Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Phân tích kỹ thuật công cụ phân tích

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (552.13 KB, 43 trang )

Phân tích kỹ thuật
1. Khái niệm.
-

Phân tích kỹ thuật sử dụng các mô hình toán học (đồ thị, biến đổi miền, xác
suất thống kê,…) dựa trên dữ liệu thu thập về thị trường trong quá khứ và hiện
tại để chỉ ra trạng thái của thị trường tại thời điểm xác định, thông thường là
nhận định xu hướng thị trường đang lên, xuống hay “dập dềnh” hoặc nhận định
tương quan lực lượng giữa sự tăng và sự giảm giá. Phân tích kỹ thuật không để
ý đến các chỉ số tài chính, tình hình phát triển hay các thông tin về thị trường
về doanh nghiệp mà chỉ chú trọng vào tập các dữ liệu về giá cả, khối lượng, …
của cổ phiếu thu thập được tại các phiên giao dịch trong quá khứ.

-

Chính vì chỉ dựa vào tập dữ liệu đã tồn tại trên thị trường – tức là các thông tin
trong quá khứ - phân tích kỹ thuật không phải là công cụ để dự đoán tương lai
giá cả của cổ phiếu. Những kết luận thu được từ các biện pháp phân tích kỹ
thuật chỉ thị trạng thái của thị trường đã xảy ra trong quá khứ; thời điểm rút ra
kết luận về trạng thái của thị trường luôn luôn đi sau so với sự kiện đã xảy ra.
Khoảng thời gian chênh lệch đó gọi là độ trễ.

2. Thuộc tính và tính chất.

Một phép phân tích kỹ thuật thông thường có các thuộc tính và tính chất sau.
- Số phiên tính toán: số phiên lấy dữ liệu tính toán cho một giá trị của phân tích.
- Độ trễ: Khoảng thời gian từ lúc trạng thái thị trường đã xảy ra cho đến khi phép
phân tích chỉ ra được trạng thái đó. Trong cùng 1 phương pháp phân tích, số phiên
tính toán càng lớn thì độ trễ càng lớn. Nhà đầu tư càng ngắn hạn bao nhiêu thì
càng mong muốn độ trễ nhỏ bấy nhiêu.
- Độ nhạy: Sự kịp thời trong phản ánh các biến động của thị trường của thị


trường.. Tính chất này ngược lại với độ trễ.
- Độ chính xác: Tính ít sai xót trong phản ánh các biến động của thị trường. Tuy
nhiên độ chính xác và độ nhạy lại đối nghịch với nhau.
3. Đặc điểm.

Phân tích kỹ thuật sử dụng các mô hình và quy tắc trao đổi dựa trên các biến đổi
giá cả và khối lượng, chẳng hạn như chỉ số sức mạnh tương đối, trung bình động,
hồi quy, mối tương quan giá cả liên thị trường và nội thị trường, chu kỳ kinh


doanh, chu kỳ thị trường chứng khoán hoặc, theo cách cổ điển, thông qua sự công
nhận của các mẫu hình biểu đồ.
Phân tích kỹ thuật là trái ngược với cách tiếp cận phân tích cơ bản đối với phân
tích chứng khoán và cổ phiếu. Phân tích kỹ thuật phân tích giá cả, khối lượng và
thông tin thị trường khác, trong khi phân tích cơ bản nhìn vào các sự kiện của
công ty, thị trường, tiền tệ hoặc hàng hóa. Hầu hết các nhà môi giới lớn, nhóm
hoạt động trao đổi, hoặc tổ chức tài chính thường sẽ có cả hai đội ngũ phân tích kỹ
thuật và phân tích cơ bản.
Phân tích kỹ thuật được sử dụng rộng rãi trong các thương nhân và các chuyên gia
tài chính và được sử dụng thường xuyên bởi các thương nhân trong ngày tích cực,
các nhà tạo lập thị trường và các thương nhân trên sàn. Trong những năm 1960 và
1970 nó đã bị các học giả gạt bỏ rộng khắp. Trong một nghiên cứu gần đây, Irwin
và Park[13] báo cáo rằng 56 trong tổng số 95 nghiên cứu hiện đại cho thấy nó tạo
ra các kết quả tích cực nhưng lưu ý rằng nhiều kết quả tích cực đã được kết xuất
không rõ ràng bởi các vấn đề như can thiệp vào dữ liệu, cho nên bằng chứng hỗ
trợ của phân tích kỹ thuật là không thuyết phục; nó vẫn bị nhiều học giả coi là giả
khoa học.[14] Các nhà nghiên cứu như Eugene Fama nói rằng bằng chứng cho
phân tích kỹ thuật là thưa thớt và không phù hợp với dạng yếu của giả thuyết thị
trường hiệu quả.[15][16] Những người sử dụng cho rằng ngay cả khi phân tích kỹ
thuật không thể dự đoán tương lai, nó cũng giúp xác định các cơ hội trao đổi.[17]

Trong các thị trường ngoại hối, sử dụng của nó có thể rộng rãi hơn phân tích cơ
bản.[18][19] Điều này không có nghĩa là phân tích kỹ thuật là thích hợp hơn tại
các thị trường ngoại hối, mà là phân tích kỹ thuật được công nhận hơn do hiệu quả
của nó có nhiều hơn tại đây so với những thị trường khác. Trong khi một số
nghiên cứu độc lập đã chỉ ra rằng các quy tắc trao đổi kỹ thuật có thể dẫn đến hoàn
vốn phù hợp trong giai đoạn trước năm 1987,[20][21][22][23] hầu hết công trình
học thuật tập trung vào bản chất của vị trí bất thường của thị trường ngoại hối.[24]
Có thể suy đoán rằng sự bất thường này là do sự can thiệp của ngân hàng trung
ương, mà rõ ràng là phân tích kỹ thuật không được thiết kế để dự đoán.[25]
Nghiên cứu gần đây cho thấy việc kết hợp các tín hiệu kinh doanh khác nhau
thành cách tiếp cận tín hiệu tổ hợp có thể tăng khả năng lợi nhuận và giảm sự phụ
thuộc vào một quy tắc duy nhất bất kỳ.[26]
4. Vai trò của phân tích kỹ thuật

Phân tích kỹ thuật đóng vai trò là công cụ trợ giúp Nhà đầu tư với ba chức năng
chính: báo động, xác thực và dự đoán.


Với vai trò là công cụ báo động, phân tích kỹ thuật cảnh báo sự xuyên phá các
ngưỡng an toàn (resistance và support: chúng ta sẽ tìm hiểu về hai khái niệm này
trong các bài viết khác) và thiết lập nên các ngưỡng an toàn mới hay nói cách khác
là thiết lập mức giá mới thực sự thay vì dao động quanh một mức giá cũ. Đối với
Nhà đầu tư việc nhận biết các dấu hiệu về sự thay đổi mức giá càng sớm càng tốt
giúp cho họ sớm có hành động mua vào hoặc bán ra kịp thời.
Với vai trò là công cụ xác nhận, mỗi phương pháp phân tích kỹ thuật được sử
dụng kết hợp với các phương pháp kỹ thuật khác hoặc các phương pháp phi kỹ
thuật để xác nhận về xu thế của giá. Việc kết hợp và bổ trợ lẫn nhau giữa các
phương pháp kỹ thuật khác nhau giúp Nhà đầu tư có được kết luận chính xác và
tối ưu hơn.
Với vai trò là công cụ dự đoán, Nhà đầu tư sử dụng các kết luận của phân tích kỹ

thuật để dự đoán giá cả của tương lai với kỳ vọng về khả năng đoán tốt hơn. Tuy
nhiên như trên đã nói, bản chất của phân tích kỹ thuật không phải là dự báo tương
lai mà là chỉ thị trạng thái thị trường trong quá khứ với một độ trễ; do đó nếu sử
dụng như một công cụ dự đoán Nhà đầu tư cần phải tính đến một xác suất an toàn
và chấp nhận rủi ro khi dự đoán là không phù hợp. Không ai có thể nói trước
tương lai chỉ bằng thông tin trong quá khứ. Tuy nhiên nhờ có phân tích kỹ thuật,
khả năng đoán sai do đoán mò hoặc a dua đám đông được hạn chế rất nhiều.
Mỗi phương pháp kỹ thuật được áp dụng sẽ thể hiện các vai trò trên với các ưu
nhược điểm khác nhau. Chi tiết về các vai trò sẽ được nêu trong các bài viết trình
bày cụ thể về từng phương pháp.
5. Các triết lý của phân tích kỹ thuật.

1. Biến động thị trường phản ánh tất cả


Triết lý của phân tích kỹ thuật
Nhận định "biến động thị trường phản ánh tất cả" tạo nên tất cả những gì được xem là
cơ sở nền tảng của phân tích kỹ thuật. Chuyên gia phân tích kỹ thuật tin rằng, bất cứ thứ
gì mang tính cơ bản, chính trị, tâm lý hay những yếu tố khác đều có thể tác động đến giá
cả

chúng
được
phản
ánh
qua
giá
của
thị
trường

đó.
Vì thế, người ta cho rằng việc nghiên cứu về biến động giá là tất cả những gì mà chúng
ta cần. Mặc dù việc khẳng định điều này dường như là khá táo bạo song rất khó để phản
bác nếu chúng ta dành thời gian để xem xét ý nghĩa thực của nó.
Bằng việc nghiên cứu các đồ thị giá thị trường và các chỉ báo kỹ thuật hỗ trợ khác, người
sử dụng đồ thị thị trường tìm hiểu xem nên đi theo xu hướng nào là tốt nhất thông qua
các thông tin từ thị trường. Người sử dụng đồ thị không cần phải cố gắng tỏ ra
"khôn"
hơn
thị
trường.
Người sử dụng đồ thị hiểu rằng có những lí do khiến thị trường tăng hoặc giảm mà đa số
mọi người không biết, tuy nhiên họ tin rằng việc nhận diện được những lí do này không
cần
thiết
trong
quá
trình
dự
đoán
thị
trường.
2. Giá di chuyển theo xu hướng


Triết lý của phân tích kỹ thuật
Khái niệm xu hướng đóng vai trò rất quan trọng trong phân tích kỹ thuật. Một lần nữa,
nếu bạn không chấp nhận giả thuyết thì trường dịch chuyển theo xu hướng thì bạn đừng
sử dụng phân tích kỹ thuật. Mục đích của việc vẽ đồ thị biến động giá là để xác định các
xu hướng trong giai đoạn phát triển ban đầu và giao dịch theo xu hướng đó.

Có một hệ quả tất yếu đối với giả thuyết rằng giá di chuyển theo xu hướng - một xu
hướng chuyển động có khả năng sẽ tiếp tục hơn là đổi chiều. Toàn bộ cách tiếp cận theo
xu hướng là nhằm đi theo xu hướng hiện tại cho đến khi có tín hiệu đảo chiều.
3. Lịch sử tự lặp lại


Triết lý của phân tích kỹ thuật

Phần lớn nội dung của quá trình phân tích kỹ thuật và nghiên cứu về biến động thị
trường đều có liên quan đến nghiên cứu tâm lý con người. Chẳng hạn như các
mẫu đồ thị, vốn được nhận diện và phân loại hơn một thế kỷ nay, đã phản ánh
những sự việc nhất định xuất hiện trên các đồ thị giá. Những sự việc này cho thấy
tâm lý đi theo xu hướng tăng hoặc giảm của thị trường.
Vì đã từng hoạt động khá tốt trong quá khứ nên những mô hình này được cho rằng
sẽ tiếp tục hoạt động tốt trong tương lai. Các mô hình này được dựa trên những
nghiên cứu về tâm lý con người - thứ vốn có xu hướng không thay đổi.
Nói cách khác, tiền đề cuối cùng này - lịch sử tự lặp lại - là chìa khoá cho việc
hiểu được tương lai đang ẩn dưới những nghiên cứu trong quá khứ, hay có thể
hiểu
rằng tương
lai
chỉ

sự
lặp
lại
của
quá
khứ.
Bonus

:
Trong quá trình thừa nhận các giả thuyết của phân tích kỹ thuật, chúng ta có thể
hiểu được tại sao các nhà phân tích kỹ thuật lại tin rằng phương pháp phân tích của
mình lại vượt trội hơn so với các chuyên gia phân tích cơ bản.
Nếu một nhà giao dịch phải lựa chọn một trong hai cách tiếp cận thì phân tích kỹ
thuật sẽ là lựa chọn hợp lý bởi theo định nghĩa, phương pháp phân tích kỹ thuật đã


bao
gồm
cả
phân
tích

bản.
Để giao dịch trên thị trường tài chính, chúng ta chỉ có thể sử dụng phương pháp
phân tích kỹ thuật nhưng ngược lại, nếu có một ai đó giao dịch chỉ với phân tích
cơ bản mà không hề xem xét khía cạnh kỹ thuật của thị trường thì đó quả là một
điều đáng ngờ.
6. Các công cụ để phân tích kỹ thuật.
Chỉ số sức mua/bán tương đối RSI
Năm 1978 J. Welles Wilder giới thiệu chỉ số RSI, từ đó đến nay RSI và trở thành một
trong các chỉ số phổ biến và hiệu quả được sử dụng trong phân tích kỹ thuật. Đây là một
chỉ số thuộc nhóm các phương pháp tương quan phản ánh tương quan sức mạnh sự tăng
giá và giảm giá trong một thời kỳ.
1. Tính toán RSI
RSI phản ánh mối quan hệ giữa sức tăng giá và sức giảm giá của một Cổ phiếu trong một
thời kỳ xác định bằng cách lấy tỷ số giá trung bình của các phiên tăng và giá trung bình
các phiên giảm trong thời kỳ đó. Gọi n là số các phiên trong thời kỳ xác định cần tính
RSI.

Gọi giá trung bình các phiên tăng trong n phiên là AIn = Tổng giá các phiên tăng / n
Gọi giá trung bình các phiên giảm trong n phiên là ADoanh nghiệp = Tổng giá các phiên
giảm / n
Chỉ số sức bền tương đối được tính bằng công thức
RSI = 100 – 100 / (1 + RS) (1)
Trong đó RS = AIn / A Doanh nghiệp là tỷ số giá trung bình các phiên tăng và giá trung
bình các phiên giảm
Xét ví dụ về một phương pháp phân tích kỹ thuật sử dụng trung bình động.
Giá Chứng khoán trong 5 phiên đến ngày 18/05/2007 của Công ty cổ phần nhựa Đồng
Nai – Mã Chứng khoán Doanh nghiệp
%thay đổi
2,70%
2,78%
-4,64%


4,86%
4,35%
(Nguồn SSI)
Trung bình sự thay đổi giá các phiên tăng trong 5 phiên
AG = (2.000 + 2.000 + 3.500 + 3.000) / 5 = 2.100
Trung bình sự thay đổi giá các phiên giảm trong 5 phiên
AL = (3.500) / 5 = 700
Hệ số tương quan phản ánh giữa sức tăng và sức giảm giá là tỷ số AG/AL, quy chuẩn về
thang 100 sẽ tính được RSI là:
RSI = 100 – 100/ (1 + AG/AL) = 75
2. Ý nghĩa
RSI xác định tương quan sức mạnh giữa phe mua và phe bán bằng cách phản ánh tỷ số
tăng giá và tỷ số tăng giá vào giá trị của RSI. Giá trị này nằm trong khoảng 0 đến
100. Giá trị 50 của RSI gọi là giá tị trung bình tại đây sức mua và bán có tương quan

ngang bằng nhau. RSI lớn hơn 50 và càng lớn thì phản ánh sức mua càng lớn hơn sức
bán, giá cả đang tăng. RSI nhỏ hơn 50 và càng nhỏ thì phản hánh sức bán càng lớn hơn
sức mua, giá cả đang xuống.
RSI có hai ngưỡng siêu mua và siêu bán là 70 và 30, nếu giá trị của RSI lớn hơn 70 thị
trường đang ở trạng thái siêu mua với sự áp đảo của phe mua, nếu RSI nhỏ hơn 30 thị
trường đang ở ngưỡng siêu bán và phe bán đang áp đảo Số phiên (giá trị của n) sử dụng
để tính trung bình giá các phiên tăng và giá các phiên giảm càng lớn thì RSI càng chính
xác theo ý nghĩa của công thức là phản ánh tương quan sức tăng và sức giảm của giá. Tác
giả J. Welles Wilder cho rằng nên lấy 14 phiên để tính RSI.


(nguồn ảnh đồ thị: )
3. Sử dụng RSI
Đồ thị của RSI là một máy dao động, chi tiết về sử dụng máy dao động trong phân tích
Chứng khoán đã được nên trong bài Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan Như mọi loại máy
hiển thị dao động kác, phân tích RSI dựa vào 3 ngưỡng:
- Siêu mua: mọi giá trị RSI ≥ 70 được gọi là siêu mua.
- Siêu bán: mọi giá trị RSI ≤ 30 được gọi là siêu bán.
- Trung bình: Ngưỡng 50 được gọi là trung bình, RSI > 50 báo hiệu về sự thắng thế của
phe mua, RSI < 50 báo hiệu sự thắng thế của phe bán


Chi tiết về các thông số của RSI và cách thức sử dụng RSI giống như mọi máy hiển thị
dao động khác đã được nêu trong Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan

Aroon thể hiện xu thế
Năm 1995, Tushar Chande giới thiệu Aroon với tư cách là phương pháp phân tích kỹ
thuật xác định xu thế giá cả của thị trường và cho biết xu thế đó mạnh đến đâu? Ý tưởng
tính toán Aroon dựa trên việc xác định phiên có giá cao nhất (hoặc nhỏ nhất) cách phiên
hiện tại bao xa trong số các phiên lấy dữ liệu tính. Nếu phiên có giá cao nhất nằm cách xa

phiên hiện tại thì xu thế thị trường có sự chuyển mình sang giảm giá, nếu phiên có giá
thấp nhất nằm cách xa phiên hiện tại thì xu thế thị trường có sự chuyển mình sang xu thế
tăng giá.
Với vai trò nhận định xu thế giả trên thị trường, đồ thị giá trị của Aroon có hai loại: Loại
thứ nhất bao gồm 2 đồ thị biểu thị hai giá trị là Aroon up và Aroon down thể hiện sức
mạnh tăng và giảm giá trên thị trường. Loại thứ 2 biểu thị sự tương quan giữa sức tăng và
sức giảm giá trên thị trường bằng cách lấy hiệu của Aroon up và Aroon down, đồ thị loại
này có dạng một máy dao động. Xem trước Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan
1.

Cách tính Aroon

Giả sử cần tính giá trị Aroon up và Aroon down cho phiên hiện tại:
gọi n là số phiên lấy dữ liệu để tính Aroon,
tup là số phiên trước phiên hiện tại có giá cao nhất trong n phiên,
tdown là số phiên trước phiên hiện tại có giá thấp nhất trong n phiên.
Aroon up = 100 (n – tup) / nAroon down = 100 (n – tdown) / nAroon tương quan = Aroon
up – Aroon down
Ví dụ tính Aroon cho phiên hiện tại với dữ liệu lấy trong 14 phiên trước đó. Trong 14
phiên này, phiên có giá cao nhất xảy ra cách hiện tại 5 phiên, phiên có giá thấp nhất xảy
ra cách phiên hiện tại 8 phiên.
Aroon
up
=
100
(14

Aroon
down
=

100
(14

Aroon tương quan = Aroon up – Aroon down
2.

Sử dụng Aroon

5)
8)

/
/

14
14

=
=

64,29
42,86


Bằng cách dựa vào khoảng cách từ phiên hiện đến phiên có giá cao nhất hoặc thấp nhất.
Nếu giá cao nhất vừa được thiết lập trong các phiên gần phiên hiện tại, Aroon up có giá
trị lớn hơn 50, theo thời gian nếu giá cao nhất này không được phá bỏ thì giá trị Aroon up
sẽ giảm dần.
Nếu giá thấp nhất vừa được thiết lập trong các phiên gần phiên hiện tại thì Aroon down
có giá trị lớn hơn 50, theo thời gian nếu giá thấp nhất này không được phá bỏ thì giá trị

Aroon down sẽ giảm dần
Nếu Aroon up có giá trị nhỏ hơn 50 nghĩa là phiên có giá cao nhất nằm cách xa phiên
hiện tại, xu thế tăng giá đã mất nếu đang là xu thế tăng giá.
Nếu Aroon down có giá trị nhỏ hơn 50 nghĩa là phiên có giá thấp nhất nằm cách xa phiên
hiện tại, xu thế giảm giá đã không còn nếu đang là xu thế giảm giá.
Nếu Aroon up và Aroon down xấp xỉ nhau, tức là phiên có giá thấp nhất và phiên có giá
cao nhất ở gần nhau, thị trường không đi theo xu hướng rõ rệt, xu thế nếu có cũng rất
yếu.
Để rõ ràng hơn, Aroon tương quan được sử dụng để xác định tương quan giữa Aroon up
và Aroon down đại diện cho tương quan giữa xu thế tăng và xu thế giảm. Aroon tương
quan càng gần 0 thì biến động càng không có xu thế tăng hoặc giảm rõ ràng mà có dạng
dập dềnh, Aroon tương quan lớn hơn 0 và càng lớn hơn bao hiêu thì xu thế tăng giá của
thị trường càng lớn bấy nhiêu, Aroon tương quan nhỏ hơn 0 và càng nhỏ hơn bao nhiêu
thì xu thế giảm giá của thị trường càng lớn bấy nhiêu. Xét ví dụ về Công ty Cổ phần
Lương thực Thực phẩm Safoco (SAF)


Nguồn ảnh đồ thị www.vietstock.com.vn
- Tại vòng tròn số (1): Aroon tương quan rât lớn, xu thế giá là tăng và xu thế này rất
mạnh.
- Tại vòng tròn số (2): Aroon tương quan rât nhỏ, xu thế giá là giảm và xu thế này rất
mạnh.
- Tại vòng tròn số (3): Xu thế giá xấp xỉ 0, xu thế tăng và giảm không rõ ràng.
MACD -Trung bình động hội tụ/ phân kỳ

Kể từ khi được Gerald Appel giới thiệu, MACD đã trở thành một trong những công cụ
phân tích kỹ thuật đơn giản và tin cậy nhất. MACD được tính toán dựa trên hiệu số của
hai đường trung bình động dài hạn và ngắn hạn, giá trị trả về thuộc nhóm phân tích tương
quan: tương quan giữa trung bình động dài hạn và trung bình động ngắn hạn.



Chi tiết về phân tích tương quan xem: Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan .
Chi tiết về trung bình động xem: Phân tích kỹ thuật (2): Trung bình động và xu thế.
- Phân tích kỹ thuật (3): RSI - Chỉ số sức mua/bán tương đối.
- Phân tích kỹ thuật (2): Trung bình động và xu thế .
- Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan
1. Tính toán
Về mặt tính toán MACD lấy một giá trị trung bình động của giá trong ngắn hạn trừ cho
giá trị trung bình động trong dài hạn.
Thông thường MACD sử dụng EMA – 12 làm trung bình động ngắn hạn và EMA – 26
làm trung bình động dài hạn và cho hiệu số trên.
Như vậy nếu MACD > 0 thì trung bình động ngắn hạn lớn hơn trung bình động dài hạn.
Nếu MACD < 0 thì trung bình động dài hạn nhỏ hơn trung bình động ngắn hạn.
Đồ thị các giá trị của MACD là một máy hiển thị dao động phản ánh tương quan giữa
trung bình động ngắn hạn và trung bình động dài hạn.
Thông thường đồ thị này được vẽ kèm với đồ thị trung bình động EMA – 9 của chính
MACD và đồ thị MACD – Histogram là hiệu số của MACD và trung bình động EMA –
9 của chính MACD.
Về MACD - Histogram sẽ được nêu trong một bài khác.
2. Ý nghĩa
So với các phương pháp phân tích khác, MACD thuộc về cả hai nhóm phân tích xu thế và
phân tích tương quan, MACD vừa chỉ ra xu thế của thị trường vừa xác định các tín hiệu
mua và bán trên cùng một đồ thị.
Như đã biết trong bài viết về trung bình động, khoảng cách giữa trung bình động ngắn
hạn và trung bình động dài hạn thể hiện xu thế tăng hoặc giảm của thị trường.
Nếu trung bình động ngắn hạn lớn hơn trung bình động dài hạn thì xu thế là tăng giá và
MACD có giá trị dương.


Nếu giá trị MACD dương và ngày càng lớn thì xu thế thị trường tăng ngày càng mạnh,

phe bò tót ngày càng thắng áp đảo.
Nếu trung bình động ngắn hạn nhỏ hơn trung bình động dài hạn thì xu thế là giảm giá và
MACD có giá trị âm.
Nếu giá trị MACD âm và ngày càng nhỏ thì xu thế thị trường giảm ngày càng mạnh, phe
gấu ngày càng thắng áp đảo.
Đường trung bình của MCAD là 0 nơi mà trung bình động giá ngắn hạn gặp trung bình
động giá dài hạn, tại đây bắt đầu có sự đổi chiều về xu thế của thị trường. Ví dụ về
MCAD giá cổ phiếu Công ty cổ phần Nhựa Đồng Nai - Doanh nghiệp

(Nguồn ảnh đồ thị www.vietstock.com.vn )
- Đồ thị trên tại các thời điểm số 1 và 2, đường MACD (Màu xanh) giao cắt đường zero,
tại đây các đường đồ thj trung bình động EMA - 12 và EMA - 26 giao cắt nhau trên đồ
thị giá.


- Trên đồ thị MACD, đường EMA - 9 của chính MACD được vẽ trên cùng đồ thị với
màu tím và MACD - Histogram được vẽ trên cùng đồ thị với các cột màu xanh dương.
3. Sử dụng
Khi sử dụng MACD cần chú ý các tín hiệu sau để phát lênh mua hoặc bán:
- Sự giao cắt giữa MCAD và đường trung bình động EMA của chính MACD: Nếu đường
MACD ở cắt đường trung bình động EMA của chính nó và đi xuống dưới đường này thì
đó là tín hiệu bán ra để cắt lỗ. Nếu đường MACD cắt đường EMA của chính nó và đi lên
trên đường này thì đó là tín hiệu mua vào. Sự giao cắt này được gọi là cò súng khai hỏa
các tín hiệu mua và bán khác chính xác. Tuy nhiên cũng chú ý rằng khi các tín hiệu này
xảy ra thì thường sự việc đã xảy ra rồi. Tuy không thể mua đáy bán đỉnh được nhưng việc
bạn sớm mua vào hay bán ra ở đầu một xu thế lên giá hoặc giảm giá cũng là một món
hời.
- Sự giao cắt giữa MCAD và đường zero. Sự giao cắt này chỉ là sự khẳng định lại tăng
phần chắc chắn về xu thế mà các phép phân tích khác chỉ ra. Thông thường sự giao cắt
này xảy ra khá muộn với độ trễ lớn nhất là khi sử dụng MCAD với hai đường trung bình

động trong 9 ngày và 26 ngày. Do đó không thể dùng sự giao cắt này làm tín hiệu để phát
lệnh mua/bán.
Các tín hiệu trên cần kết hợp với nhiều tín hiệu trên các phân tích khác để có kết quả
chính xác hơn.
- Xác định xu thế tăng hoặc giảm hoặc dập dềnh.
- Các dấu hiện về phân kỳ âm, phân kỳ dương.
- Ngưỡng siêu mua/siêu bán
Khi phối hợp các tín hiệu trên với nau cần nhớ đến nghịch lý của việc áp dụng phân tích
kỹ thuật:

Việc áp dụng và chờ đợi càng nhiều tín hiệu để tăng phần khẳng định chính xác hơn của
một quyết định mua bán có thể làm tăng phần chậm trễ cho quyết định mua bán đó và
ngược lại việc áp dụng quá ít tín hiệu để ra quyết định mua bán cho kịp thời cơ có thể lại
kém phần chính xác. Quyết định chính xác nhất là không quyết định.
MACD - Histogram dự đoán MACD


Thomas Aspray giới thiệu MACD – Histogram vào năm 1968 như một giải pháp làm
giảm thiểu độ trễ của MACD. Như đã biết sự giao cắt giữa MACD và đường trung bình
động EMA của chính nó là phát pháo lệnh cho các hành vi mua và bán của Nhà đầu tư.
Tuy nhiên nếu ngồi chờ phát pháo lệnh này thì sự việc có thể đã trễ. Vì vậy MACD –
Histogram được ra nhằm mục đích dự đoán sự xuất hiện của phát pháo lệnh trước khi nó
xảy ra, nhờ đó Nhà đầu tư có thể ra quyết định mua/bán kịp thời hơn so với việc chờ đợi
sự giao cắt giữa MACD và đường trung bình động của chính nó. Xem trước:
- Phân tích kỹ thuật (5): MACD - Trung bình động hội tụ/phân kỳ.
- Phân tích kỹ thuật (3): RSI - Chỉ số sức mua/bán tương đối.
- Phân tích kỹ thuật (2): Trung bình động và xu thế.
- Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan.
1. Tính toán
Giá trị của MACD – Histogram được tính bằng hiệu của MACD và giá trị trung bình

động EMA của chính MACD. Thông thường nếu chọn MACD được tính bằng hiệu hai
đường trunhg bình động của giá là EMA – 12 và EMA – 26 thì giá trị trung bình động
EMA của chính MACD được chọn là 9 phiên.
Đồ thị MACD – Histogram được vẽ trên cùng đồ thị với MACD dưới dạng biểu đồ hình
cột.
Nếu MACD vượt đường trung bình động EMA của chính nó thì MACD – Histogram
dương và biểu đồ cột quay lên trên.
Nếu MACD nằm dưới đường trung bình động EMA của chính nó thì MACD –
Histogram âm và biểu đồ cột quay xuống dưới.
Hình dưới là đồ thị MACD – histogram của Công ty Cổ phần Cảng Đoạn Xá (DXP) minh
hoạ về đồ thị MACD – Histogram dưới dạng các cột màu xanh. Khi MACD – Histogram
bằng 0 là lúc có sự giao cắt giữa MACD và trung bình động của chính nó.


(Nguồn ảnh đồ thị: www.vietstock.com.vn )
2. Ý nghĩa
MACD phản ánh sự chênh lệch giữa giá trị của MACD và giá trị trung bình động EMA –
9 của chính MACD. Nếu giá trị của MACD – histogram dương và càng lớn thể hiện phe
bò tót càng thắng thế trên thị trường. Nếu giá trị MACD – histogram âm và càng nhỏ thì
phe gấu càng thắng thế trên thị trường.
Việc giao cắt giữa MACD và đường trung bình động của chính nó là một hiệu lệnh cho
hành vi mua vào hoặc bán ra. Tại điểm giao cắt này MACD – Histogram có giá trị 0.
Bằng việc dựa vào sự tăng giảm của MACD – Histogram để dự đoán việc MACD –
Histogram bằng 0 sẽ xảy ra, nhờ đó MACD – Histogram đưa ra khuyến cáo về một hành
vi mua bán của Nhà đầu tư nên đến sớm hơn. Kỹ thuật sử dụng để dự đoán như vậy chính
là phân kỳ dương và phân kỳ âm.
Hình dưới là đồ thị MACD – histogram của Công ty Cổ phần Cảng Đoạn Xá (DXP) minh
hoạ về sự xuất hiện của phân kỳ dương và âm trên MACD – Histogram sớm dự báo sự
giao cắt cắt của MACD và trung bình động của chính nó.


(Nguồn ảnh đồ thị: www.vietstock.com.vn )
3. Sử dụng


Nếu đường MACD đang ở trên đường trung bình, giá cả đang lên nhưng MACD –
Histogram có sự xuất hiện của phân kỳ âm thì dấu hiệu này cảnh báo về sự giao cắt của
MACD với trung bình động của chính nó và sẽ thấp hơn trung bình động. Lúc này Nhà
đầu tư có thể ra quyết định bán ra sớm hơn việc chờ đợi sự giao cắt mới ra quyết định
bán.
Nếu đường MACD đang ở dưới đường trung bình, giá cả đang xuống nhưng MACD –
Histogram có sự xuất hiện của phân kỳ dương thì dấu hiệu này cảnh báo sự giao cắt của
MACD và đường trung bình động EMA của chính nó và cao hơn trung bình động. Lúc
này Nhà đầu tư có thể ra quyết định mua vào sớm hơn là việc chờ đợi sự giao cắt mới ra
quyết định mua.
Chú ý rằng việc sử dụng MACD – Histogram để phán đoán cũng như sử dụng MACD
giao cắt trung bình động EMA của chính nó được sử dụng dựa trên sự phối hợp bổ trợ
với các phép phân tích khác.
Ngoài ra vì MACD – Histogram dự đoán sự giao cắt của MACD nên dù có độ trễ ít hơn
so với MACD nhưng tính chính xác lại kém hơn. Sử dụng một biện pháp phỏng đoán
gián tiếp qua một dấu hiện dự đoán khác thì sẽ kém an toàn hơn là sử dụng phép dự đoán
trực tiếp.
Xét ví dụ về giá cổ phiếu của Công ty Cổ phần bao bì Bình Dương – HBD


(Nguồn ảnh đồ thị: www.vietstock.com.vn )
- Tại khoảng thời gian số 1, có rất nhiều tín hiệu xuất hiện lần lượt tại các thời điểm khác
nhau: sự giao cắt của giá và đường trung bình động SMA – 5, giá rót rất mạnh sau khi
giao cắt đường này, RSI cắt ngưỡng siêu mua và đi xuống dưới, sự xuất hiện của phân kỳ
âm trên MACD – Histogram và sự giao cắt của MACD với đường trung bình động của
nó. Tín hiệu cuối cùng về sự giao cắt của MACD với đường trung bình động của nó là



phát pháo lệnh chắc chắn nhất đòi hỏi Nhà đầu tư phải rút lui gấp nếu không muốn bị
thua lỗ thêm mặc dù lúc đó giá có tăng trong ngắn hạn một vài phiên. Ví dụ này cho thấy
việc sớm dự báo giảm giá giúp Nhà đầu tư sớm thoát khỏi thị trường hơn là chờ đợi phát
pháo lệnh cuối cùng.
- Tại khoảng thời gian số (2), có nhiều tín hiệu báo hiệu về sự tăng giá mạnh: Giá giao cắt
trung bình động SMA – 5 và vượt lên rất mạnh so với trung bình động, sự xuất hiện của
phân kỳ dương trên MACD - Histogram, RSI vượt lên ngưỡng siêu bán. Tuy nhiên phát
pháo lệnh cuối cùng và chắc chắn nhất là sự giao cắt của MACD và trung bình động của
nó đã không xảy ra và giá đã không thực sự tăng mạnh và nhanh chóng giảm. Ví dụ này
điểm hình cho tính chất sớm nắm bắt thời cơ mang lại nhiều lợi nhuận hơn nhưng khả
năng chính xác kém hơn.
- Tại khoảng thời gian số (3), nhiều dấu hiệu về sự tăng giá xuất hiện: phân kỳ dương
xuất hiện đồng thời trên RSI và MACD – histogram, RSI vượt lên trên ngưỡng siêu bán.
Những tín hiệu này xảy ra trước phát pháo lệnh cuối cùng là sự giao cắt giữa MACD và
trung bình động của chính nó. Tuy nhiên cũng cần cảnh giác với biến động dập dềnh của
giá trong giai đoạn này.
- Tại khoảng thời gian số (4): sự xuất hiện của phân kỳ âm, ngưỡng siêu mua trên RSI
không còn và sự giao cắt và rớt mạnh của giá so trung bình động thúc giục sự rút lui của
Nhà đầu tư. Lúc này chưa có phát pháo lệnh cuối cùng là sự giao cắt MACD và trung
bình động của chính nó, giá đã có sự tăng trở lại. Giá sắp tới sẽ như thế nào? Cần phải
chờ đợi những tín hiệu chắc chắn hơn hay phải rút lui cho kịp thời?

Các bài viết trước đã đề cập đến một số phương pháp phân tích phổ biến dựa trên giá cả
của cổ phiếu qua các phiên. Tuy nhiên sự phỏng đoán và xác nhận về giá cả trong tương
lai không chỉ phụ thuộc vào giá của cổ phiếu tại mỗi phiên mà còn tùy thuộc vào nhiều
yếu tố khác trong đó có khối lượng giao dịch trong ngày.
Do đó kỳ này sẽ đề cập đến các vấn đề về khối lượng giao dịch trên thị trường và nguyên
tắc chung của các phương pháp phân tích dựa trên khối lượng giao dịch trước khi đề cập

cụ thể đến một số phương pháp phân tích thuộc loại này trong các bài viết tiếp theo.
Xem trước:
- Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan.
- Phân tích kỹ thuật (5): MACD - Trung bình động hội tụ/phân kỳ.


- Phân tích kỹ thuật (6): MACD Histogram dự đoán MACD.
1. Giới thiệu chung
Như đã biết, giá cả trên thị trường được quyết định bằng cuộc đấu giữa cung và cầu theo
nguyên tắc thuận mua và bán. Sự thuận mua vừa bán này được phản ánh không chỉ qua
mức giá cân đối cung cầu mà qua cả khối lượng khớp thành công giữa hai bên. Nói cách
khác, bán phải có người mua. Mua mà không có người bán hoặc bán không có người mua
là những trạng thái cần phải chú ý trên thị trường, phản ánh mức cung cầu mất cân đối
nghiêm trọng.
Hãy xem xét các tình huống sau đây:
- Không ai mua mà cũng chẳng ai bán: đây là trường hợp thị trường đóng băng, hai phe
mua bán lừng chừng thăm dò, hàng hóa không được giao dịch hoặc giao dịch với số
lượng rất ít trên thị trường.
- Mua mà không ai bán: số lượng mua vào rất lớn nhưng số lượng bán ra nhỏ, khối lượng
giao dịch thành công rất ít hoặc không có giao dịch thành công. Tình huống này xảy ra
khi hàng hoá khan hiếm, rất nhiều người muốn mua, nhưng không có hàng bán trên thị
trường, những người có hàng thì ôm chặt không bán ra để chờ giá lên cao hơn. Lúc này
cầu lấn át cung.
- Bán mà không ai mua: số lượng bán ra rất lớn nhưng số lượng mua vào nhỏ. Khối
lượng giao dịch thành công là không có hoặc rất nhỏ. Tình huống này xảy ra khi hàng
hóa bị coi rẻ, người có hàng thì bán tống bán tháo tìm cách rút lui khỏi thị trường, người
chưa có hàng thì chẳng muốn mua vào. Lúc này cung lấn át cầu.
- Mua và bán đều thỏa mãn: khối lượng giao dịch trao đổi trên thị trường lớn, bên mua và
bán gặp nhau và đều thỏa mãn. Cung cầu lúc này ở trạng thái cân bằng.
2. Dòng chảy tiền tệ

Một số phương pháp dựa trên khối lượng thường được đặt tên gọi là dòng chảy tiền tệ
(cash flow) hàm ý chỉ lượng tiền được rút ra hoặc đưa vào thị trường đối với một loại cổ
phiếu. Lượng tiền này thực chất là kết quả của khối lượng giao dịch thành công trên thị
trường và giá cả của cổ phiếu trên thị trường. Nếu giá cả tăng thì tương ứng với khối
lượng là một lượng tiền được đổ vào thị trường: giá càng tăng cao, khối lượng giao dịch
càng lớn thì lượng tiền đổ vào càng lớn. Nếu giá giảm thì tương ứng với khối lượng là
một lượng tiền được rút ra khỏi thị trường: giá càng giảm mạnh, khối lượng giao dịch
càng lớn thì tiền rút ra càng lớn.
3. Ý nghĩa chung


- Khi giá cả đang tăng, khối lượng giao dịch ít phản ánh tình trạng hàng hóa trên thị
trường khan hiếm. Khi đến một mức giá nào đó hoặc đến một giai đoạn mùa vụ nào đó,
khi những người nắm giữ cổ phiếu cảm thấy được giá thì họ sẽ tìm cách bán ra, sự bán ra
của họ gặp đúng nhu cầu hàng của phe mua khiến cho khối lượng giao dịch thành công
tăng cao, tốc độ tăng giá sẽ hãm lãi hoặc giảm giá. Một trường hợp khác là phe mua vào
cảm thấy nếu tiếp tục mua vào với giá cao sẽ nguy hiểm nên họ chấm dứt việc mua vào,
lượng cầu giảm khiến cho khối lượng khớp thành công không có sự biến đổi tăng đột
biến.
- Khi giá cả đang giảm, khối lượng giao dịch ít phản ánh tình trạng hàng hóa trên thị
trường bị coi rẻ. Khi đến một mức giá nào đó hoặc đến một giai đoạn mùa vụ nào đó, một
số Nhà đầu tư cảm thấy được giá hời và muốn mua vào. Nhu cầu của họ gặp lượng cung
bán ra lớn trên thị trường khiến cho khối lượng khớp thành công tăng cao, tốc độ giảm
giá chậm lại hoặc tăng giá. Một trường hợp khác là phe bán ra cảm thấy nếu tiếp tục bán
ra sẽ bị hớ nên họ chấm dứt bán ra, lượng cung giảm khiến cho khối lượng khớp thành
công không có sự biến đổi tăng đột biến.
- Khi giá cả “dập dềnh” với khối lượng giao dịch nhỏ, thị trường ở trạng thái đóng băng.
Lúc này không dễ đoán trước được điều gì.
- Khi giá cả “dập dềnh” với khối lượng giao dịch lớn tiềm ẩn một khả năng về sự thay đổi
xu thế trong tương lai gần nhưng khó dự đoán. Trong trạng thái này cần theo dõi liên tục

và thường xuyên các biến động trạng thái của thị trường dựa trên sự kết hợp với các
phương pháp phân tích khác.
Dưới đây là hai ví dụ minh họa vềý nghĩa của khối lượng. Chú ý rằng ví dụ này chỉ minh
họa về ý nghĩa chứ không minh họa về cách sử dụng.
Xét ví dụ về Công ty Cổ phần Dịch vụ Ô tô Hàng Xanh - HAX


-S
uốt

giai đoạn số 1, giá cả biến động dập dềnh, khối lượng giao dịch quá nhỏ, Nhà đầu tư
không hào hứng nhiều với cổ phiếu này, đường MACD luôn sát với đường trung bình
động EMA của chính nó, giai đoạn này khó có thể dự đoán trước được điều gì.
- Trong suốt giai đoạn từ thời điểm số (2) đến thời điểm số (5) là thời điểm giá Cổ phiếu
tăng vọt. Xuất phát từ thời điểm số (2) với sự không hào hứng của Nhà đầu tư nên khối
lượng giao dịch nhỏ. Tiếp theo đó với sự tăng giá liên tiếp, nhiều Nhà đầu tư găm hàng
lại không bán ra nên khối lượng giao dịch vẫn thấp. Đến thời điểm số (3) một số Nhà đầu
tư cảm thấy được giá liền bán ra gặp đúng cơn khát của các Nhà đầu tư khác nên khối
lượng giao dịch lớn, giá vẫn tiếp tục tăng vì cầu vẫn lấn át. Những người có hàng lại tiếp
tục găm hàng cho đến thời điểm số (4) thì cảm thấy được giá và lại bán ra nhưng vẫn bị
cầu lấn át. Lúc này khả năng về một sự thay đổi xu thế đã gần kề khi đã hai lần xảy ra
hiện tượng những người có hàng cảm thấy được giá trong đợt tăng giá liên tục này.
Từ thời điểm số (5) đến số (6) có thể coi là biến động dập dềnh với khối lượng lớn tiềm
ẩn nguy cơ về sự thay đổi giá khó đoán trước. Trong giai đoạn này nếu quan sát trên
MACD sẽ thấy sự tiến sát đến EMA – 9 của chính MACD và khi hai đường này giao
nhau đã khẳng định sự xuống giá.
Xét ví dụ khác về công ty Cổ phiếu Hàng Hải Hà Nội - MHC
(Nguồn ảnh đồ thị trái phiếu )



Giai đoạn số 1 có thể coi là một giai đoạn biến động dập dềnh với khối lượng lớn tiềm ẩn
nguy cơ khó đoán trước, trong ngắn hạn giai đoạn này được chia thành các kỳ giảm và
tăng giá với khối lượng lớn.
Giai đoạn số 2 là giai đoạn giảm giá, khối lượng giao dịch nhỏ được kết thúc bằng những
cú xốc lại về khối lượng giao dịch lớn hơn trong những phiên giảm giá cuối cùng. Ở cuối
giai đoạn này có một phiên giá lên với khối lượng lớn hơn các phiên trước, đây là lúc mà
một số Nhà đầu tư vội vàng bán ra để giảm lỗ khi thấy có dấu hiệu phục hồi lại.
Các giai đoạn số (3) và (4) là lúc giá biến động dập dềnh, khối lượng giao dịch nhỏ bởi
sự giằng co giữa phe mua và bán. Giai đoạn này rất khó dự đoán tuy nhiên cần chú ý xu
hướng đi xuống.
4. Cách sử dụng chung
Khối lượng giao dịch thành công, khối lượng đặt mua hoặc đặt bán được coi là nhiều hay
ít còn tùy thuộc vào số lượng của cổ phiếu được phát hành trên thị trường và phụ thuộc
vào tương quan với khối lượng giao dịch trong các phiên giao dịch của cổ phiếu đó. Một
khối lượng có thể được coi là nhiều đối với cổ phiếu này nhưng cũng có thể ít với khối
lượng khác. Hơn nữa sự biến đổi của khối lượng giao dịch mới tạo thành ý nghĩa nếu dựa
vào khối lượng để phân tích.
Vì vậy, thông thường, các phương pháp phân tích dựa trên khối lượng đều dựa vào sự
biến đổi khối lượng giao dịch trên thị trường chứ không phụ thuộc vào một giá trị cụ thể
của phân tích. Điều đó có nghĩa là các phương pháp này nhìn nhận vào chiều, hướng của
đồ thị mà không chú ý đến giá trị hiện tại trên đồ thị hoặc nếu có thì giá trị này phải được
quy chuẩn.
Dựa theo xu thế của đồ thị, các phương pháp phân tích theo khối lượng sử dụng hai yếu
tố trên đồ thị là sự xuất hiện của các phân kỳ dương/phân kỳ âm và tốc thay đổi đột biến
về khối lượng giao dịch trên thị trường:
- Theo đó một phân kỳ dương xuất hiện thì phỏng đoán và xác nhận về một xu thế tăng
giá trên thị trường, một phân kỳ âm xuất hiện thì phỏng đoán và xác nhận về một xu thế
giảm giá trên thị trường.
- Một sự biến động đột biến về khối lượng giao dịch sẽ phỏng đoán và xác nhận về sự
thay đổi xu thế trên thị trường.

Các phương pháp phân tích về khối lượng cần kết hợp với các phương pháp phân tích
khác nhằm tăng cường tính chính xác, giảm độ chậm trễ trong phỏng đoán và xác nhận
về xu thế giá cả trên thị trường. Về cách sử dụng chi tiết sẽ được nêu cụ thể theo từng
phương pháp phân tích trong các bài viết tiếp theo.


A/D line - Đường tích lũy/ phân bổ

Sau khi chỉ số cân bằng khối lượng OBV ra đời , Marc Chaikin đã công bố đường tích
lũy/phân bổ - Accumlation/Distribution Line A/D Line như một trong những phương
pháp phân tích dựa vào tổng khối lượng tích lũy qua các phiên. Tuy nhiên khác với OBV
chỉ thuần túy dựa khối lượng , A/D Line đưa thêm vào một hệ số điều chỉnh căn cứ theo
giá đóng cửa qua mỗi phiên nhằm phản ánh chính xác hơn trạng thái của thị trường bằng
sự kết hợp tính toán giữa giá và khối lượng. Xem trước
- Phân tích kỹ thuật (8): OBV - Chỉ số cân bằng khối lượng
- Phân tích kỹ thuật (7): Vấn đề về khối lượng .
- Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan.
1. Tính toán
Marc Chaikin sử dụng hệ số giá đóng tỷ lệ - Close Location Value CLV làm hệ số điều
chỉnh căn cứ theo giá đóng cửa của cổ phiếu trong mỗi phiên:
CLV = ((C - L) - (H - C)) / (H - L) )
Trong đó
C là giá đóng cửa
L là giá sàn
0020H là giá trần
Theo công thức trên thì:







Nếu giá đóng cửa tăng kịch trần thì CLV = +1
Nếu giá đóng cửa giảm kịch sàn thì CLV = -1
Nếu giá đóng cửa bằng giá tham chiếu thì CLV = 0
Nếu giá đóng cửa trên giá tham chiếu và dưới giá trần thì CLV là số âm nằm trong
khoảng 0 .. +1
Nếu giá đóng cửa dưới giá tham chiếu và trên giá sàn thì CLV là số âm nằm trong
khoảng 0 .. -1


×