Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết nhà thờ đức bà pari của victo huygô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.89 KB, 64 trang )

Mục lục
Trang

Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
Nội dung
Chương 1. Một số khía cạnh của nghệ thuật nghịch
dị trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari
1.1. Tìm hiểu chung về khái niêm Nghịch dị
1.1.1. Khái niệm Nghịch dị
1.1.2. Sơ lược về sự phát triển của khái niệm Nghịch dị
trong tiến trình lịch sử văn học
1.2. Một số khía cạnh của nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết
Nhà thờ Đức bà Pari
1.2.1. Cái hài
1.2.2. Cái khủng khiếp, dị hình
1.2.3. Cái huyền ảo, kỳ quái
Chương 2. Các hình tượng nghịch dị trong tiểu
thuyết Nhà thờ Đức bà Pari
2.1. Các nhân vật nghịch dị
2.1.1. Nhà thờ Đức bà: Cái nôi và mồ chôn
2.1.2. Cadimôđô: Dị dạng và hoàn hảo
2.1.3. Clôđơ Phrôlô: Thánh thiện và ác tà
2.1.4. Exmêranđa: Cái đẹp và sự đầy ải
2.1.5. Một số nhân vật nghịch dị khác..
2.2. Các nhóm nhân vật nghịch dị
2.2.1. Cadimôđô - Exmêranđa: Con đom đóm yêu một vì


tinh tú
2.2.2. Cadimôđô - Clôđơ Phrôlô - Phêbuýt: Ba trái tim đàn ông
cấu tạo khác nhau.
2.2.3. Một số nhóm nhân vật nghịch dị khác.
Kết luận

1
1
2
7
7
7
8
8
8
9
13
14
19
26
31
32
32
36
42
45
47
50
51
53

56
59


Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari của Victo Huygô
mở đầu
1. Lý do chọn đề tài

Tác phẩm văn học là một công trình nghệ thuật ngôn từ do một cá
nhân hoặc tập thể sáng tạo, nhằm khái quát bằng hình tượng về cuộc sống, con
người. Qua đó thể hiện tâm tư, thái độ, tình cảm của chủ thể trước thực tại
(05tr.290). Tác phẩm văn học ở bất cứ thời kỳ nào cũng là một di sản văn hoá
không những của dân tộc mà còn của nhân loại. Vì vậy đối với người học tập
và nghiên cứu văn học không chỉ giới hạn ở việc tiếp thu những giá trị của nền
văn học trong nước mà cần hướng tới chân trời tri thức - những tinh hoa văn
học thế giới.
ở phương Tây vào thế kỷ XIX, Pháp được coi là cường quốc số một
trên thế giới về tiểu thuyết trong đó Victo Huygô (1802 - 1885) là một trong
những cây bút xuất sắc ở lĩnh vực này. Ông xuất hiện như một ngôi sao mọc
sớm và lặn rất muộn ở chân trời thế kỷ (Đặng Anh Đào). Cuộc đời và sự
nghiệp sáng tác của ông bao trùm thế kỷ XIX của Pháp (Phùng Văn Tửu) bởi
ông là người chứng kiến những cơn bão táp của lịch sử làm rung chuyển đất
nước trong suốt thế kỷ, đồng thời ông cũng là người trực tiếp tham gia cách
mạng. Có thể nói rằng Huygô và thời đại có mối liên hệ chặt chẽ. Những hoài
bão, ước mơ hay băn khoăn day dứt của thế kỷ XIX để lại nhiều bóng dáng
trong tác phẩm của Huygô trên tất cả các lĩnh vực bởi ông là con người tài
năng. Có thể thấy điều này qua số lượng tác phẩm đồ sộ của ông: 20 vở kịch,
10 tiểu thuyết lớn và truyện vừa, 15 tập thơ và hàng trăm bài chính luận, lý
luận văn chương Huygô quả là người có sức sáng tạo vĩ đại.
Huygô được coi là nhà văn có nhiều sáng tạo độc đáo đặc biệt là ở lĩnh

vực tiểu thuyết. ở lĩnh vực này sáng tạo của ông chính là việc khắc hoạ hình
tượng nhân vật theo hướng xây dựng cái phi thường. Nhà thờ Đức bà Pari là

Trần Thị Thu Hằng

1

K29EVăn


Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari của Victo Huygô
một bộ tiểu thuyết lớn của ông cũng đi theo hướng ấy và đã đạt được những
thành tựu đáng kể. Nên tìm hiểu nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết trên sẽ
giúp cho việc khám phá những giá trị của tác phẩm một cách sâu sắc hơn.
Cho đến nay, trên văn đàn thế giới tên tuổi của Huygô vẫn đang toả
sáng rực rỡ. Và ở Việt Nam các tác phẩm của ông được bạn đọc biết đến khá
nhiều, hơn nữa có một số tác phẩm còn được đưa vào chương trình giảng dạy
ở phổ thông. Tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari tuy không được giảng dạy
trong chương trình phổ thông nhưng việc tìm hiểu tác phẩm này sẽ giúp chúng
tôi mở rộng thêm hiểu biết về tác giả Huygô và nghệ thuật viết văn của ông để
hỗ trợ cho việc giảng dạy sau này.
2. Lịch sử vấn đề

Thế kỷ XIX là thế kỷ mà nước Pháp xuất hiện rất nhiều các tài năng
trong số đó Huygô vẫn chiếm vị trí hàng đầu bởi sự vô song mà ông tạo ra.
Ông thử sức trong mọi thể loại, lý giải mọi vấn đề, nghiên cứu và quan tâm
đến mọi phương diện nghệ thuật. Ông xứng đáng với cách gọi: Huygô đại
dương, Huygô khổng lồ,, Huygô trái núi, Huygô núi lửa đang hoạt động,
Huygô cây sồi, Huygô chim đại bàng, Huygô kỵ sĩ của Hoà Bình, sứ giả của
nền cộng hoà Còn bao nhiêu hình dung từ, bao nhiêu ẩn dụ, bao nhiêu

truyền kỳ xung quanh cuộc đời Huygô và sự nghiệp văn chương của ông
(14tr.146). Điều đó chứng tỏ Huygô là con người tài năng hay nói như Xuân
Diệu: Chưa bao giờ có một nghệ sĩ sống cuộc sống của thời đại mình một
cách sâu sắc hơn Huygô.
Ông đi nhiều, hiểu biết nhiều và người ta ví cuộc đời ông giống như một
tấm gương phản ánh cách mạng Pháp. Chính sự trải nghiệm đó đã tạo điều
kiện rất nhiều trong quá trình sáng tác của ông đặc biệt là sáng tác tiểu thuyết.
Tác giả Đặng Anh Đào trong cuốn Văn học phương Tây nói rằng tiểu thuyết
là nơi mà Huygô có thể thể hiện tối đa những điều không thể có. Vì vậy, hệ
thống tiểu thuyết của ông được đông đảo bạn đọc ưa thích.

Trần Thị Thu Hằng

2

K29EVăn


Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari của Victo Huygô
Là nhà văn lãng mạn nhưng Huygô lại luôn khẳng định văn học phải
phản ánh chân thực cuộc sống. Ông đặc biệt chú ý lý thuyết về cái thô
kệch và phê phán các nhà văn cổ điển không phản ánh những mặt tương phản
trong thiên nhiên, xã hội, con người mà chỉ chạy theo cái đẹp vĩnh cửu
(06tr.338). Cho nên cống hiến to lớn của Huygô là mở toang cánh cửa sáng
tạo nghệ thuật. Ông đã đề xuất tất cả cái gì tồn tại trong tự nhiên đều tồn tại
trong nghệ thuật.
Trước khi đưa ra những ý kiến đánh giá về vấn đề nghịch dị trong sáng
tác của Huygô, ta hãy xem những ý kiến đánh giá về tiểu thuyết Huygô. Qua
đó thấy được giá trị tác phẩm của Huygô.
2.1. Những ý kiến đánh giá về tiểu thuyết Huygô

Chúng ta biết rằng, thơ là sự nghiệp suốt đời của Huygô và ông được
đánh giá là một nhà thơ lớn (tài năng ấy được nảy nở từ rất sớm), nhưng cái để
lại tiếng tăm hơn cả lại là những bộ tiểu thuyết ông viết vào những năm cuối
đời. Có thể nói rằng ông thử bút ở lĩnh vực nào thì lĩnh vực đó xuất hiện kiệt
tác. Riêng cuốn Nhà thờ Đức bà Pari mang vinh quang tới cho tác giả còn
hơn tất cả các tập thơ mà ông đã có (12tr.7). Nó khiến cho Bandắc, Misơlê,
Nervan và cả Lamáctin đều kinh ngạc và khâm phục chất tưởng tượng của tác
phẩm.
Tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari này ra mắt bạn đọc ngày 13.02.1831
thì 4 năm sau đó (1835), Têôphin Gôchiê, một đệ tử cuồng nhiệt của chủ
nghĩa lãng mạn đã nói về tác phẩm này như sau: Cuốn tiểu thuyết này là một
thiên anh hùng ca Iliat thực sự, ngay từ bây giờ nó đã trở thành một tác phẩm
kinh điển (12tr.7).
Cùng với ý kiến ấy, Đỗ Đức Hiểu trong bài Tầm vóc nhà thờ Pari in
trong Vic to Huygô với chúng ta (Nxb tác phẩm - Hội nhà văn Việt Nam 1985) cho rằng: đó là một bản anh hùng ca. Chính bản anh hùng ca này đã ca
ngợi tình yêu và trái tim con người. Đồng thời nó còn là niềm tin sắt đá vào

Trần Thị Thu Hằng

3

K29EVăn


Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari của Victo Huygô
sức vươn lên của dân chúng đến những đỉnh cao của lương tâm trong sáng.
Nó ra đời gây chấn động mạnh trong dư luận. Độc giả tiếp nhận với
niềm hoan nghênh nồng nhiệt trong đó có cả quận công Ôlêăng làm cho
Huygô rất sung sướng và tự hào.
Còn ơgien Xuy, tác giả Bí mật thành Pari viết cho Huygô: Ngoài

chất thơ cùng tất cả sự phong phú của tư tưởng và kịch tính, tôi xin nói thêm
cuốn truyện của ông còn có gì đó làm tôi vô cùng xúc động (12tr.6). Có
nghĩa là tác phẩm được coi là một bài thơ hùng tráng và trữ tình. Đó là sự tổng
hợp của thơ, lịch sử, kịch, triết học một sự tổng hợp bao la khiến cho người
đọc ngạc nhiên và say mê.
Nhà sử học Giuyn Misơlê nhận xét vào năm 1833: Cạnh ngôi nhà thờ
lớn cổ kính, Huygô xây dựng một toà nhà thờ lớn khác bằng thi ca, cũng vững
chắc như nền móng, cũng ngất cao như dãy tháp của toà nhà nọ (12tr.6).
Đấy là những nhận xét, đánh giá chung về tiểu thuyết này. Còn về
phương diện nghệ thuật nó được nhìn nhận ra sao?
Phương pháp sáng tác lãng mạn vốn ưa dựng cốt truyện ly kỳ, mà
Huygô lại ưa miêu tả cái cao cả cạnh cái tầm thường nên ông đã sử dụng
thành công bút pháp nghệ thuật tương phản khi miêu tả nhân vật của tác
phẩm.
Tác giả Đặng Anh Đào trong cuốn Văn học phương Tây cho rằng
những hình tượng nhân vật ở đây rất gần với mẫu gốc của văn học dân gian.
Và Nhà thờ Đức bà Pari - cuốn sách bằng đá là chị em sinh đôi với những
khúc dân ca... Đó chính là nét đặc sắc của Huygô trong việc xây dựng chân
dung và tính cách nhân vật của mình.
Còn theo tác giả Nguyễn Ngọc Thi trong Chân dung các nhà văn thế
giới thì Huygô lựa chọn sự kết hợp giữa các trác tuyệt và cái thô kệch. Nhân
vật của Huygô có cái phi thường, cái quá kích cỡ. Những hình thái tu từ
trong nghệ thuật miêu tả của Huygô như ẩn dụ, ngoa dụ, tương phản tạo nên

Trần Thị Thu Hằng

4

K29EVăn



Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari của Victo Huygô
những bức chân dung mang tính lãng mạn.
Đó là những ý kiến đánh giá đúng đắn về tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà
Pari. Bên cạnh việc đồng tình, tán thành, khen ngợi thì cũng có những ý kiến
phủ định khi bàn về tác phẩm này. Chẳng hạn, Lamactin - nhà thơ lãng mạn
thời kỳ đó đã có ý trách Huygô rằng: trong ngôi nhà thờ của ông có tất cả
nhưng chỉ thiếu một ít tôn giáo bởi lẽ ở đó người ta không thấy thượng đế
đâu cả.
Với tác giả Đặng Thị Hạnh trong Tiểu thuyết Huygô thì lại cho rằng:
nhân vật trong tiểu thuyết của Huygô chỉ mang tâm lý một phiến.
Mặc dù có những ý kiến trái ngược nhau khi bàn về tác phẩm nhưng nó
vẫn được coi là cuốn tiểu thuyết lớn duy nhất của nhà văn trong nửa đầu thế
kỷ XIX. Ông xứng đáng là hiện thân của chủ nghĩa lãng mạn và là tiếng
vọng âm vang của thời đại.
Qua việc tổng hợp các ý kiến đánh giá về tác phẩm này chúng tôi chưa
thấy có bài nghiên cứu đánh giá nào riêng về nhân vật trung tâm, cũng như
chưa thấy mối quan hệ sâu sắc giữa nhân vật trung tâm đó với các nhân vật
khác của tác phẩm ở nhiều góc độ khác nhau. Với việc tìm hiểu nghệ thuật
nghịch dị trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari chúng tôi muốn đóng góp
một vài ý kiến về cái độc đáo, đặc sắc ở ngòi bút lãng mạn Huygô.
2.2. Những ý kiến đánh giá về vấn đề nghịch dị (grôtexcơ) trong
sáng tác của Huygô
Nhìn chung các giai đoạn lịch sử văn học phương Tây (trừ thời kỳ cổ
điển chủ nghĩa) các nhà văn lớn đều hứng thú với grôtexcơ như Rabơle,
Sêcxpia, Phlôbe, Đickinx, Brêcht, Iônexcô, Kafka... và nguồn gốc của nghệ
thuật grôtexcơ được M.Bakhtin truy tới tận những hội hè cacnavan của công
chúng. Còn với Huygô thì sao?
Theo tác giả Đặng Anh Đào trong cuốn Lịch sử văn học Pháp thế kỷ
XIX (Lê Hồng Sâm - chủ biên) thì Trong lời tựa Crômoen, Huygô cũng xuất


Trần Thị Thu Hằng

5

K29EVăn


Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari của Victo Huygô
phát từ phản ứng với chủ nghĩa cổ điển đề cao nghệ thuật grôtexcơ mà ông coi
như là một yếu tố mới mẻ. Tinh thần dân chủ hoá nghệ thuật thấm đượm trong
từng trang, từng chữ ông viết về grôtexcơ. Ông tìm ra một hình thức sân khấu
có thể thể hiện nghệ thuật grôtexcơ, đó là đram. Ngoài ra cái grôtexcơ còn
được thể hiện trong thơ và tiểu thuyết của Huygô.
Tác giả Đỗ Đức Hiểu trong Tạp chí văn học số 6 - 1985 chỉ ra rằng: cái
grôtexcơ (cái nghịch dị, thô kệch) là nguồn cảm hứng không hề vơi cạn trong
các sáng tác của Huygô. Nhờ nó mà Huygô sáng tạo ra một thế kỷ thơ, kịch,
tiểu thuyết. Và từ Nhà thờ Đức bà Pari (1831) đến Chín mươi ba (1874) cái
grôtexcơ bao giờ cũng là linh hồn của tiểu thuyết Huygô.
Trong cuốn Victo - Huygô (tác gia tác phẩm văn học nước ngoài trong
nhà trường) tác giả Lê Nguyên Cẩn có nói về cái grôtexcơ (cái nghịch dị, thô
kệch) nhưng không đi nghiên cứu sâu mà chỉ khẳng định đề cao quan điểm về
cái thô kệch (grôtexcơ) mà Huygô đề xuất: Cái xấu tồn tại bên cạnh cái đẹp,
cái ác bên cạnh cái thiện, cái xấu xí bên cạnh cái tao nhã, bóng tối bên cạnh
ánh sáng
Còn trong cuốn Văn học phương Tây tác giả Đặng Anh Đào chỉ ra rằng
các nhà nghiên cứu ở thế kỷ XX đặc biệt chú ý tới yếu tố grôtexcơ trong kịch
đram của Huygô và cho biết cái grôtexcơ ám ảnh Huygô trong nhiều sáng tác
của ông và với Huygô, cái grôtexcơ xuất hiện như một phản đề, là đối cực
giữa cái bụng, xác thịt, con vật với cái đầu, tinh thần, con người. Ông chưa

thấy được chất lưỡng tính của cái grôtexcơ, chưa thấy được đầy đủ mối liên hệ
biện chứng giữa hai đối cực. Trong bài nghiên cứu của mình, Đặng Anh
Đào mới chỉ điểm qua cái grôtexcơ (cái nghịch dị) ở những nét tiêu biểu nhất
trong một vài tác phẩm điển hình của Huygô chứ chưa đi sâu nghiên cứu về
vấn đề này thành một hệ thống cụ thể trong đó tác giả có nhắc đến tính chất
grôtexcơ trong Nhà thờ Đức bà Pari - đó là sự đan chéo những yếu tố bi hài,
cái đẹp và dị dạng

Trần Thị Thu Hằng

6

K29EVăn


Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari của Victo Huygô
Như vậy, tìm hiểu cái nghịch dị (grôtexcơ) không phải là một điều mới
mẻ nhưng tìm hiểu nó ở một phạm vi hẹp (từng nhân vật trong tác phẩm cụ
thể) thì có lẽ chưa có bài nghiên cứu nào đi sâu về vấn đề này. Và những ý
kiến đánh giá trong các bài nghiên cứu sẽ là cơ sở, là cứ liệu để chúng tôi tìm
hiểu Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari của Victo
Huygô một cách cụ thể và sâu sắc hơn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

Trên cơ sở tìm hiểu khái niệm Nghịch dị và sơ lược về sự phát triển
của khái niệm này trong lịch sử phát triển văn học, khoá luận nghiên cứu một
số khía cạnh của nghệ thuật nghịch dị và những hình tượng nghịch dị trong
tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu


Đối tượng nghiên cứu: Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Nhà thờ
Đức bà Pari.
Phạm vi nghiên cứu: Tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari, bản dịch của tác
giả Nhị Ca, Nxb Văn học, năm 2006.
5. Phương pháp nghiên cứu

ở đề tài này chúng tôi sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau:
Phương pháp khảo sát, phân tích văn bản.
Phương pháp so sánh.
Phương pháp hệ thống.

Trần Thị Thu Hằng

7

K29EVăn


Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari của Victo Huygô

Nội dung
Chương 1
Một số khía cạnh của nghệ thuật nghịch dị
trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari
1.1. Tìm hiểu chung về khái niệm Nghịch dị

1.1.1. Khái niệm Nghịch dị
Theo tài liệu nghiên cứu của M.Bakhtin trong Tiếng cười Rabelais và
văn hoá trào tiếu dân gian thuật ngữ nghịch dị (grôtexcơ) được xuất hiện
lần đầu tiên vào thời đại Phục Hưng, nhưng lúc đầu nó chỉ được dùng theo

một nghĩa hẹp. Vào cuối thế kỷ XV, tại La Mã sau những cuộc khai quật,
người ta phát hiện ra một kiểu hoa văn chưa từng biết đến. Kiểu hoa văn đó
gọi bằng tiếng ý là la grottesco, bắt nguồn từ chữ grotta trong tiếng ý có
nghĩa là hang, động, hầm dưới đất. Sang thế kỷ XVI thuật ngữ nghịch
dị được phổ cập.


Bản chất của kiểu hoa văn ấy là phong cách đùa nghịch phi thường kết
hợp kỳ lạ và tự do những hình ảnh thực vật, động vật và con người - chúng
chuyển hoá lẫn nhau, cứ như cái này sinh nở ra cái kia Cho nên nghĩa ban
đầu của thuật ngữ nghịch dị rất hẹp - một biến tướng hoa văn La Mã mới
được phát hiện. Đó là một từ mới để chỉ một hiện tượng mới. Dần dần thuật
ngữ này được mở rộng về nội dung và được định nghĩa như sau: Nghịch dị là
một kiểu tổ chức hình tượng nghệ thuật (hình tượng, phong cách, thể loại) dựa
vào huyễn tưởng, tiếng cười, sự phóng đại, lối kết hợp và tương phản một cách
kỳ quặc cái huyễn hoặc với cái thực, cái đẹp với cái xấu, cái bi với cái hài, cái
giống thực với cái biếm hoạ (05tr.203).
Nếu xét tận cùng nguồn gốc cái nghịch dị đó là một hình thức cổ xưa
nhất của trí tưởng tượng con người và bản chất của nó là sự pha tạp kỳ lạ

Trần Thị Thu Hằng

8

K29EVăn


Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari của Victo Huygô
những yếu tố dị loại của hiện thực, sự phá vỡ cái trật tự và thể chế thông
thường của thế giới, là chất hoang tưởng tự do ở các hình tượng và sự thay

thế lẫn nhau giữa bầu nhiệt huyết và óc mỉa mai (02tr. 210).
Thuật ngữ nghịch dị dịch từ tiếng Italia: Grottesco và tiếng Pháp:
grotesque, cũng có cách dịch khác là lố bịch, thô kệch hoặc kỳ quặc. ở đề tài
nghiên cứu về nghệ thuật viết văn của Huygô thì chúng tôi chọn sử dụng thuật
ngữ dịch nghịch dị. Vì nếu dùng lố bịch hay thô kệch, kỳ quặc thì chỉ
làm nổi bật hình tượng được một chiều, nghiêng về phê phán, chế nhạo (Lố
bịch: không hợp với lẽ thường của người đời một cách quá đáng đến mức đáng
chế nhạo, cười chê. Ví dụ: Điệu bộ lố bịch; Thô kệch: quá thô, không thanh,
không nhã. Ví dụ: Dáng người thô kệch; Kỳ quặc: khác thường một cách lố
bịch). Trong khi đó nghịch dị thể hiện được hai mặt của vấn đề, có sử dụng
biện pháp đối lập, tương phản phù hợp với phong cách nghệ thuật của Huygô
(nghịch: phản lại, không thuận, ngược lại với thuận, dị: khác lạ).
Nghịch dị khác với kì ảo và châm biếm mặc dù có sự gần gũi và
có sử dụng các yếu tố này.
Tóm lại Trong tiến trình vận động của văn hoá, nghệ thuật, cái nghịch
dị có xuất nguồn trào tiếu dân gian đó đã biến dạng, đã vỡ thành chi chít các
mảnh vụn mà theo M.Bakhtin, những mảnh ấy đôi khi hoá ra không chỉ là
mảnh vỡ, mà còn biểu lộ năng lực sống một kiếp sống mới (13tr38 - 39). Vậy
chúng ta cùng tìm hiểu đời sống của cái nghịch dị qua từng thời kỳ.
1.1.2. Sơ lược về sự phát triển của khái niệm Nghịch dị trong tiến
trình lịch sử văn học
1.1.2.1. Nghịch dị trong văn học cổ đại
Nghịch dị là kiểu hình tượng (phương pháp xây dựng hình tượng) đã có
từ xa xưa. Nó đã có trong các hệ thần thoại, trong cổ ngữ của mọi dân tộc,
nhưng chỉ trong sáng tác của một số nhà văn cổ đại ở văn học châu Âu và
trong văn học dân gian nó mới trở thành thủ pháp.

Trần Thị Thu Hằng

9


K29EVăn


Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari của Victo Huygô
Trong nền nghệ thuật nghịch dị cổ đại có ba giai đoạn phát triển của nó:
Nghệ thuật nghịch dị cổ sơ, nghệ thuật nghịch dị cổ điển và nghệ thuật nghịch
dị thời cổ đại hậu kỳ. Kiểu hình tượng nghệ thuật này tất nhiên có cả trong
nghệ thuật của những người Hy Lạp và La Mã cổ.
Theo M.Bakhtin trong Tiếng cười Rabelais và văn hoá trào tiếu dân
gian: Ngay trong giai đoạn cổ điển, kiểu hình tượng nghịch dị vẫn không tiêu
vong, nhưng bị đẩy lùi ra ngoài nền nghệ thuật lớn, chính thống, nó tiếp tục
sống và phát triển trong một số lĩnh vực nghệ thuật hạ đẳng, phi quy phạm:
trong nghệ thuật điêu khắc, trào tiếu, trong lĩnh vực hội hoạ trào tiếu và cả
trong lĩnh vực văn học trào tiếu Đến thời cổ đại Hy - La hậu kỳ, kiểu hình
tượng nghịch dị bước vào giai đoạn phát triển nở rộ, đổi mới và xâm chiếm
hầu hết trong lĩnh vực nghệ thuật và văn học. Tuy nhiên tư tưởng mỹ học và
nghiên cứu nghệ thuật thời cổ đại vẫn phát triển theo dòng truyền thống cổ
điển và vì thế hình tượng nghịch dị không ai đặt cho một tên gọi khái quát cố
định tức là một thuật ngữ và cũng không được lý luận thừa nhận và biện giải.
1.1.2.2. Nghịch dị trong văn học Phục Hưng
Văn học thời Phục Hưng được coi là thịnh thời của nghệ thuật hình
tượng nghịch dị - đó là hệ thống hình tượng của văn hoá trào tiếu dân gian.
Chính ở đây, ở thời đại Phục Hưng lần đầu tiên xuất hiện thuật ngữ nghịch
dị (grotesque). Cái grotesque được định nghĩa ngắn gọn như cái cacnavan,
tức là tinh thần và diễn biến của hội hoá trang. Hội này diễn ra vào thời Trung
cổ và thời Phục Hưng ở phương Tây. Lúc đó, toàn thể xã hội hoá trang Người
ta thay thế cái xã hội giả hàng ngày, bằng xã hội thật, xã hội công bằng và
tự do.
Theo cuốn 150 thuật ngữ văn học của tác giả Lại Nguyên Ân: Các

nguyên tắc quy định cấu trúc hình tượng của nghịch dị thời Phục Hưng là:
Thái độ đối với thời gian, đối với sự hình thành và gắn với hai nguyên tắc trên
là tính lưỡng trị, là việc miêu tả một cách chỉnh thể, không tách biệt cả hai cực

Trần Thị Thu Hằng

10

K29EVăn


Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari của Victo Huygô
của sự hình thành: cả cái mới lẫn cái cũ, cả cái chết chóc lẫn cái sinh thành.
Tiếng cười do hình tượng nghịch dị gây nên cũng mang tính hai chiều: nó vừa
phủ định vừa khẳng định. Chất nghịch dị thời Phục Hưng, gắn với cảm quan
hội cải trang, diễn đạt cảm quan về tính tương đối đầy vui nhộn và tính
không hoàn tất vĩnh vửu của tồn tại. Nó cũng thấm nhuần sự phục hồi cho
thân xác thấm nhuần tinh thần chống khổ hạnh một cách ngạo ngược
Như vậy có thể thấy nghệ thuật nghịch dị thời Phục Hưng trực tiếp gắn
bó với nền văn hoá dân gian, mang tính chất quảng trường và tính hội hè toàn
dân. Hình thức nghịch dị theo phong cách hội hè cải trang có chức năng như
sau: Nó hợp lệ hoá tính hư cấu tự do, cho phép kết hợp cái trái nghịch và
nhích lại gần nhau cái xa cách, giúp giải phóng ý thức con người khỏi quan
điểm chính thống về thế giới, khỏi mọi sự ước lệ, mọi chân lý khuôn sáo, khỏi
tất cả những gì là thường tình, quen thuộc, được mọi người thừa nhận; nó cho
phép nhìn thế giới bằng con mắt mới, nhận thấy được tính tương đối của mọi
thực tại hiện hữu và khả năng có thể có một trật tự thế giới hoàn toàn khác.
(02tr.199)
Chính nhờ những chức năng này mà trong các ngày hội vui đó con
người trở thành chính nó.

1.1.2.3. Nghịch dị trong văn học thế kỉ XVII XVIII
Văn học những thế kỷ này hầu như không còn chịu ảnh hưởng trực tiếp
của nền văn hoá hội hè - dân gian. Bởi trong thời đại này dần dần xuất hiện
một cục diện mới: các hình thức hội hè cải trang. Các lễ thức - diễn trò của
nền văn hoá dân gian dần dần bị thu hẹp phạm vi và trở nên nghèo nàn nông
cạn. Cái cảm quan thế giới hội hè đặc thù với tính toàn dân, tính tự do, tính
không tưởng và hướng vào tương lai của nó biến thành một khí sắc hội hè đơn
thuần và hầu như không còn là cuộc sống thứ hai, không còn là sự hồi sinh và
đổi mới nhất thời của nhân dân nữa. Và do đó truyền thống văn hoá cười dân
gian mất đi, nghịch dị cũng đánh mất xu hướng và khả năng biểu hiện một

Trần Thị Thu Hằng

11

K29EVăn


Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari của Victo Huygô
cách lưỡng trị toàn vẹn những mâu thuẫn chính yếu của tồn tại (01.tr 212).
Lúc này tiếng cười nghịch dị trở nên đơn điệu, nghiêng về sự sợ hãi, tố cáo
một cách tiêu cực.
1.1.2.4. Nghịch dị trong văn học thế kỷ XIX
Trước hết ta tìm hiểu hình tượng nghịch dị trong nửa đầu thế kỷ XIX thời kỳ lãng mạn chủ nghĩa (thời kỳ phồn thịnh của phong trào này là cuối thế
kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX). Theo M.Bakhtin ở hình tượng nghịch dị lãng mạn
chủ nghĩa cái bị cải biến sâu sắc nhất là yếu tố tiếng cười. Nhưng tiếng cười
trong hình tượng nghịch dị lãng mạn đã bị thu giảm và giờ đây xuất hiện dưới
những hình thức như khôi hài, mỉa mai, châm biếm chua cay. Nó đã không
còn là tiếng cười vui sướng, hoan hỉ. Và khi ấy tiếng cười vứt bỏ cái mặt nạ
vui nhộn đi và bắt đầu nhìn thế giới và con người bằng con mắt châm chọc

độc ác, tức là nhân tố tiếng cười tổ chức hình tượng nghịch dị đã bị biến chất
so với thời trung cổ và Phục Hưng.
ở Pháp nghệ thuật nghịch dị được xem như một truyền thống dân tộc
nên có rất nhiều tác giả lãng mạn Pháp quan tâm đến cái nghịch dị trong đó
không thể không kể đến Huygô. Theo Huygô thì các nhà lãng mạn dùng
nghịch dị để nhấn mạnh rằng không thể nào thanh toán được những đối kháng
có cơ sở thế giới quan, nhất là đối kháng giữa cái thẩm mĩ và cái đạo đức
(01.tr 212). Nói như vậy nghĩa là ông chưa thấy được chất lưỡng tính của cái
nghịch dị.
Nhìn chung cái nghịch dị trong văn học lãng mạn tính hai chiều của nó
(giữa cái cao cả và thấp hèn, cái sống và cái chết, cái đẹp và cái quái gở) trở
thành nghịch âm đối chọi, tách rời nhau đến mức đối lập, tuy nhiên nó cũng
có một ý nghĩa tích cực vô cùng to lớn, đó là sự phát hiện ra con người nội
tâm, con người chủ quan với chiều sâu, tính phức tạp và phong phú vô tận của
nó (02.tr 214).

Trần Thị Thu Hằng

12

K29EVăn


Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari của Victo Huygô
Sang đến nửa sau thế kỷ XIX, nghịch dị không được quan tâm nhiều, có
chăng người ta chỉ coi nó như một trong những hình thức pha trò hạ đẳng,
dung tục, hoặc như là một hình thức nghệ thuật trào phúng đả phá những hình
tượng tiêu cực thuần tuý và riêng lẻ. Cho nên nghịch dị thời kỳ này có tính cụ
thể, tính định hướng xã hội triệt để và sâu sắc.
1.1.2.5. Nghịch dị trong văn học thế kỷ XX

ở thế kỷ XX, nghịch dị trở thành một hình thức tiêu biểu của nghệ
thuật. Tuy nhiên bức tranh phát triển của nghệ thuật nghịch dị hiện đại khá
phức tạp và mâu thuẫn. Nó có thể chia làm hai tuyến như sau: Tuyến thứ nhất
là tuyến nghịch dị hiện đại chủ nghĩa và tuyến thứ hai là tuyến nghịch dị
hiện thực chủ nghĩa. ở tuyến thứ hai này văn học hiện thực thế giới tiếp
nhận những yếu tố của chủ nghĩa hiện thực nghịch dị, gắn kết nó với cái
nghịch dị của văn hoá dân gian, đôi khi chịu ảnh hưởng trực tiếp của các hình
thức hội cải trang. Còn ở tuyến nghịch dị hiện đại chủ nghĩa (các tác giả của
chủ nghĩa ấn tượng, chủ nghĩa siêu thực, kịch phi lý) thì văn học hiện đại
chủ nghĩa tiếp thu cái nghịch dị lãng mạn, song ở đây cái nghịch dị mất hẳn
thuộc tính tái sinh hồn nhiên, khoẻ khoắn ban đầu của mình, lúc này cái
nghịch dị là hình thức biểu hiện cái vô ngã (13.tr 40)
Như vậy, qua việc tìm hiểu sơ lược về sự phát triển của khái niệm
nghịch dị trong tiến trình lịch sử văn học ta thấy ở mỗi giai đoạn của lịch sử
văn học thì cái nghịch dị mang những sắc thái biểu hiện khác nhau và đem lại
hiệu quả nhất định trong các sáng tác của các nhà văn.
1.2. Một số khía cạnh của nghệ thuật nghịch dị trong tiểu
thuyết Nhà thờ Đức bà Pari

Tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari là cuốn tiểu thuyết lớn duy nhất của
nhà văn trong nửa đầu thế kỷ XIX. Câu chuyện được đặt trong khung cảnh
Pari thời trung cổ. ở đề tài này, với những tác giả thuộc trào lưu lãng mạn tiêu
cực thì tác phẩm của họ tập trung đi sâu vào việc miêu tả những cảnh hoang

Trần Thị Thu Hằng

13

K29EVăn



Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari của Victo Huygô
tàn, những lâu đài phong kiến và tầng lớp kỵ sĩ. Còn đối với Huygô, ông đã
hướng hẳn về nền Trung cổ của nhân dân qua việc miêu tả những sắc thái của
nền văn hoá thời đó từ sinh hoạt đến phong tục, tập quán, tín ngưỡng, kiến
thức v.v đều gắn với nhân dân và làm toát lên sức mạnh vô tận của quần
chúng (08tr.68).
Bối cảnh làm nền cho câu chuyện ở đây là một bối cảnh hiện thực và
chính phẩm chất hiện thực này tạo ra sức sống mãnh liệt cho sáng tác của
Huygô. Đây cũng là điều phân biệt Huygô với những nhà lãng mạn khác: Ông
không thoát ly hiện thực để đi tìm những chốn mộng mơ mà ông đứng vững
trên mảnh đất hiện thực để từ đó kiến giải theo cách riêng của ông, theo cảm
quan lãng mạn của ông. Với ông cái bình thường là cái giết chết nghệ thuật.
Và văn chương kỳ diệu ở chỗ phát hiện được cái khác lạ trong những cái vốn
là bình thường, quen thuộc.
Soi vào tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari Huygô đã đưa cái nghịch dị
vào tác phẩm như là đối tượng phản ánh chính của tác phẩm. Cái nghịch dị
hay chính là tinh thần và diễn biến của hội cải trang, nó có nhiều biểu hiện
khác nhau. Sau đây chúng tôi sẽ đi sâu vào tìm hiểu một số khía cạnh của
nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari để qua đó làm nổi
bật giá trị nghệ thuật cũng như tư tưởng của tác phẩm. Các khía cạnh đó là: cái
hài, cái khủng khiếp, dị hình; cái huyền ảo, kỳ quái.
1.2.1. Cái hài
Cái hài là một trong những phạm trù của mỹ học. Nó xác định giá trị
thẩm mĩ thông qua việc phát hiện tính mâu thuẫn có ý nghĩa xã hội của thực
tại. Cái hài là cái cười cao cả, phù hợp với những phẩm chất đa dạng của thực
tại, là các sắc thái khác nhau của tiếng cười. Mà một trong những sản phẩm vô
giá của con người là tiếng cười. Cái cười không tồn tại bên ngoài xã hội loài
người. Bản thân tiếng cười được sinh ra từ sự mâu thuẫn giữa nội dung được
phản ánh và hình thức phản ánh, nảy sinh khi cái ti tiện tự làm ra vẻ vĩ đại, cái


Trần Thị Thu Hằng

14

K29EVăn


Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari của Victo Huygô
ngu ngốc làm ra vẻ thông thái.
Mở đầu tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari là không khí của lễ hội thời
Trung cổ. Toàn thể dân chúng Pari lúc đó thức dậy theo tiếng chuông âm
vang khắp nơi (12tr.28). Họ xúc động, hăm hở, hăng hái trước ngày lễ lớn đó
cho nên các đường phố nô nức dòng người đổ về khu trung tâm để xem diễn
mixterơ và bầu Cuồng đãng giáo hoàng (12tr. 30). Theo như lời của tác giả
ngày mùng 6 tháng giêng hàng năm là Ngày hội Cuồng đãng, ngày hội
phóng dật, ngày chè chén say sưa hàng năm của giới luật sư và trường học.
Hôm nay tha hồ mà bậy bạ, không ai cấm đoán và chẳng có gì là thiêng liêng
hết (12 tr.61). Đó là một hình thức biểu hiện của văn hoá trào tiếu dân gian.
Nó dựa trên nguyên tắc gây cười theo cách lên ngôi - truất ngôi, qua đó phản
ánh khát vọng đổi đời của người nghèo. Những ngày lễ vui vẻ này là những
ngày quần chúng có được tự do thật sự. Vào ngày này dù sao ít nhất cũng
được chửi đổng và được văng tục dăm ba câu. Chính vào thời điểm hội hè
Cacnavan, tại quảng trường, ở không gian ấy, vào những giây phút đảo lộn trật
tự thông thường ấy, anh hề, gã làm trò mới có sự đảo lộn vai, đặc biệt
Cađimôđô trở thành giáo hoàng Cuồng đãng và Exmêranđa trở thành ánh
sáng, thành ngọn lửa, thành nàng tiên kỳ ảo. Huygô rất thành công trong việc
miêu tả lễ hội. Có thể nói rằng ở quyển 1 này Huygô đã tạo ra một thế giới đối
lập với thế giới hiện hành, cũng như thế giới vui nhộn của cacnavan, khoẻ
mạnh, phong phú với những màu sắc sặc sỡ, những đảo lộn hùng tráng mà tiêu

biểu nhất là tiếng lóng - cái thế giới ngôn từ kỳ quặc nhưng lại có sức sống
mãnh liệt ngoài vòng pháp luật. Đó là những lời mắng rủa, những câu chửi
đôi khi dài và phức tạp. Và những câu ấy thường được biệt lập về ngữ pháp
và ngữ nghĩa trong lời nói và được tiếp thụ như những chỉnh thể hoàn bị giống
như những ngạn ngữ (02tr.168). Vì sao lại có những đảo lộn ấy? Đơn giản
là do phong tục tập quán, cho nên trước những lời công kích, những tiếng
mắng chửi, tiếng hét kinh người, những lời văng tục của tất cả các miệng lưỡi

Trần Thị Thu Hằng

15

K29EVăn


Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari của Victo Huygô
tháo khoán, miệng lưỡi giáo sinh và học trò cả năm bị kìm giữ vì sợ thanh sắt
nung của Xanh Luy (12tr.61) tạo thành một sự nổi loạn, phá phách mà các
nhà chức trách có thẩm quyền chẳng thèm để ý và bận tâm. Đó chính là tiếng
nói của cacnavan; nó cũng hoá trang lộng lẫy và dị dạng, uyên bác và tục tằn,
đa nghĩa và vô nghĩa; từ đáy xã hội nó vùng lên đòi không gian sinh tồn của
nó. Có thể nói tiếng nói ấy là ngôn ngữ bị tha hoá hay ngôn ngữ grotesque.
Chính điều đó tạo cho người đọc cái cười thành thực vì người đọc nhận ra rằng
trong xã hội ấy người dân phải sống dưới một chế độ cực kỳ hà khắc của lý
thuyết của nhà thờ Thiên chúa giáo nhưng họ đã biết lợi dụng này của mình
để làm những điều họ muốn. Chính vì thế họ đã thực sự nổi loạn khi tham
gia bầu Cuồng đãng giáo hoàng. Cái trò này đã làm cho họ say mê đến cuồng
loạn bao nhiêu khuôn mặt quái gở lần lượt tới nhe răng há miệng ở lỗ cửa
hoa thị giống như bấy nhiêu bùi nhùi rơm vứt thêm vào đống lửa (12tr.77).
Cách so sánh của Huygô thật độc đáo và chính xác khiến cho người đọc tuy

không tham dự vào trò vui đó nhưng cũng có thể tưởng tượng được diễn biến
của nó. Có lẽ bất kỳ ai chứng kiến cảnh đó cũng phải bật cười, đó là tiếng
cười giữa nhân gian khiến cho Gringoa - người thất vọng, chán nản trước sản
phẩm tinh thần của mình cũng có lúc nảy ra ý định chơi ngông, dù chỉ để có
cái thích thú là nhăn mặt nhưng vì lòng tự trọng của mình mà anh ta không
dám làm. Sự mâu thuẫn này cũng tạo nên một hiệu quả nhất định trong việc
tạo ra tiếng cười.
Cái thế giới nghịch dị của Huygô còn là tiếng cười mỉa mai, châm biếm
chống lại sự nghiêm trang chính thống. Quả là thiếu sót khi nói đến cái hài
trong Nhà thờ Đức bà Pari mà bỏ qua cảnh khảo đả Cadimôđô, vụ tra tấn
Exmêranđa, các phiên toà của pháp đình và giáo hội. Tất cả diễn ra như một
trò hề.
Trước hết ta thấy rằng tiếng cười mỉa mai, châm biếm chống lại sự
nghiêm trang, nghiêng về thái độ phủ định (chế giễu) đối tượng và đồng thời

Trần Thị Thu Hằng

16

K29EVăn


Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari của Victo Huygô
là tiếng cười lật tẩy, tố cáo mà đối tượng của nó là những thói hư tật xấu. Điển
hình là ông thẩm phán Phloriăng Bácbơ điên ở Satơlê - đại diện của toà án
điếc. Khuôn mặt của ông ta được miêu tả đã chứa đựng đầy sự lố bịch và kệch
cỡm: Với cặp lông mày như sắp rời ra, mặt đỏ nhừ, quàu quạu, mắt híp, hai
má núng nính đầy mỡ, chảy dài xuống cằm thế mà còn bị điếc nhưng ông ta
lại không muốn người ta biết mình bị điếc, thành thử cuộc xử án diễn ra trong
tiếng cười ầm ĩ, điên cuồng của tất cả mọi người có mặt ở đấy trừ hai gã điếc

không hề biết mình là đối tượng để cười. Cụ thể như sau: Với người cầm cán
cân công lý đáng lẽ phải là người sáng suốt, hoàn hảo về mặt tri thức cũng như
trong mọi tình huống cần giải quyết vậy mà lão thẩm phán ở đây ngả đầu ra
sau ghế và lim dim đôi mắt thành ra lúc đó lão vừa điếc lại vừa mù. Nếu
không có hai điều kiện này, lão đã chẳng thành một thẩm phán hoàn hảo
(12tr.255). Thì ra làm thẩm phán thời đó cũng không khó chỉ cần ra vẻ lắng
nghe là đủ sau đó ký vào bản án và cứ thế mà thi hành. Người đọc có lẽ
không quên chi tiết viên lục sự thấy thương hại gã tội nhân khốn khổ, y có ý
muốn xin giảm nhẹ tội cho nó nên ghé sát tai viên thẩm phán rồi chỉ
Cadimôđô và bảo: Anh ta điếc thì lập tức thầy Phloriăng ra vẻ nghe rõ và
đáp: Ra thế à? Nếu vậy lại khác. Nào tôi có biết đâu. Trong trường hợp này,
phạt thêm nó một giờ bêu tù nữa (12tr.259). Đúng là sự ngu ngốc làm ra vẻ
thông thái, vĩ đại đã làm hại một con người. Chính điều này tạo ra sự mâu
thuẫn và gây nên tiếng cười châm biếm, mỉa mai không chỉ đối với riêng một
cá nhân mà cả một chế độ xã hội đương thời: Một thầy thẩm phán điếc - đại
diện cho pháp luật xử án một kẻ điếc bị buộc về tội đáng lẽ anh ta không phải
chịu. Các tội mà anh ta bị buộc phải nhận trước toà là: Làm náo động ban
đêm, có hành động bất chính với một người đàn bà điên, chống đối và gian
manh đối với các cung thủ ngự lâm quân. Nếu tìm hiểu rõ nguyên nhân, nếu
pháp luật công minh thì có lẽ anh ta chỉ bị cảnh cáo mà thôi.

Trần Thị Thu Hằng

17

K29EVăn


Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari của Victo Huygô
Hình ảnh Cadimôđô trong chi tiết xử án này cũng thật đáng cười: Khi

Phloriăng hỏi thì Cadimôđô không trả lời mà ngơ ngác với vẻ mặt nghiêm
trang vì thực sự anh ta không biết là câu hỏi dành cho mình đến lúc hiểu đôi
chút thì trả lời lại chẳng ăn nhập gì khiến cho tội trạng của anh ta tăng lên.
Lúc này Cadimôđô đáng thương hơn đáng trách.
Như vậy ta thấy Huygô đã cười một cách thâm thuý, sâu cay vào sự
hợm hĩnh, nghễnh ngãng của những người có vị trí trong xã hội lúc bấy giờ.
Chính họ mới là người phá vỡ không khí trang nghiêm của buổi xử án và tạo
ra tiếng cười nhiều cung bậc. Tiếng cười ấy nhằm vào mọi đối tượng, ngay cả
những người cười.
Với vụ xử án Cađimôđô thì như vậy, còn với Exmêranđa thì sao? Chắc
chắn cũng lại như một trò hề bởi ta thấy rằng công lý thời đó rất ít quan tâm
tới sự rõ ràng và minh bạch trong các vụ hình sự tố tụng. Cho nên các vị thẩm
phán muốn xử vụ Exmêranđa một cách nhanh chóng để họ còn được ăn tối.
Họ không coi trọng mạng sống của con người mà chỉ cần biết bị cáo bị treo
cổ, thế là đủ lắm rồi. Pháp luật thời đó thật bất công nên mới có những án lệnh
tuỳ tiện như vậy. Vì thế hỏi cung Exmêranđa không được họ liền dùng cực
hình ép cô nhận tội có hành vi phù thuỷ: nào là có tham dự các bữa tiệc, dạ hội
và trò ma quái âm phủ, nào là thường xuyên gặp gỡ ma quỷ dưới dạng con dê
nuôi trong nhà, nào là nhờ sự giúp đỡ của con ma đội lốt thầy tu để sát hại đại
uý Phêbuýt. Tội nghiệp cô bé đến nay toàn sống cuộc đời vui vẻ, ngọt ngào,
êm dịu, chỉ cần đau đớn đầu tiên là chịu khuất phục (12tr.393). Và để tội
trạng của cô được rõ ràng hơn họ đã tiến hành hỏi cung con dê. Thật lực cười,
con dê nào có biết gì, những phản ứng của nó trước toà chỉ là những hành
động vô thức mà thôi. Bởi các trò đó được chủ của nó dậy để biểu diễn vậy mà
họ lại cho đó là con vật yêu quái, là quỷ Xa tăng hiện hình. Những kết luận
của toà án thật vô lý và không có căn cứ thế nhưng họ vẫn kết án Exmêranđa
và con dê của cô phải chịu tội treo cổ, hơn nữa cô còn phải nộp tiền để chuộc

Trần Thị Thu Hằng


18

K29EVăn


Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari của Victo Huygô
những tội mình đã phạm và thú nhận. Vụ án kết thúc bằng một giọng nói
lạnh lùng của viên lục sự: cô sẽ bị treo cổ tại quảng trường Grevơ vào lúc giữa
trưa nhưng chưa biết cụ thể vào ngày nào vì còn phải tuỳ thuộc vào đức hoàng
thượng định đoạt. Nhưng may thay vào ngày cuối cùng của đời cô, cô đã được
cứu sống. Người cứu cô thoát khỏi giá treo cổ đã bất chấp nguy hiểm và cái
chết không ai khác chính là Cadimôđô - gã kéo chuông Nhà thờ Đức bà. Hành
động này đã được dân chúng hò reo, tán thưởng và hô vang Nôen! Nôen!,
nó khác nào quái vật cứu tiên nữ khiến cho tiếng cười ở đây bật ra thật đau
đớn, xót xa.
Có thể thấy bản chất của nghệ thuật là sáng tạo nhưng sáng tạo phải dựa
trên cơ sở hiện thực, không xa vào thực tế. Và bằng tài năng của mình Huygô
đã sáng tạo ra rất nhiều chi tiết gây cười với bút pháp quen thuộc là đối lập
tương phản qua đó làm nổi bật được một phần nào đó giá trị tư tưởng của tác
phẩm là phê phán chế độ xã hội đương thời: đó là một xã hội bất công, tồn tại
nhiều hủ tục lạc hậu nên có nhiều người đã phải chịu những hình phạt oan
uổng và qua đây Huygô mong rằng sẽ có một tương lai tốt đẹp hơn, công bằng
hơn Đó cũng chính là ước mơ, khát vọng của nhân dân.
1.2.2. Cái khủng khiếp, dị hình
Khía cạnh thứ hai của nghệ thuật nghịch dị đó là cái khủng khiếp dị
hình, đây là nét nghĩa quan trọng của nghịch dị ở Huygô, nó có quan hệ với
cái hài và cái xấu.
Trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, các văn nghệ sĩ chân chính đều có
niềm khao khát cháy bỏng thể hiện chân thực cuộc sống, nhưng không ai
muốn biến tác phẩm của mình thành bản sao chép cuộc sống mà muốn phản

ánh nó một cách có nghệ thuật. Do đó ta thấy giữa tác phẩm và đối tượng
miêu tả cần có một khoảng cách nào đó, một độ chênh và một sự biến
dạng nhất định, nhưng khoảng cách đó phải có tác dụng trở lại phục vụ giá trị
tác phẩm đầy đủ và sâu sắc hơn. Trên quan điểm ấy Huygô đi theo hướng xây

Trần Thị Thu Hằng

19

K29EVăn


Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari của Victo Huygô
dựng cái phi thường. Ông đẩy tất cả đến mức tuyệt đối, đã xấu thì xấu kinh
khủng, đã đẹp thì đẹp tuyệt vời, đã khủng khiếp thì cũng rùng rợn không kém,
tức là ở đây tính hai chiều của cái nghịch dị không còn nữa mà nó trở thành
nghịch âm đối chọi, nó bị đẩy về hai phía của đầu mút, diễn đạt sự không
trùng khớp giữa lý tưởng và hiện thực.
Trước hết ta tìm hiểu cái dị hình trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari.
Dị hình tức là hình hài có sự khác thường, quái dị. Với nhân vật Cadimôđô, ấn
tượng đầu tiên mà tác giả vẽ ra cho độc giả là dáng đi nửa người nửa thú. Tại
sao lại có dáng đi như vậy? Ta hãy xem về nguồn gốc xuất thân của nó. Nó là
đứa trẻ bị bỏ rơi, vào một ngày đẹp trời người ta đặt nó trên tấm dát giường
thường đặt đứa trẻ vô thừa nhận, để tuỳ mọi kẻ từ thiện ai thích cứ việc đem về
nuôi (12 tr.187). Và tất nhiên là cũng có người mủi lòng trước tình cảnh đó
mà nhận về nuôi. Song đáng thương và độc ác thay cho Cadimôđô, hắn đã
không được tạo hoá ưu ái ban phát cho một hình hài tử tế mà hắn được nhào
nặn một cách vụng về tới mức tác giả miêu tả: Loài sinh vật nằm trên tấm
ván gợi thú tò mò đến cao độ cho một nhóm khá đông đang tụ tập xung
quanh (12tr.187). Họ bàn tán với nhau về nó như một quái vật gớm ghiếc. Họ

bảo đó là thằng nhóc quái vật không phải là trẻ sơ sinh và thậm tệ hơn họ
bảo nó giống một con thú, một con vật, sản phẩm của một tên Do Thái với
một mụ lợn xề cần vứt xuống sông hoặc quẳng vào lửa (12tr.189). Quả
đúng là hắn có hình hài thật đáng sợ Đó là một khối nhỏ rất gồ ghề và quẫy
rất mạnh Cái đầu hình thù cũng méo mó, chỉ thấy một rừng tóc đỏ hoe, một
con mắt, một cái mồm và hàm răng. Thử hỏi với bề ngoài như thế thì ai
dám nhận về nuôi cơ chứ cho nên thay vì nhận nó, họ muốn nó phải chết. Họ
ghê tởm nó tới mức có người nói ta tưởng ở đây chỉ bày trẻ con và quay mặt
đi biểu hiện sự miệt thị, nghĩa là họ không coi nó là người, là một đứa trẻ. (So
với Chí phèo của Nam Cao thì Cadimôđô đáng thương hơn nhiều. Tuy đã có
lúc Chí Phèo bị coi là con quỷ dữ của làng Vũ Đại và bị loại khỏi cộng đồng

Trần Thị Thu Hằng

20

K29EVăn


Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari của Victo Huygô
xã hội loài người nhưng ít ra hắn cũng đã từng được coi là con người còn
Cadimôđô thì chưa một lần vả lại còn bị hắt hủi). Cuối cùng nó cũng được một
linh mục trẻ (sau này trở thành phó chủ giáo) Clôđơ Phrôlô nhận về nuôi. Nó
lớn lên trong nhà thờ, cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài, trở thành
người kéo chuông trong nhà thờ Đức bà. Thời gian trôi đi, Cadimôđô đã
trưởng thành và hắn cực kỳ xấu. Hãy xem tác giả miêu tả: Cả người hắn là
một khối nhăn. Một cái đầu to tướng lởm chởm tóc đỏ quạch; giữa đôi vai là
cái bướu kếch xù làm đằng trước ngực như nhô ra chân vòng kiềng bẻ queo
rất kỳ tài, chỉ có thể chạm nhau ở đầu gối hai bàn chân to bè, hai bàn tay
lớn khủng khiếp, và cùng với cả hình thù quái dị này, còn là một dáng đi đáng

sợ, rất mạnh mẽ, nhanh nhẹn và quả cảm (). Có thể nói đây là một gã khổng
lồ bị tháo dời từng mảnh và được hàn lại vụng về (12tr.80). Và nhìn môt cách
tổng thể hắn là một thằng gù, một thằng khoèo, một thằng điếc và một thằng
chột. Tóm lại là bao nhiêu cái xấu dồn về nó hết. Chính cái hình dáng này đã
ám ảnh, đe doạ và cướp đi toàn bộ cuộc sống trong mối liên hệ cộng đồng của
Cadimôđô. Có thể thấy nhà văn phóng đại tới mức lạ hoá về ngoại hình nhân
vật. Đây là một bút pháp thường gặp ở Huygô. Ông thường ưa thích cái phi
thường, cái quá khổ với các biện pháp cường điệu, ngoa dụ nhưng người đọc
vẫn chấp nhận nó một cách vui vẻ và tự nhiên chứ không gò ép miễn cưỡng.
Hình dáng của Cadimôđô đã đạt tới đỉnh cao của sự xấu xí. Trong ngày hội
Cuồng đãng, khuôn mặt của hắn làm sửng sốt dân chúng Pari. Một khuôn mặt
xấu tự nhiên vượt xa các kiểu làm trò cố tình khác. Nó làm cho những người
đàn bà run sợ, khiếp đảm, còn đám đàn ông thì vui sướng thích thú. Chính cái
dáng không bình thường ấy cộng với sức mạnh phi thường mà Cađimôđô đã
tạo cho mình cái quyền uy trước đám đông trong ngày hội Cuồng đãng và
hắn đã trúng cử nhờ sự dị dạng ấy.
Cảnh đám lưu manh tung hô ông vua của ngày hội từ phố này sang phố
khác là chi tiết sáng tạo của Huygô đây có thể được coi là cái nghịch dị khủng

Trần Thị Thu Hằng

21

K29EVăn


Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari của Victo Huygô
khiếp. Bởi cảnh rước giáo hoàng Cađimôđô diễn ra thật kinh khủng, kệch
cỡm. Lúc đầu họ vây quanh, vận dụng các giác quan để đánh giá chiêm
ngưỡng Cadimôđô. Cha mẹ ơi! Suốt đời tao chưa thấy ai xấu xí tuyệt diệu

như mày! (12tr.82). Sau đó chúng cho Cuồng đãng giáo hoàng ăn mặc lố
lăng và ngồi trên chiếc kiệu sặc sỡ diễu qua hành lang bên trong toà pháp
đình, ra phố và ngã tư trong tiếng nhạc, tiếng cười nói ầm ĩ, huyên náo, cái
kệch cỡm ở chi tiết này còn ở chỗ khi thấy tất cả những người tuấn tú, hiên
ngang và cân xứng đều dưới đôi chân dị hình của Cadimôđô.
Sự khủng khiếp của nhân vật này còn được tác giả khắc hoạ rõ nét qua
khuôn mặt người chẳng ra người, quỷ chẳng ra quỷ của Cadimôđô. Sức ghê
rợn khủng khiếp của bộ mặt làm cho đàn bà chửa xảy thai, hay đẻ ra thứ con
hai đầu ngay từ cái nhìn đầu tiên. Không những thế có lúc nó được miêu tả
mang màu sắc ma quái, nó thét lên nghiến răng kèn kẹt, mái tóc đỏ hoe dựng
đứng, ngực thở phì phò như bể lò rèn, mắt toé lửa. Như vậy với bút pháp
cường điệu, ngoa dụ tác giả đã đẩy nhân vật tới tầm phi cuộc sống, xa rời hiện
thực. Và có thể nói rằng với cách miêu tả như vậy Cadimôđô chỉ là một thứ
gần đủ, thiếu sự hài hoà để giống người và thiếu chi tiết để thành quỷ. Có lẽ
cha mẹ hắn bỏ hắn cũng vì hắn nửa người nửa thú như vậy.
Hình hài dị dạng của Cadimôđô đã gây cho hắn bao nhiêu là phiền toái.
hắn không được hưởng cái hạnh phúc đời thường của nhân loại. Hắn yêu say
đắm Exmêranđa nhưng không hề được nàng đáp lại dù chỉ là bằng cái nhìn có
chăng cũng chỉ là lòng thương hại mà thôi. Exmêranđa khiếp sợ mỗi khi nhìn
thấy hắn. Vì thế hắn chỉ đến gần nàng khi nàng đã đi ngủ. Có lần hắn đã nói
với nàng: Tôi là cái gì gớm ghiếc, chẳng phải người, chẳng phải vật, một thứ
gì đó còn cứng rắn hơn, bị dày xéo dưới chân và bị dị dạng hơn một hòn sỏi
(12tr.459). Như vậy là hắn tự ý thức được sự dị dạng của mình. Ta có cảm giác
đây là nỗi đau ứa máu đầy căm giận mà Cadimôđô đành câm nín. Dụng ý của
nhà văn khi ông đẩy nhân vật của mình tới mức cực đoan về ngoại hình như

Trần Thị Thu Hằng

22


K29EVăn


Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari của Victo Huygô
vậy cũng không hoàn toàn là để tạo dựng bút pháp tương phản giữa ngoại hình
và tính cách mà còn phản ánh thời kỳ mông muội của con ngnười. Do đó mà
Nhà thờ Đức bà Pari gần với các sáng tác dân gian. Đây là môtíp kế thừa
truyền thống dân gian: người mang lốt - xấu xí - biến dạng nhưng ở đây
Cadimôđô sẽ không thể lột xác để trở thành chàng hoàng tử của Exmêranđa
mà sự biến dạng, cái làm cho ta bất ngờ chính là tâm hồn của gã. Tâm hồn là
nguồn dưỡng đã bù đắp lại những thiệt thòi về dáng vẻ cho Cadimôđô.
Còn đối với Exmêranđa, cô đã từng qua nhiều vùng đất nhưng chưa nơi
nào để lại trong cô nhiều nỗi kinh hoàng như chốn thành thị này. Sự dị dạng
của Cadimôđô làm cô khiếp sợ đã đành, nhưng một người hoàn toàn bình
thường cũng làm cô khiếp sợ không kém đó là Clôđơ Phrôlô, ông ta luôn là
nỗi kinh hoàng đối với Exmêranđa khiến cho mỗi lần giọng nói ấy vang lên
đều làm cho cô giật mình và run sợ. Cô đã từng nhiều lần giáp mặt với ông ta
nhưng chưa lần nào lại khủng khiếp như lần cô bị giam trong ngục. Ông ta đến
mang một luồng hơi lạnh giống như tử thần đến để cướp đi sinh mạng cô. Khi
bàn tay ấy cầm lấy cánh tay cô, cô có cảm giác Đây là bàn tay lạnh giá của
tử thần (12tr.404) rồi cô nhận ra bộ mặt rùng rợn lâu nay vẫn theo đuổi cô,
cái đầu quỷ dữ cô thấy xuất hiện ở nhà mụ Phaluốcđen (12tr.404) khiến cô
càng kinh sợ. Và tại đây cô biết được sự thật chính ông là kẻ đã đâm người
yêu mình cho nên không có gì mà cô lại không khinh ghét ông ta. Cô gọi ông
ta là con quỷ hút máu người. Chính ông ta đã từng thổ lộ với cô Khi đã làm
điều xấu, phải làm tới cùng. Có hoạ điên mới dừng lại nửa chừng trong công
việc tàn ác (12tr.410). Lúc này Phrôlô đã nói là làm và quả thật là ông ta đã
làm tới cùng, bằng cớ là khi không có được Exmêranđa ông ta đã bắt cô phải
chết để không ai có được cô nữa. Chính ông đã đẩy cô tới đài treo cổ ở quảng
trường Grevơ. Và hình ảnh giáo đài này được trở đi trở lại nhiều lần trong tác

phẩm, nó ám ảnh nhân vật của Huygô như là một định mệnh. Cho nên dường
như nó cũng gây nên một nỗi kinh hoàng nào đó cho con người.

Trần Thị Thu Hằng

23

K29EVăn


Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari của Victo Huygô
Đoạ đầy Exmêranđa không chỉ có như vậy mà cô còn luôn bị nguyền
rủa, mắng chửi thậm tệ bởi mụ tu kín ở tháp Rôlăng. Mụ vốn ghét người Ai
Cập nên ghét lây sang cả cô vì tưởng cô cũng trong nhóm bọn họ. Mụ gào lên
bằng một giọng the thé, xua đuổi cô như đuổi một vật gì đáng ghê tởm khiến
cho cô ghê sợ mỗi lần qua nơi ở của mụ. Mụ trở thành con người khủng khiếp,
hoá điên, hoá dại như vậy cũng chỉ vì đứa con đứt ruột đẻ ra của mình bị bọn
người Ai Cập bắt đi, đánh tráo.
Ta thấy rằng thành phố Pari đã đi vào nhiều tác phẩm văn học với vẻ
đẹp tráng lệ, nguy nga nhưng trong tiểu thuyết này nó xuất hiện trước mắt
độc giả với một diện mạo mới mẻ. Đó không còn là cung điện nguy nga và
cuộc sống ăn chơi phè phỡn nữa mà là những phố đen tối tăm, với những cuộc
tấn công của những kẻ ăn mày vào nhà thờ Đức bà; là nơi ở của cô gái nghèo
khổ Exmêranđa và người kéo chuông nhà thờ tàn tật Cađimôđô. Đó là còn là
nơi của những thân tàn ma dại, què cụt, bẩn thỉu. Càng vào sâu trong thành
phố ta sẽ thấy Nào què hai chân, nào mù loà, thọt cẳng cứ nhung nhúc vây
quanh lại thêm bọn cụt tay, chột mắt, bọn hủi, lở loét, chúng gào thét,
gầm rú, run rẩy, tất cả đều bước thấp, bước cao, láo nháo, kéo ùa về phía ánh
sáng và lội bì bõm trong bùn như ốc sên sau cơn mưa (12tr.115). Quả thật
đây là thế giới của những người kinh dị, nơi đó ranh giới giữa các loài vật và

các giống hình như bị xoá bỏ giữa khu phố này như ở dưới thủ đô âm phủ.
Thật đúng là một thế giới mới, xa lạ, khác thường, cổ quái, lê lết, nhung nhúc,
kỳ dị (12tr.118). Và tác giả ví nơi đó giống như cái mụn cóc ghê tởm giữa
khuôn mặt Pari. Nhưng nó lại được đặt với cái tên rất kêu, rất lãng mạn cung điện thần kỳ. Chứng tỏ thế giới ấy cũng không khiếp đảm như ta tưởng
mà theo như tác giả giải thích nó được đặt ra để chế giễu bọn ăn mày, chúng
giả vờ què cụt, đui loà để xin ăn nhưng khi về tụ tập ở đó lập tức trở thành
lành lặn, vui vẻ như có phép thần kỳ. Pie Gringoa là người may mắn được
chứng kiến cảnh đó nên đã đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác và tưởng

Trần Thị Thu Hằng

24

K29EVăn


×