Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Phân tích bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.1 KB, 13 trang )

Đề bài: Phân tích bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của
Nguyễn Khoa Điềm.
Bài tham khảo 1
Trong thơ ca Việt Nam hiện đại, có nhiều bài viết về chủ đề quê hương, đất
nước. Lòng yêu nước thể hiện ở mỗi bài mỗi khác, tùy theo cảm hứng của tác giả,
song mỗi bài là một nốt nhạc trong bản giao hưởng ngợi ca Tổ quốc và nhân dân
anh hùng.
Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ chiến sĩ trưởng thành trong chiến khu tây
Thừa Thiên gian khổ và ác liệt thời chống Mĩ. Trong những ngày mưa bom bão
đạn ấy, bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ đã ra đời.
Bài thơ kể về người mẹ dân tộc Tà-ôi vừa địu con trôn lưng vừa giã gạo để nuôi bộ
đội; tỉa bắp trên nương góp phần sản xuất lương thực cho kháng chiến và mơ ước
sau này sẽ được thấy Bác Hồ, ước mong con mình khôn lớn được sống trong đất
nước tự do. Qua đó, tác giả ca ngợi tình yêu con thiết tha, đằm thắm và tình yêu
nước sâu nặng của bà mẹ Tà-ôi.
Bài thơ có 3 khúc ru, mỗi khúc đều mở đầu bằng câu:
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Kết thúc là lời ru của mẹ được lặp lại ở mỗi đoạn:
Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi.
Mẹ thương a-kay, mẹ thương…
Con mơ cho mẹ…
Mai sau con lớn…
Trong mỗi khúc hát ru đều có hình ảnh người mẹ với công việc vất vả cùng
tình cảm, ước vọng đối với đứa con và quê hương đất nước.
Mở đầu bài thơ là tiếng ru thân thương, vỗ về của nhà thơ, đưa em bé vào giấc
ngủ say nồng:
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
Trong lời ru đứa con chứa chan niềm thương mến sâu xa đối với người mẹ.



Hai câu thơ sau miêu tả người mẹ trong công việc giã gạo nuôi quân:
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ dội
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng
Nếu câu thơ trên tả thực thì câu thơ dưới thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng
giữa mẹ và con. Tác giả vừa miêu tá công việc giã gạo nặng nhọc của người mẹ,
vừa miêu tả giấc ngủ chập chờn, giấc ngủ nghiêng của cu Tai trên lưng mẹ. Dường
như chú bé cũng thấy được nỗi vất vả và ý nghĩa đẹp đó trong việc làm của mẹ nên
hơi thở em hoà cùng hơi thở mẹ và em cố ngủ ngoan cho mẹ yên lòng.
Nếu ai đà từng chứng kiến cảnh giã gạo bằng chày trong cối gỗ của đồng bào
miền núi thì mới thấy hết sự vất vả khi biến hạt thóc thành hạt gạo trắng ngần. Nhà
thơ đã chọn lựa những động tác tiêu biểu để miêu tả công việc giã gạo nặng nhọc
và thế hiện tình mẹ con chân chất, sâu nặng của người mẹ miền núi. Cảnh tượng
mộc mạc ấy đâ làm xúc động lòng người:
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời
Khi mẹ giã gạo, cu Tai vần ngủ trên lưng. Trong giấc ngủ, em vẫn cảm nhận
được mồ hôi của mẹ rơi trên má em nóng hổi, cảm nhận được sự vất vả và tình yêu
con thiết tha của mẹ.
Tác giả đã sử dụng thành công nghệ thuật so sánh: đôi vai mẹ gầy làm gối cho
con, lưng mẹ đung đưa làm nôi ru con ngủ và nhịp tim của mẹ hát thành lời yêu
thương tha thiết. Trong giấc ngủ, lúc nào Cu Tai cũng được ấp ủ tròng hơi thở và
tình thương của mẹ, được nghe mẹ hát ru. Khổ thơ đã thể hiện được tình mẫu tử
thắm thiết, thiêng liêng cùng công việc vất vả của người mẹ giã gạo để nuôi con,
nuôi bộ đội Giải phóng.
Nếu khổ thơ đầu là lời ru của nhà thơ thì khổ thơ thứ hai là tiếng nói tâm tình
của người mẹ:
Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay, mẹ thương bộ đội



Câu thơ như lời ru êm ái chất chứa yêu thương. Tình cảm mẹ con vốn đã đẹp
nay càng đẹp hơn bởi nó gắn liền với tình cảm lớn lao là tình thương bộ đội, tình
yêu nước. Mẹ mong trong giấc ngủ, Cu Tai sẽ mơ giấc mơ của mẹ là có nhiều gạo
thật ngon để nuôi bộ đội và Cu Tai sẽ lớn lẽn thật nhanh để giúp mẹ giã gạo nuôi
quân:
Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần
Mai sau con lớn vung chày lún sân…
Từ ước mơ có hạt gạo trắng ngần đến ước mơ mai sau con lớn vung chày lún
sân đều chứa đựng niềm hi vọng cháy bỏng của người mẹ về đứa con sau này sẽ
trở thành một thanh niên cường tráng, có ích cho nước, cho dân.
Hình ảnh người mẹ trong cảnh tỉa bắp trên nương thật đẹp và cảm động:
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka-Lưi
Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ
Vẫn là lời vỗ về của trái tim chan chứa thương yêu của nhà thơ, mong em bé
ngủ ngon để mẹ yên tâm làm việc, nhưng ở khổ thơ này, cảm xúc da diết hơn thể
hiện qua hình ảnh tương phản độc đáo: Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ. Núi thì
lớn, nương bắp thì rộng mà sức mẹ có hạn. Mẹ cắm cúi, lom khom tỉa bắp, trên
lưng mẹ con vẫn ngủ say. Câu thơ đã khắc sâu nổi vất vả khó nhọc của người mẹ
vùng cao trong lao động sản xuất thời chống Mĩ.
Đối với những bà mẹ sớm hôm tần tảo nuôi con, dường như họ không biết mệt
mỏi bởi đứa con là niềm hi vọng, là nguồn an ủi, động viên, tiếp thêm sức mạnh và
nghị lực cho mẹ:
Em ngủ ngoan em đừng làm mẹ mỏi
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng.
Câu thơ lấp lánh nét đẹp cuộc đời và tình mẹ con. Biện pháp ẩn dụ trong
những câu thơ này có nhiều ý nghĩa. Bắp trên nương tươi tốt nhờ ánh nắng mặt



trời. Cu Tai cũng giống như mặt trời tỏa nắng sưởi ấm trái tim mẹ để mẹ sống tốt
hơn, đẹp hơn cho đời. Em là mặt trời bé bỏng, thân yêu của mẹ.
Lời ru ở khúc ru này vẫn là tiếng nói tâm tình của người mẹ nhưng đã chứa
đựng ước mơ lớn hơn :
Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói
Con mơ cho mẹ hát bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi…
Càng thương con, người mẹ lại càng thương bà con dân bản. Mẹ ước mơ về
một ngày mai no ấm hạnh phúc, về sự trưởng thành và sức mạnh kì diệu của đứa
con thân yêu.
Nếu ở hai đoạn thơ trước, tác giả miêu tả cảnh mẹ địu con trên lưng giã gạo
nuôi bộ đội, địu con lên nương tỉa bắp thì ở đoạn thơ này là cảnh mẹ địu con cùng
đi đánh giặc:
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan, đừng rời lưng mẹ
Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng
Thằng Mĩ đuổi ta phải rời con suối
Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông
Mẹ địu em đi để giành trận cuối
Sự lặp lại hai câu thơ Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi, Em ngủ cho ngoan, đừng
rời lưng mẹ đã tạo nên âm điệu ngân nga, thấm dần vào người đọc một cảm xúc
thân thương. Con cùng mẹ băng suối, vượt ngàn, đạp rừng xông tới. Cả nhà, cả
làng, cả nước cùng đánh giặc.
Nhịp thơ sôi nổi, thôi thúc như một hành khúc lên đường. Câu kết vẽ lên hình
ảnh thật xúc động:
Từ trên lưng mẹ, em đến chiến trường
Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn.

Lời thơ khẳng định ý chí chiến đấu mãnh liệt của bà mẹ Tà-ôi nói riêng và


đồng bào miền tây Thừa Thiên Huế nói chung. Lúc này, mẹ và em cùng lên đường
vào Trường Sơn đánh giặc, nơi có biêt bao khó khăn vất vả, nơi cái chết và sự
sống chỉ cách nhau gang tấc.
Kết thúc bài thơ vẫn là lời hát ru và ước nguyện của mẹ:
Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay, mẹ thương đất nước
Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người Tự do…
Điệp khúc: Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi, Mẹ thương a-kay…,
Con mơ cho mẹ…, Mai sau con lớn… đã thể hiện khát vọng cháy bỏng trong lòng
người mẹ. Mẹ mong ước cho con những điều thật thiết thực và cũng thật lớn lao,
kì diệu:
Mai sau con lớn vung chày lún sân…,
Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi
Mai sau con lớn làm người Tự do…
Khi giã gạo, mẹ mong con mơ cho mẹ hại gạo trắng ngần. Khi tỉa bắp trên
nương, mẹ mong con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều. Khi chiến đấu, mẹ mong con mơ
cho mẹ được thấy Bác Hồ trong ngày đất nước sạch bóng quận thù, Bắc-Nam
thông nhất. Chính tình thương, đức hi sinh, lòng vị tha và nhân hậu cao cả của
những người mẹ nghèo yêu nước ấy đã góp phần làm nên chiến thắng hôm nay.
Bài thơ ra đời năm 1971, trong giai đoạn ác liệt nhất của cuộc chiến đấu chông
Mĩ cứu nước nhưng đến nay nó vẫn còn giừ nguyên giá trị. Khúc hát ru đã được
phổ nhạc, trở thành bài ca được nhiều người ưa thích. Tình yêu thương con của bà
mẹ nghèo miền núi gắn liền với tình thương bộ đội, tình yêu làng bản, lòng kính
yêu Bác Hồ và tình yêu đất nước.
Khúc hát ru những em bé lởn trên lưng mẹ được đánh giá là một trong những
bài thơ hay của thơ ca giai đoạn chống Mĩ cứu nước. Giờ đây, đọc lại bài thơ,

người ta vẫn rưng rưng xúc động bởi tình cảm mộc mạc, chân thành cao đẹp của
những người mẹ trong cuộc kháng- chiến chống Mĩ gian khổ và oanh liệt của dân


tộc ta. Tự hào thay, người mẹ Việt Nam!
Sau cuộc chiến tranh chống MI cứu nước, Tổ quốc ta, nhân dân ta đã xây dựng
biết bao tượng đài để ghi nhớ công ơn và ngợi ca những người mẹ Việt Nam anh
hùng, Với Khúc hát ru những em bé lớn trẽn lưng mẹ, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
cũng đã xây dựng thành công một tượng đài bằng ngôn ngữ về những người mẹ
miền núi vô danh.
Bài tham khảo 2
Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, quê ở Phong Điền – Thừa Thiên Huế, thời
kháng chiến chống Mỹ cứu nước ông sống và chiến đấu tại chiến trường Trị –
Thiên. Ông là một nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ với các tác
phẩm thơ nổi tiếng như: “Đất ngoại ô”, “Mặt đường khát vọng”.,.Bài thơ “Khúc
hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” được ông sáng tác tại chiến trường Trị –
Thiên năm 1979, ca ngợi tấm lòng dạt dào yêu thương của bà mẹ người Tà Ôi, tình
thương con gắn liền với tình yêu bộ đội và quê hương đất nước.
Bài thơ có ba khúc ca được sáng tạo theo âm điệu dân ca, điệu ru con của đồng
bào dân tộc Tà Ôi. Mở đầu khúc hát ru là một điệp khúc ngọt ngào tha thiết:
“Em Cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ”
Mỗi một khúc hát ru là những lời tâm tình, âu yếm mà người mẹ dành cho con,
người mẹ còn gửi cả những ước mong vào trong giấc mơ của con qua những lời
hát.
Khúc hát ru thứ nhất là tiếng ru khi mẹ địu con giã gạo:
“Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối

Lưng đưa nôi và tim hát thành lời”
Em Cu Tai đang ngủ nhưng cũng như đang chia sẻ sự vất vả với mẹ, giấc ngủ
của em “nghiêng” theo nhịp chày của mẹ. Má em cũng “nóng hổi” vì bao mồ hôi


mẹ vất vả tuôn rơi. Hàng loạt các hình ảnh hoán dụ như “má”, “vai”, “lưng”, “tim”
đã được tác giả sử dụng để nói lên tình yêu bao la, mênh mông của người mẹ dành
cho con. Lưng mẹ là chiếc nôi để con lớn lên, tim mẹ với tình thương dạt dào “hát
thành lời” đưa con vào những giấc ngủ say nồng.
Khúc hát ru thứ hai là khi mẹ tỉa bắp trên núi Ka-lưi, người mẹ chịu thương
chịu khó vừa địu con, vừa làm việc:
“Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka-lưi
Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ
Em ngủ ngoan đừng làm mẹ mỏi
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng”
Tác giả so sánh “lưng núi” với “lưng mẹ” như để khẳng định đức tính kiên trì,
chịu đựng gian khổ của người mẹ. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng hình ảnh ẩn dụ
“mặt trời” trong câu thơ “mặt trời của mẹ em nằm trên lưng” để chỉ đứa con, và
cũng thể hiện được tình thương, niềm tự hào của mẹ đối với em Cu Tai, đối với mẹ
em là nguồn sống, là niềm hạnh phúc vô bờ bến. Không chỉ thương con, lòng mẹ
còn nhân hậu, bao la mang nặng tình làng nghĩa xóm, thương con thương xom
làng mẹ gửi gắm những mong nước của mình vào trong những giấc mơ của con:
“Mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói
Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi”
Khúc hát ru thứ ba là khúc hát ru chiến đấu, ở đây người mẹ địu con ra trận, đi
tiếp tế, đi tải đạn vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước:
“Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng.
Thằng Mỹ đuổi ta phải rời con suối

Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông,
Mẹ địu em đi để giành trận cuối.
Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường,
Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn”


Sau mỗi khúc hát ru thì tác giả đều nói đến những giấc mơ của con, ở khúc ru
thứ nhất là “Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần”, ở khúc ru thứ hai giấc mơ là
“Con mơ hạt bắp lên đều/Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi”. Và ở khúc hát ru thứ
ba này là giấc mơ:
“Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người Tự do”
Tất cả những giấc mơ đó đều là giấc mơ về ấm no, hạnh phúc và khát vọng
chiến thắng được mẹ gửi gắm qua những lời hát ru vào giấc ngủ của con.
Đọc bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa
Điềm, đọng lại trong lòng người đọc là những ấn tượng sâu sắc về hình ảnh người
mẹ đảm đang, chịu thương chịu khó. Bài thơ như nhắc nhở mỗi chúng ta với bổn
phận của những người con hãy luôn khắc ghi trong tim mình sự kính trọng và biết
ơn đến những người mẹ Việt Nam.
Bài tham khảo 3
Bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm ra
đời ngay tại chiến khu Trị – Thiên, trong những ngày kháng chiến chống Mĩ đang
dần đến thắng lợi nhưng vẫn còn vô cùng gian khổ. Nhà thơ đã tận mắt chứng kiến
hình ảnh những bà mẹ Tà-ôi giã gạo nuôi bộ đội đánh Mĩ, để cảm xúc từ hiện thực
thăng hoa thành những vần thơ có sức lay động mãnh liệt. Bài thơ “thể hiện tình
yêu thương con gắn với lòng yêu nước, với tinh thần chiến đấu của người mẹ miền
tây Thừa Thiên bằng những khúc ru nhịp nhàng, mang giọng điệu ngọt ngào trìu
mến”.
Người mẹ trong thi ca từ sau cách mạng tháng Tám luôn là hình tượng trung
tâm, có sự phát triển về tầm vóc và chiều sâu tình cảm tư tưởng, hài hoà riêng

chung. Từ những người mẹ trong thơ Tố Hữu thời kì kháng chiến chống Pháp như
bà Bầm, bà Bủ, bà mẹ Việt Bắc đến người mẹ trong Tiếng hát con tàu của Chế Lan
Viên, chúng ta đã từng được cảm nhận sự gắn kết giữa người mẹ với cách mạng và
kháng chiến. Đến thời kì kháng chiến chống Mĩ, với tính chất quyết liệt gian khổ,
chúng ta từng gặp những vẻ đẹp như hình tượng người mẹ đào hầm giấu hàng sư


đoàn dưới đất ở Đất quê ta mênh mông của nhà thơ Dương Hương Ly. Có thể nói
hình tượng người mẹ trong bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm là sự kế thừa tốt đẹp
những đặc trưng người mẹ quê hương – người mẹ chiến sĩ, tập trung những cảm
xúc trong trẻo nhất của nhà thơ, gợi về vẻ đẹp tâm hồn của đồng bào dân tộc theo
kháng chiến. Không phải ngẫu nhiên khi phổ nhạc bài thơ này, nhạc sĩ Trần Hoàn
đã đặt lại tựa đề là Lời ru trên nương, bởi lẽ chính những lời ru đã làm thành cấu
tứ của bài thơ, dẫn dắt ta vào một thế giới mang đậm bản sắc riêng của người
Tà-ôi. Bài thơ như là minh chứng của tấm lòng đồng bào dân tộc một lòng tin theo
Đảng, thương con thương bộ đội, thương yêu núi rừng nương rẫy làng bản, thương
đất nước. Tình thương thành điệp khúc xuyên suốt theo nhịp chày của mẹ:
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
Có lẽ đây là lời của nhà thơ, hàm chứa bao trìu mến dành cho chú bé Tà-ôi
như muốn góp thêm bao thương mến hoà cùng khúc ru của mẹ. Hình ảnh ấy khiến
người đọc bồi hồi nhớ lại những câu thơ viết về người mẹ Việt Bắc trong kháng
chiến chống Pháp của nhà thơ Tố Hữu :
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Người mẹ chống Pháp và người mẹ chống Mĩ có những điểm tương đồng
trong công việc. Nhưng ở Nguyễn Khoa Điềm, hình ảnh thơ này không xuất phát
từ nỗi nhớ mà được cất lên ngay giữa hiện thực chống Mĩ. Nét đẹp của hình tượng
được khơi lên từ tính chất công việc “Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội”. Người mẹ được
khắc hoạ trong từng chi tiết sống động nhất, nổi bật với tứ thơ thật đẹp :

Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng.
Tưởng như trong động tác của mẹ cũng đã ngân lên nhịp điệu ru ngọt ngào và
nhịp đưa em đều đặn an bình như trên một cánh võng êm. Tác giả hoàn toàn không
thi vị hoá mà bằng ngòi bút tả thực giúp người đọc nhận ra : mồ hôi mẹ nóng hổi,
vai mẹ gầy – bao vất vả như đọng cả trên đôi vai mẹ. Mỗi khúc ru hiện lên hình
ảnh mẹ trong nhiều tư thế cũng như công việc khác nhau : giã gạo, tỉa bắp, chuyển


lán, đạp rừng… như hoàn chỉnh bức chân dung lao động khoẻ khoắn cũng như
niềm hân hoan được hoà vào những công việc kháng chiến. Không những thế, qua
những hình ảnh này, ta còn hình dung một nhịp sống bình thản của những người
dân và cán bộ chiến sĩ ở chiến khu chống Mĩ. Mặc dù, trong thực tế, đây là nơi
hứng chịu rất nhiều bom đạn kẻ thù và luôn phải đương đầu với những cuộc hành
quân lùng sục “tìm và diệt”, càn quét hòng xóa sạch dấu tích của vùng chiến khu
đầu mối Bắc – Nam này. Cuộc sống khó khăn thiếu thốn đòi hỏi phải tự cấp tự túc,
tăng gia sản xuất, bảo đảm nuôi quân đánh giặc. Hình ảnh người mẹ giã gạo khiến
ta lại liên tưởng đến những nhịp chày trong bài hát Tiếng chày trên sóc Bom Bo
của cố nhạc sĩ Xuân Hồng. Ở đâu cũng vậy, khi cách mạng được bao bọc, chăm
chút bằng tất cả tình cảm yêu nước của nhân dân, khi biết dựa vào dân thì không
sức mạnh tàn bạo nào của kẻ thù có thể khuất phục.
Gạo dành để nuôi quân, mẹ lại lên nương tỉa bắp, cùng với a-kay. Đàng sau
hành động đó ẩn chứa vẻ đẹp của sự hi sinh, nhường cơm sẻ áo cho người cách
mạng. Lòng mẹ bao dung lại được cảm nhận bằng bao tình cảm thương mến của
nhà thơ :
Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ
Em ngủ ngoan em đừng làm mẹ mỏi
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ, con nằm trên lưng
Lời thơ thật dịu dàng như ru sâu thêm giấc ngủ cho em cu Tai, như muốn sẻ
chia những vất vả nhọc nhằn trong công việc của mẹ. Không gian mênh mang của

vùng núi rừng tây Thừa Thiên như mở ra với ánh mặt trời lan toả khắp núi đồi. Nổi
bật giữa khung cảnh là người mẹ Tà-ôi với công việc cần mẫn. Nhưng mẹ không
hề đơn độc chính vì có mặt trời của mẹ – em cu Tai đang ngon giấc. Với cách ví
von đặc sắc này, nhà thơ đã tạo nên liên tưởng về mối quan hệ mật thiết của con
người với núi rừng, nương rẫy. Không có tình cảm gắn bó, không thể tạo được liên
tưởng thú vị giữa hạt bắp với con nằm trên lưng. Mặt trời không gợi ra cảm giác
về độ nóng, độ chói mà trở thành hình tượng biểu trưng cho nguồn sống mạnh mẽ.


Mặt trời của bắp đem lại hạt mẩy hạt chắc. Mặt trời của mẹ – em cu Tai là hạnh
phúc, nguồn sống của mẹ. Những chú bé Tà-ôi được tắm trong ánh sáng sẽ trở nên
vạm vỡ săn chắc, ánh mặt trời hào phóng ban tặng cho mẹ những đứa con khoẻ
mạnh của núi rừng. Hình tượng sáng tạo của Nguyễn Khoa Điềm đã đem lại
những rung cảm thẩm mĩ đặc biệt.
Người đọc còn nhận ra tấm lòng mẹ mênh mông trong hình ảnh mẹ con không
cách xa: Lưng đưa nôi và tim hát thành lời. Lời tim ngân nga suốt ba đoạn thơ
thành điệp khúc dạt dào thương mến:
Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay…
Khởi nguồn của mọi hành động cao cả bắt đầu từ tình yêu bình dị nhất. Điểm
xuất phát của lời ru chính từ tấm lòng mẹ thương a-kay vô bờ bến này! Còn tình
thương nào bình dị, gần gũi mà sâu sắc bằng tình mẹ thương con? Âm vang lòng
mẹ cất thành lời ru, thành lời thơ đầy xúc cảm của Nguyễn Khoa Điềm, với những
chiều liên tưởng gắn bó trực tiếp với từng công việc của mẹ, bộc lộ vẻ đẹp rất giản
dị mà cao cả. Mẹ thương a-kay! – rất ngắn gọn nhưng cũng rất đầy đủ, đẹp đẽ vẻ
đẹp tâm hồn mẹ. Hơn thế nữa, đó là xuất phát điểm của những tình cảm thời đại:
mẹ thương bộ đội. Có ranh giới nào của tình thương rất đầm ấm ấy không?
Sự sống của a-kay cũng là tương lai của buôn làng. Bởi thế cũng rất tự nhiên
khi mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói. Cuộc sống của người Tà-ôi những năm
chống Mĩ còn bao cơ cực thiếu thốn nhưng sức mạnh của tình thương sẽ giúp

người mẹ vượt lên tất cả. Bàn tay mẹ cần mẫn tỉa bắp, gieo mầm sự sống với niềm
mong mỏi thật bình dị : hạt bắp lên đều. Núi rừng, làng buôn và đứa con thân
thương vô cùng với tâm hồn mẹ. Tình cảm yêu thương ấy còn thăng hoa trong
những ước mơ về sự sống buôn làng. Đẹp thay và cũng dạt dào thương mến là lời
thơ: Con mơ cho mẹ…hạt gạo trắng ngần, hạt bắp lên đều. Giấc mơ giản dị truyền
sang em cu Tai còn chứa đựng niềm mong ước về tương lai của con :
Mai sau con lớn vung chày lún sân
… Mai sau con lớn phát mười kalưi


Hình ảnh gắn với tương lai của con thật kì vĩ, như mang theo sức mạnh của
các nhân vật sử thi huyền thoại. Ước vọng về con làm nên sức mạnh, sự bền bỉ của
mẹ. Đồng thời còn hội tụ cả sức mạnh cộng đồng từ quá khứ đến hiện tại gắn với
tinh thần cuộc chiến đấu lâu dài, vượt qua bao sóng gió thử thách.
Cảm hứng của khúc ru cuối gắn liền với hiện thực khốc liệt và khẩn trương
của cuộc kháng chiến chống Mĩ, với nhịp sống chiến khu Trị – Thiên. Hình ảnh
của mẹ trong đoạn thơ này có một sự thay đổi, không phải trong một dáng chênh
chao trong nhịp chày nghiêng, không lặng thầm nhẫn nại gieo từng hạt giống mà
rất dứt khoát mạnh mẽ :
Mẹ đi chuyển lán, mẹ đi đạp rừng
Dáng vẻ con người được tô đậm qua hai động từ “đi” gợi tư thế chủ động với
những công việc tiếp sức chiến đấu : chuyển lán, đạp rừng như hàm chứa ý thức tự
hào của người Tà-ôi làm chủ vùng núi rừng của ta. Con người trong tư thế đối mặt
với kẻ thù, quyết tâm chiến đấu giữ đất giữ rừng. Kẻ thù với dã tâm “đuổi ta phải
rời con suối”, người Tà-ôi vẫn một dạ kiên trung ! Không chỉ có mẹ, mà anh trai
cầm súng, chị gái cầm chông và em cu Tai cũng theo mẹ vào trận cuối. Những câu
thơ hừng hực tinh thần bất khuất của người dân tộc miền tây Thừa Thiên, đem lại
cảm hứng lạc quan của cuộc chiến đấu chống Mĩ. Sự trưởng thành của mỗi con
người từ nhận thức đến hành động đã được khẳng định bằng hai câu thơ thật khoẻ
khoắn:

Từ trên lưng mẹ, em đến chiến trường
Từ trong đói khổ, em vào Trường Sơn
Tinh thần của bao thế hệ người Tà-ôi theo cách mạng đã truyền cả sang a-kay,
dạt dào một niềm tin, khẳng định dứt khoát con đường em đi sẽ hoà vào đội ngũ
chiến đấu với ý chí quyết thắng. Đó là cơ sở cho ước mơ thật đẹp :
Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người Tự do
Trong tình cảm của người Tà-ôi cũng như của những đứa con miền Nam chiến
đấu chống Mĩ, Bác Hồ luôn là nguồn động viên, là biểu tượng sáng chói của cách


mạng, của chiến thắng. Bởi vậy, mong ước được gặp Bác luôn là cảm xúc thường
trực, dù cho thời điểm viết bài thơ này là 1971. Bởi lẽ, chỉ có thống nhất, mẹ mới
được ra với Bác. Giấc mơ đẹp gắn liền với ước nguyện giành lại trọn vẹn non sông,
thoả lòng Bác mong. Lời ru kết lại cùng hình tượng em cu Tai của tương lai là
người Tự do của một đất nước hoà bình. Đó cũng là mong ước chung của nhân
dân, của những người Việt Nam yêu nước.
Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm đã tạo
được những cảm xúc đồng điệu với bao người con miền Nam anh dũng thời chống
Mĩ, nói lên trọn vẹn vẻ đẹp và tâm tư của người dân tộc miền tây Thừa Thiên trung
dũng kiên cường, thủy chung với cách mạng. Cảm xúc bình dị trong sáng với hình
tượng người mẹ đã làm nên sức hấp dẫn riêng của tác phẩm. Từ ngôn ngữ đến
hình ảnh thơ đều đậm chất dân tộc, đem đến cho người đọc những cảm nhận đặc
biệt thương mến cùng hoà theo lời ru cho giấc ngủ thanh bình của em bé Tà-ôi.
Bài thơ toát lên tinh thần lạc quan cách mạng, kết đọng những ân tình sâu lắng của
nhà thơ về nhân dân đất nước cũng như niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của cuộc
kháng chiến chống Mĩ.
Niềm tin ngày ấy giờ đây đã thành hiện thực. Em cu Tai ngày ấy giờ đây cũng
đã trưởng thành và sống làm người Tự do như niềm mong mỏi ngày nào thiết tha
trong lời ru của mẹ. Nhưng lời ru ngày ấy mãi còn sức vang ngân trong lòng bao

thế hệ, bồi đắp tình yêu quê hương đất nước, con người Việt Nam.



×