay” [15,36].
Nhận định về từ trong thơ Bác, các nhà nghiên cứu đều thống nhất ở
quan điểm: Ngôn ngữ thơ Bác giản dị, trong sáng. Trong “Bút pháp trào
lộng trong Nhật kí trong tù, hai tác giả Nguyễn Phạm Hùng và Đặng Thị
Hảo khẳng định: “Tác giả Nhật kí trong tù để tránh những xung đột trào
lộng có tính gay gắt, đã không sử dụng từ ngữ khoa trương phóng đại,
cường điệu làm thành sự mâu thuẫn dồn nén giữa nội dung và hình thức
của tiếng cười” [19,4]. Tác giả Lê Kim Nhung trong “Đôi điều suy nghĩ
về những vần thơ xuân của Bác” đã nhận xét: “ Một điều đặc biệt quan
trong ở văn thơ của Bác nói chung, thơ chúc tết của Người nói riêng là
cách nói bình dị, chân chất” [19,4].
Bên cạnh vẻ bình dị, trong sáng, từ ngữ trong thơ Bác còn được các
nhà nghiên cứu đánh giá ở phương diện hàm súc, cô đọng. Trong bài viết

Sv: Trần Thị Phương

7

K32B Ngữ văn


Khãa luËn tèt nghiÖp
“ Nhật kí trong tù của chủ tịch Hồ Chí Minh”, Giáo sư Phan Cự Đệ đã
viết: “Đó là lối thơ giản dị mà hàm súc, nhiều ẩn dụ, nhiều tượng trưng,
cấu tạo theo nhiều tầng ý nghĩa, mở ra nhiều tư tưởng trong tâm tư người
đọc theo kiểu “thi tại ngôn ngoại” [20,629]. Nhà văn Pháp, Roger
Denux, đã rất tinh tế khi nhận định: “Thơ Người nói ít mà ý nhiều, là loại
thơ có màu sắc thanh đạm, có âm thanh trầm lắng, không phô diễn mà
như cố khép lại trong đường nét để cho người đọc tự thưởng nhận lấy cái
phần ý ở ngoài lời”. Lưu Trọng Lư khi cảm nhận thi phẩm “Vãn cảnh”
cũng có cùng quan điểm: “Thơ chỉ có hai mươi tám chữ, không thể nói
mọi điều một cách cặn kẽ được, nhưng đã bắc được nhịp cầu cho những
tứ hay, ý lớn chớm nở ở người viết và nở trọn ở người xem” [15,67].
- Bên cạnh nghiên cứu thơ Bác ở cấp độ ngữ âm, cấp độ từ ngữ thì
nhiều nhà nghiên cứu còn tập trung xem xét ở cấp độ câu. “Đọc các tác
phẩm của Hồ Chí Minh, tôi thấy các tác phẩm ấy… không theo một cách
uyên bác xa xôi, mà viết bằng những lời lẽ giản dị và những câu ngắn
gọn. Những viên ngọc quý nhất được khảm trong các tác phẩm của
Người”, đó là nhận xét trong bài viết “Hồ Chí Minh - nhà tư tưởng” của
Tạp chí lịch sử Rokixi Hyeron. Cùng chung nhận định về tính chất ngắn
gọn trong việc dùng câu trong thơ Bác, Đỗ Quang Lưu trong “Bước đầu
tìm hiểu về công tác nghiên cứu, học tập văn thơ Hồ Chủ tịch” đã cho
rằng: “…những câu gọn ấy chung đúc kinh nghiệm cả cuộc đời đấu tranh
của Bác cùng kinh nghiệm đấu tranh của nhân dân ta, của nhân dân thế

giới” [9,14].
Tác giả Nguyễn Phạm Hùng và Đặng Thị Hảo nhận thấy “Ở nhiều
bài, Nguyễn Ái Quốc còn sử dụng những câu thơ cuối như một cái roi lợi
hại, tạo nên yếu tố bất ngờ, có tác dụng chuyển rất nhanh mạch cảm
Sv: Trần Thị Phương

8

K32B Ngữ văn


Khãa luËn tèt nghiÖp
hứng của bài thơ từ trữ tình sang trào phúng” [19,6]. Nhà nghiên cứu
Hoàng Xuân Nhị khi “Tìm hiểu tính dân tộc qua thơ, văn Hồ Chủ tịch”
đã cảm nhận: “Câu thơ của Người bình dị, hồn nhiên nhưng quả là hào
hứng khi chúng ta nghĩ rằng nó là cái mốc lịch sử phản ánh, đánh dấu
khâu phát triển mới, càng cao đẹp của dân tộc” [11,2]. Trong “Vẻ đẹp
thơ văn Chủ tịch Hồ Chí Minh” khi bình về câu thơ mở đầu bài thơ
“Pác Bó hùng vĩ”, các tác giả đánh giá: “… câu thơ có nhạc mà cũng có
hình, gợi lên một khung cảnh mênh mông bát ngát… Câu thơ bởi vậy
cũng như có cái gì mờ ảo, như lâng lâng” [15,81].
- Ở cấp độ văn bản có rất nhiều công trình nghiên cứu đã tập trung
làm sáng tỏ sức hấp dẫn của những bài thơ của Bác. Nhà nghiên cứu
Trung Quốc, Quách Mạt Nhược, sau khi đọc xong 100 bài thơ chữ Hán
của Bác đã nhận xét “… hầu hết bài nào cũng toát ra hết sức sinh động
hình ảnh của một nhà cách mạng lão thành, thanh thoát, tài trí, ung
dung, giản di, kiên cường, ấy là Hồ Chí Minh. Thật là “thi như kì nhân”,
thơ như người vậy. Có một số bài rất hay, nếu như đặt lẫn vào một tập
thơ của các thi nhân đời Đường, Tống thì khó phân biệt”. Hà Minh Đức
thẩm bình về “Cái đẹp và cảm hứng thi ca của Hồ Chí Minh”: “Cái đẹp

đã góp phần tạo nên giá trị và làm cho thi phẩm của Người chứa chan
chất thơ, lấp lánh vẻ đẹp, vẻ sáng trong hình tượng và tứ thơ” [10,22].
Ở cấp độ văn bản, vấn đề bản dịch Nhật kí trong tù cũng như
những bài thơ chữ Hán khác của Người được rất nhiều nhà nghiên cứu,
nhà dịch giả quan tâm. Tại hội nghị trao đổi ý kiến về bản dịch Nhật kí
trong tù và thơ chữ Hán khác của Hồ Chủ tịch, các tác giả đều thống
nhất rằng: “bản dịch Nhật kí trong tù và nhiều bài dịch trong tập “Thơ

Sv: Trần Thị Phương

9

K32B Ngữ văn


Khãa luËn tèt nghiÖp
Hồ Chí Minh” đã xuất bản trước đây là những bản dịch tốt, có chất
lượng và một số bài đã đạt đến trình độ nghệ thuật”.
Theo tác giả Nguyễn Văn Long trong “Thơ Hồ Chí Minh, vẻ đẹp
hài hoà trong sự giản dị” thì “nhiều bài thơ và toàn bộ thi phẩm của Hồ
Chí Minh là những viên ngọc đa diện mà mỗi mặt của nó lại phát ra
những ánh sáng và màu sắc khác nhau nhiều vẻ nhưng tất cả hài hoà tạo
vẻ đẹp lung linh, biến hoá” [15,118].
Nhận xét về cấu tứ bài thơ “Tin thắng trận”, tác giả Xuân Nguyễn
viết: “Sự kế thừa, sáng tạo trong cấu tứ thơ Đường ấy đã làm cho bài thơ
đậm đà phong vị Đường thi nhưng lại ngời sáng tinh thần thời đại”
[15,116].
- Cùng với việc nghiên cứu thơ Hồ Chí Minh ở các cấp độ kể trên
các nhà nghiên cứu còn đi sâu làm rõ những nét đặc sắc về bút pháp nghệ
thuật của Bác. PGS- PTS Nguyễn Xuân Kính trong bài viết “Hình thức

lục bát biến thể từ ca dao qua thơ Tản Đà đến sáng tác của Hồ Chí
Minh và Tố Hữu” đã cho rằng: “Trong những sáng tác và bài viết bằng
tiếng Việt của Người, thể lục bát và lục bát biến thể được sử dụng ở mức
độ đáng kể… làm thơ, kể chuyên, phê bình kinh nghiệm, phát biểu cảm
tưởng, Hồ Chủ tịch đã sử dụng lục bát biến thể. Đặc biệt là trong diễn
văn chính trị, trong di chúc, Người cũng sử dụng hình thức này. Đây quả
là một việc làm cách mạng có một không hai trong lĩnh vực thi pháp”.
Tác giả Vũ Thị Kim Xuyến thì nhận định rằng: “… có một sự hoà
hợp độc đáo giữa bút pháp cổ điển và bút pháp hiện đại bởi hồn thơ của
Người thuộc thế hệ Đường thi cuối cùng đồng thời lại thuộc số những trí
thức đầu tiên thấm nhuần sâu sắc văn hoá nghệ thuật Châu Âu hiện đại.
Bút pháp hiện đại của thơ Hồ Chí Minh thể hiện ở chỗ thế giới hình
Sv: Trần Thị Phương

10

K32B Ngữ văn


Khãa luËn tèt nghiÖp
tượng luôn luôn vận động khác với trạng thái tĩnh phi thời gian trong thơ
cổ điển. Sự vận động ấy luôn luôn hướng về sự sống, ánh sáng và tương
lai”. Theo tác giả thì “Người đã nêu cao tinh thần gạn đục khơi trong
đối với việc tiếp thu di sản văn hoá tinh thần nhân loại”.
Tiếp cận và tìm hiểu về “Bút pháp trào lộng trong Nhật kí trong
tù”, tác giả Nguyễn Phạm Hùng và Phạm Thị Hảo nhận thấy: “Tiếng cười
Nhật kí trong tù là tiếng cười nhẹ nhàng mà thâm thuý không chua cay,
bốp chát cũng không bi phẫn đến cùng cực hoặc cởi mở đến ồn ào…
xung đột trào lộng chủ yếu được tạo dựng ở trình độ “vi mô” chứ không
phải “vĩ mô”. Một phần điều này bị quy định bởi nghệ thuật đoản thi và

Đường thi nhất là thơ tứ tuyệt” [19,12]. Cũng bàn về tiếng cười châm
biếm trong Nhật kí trong tù, giáo sư Phan Cự Đệ đánh giá: “Nhật kí
trong tù đã kế tục nghệ thuật châm biếm sâu sắc trong các bài văn xuôi
của Nguyễn Ái Quốc …Tiếng cười nảy sinh do mâu thuẫn giữa bản chất
và hiện tượng, giữa nội dung và hình thức, giữa cái thực xấu xa bên trong
của chế độ thống trị và mọi hình thức ngụy trang giả dối bên ngoài
[20,629].
Tác giả Nguyễn Văn Long khái quát rằng: “Về bút pháp thì cũng
thấy rất nhiều cây bút trong một nhà thơ: có ngòi bút tả thực ghi chép
tinh nhạy, sắc sảo của một nhà báo đi liền với bút pháp cô đọng, hàm
súc, giàu tượng trưng của thi ca cổ điển phương Đông: trữ tình và hài
hước, hướng nội và hướng ngoại, Đường thi và chọi lại Đường thi”.
Cũng theo tác giả “Điều gây ấn tượng mạnh mẽ và bất ngờ nhất về
phương diện này là sự giản dị của thơ Bác… thanh đạm trong trẻo như
nước suối từ nguồn” [15,118].

Sv: Trần Thị Phương

11

K32B Ngữ văn


Khãa luËn tèt nghiÖp
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng nhận xét: “Người khéo dùng tục
ngữ, hay ví von, thường có lối châm biếm kín đáo và thú vị. Làm thơ
Người thích lối ca dao.” (“Hồ Chủ tịch, hình ảnh của dân tộc”, TCVH số
5/2000) [21,40]. Huy Cận cũng chung nhận định rằng: “Bác vận dụng
một cách tài tình và có chủ đích những câu ca dao, tục ngữ” (“Hồ Chí
Minh - một người hiền của thời đại, người nghệ sĩ dấn thân đầu tiên của

Việt Nam”).
- Ngoài ra các nhà nghiên cứu còn đề cập đến nét độc đáo của
giọng điệu thơ Hồ Chí Minh trong một số công trình nghiên cứu. Đi sâu
khám phá đặc sắc tiếng cười trong thơ Bác, Nguyễn Phạm Hùng và Đặng
Thị Hảo đã viết: “Mỗi tiếng cười là một giọng điệu riêng nhưng chúng
cùng là những tiếng cười bất hủ trong kho tàng văn học dân tộc” [19,18].
Tác giả Lê Kim Nhung với những vần thơ tết của Bác thì cho rằng: “ Lời
chúc có giọng điệu hân hoan phơi phới. Niềm vui như tràn ra khỏi đường
biên chữ nghĩa để đến với mọi người” [15,127].
Trên đây là những nhận xét vô cùng quý giá để chúng tôi tiếp tục
đi sâu tìm hiểu phong cách nghệ thuật trong thơ Hồ Chí Minh, đặc biệt là
nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ.
Qua khảo sát hàng loạt các công trình nghiên cứu về thơ Hồ Chí
Minh, chúng tôi nhận thấy chưa có tác giả nào đi sâu nghiên cứu một
cách hệ thống hiệu quả của biện pháp tu từ trong thơ Hồ Chí Minh dưới
góc độ Phong cách học văn bản. Phần lớn những bài nghiên cứu trên mới
chỉ dừng lại ở các bài viết khái quát mang tính chất khám phá minh hoạ
cho một nhận xét, ý kiến hoặc là những ý kiến được nêu xen kẽ trong các
công trình nghiên cứu về thơ Hồ Chí Minh nói chung từ góc độ phê bình
văn học.
Sv: Trần Thị Phương

12

K32B Ngữ văn


Khãa luËn tèt nghiÖp
2.2.3 Qua khảo sát, chúng tôi thấy đã có những khoá luận tốt nghiệp đi
sâu nghiên cứu về biện pháp quy định đó là các khoá luận:

 “Tìm hiểu hiệu quả nghệ thuật của việc sử dụng biện pháp tu từ quy
định trong truyện ngắn Nam Cao ”
Người hướng dẫn: Lê Kim Nhung
Người thực hiện: Nguyễn Thị Yên, K24H - Ngữ văn, ĐHSP HN2
 “Hiệu quả của biện pháp quy định trong truyện cười dân gian Việt
Nam”
Người hướng dẫn: Lê Kim Nhung
Người thực hiện: Lưu Xuân Bình, K29G - Ngữ văn, ĐHSP HN2
 “Hiệu quả của biện pháp quy định trong ca dao dân gian Việt Nam”
Người hướng dẫn: Lê Kim Nhung
Người thực hiện: Đinh Thị Hạnh, K30C - Ngữ văn, ĐHSP HN2
 “Biện pháp quy định trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu”
Người hướng dẫn: Lê Kim Nhung
Người thực hiện: Nguyễn Thị Dung, K29H - Ngữ văn, ĐHSP HN2.
Như vậy, biện pháp quy định là biện pháp tu từ quan trọng nhưng
trong số những tài liệu chúng tôi có trong tay chưa có đề tài nào trùng tên
với khoá luận này.
Trên nền tảng lý thuyết của tác giả Đinh Trọng Lạc và dựa vào sự
phân tích những kết quả ngữ liệu thống kê thơ Hồ Chí Minh, chúng tôi
lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Hiệu quả nghệ thuật của biện pháp quy
định trong thơ Hồ Chí Minh”. Khoá luận này sẽ đi sâu tìm hiểu biện
pháp quy định trong thơ Hồ Chí Minh một cách cụ thể đồng thời góp
phần khẳng định những tiền đề lý thuyết của các nhà nghiên cứu ngôn
ngữ học đã mở đường.
Sv: Trần Thị Phương

13

K32B Ngữ văn



Khãa luËn tèt nghiÖp
3. Mục đích nghiên cứu
- Rút ra những kết luận về hiệu quả của việc sử dụng biện pháp quy
định trong thơ Hồ Chí Minh. Từ đó góp phần khẳng định một vấn đề lý
thuyết về phong cách học văn bản.
- Góp thêm tiếng nói khẳng định phong cách sáng tác của chủ tịch
Hồ Chí Minh.
- Những kiến thức tập hợp trong tiểu luận này sẽ là nguồn tư liệu cho
quá trình giảng dạy sau này của bản thân.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tập hợp những vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài
- Khảo sát, thống kê, phân loại những trường hợp có sử dụng biện
pháp quy định trong thơ Hồ Chí Minh
- Vận dụng phương pháp phân tích học chỉ ra hiệu quả nghệ thuật
của biện pháp quy định trong những bài thơ của Bác
5. Đối tượng nghiên cứu
Hiệu quả nghệ thuật của biện pháp quy định trong thơ Hồ Chí Minh
6. Phạm vi nghiên cứu
Khảo sát biện pháp quy định trong thơ Hồ Chí Minh trong cuốn
“Tuyển tập thơ Hồ Chí Minh”, NXB văn học, 2008, Tạ Đức Hiển và
Minh Phúc sưu tập
7. Phương pháp nghiên cứu
Trong qúa trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng các phương
pháp sau:
- Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại
- Phương pháp phân tích tu từ học

Sv: Trần Thị Phương


14

K32B Ngữ văn


Khãa luËn tèt nghiÖp
8. Đóng góp của khóa luận
Qua khảo sát, phân tích hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ
quy định trong thơ Hồ Chí Minh khẳng định được vẻ đẹp tâm hồn cũng
như phong cách nghệ thuật riêng của Bác
9. Bố cục khóa luận
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích nghiên cứu
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
5. Đối tượng nghiên cứu
6. Phạm vi nghiên cứu
7. Phương pháp nghiên cứu
8. Đóng góp của khoá luận
9. Bố cục của khoá luận
NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
2. Kết quả khảo sát - thống kê - phân loại
3. Phân tích kết quả thống kê phân loại
3.1.

Yếu tố quy định là một nhãn tự

3.1.1. Yếu tố quy định là một nhãn tự nằm ở phần nội dung bài thơ

3.1.2. Yếu tố quy định là một nhãn tự ở phần cuối bài thơ
3.1.3. Yếu tố quy định là một nhãn tự nằm ở đầu - cuối bài thơ
3.2.

Yếu tố quy định là một hình ảnh biểu tượng

3.2.1. Yếu tố quy định là một hình ảnh biểu tượng ở nhan đề bài
thơ
Sv: Trần Thị Phương

15

K32B Ngữ văn


Khãa luËn tèt nghiÖp
3.2.2 Yếu tố quy định là hình ảnh biểu tượng ở cuối bài thơ
3.3.

Yếu tố quy định là một triết lý

3.3.1. Yếu tố quy định là một triết lý ở nhan đề tác phẩm
3.3.2. Yếu tố quy định là một triết lý ở đầu bài thơ
3.3.3. Yếu tố quy định là một triết lý ở cuối bài thơ
3.4.

Yếu tố quy định là chi tiết hài hước gây cười

3.4.1. Tiếng cười bật lên từ thủ pháp chơi chữ
3.4.2. Tiếng cười bật lên từ những tình huống chứa đầy mâu thuẫn của sự vật

3.4.3 Tiếng cười bật lên từ những yếu tố bất ngờ, đột ngột
3.4.4. Yếu tố quy định là yếu tố tự trào
4. Nhận xét chung
KẾT LUẬN

Sv: Trần Thị Phương

16

K32B Ngữ văn


Khãa luËn tèt nghiÖp

NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
1.1

Theo Giáo sư - Tiến sĩ Đinh Trọng Lạc, biện pháp tu từ “là những

cách phối sử dụng trong hoạt động lời nói các phương tiện ngôn ngữ
(không kể là trung hoà diễn cảm) để tạo ra hiệu quả tu từ (tức là tác dụng
gợi hình, gợi cảm, nhấn mạnh, làm nổi bật …) do sự tác động qua lại
giữa các yếu tố trong một ngữ cảnh rộng” [3, 61].
Như vậy biện pháp tu từ có thể coi là những cách kết hợp ngôn ngữ
đặc biệt trong hoàn cảnh cụ thể, nhằm mục đích tu từ nhất định. Nó đối
lập với biện pháp sử dụng ngôn ngữ thông thường trong mọi hoàn cảnh
nhằm mục đích diễn đạt lý trí
Căn cứ vào cấp độ ngôn ngữ của các phương tiện ngôn ngữ được
phối hợp sử dụng, biện pháp tu từ được chia ra: biện pháp tu từ từ vựng,

biện pháp tu từ ngữ nghĩa, biện pháp tu từ cú pháp, biện pháp tu từ văn
bản.
1.2 Tác giả Đinh Trọng Lạc trong “Phong cách học văn bản” cho rằng
“Biện pháp tu từ văn bản là những cách sử dụng phối hợp các bộ phận
văn bản để tạo ra hiệu quả tu từ do sự tác động qua lại các bộ phận văn
bản với nhau” [3, 207]. Dựa vào tính chất của kiểu quan hệ tồn tại giữa
các bộ phận của văn bản biện pháp tu từ văn bản được chia thành: biện
pháp quy định, biện pháp hoà hợp, biện pháp tương phản.
1.3. Trong cuốn “99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt”, tác
giả Đinh Trọng Lạc đã đưa ra khái niệm về biện pháp quy định như sau
“Biện pháp tu từ văn bản thuộc kiểu quy định là biện pháp trong đó mảnh
đoạn được đánh dấu về tu từ học, xác định điệu tính tu từ của toàn văn

Sv: Trần Thị Phương

17

K32B Ngữ văn


Khãa luËn tèt nghiÖp
bản. Mảnh đoạn này thường ở các vị trí mạnh: vị trí mở đầu hoặc vị trí
kết thúc” [6, 207].
1.4. Vị trí mạnh là một kiểu đề xuất cơ bản tham gia và việc tạo lập ra
tính toàn vẹn của văn bản. Vị trí mạnh cũng như các kiểu đề xuất cơ bản
khác chức năng liên kết của chúng bị quy định ở chỗ: hoạt động của
chúng được biểu hiện trên mảnh cắt lớn của văn bản, hoặc trong khuôn
khổ của văn bản
Các vị trí mạnh của văn bản gồm: đầu đề, đề từ, mở đầu và kết thúc
văn bản. Các vị trí mạnh làm cho sự chú ý của độc giả dừng lại ở những

yếu tố của văn bản có giá trị lớn về ý nghĩa, do đó giúp độc giả phát hiện
ra những liên kết tồn tại trong văn bản và tri giác văn bản như là một
chỉnh thể. Vậy có thể coi yếu tố quy định là một vị trí mạnh của văn bản
góp phần quy định giọng kể và nội dung, tư tưởng của văn bản, xác định
điệu tính tu từ học của toàn văn bản
1.5.

Khi miêu tả và nhận diện biện pháp tu từ quy định trong văn bản,

chúng tôi dựa vào vị trí của những yếu tố quy định trong văn bản
Sách “Làm văn 11” - NXBGD. 2000 của nhóm tác giả Phan Trọng
Luận - Lê A - Nguyễn Xuân Nam đã chia văn bản làm ba phần: mở đầu,
nội dung và kết thúc. Tác giả Đinh Trọng Lạc trong “Phong cách học
văn bản” đã đưa ra một mô hình văn bản gồm bốn lốc giao tiếp: lốc mở
đầu, lốc nội dung, lốc kết thúc và lốc liên kết. Những lốc này đi vào các
mối quan hệ cú đoạn với nhau, chúng khác nhau bởi những chức năng
của mình trong quan hệ với nhau và trong quan hệ với toàn văn bản.
Chúng được kết hợp lại bởi khuynh hướng chức năng chung trong việc
hoàn thành những nhiệm vụ ngôn ngữ cụ thể.

Sv: Trần Thị Phương

18

K32B Ngữ văn


Khãa luËn tèt nghiÖp
Lốc mở đầu có công dụng làm một cái nền chuẩn bị cho độc giả tri
giác nội dung thông tin cơ bản của văn bản. Trong các văn bản nghệ

thuật, lốc mở đầu được hiện thực hoá trong phần trình bày. Phần này
thường là phần nêu thời gian, nơi chốn, nhân vật, đối tượng thông báo
hoặc thể hiện thái độ của người tường thuật đối với những biến cố được
miêu tả hay hiện thực được miêu tả.
Lốc kết thúc trong văn bản có vai trò khái quát hoá thông tin cơ bản
đã đưa vào văn bản và chỉ ra ranh giới phía dưới của văn bản. Trong các
văn bản nghệ thuật, lốc kết thúc còn có thể hoàn thành chức năng ý chí,
khi tác động đến người đọc để thay đổi trạng thái tâm - sinh lý của người
đọc. Lốc kết thúc tạo ra hiệu quả thẩm mĩ cho người đọc.
Lốc liên kết thường không được cố định vị trí nhưng được củng cố ở
những vị trí mạnh. Chức năng cơ bản của lốc liên kết là đảm bảo mối liên
hệ giữa các trích đoạn riêng lẻ của văn bản giống nhau. Về nội dung lốc
liên kết không cung cấp cho người đọc một thông tin mới nào. Trong tác
phẩm nghệ thuật, lốc liên kết không chỉ có chức năng liên kết mà còn có
chức năng tác động. Lốc liên kết đem đến cho người đọc những thông tin
bổ sung mang đậm màu sắc cảm xúc, bình giá thể hiện phong cách, bút
pháp riêng của tác giả.
2. Kết quả khảo sát - thống kê - phân loại
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát trong “Tuyển tập thơ Hồ Chí
Minh” (NXB Văn học 2008) và thu được 69 phiếu có sử dụng biện pháp
tu từ quy định
Căn cứ vào cấu tạo và điệu tính tu từ học của biện pháp quy định
đối với toàn văn bản, chúng tôi phân loại thành bốn phương thức biển
hiện chính của biện pháp quy định trong thơ Hồ Chí Minh:
Sv: Trần Thị Phương

19

K32B Ngữ văn



Khãa luËn tèt nghiÖp
Biện pháp quy định là một nhãn tự
Biện pháp quy định là một hình ảnh biểu tượng
Biện pháp quy định là một triết lí
Biện pháp quy định là một chi tiết hài hước, gây cười
Ở mỗi phương thức biểu hiện lại được chia thành các tiểu loại nhỏ
hơn. Kết quả cụ thể được chúng tôi thể hiện ở bảng phân loại sau:
STT Biện pháp

Tiểu loại

Số Tỉ lệ
phiếu (%)

1

Yếu tố quy 1.Là một nhãn tự ở nội dung bài thơ

4

5,8

định là một 2.Là một nhãn tự ở cuối bài thơ

9

13,04

1


1,44

1

1,44

5

7,25

2

2,9

2

2,9

3.Là một triết lý ở cuối bài thơ

13

18,84

1.Tiếng cười bật lên từ thủ pháp chơi chữ

3

4,35


18

26,1

5

7,24

6

8,7

nhãn tự

3.Là một nhãn tự ở đầu- cuối bài thơ

Yếu tố quy 1.Là một hình ảnh biểu tượng ở nhan đề bài
định là một thơ
2

hình ảnh 2.Là một hình ảnh biểu tượng ở cuối bài thơ
biểu tượng
Yếu tố quy 1.Là một triết lý ở nhan đề bài thơ

3 định là một 2.Là một triết lý ở đầu bài thơ
triết lý

Yếu tố quy 2.Tiếng cười bật lên từ những tình huống chứa
định là chi đầy mâu thuẫn của sự vật

4 tiết hài

3. Tiếng cười bật lên từ những yếu tố bất ngờ,

hước,

đột ngột

gây cười.

4.Yếu tố tự trào
Tổng

Sv: Trần Thị Phương

69 100
20

K32B Ngữ văn


Khãa luËn tèt nghiÖp
3. Phân tích kết quả thống kê phân loại
Việc tiếp cận tác phẩm văn học theo hướng nghiên cứu phong cách
học văn bản cho ta thấy được thành công của nhà văn trong việc trong
việc lựa chọn, tổ chức các yếu tố quy định để biểu đạt nội dung, tư tưởng
tác phẩm và xác định điệu tính tu từ học của toàn văn bản. Từ đó khẳng
định được phong cách riêng của Bác. Với những kết quả thống kê trên
đây và việc đi sâu tìm hiểu biện pháp tu từ quy định như một yếu tố mạnh
mà Bác đã sử dụng trong thi phẩm của mình, chúng tôi mong rằng đó sẽ

là những minh chứng xác thực có giá trị khẳng định hiệu quả nghệ thuật
của việc sử dụng biện pháp tu từ quy định trong thơ Hồ Chí Minh.
3.1 Yếu tố quy định là một nhãn tự
Nhãn tự là “con mắt”, là linh hồn của bài thơ, nó quyết định và chi
phối ý nghĩa cũng như cách hiểu thi phẩm ấy. Mạch vận động của bài thơ
nhờ yếu tố ngôn ngữ đặc biệt ấy mà có sự biến đổi trở nên linh hoạt hơn,
theo chiều hướng tích cực hơn. Trong thơ Bác có nhiều từ, cụm từ được
sử dụng rất đắt trở thành nhãn tự, thành điểm nhấn có sức chuyển tải nội
dung tư tưởng rất lớn. Nó thể hiện tài năng cũng như sự chu đáo trong
quá trình chọn lựa ngôn từ của Bác.
3.1.1 Yếu tố quy định là một nhãn tự nằm ở phần nội dung bài thơ
Trong thơ Bác vị trí các nhãn tự có sự biến đổi hết sức linh hoạt.Tiểu
loại này chúng tôi thống kê được 4 phiếu, chiếm 5,8%. Những bài thơ:
Cảm tưởng đọc thiên gia thi, Tân xuất ngục học đăng sơn, Bốn tháng
rồi, Lên núi … có nhãn tự nằm ở phần nội dung
Bài thơ “Tân sơn xuất ngục học đăng sơn” nằm ở phần phụ lục
“Nhật kí trong tù”. Theo Võ Nguyên Giáp (hồi kí “Từ nhân dân mà
ra”), Bác viết bài thơ này dưới một tờ báo Trung Quốc với dòng chữ:
Sv: Trần Thị Phương

21

K32B Ngữ văn


Khãa luËn tèt nghiÖp
“Chúc chư huynh ở bên nhà mạnh khoẻ và có gắng công tác. Ở bên này
bình yên”. Bài thơ ngoài ngụ ý nhắn tin: Bác đã được ra tù, vẫn bình an
vô sự còn thể hiện quyết tâm rèn luyện sức khoẻ và ý chí của Bác để
vững vàng bước vào chặng đường đấu tranh mới, đồng thời cũng là tiếng

lòng thiết tha nhớ đất nước quê hương, bạn bè của người chiến sĩ xa quê.
Sau “Mười bốn trăng tê tái gông cùm”, ra tù với cơ thể hoàn toàn
suy nhược: mắt mờ, răng rụng, tóc bạc… “Bác quyết tâm tập đi mỗi ngày
mười bước mới thôi. Cuối cùng, Bác chẳng những đi vững mà còn trèo
được núi”. (Thạch Lam- “Vừa đi đường vừa kể chuyện”). Vì thế mới có
bài thơ này.
Hai câu đầu là cảnh non nước hữu tình:
Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân
Giang tâm như kính, tịnh vô trần
Hình thức điệp cùng biện pháp nhân hoá gợi một thiên nhiên cao
rộng, tươi vui quấn quýt giao hoà. Từ trên cao phóng tầm mắt xuống thấy
lòng sông sáng như gương không chút bụi “tịnh vô trần” .Đó là hình ảnh
biểu tượng kín đáo cho tấm lòng kiên trung của Bác với đất nước, nhân
dân, không hề lung lay trước đoạ đày khổ ải.
Hai câu cuối, Bác xuất hiện trực tiếp với bao nỗi niềm:
Bồi hồi độc bộ Tây Phong lĩnh
Dao vọng Nam thiên ức cố nhân
Hiện lên trên bức tranh sơn thuỷ hữu tình là hình ảnh Bác đang một
mình dạo bước “độc bộ”. Tư thế của Bác gợi nhớ những cố nhân xưa
“đăng cao ức hữu”. Hai chữ “bồi hồi” gợi rất hay, rất thực nỗi niềm u
hoài hướng về “Nam thiên”- trời Nam, đất nước xa xôi đang trong vòng
lửa đạn và luôn bâng khuâng xao xuyến “ức cố nhân” - nhớ bạn xưa đồng
Sv: Trần Thị Phương

22

K32B Ngữ văn


Khãa luËn tèt nghiÖp

chí anh em cùng vào sinh ra tử của Bác. Hơn thế, hai chữ “bồi hồi” còn
chất chứa nhiều cảm xúc đan xen khác: có nỗi buồn vì phải xa cách đất
nước thân thương; có sự lo lắng cho phong trào cách mạng nước nhà; có
niềm vui vì vẫn giữ được ý chí qua lao tù, vui vì được tự do, sắp được
gặp lại bạn bè đồng chí; hi vọng về ngày mai tươi sáng của Tổ quốc. Vì
thế có thể khẳng định hai chữ “bồi hồi” là trung tâm, là nét “thần” của bài
thơ, là ánh sáng lấp lánh của “chất người” trong Bác.
3.1.2 Yếu tố quy định là một nhãn tự ở phần cuối bài thơ
Đây là tiểu loại có số lượng khá lớn với 9 phiếu chiếm 13,04%. Sáng
bừng lên ở cuối mỗi bài thơ là một tâm hồn lớn, cốt cách lớn của Bác với
những ý vị rất riêng. Đó là nhờ giá trị biểu cảm cao của những nhãn tự
hay và độc đáo. Mộ, Tức cảnh Pác Bó, Ngắm trăng, Tảo giải… là
những bài thơ tiểu biểu
“Mộ” là một bức tranh sơn cước đẹp, nên thơ. Trời chiều, cánh chim
mệt mỏi tìm về chốn nghỉ chân, chòm mây đơn côi, lẻ loi trôi lững lờ trên
bầu trời. Cảnh vật ở đây như nhuốm màu tâm trạng: cánh chim, chòm
mây như chính thân phận Bác một mình nơi đất khách quê người lại đang
trong vòng kìm kẹp.
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Lẽ thường trước một bức tranh thiên nhiên buổi chiều như thế, trong
tâm trạng cảnh ngộ như vậy người ta sẽ buồn, chán nản. Nhưng không,
Bác không vậy. Mạch thơ chuyển nhanh từ cao xuống thấp, từ xa lại gần,
từ cảnh sang người. Hình ảnh “cô em xóm núi” xuất hiện làm sáng ấm cả
bức tranh. Điệp khúc “ma bao túc – bao túc ma” vừa diễn tả vòng quay
đều đặn với sức trẻ, lòng yêu lao động của cô gái vừa cho thấy sự vận
Sv: Trần Thị Phương

23


K32B Ngữ văn


Khãa luËn tèt nghiÖp
động của thời gian. Một chữ “tối” ở bản dịch làm tối nghĩa cả bài thơ.
Thực ra Bác không cần nói tối mà bóng tối đã phủ đầy. Đặc biệt chữ
“hồng” cuối bài làm sáng rực cả bài thơ, nó trở thành “nhãn tự”, linh hồn
của thi phẩm này. Với một chữ “hồng” dường như mọi mệt mỏi, uể oải ở
ba câu đầu đã mất đi “nó sáng bừng lên, nó cân lại, chỉ một chữ thôi với
hai mươi bảy chữ khác dẫu nặng đến mấy đi chăng nữa” (Hoàng Trung
Thông). Mạch thơ vận động từ tối đến sáng, từ mệt mỏi ra vui vẻ, từ đơn
lẻ đến sum vầy.
Trong hoàn cảnh tù đày giam hãm cơ cực trăm bề có lẽ ít ai có thể
thấy vui được. Người tù đón ngày mới từ khi:
Gà gáy một lần đêm chửa tan
Chòm sao nâng nguyệt vượt lên ngàn
Trong cảnh ngộ “Giải đi sớm”. Con đường đi lại đầy vất vả dằng dặc xa
xăm:
Năm mươi ba cây số một ngày
Áo mũ dầm mưa rách hết giầy
( Mới đến nhà lao Thiên Bảo)
Và chờ đợi phía trước mặt không gì khác hơn là một nhà tù lạnh lẽo,
đói rét đầy muỗi và rệp:
Bình Mã thế nào Đồng Chính vậy
Bữa lưng bát cháo bụng cồn cào
Đặc biệt hành trình của người tù lúc nào cũng phải trong tư thế “sẵn
sàng lên đường”, bị giải tới giải lui khắp các “chốn lao lung”:
Quảng Tây giải khắp mười ba huyện
Mười tám nhà lao đã giải qua
(Đến cục chính trị chiến khu IV)

Sv: Trần Thị Phương

24

K32B Ngữ văn


Khãa luËn tèt nghiÖp
Quảng Tây đi khắp lòng oan ức
Giải đến bao giờ, giải đến đâu?
Ấy vậy mà mạch thơ của Bác lại vận động từ buồn đến vui. Ánh
sáng rực hồng của lò than cùng hình ảnh cô gái xay ngô là biểu hiện của
niềm ước mong của Bác: ước mong về một cuộc sống bình yên, đầm ấm,
đoàn tụ.Thế mới biết những buồn vui sướng khổ của Bác đôi khi không
thể lý giải bằng cảnh ngộ riêng của Người mà phải gắn liền với cảnh ngộ
của người khác, của nhân dân đất nước. Đó là một tấm lòng nhân đạo lớn
đã đạt đến mức quên mình.
Là một chiến sĩ kiên trung, suốt cuộc đời Bác luôn tâm niệm coi văn
chương nghệ thuật là thứ vũ khí đắc lực phục vụ lý tưởng cách mạng.
Trong lao tù Tưởng Giới Thạch, Bác làm thơ là để:
Ngày dài ngâm ngợi cho khây
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do
Chỉ duy nhất một lần Bác nhận mình là thi nhân, ấy là trong “Vọng
nguyệt”:
Ngục trung vô tửu diệc vô hoa
Đối thử lương tiêu nại nhược hà?
Nhân hứng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.
Ngắm trăng là thú vui thanh cao của những tao nhân mặc khách xưa.
Trong hoàn cảnh của Bác, mọi điều kiện cho một cuộc thưởng trăng đều

không có: “không rượu cũng không hoa”. Vậy nhưng một tâm hồn đa
cảm như Bác trước một thiên nhiên tươi đẹp, một đêm trăng diệu huyền
thì sao có thể “hững hờ”. Trăng muôn đời là bạn của thi nhân, trăng với
Bác là tri âm tri kỉ: “Trong thơ Bác trăng luôn luôn được trìu mến: trăng
Sv: Trần Thị Phương

25

K32B Ngữ văn


×