Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Nghiên cứu thành phần hoá học của cây cẩu tích ( cibotium barometz (l) j SM)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.87 MB, 59 trang )

Trƣờng Đại Học Sƣ Phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Trƣờng đại học sƣ phạm hà nội 2

Khoa hoá học
...........&&&...........

Nguyễn thị xuân mai

Nghiên cứu thành phần hóa học của cây
cẩu tích
(Cibotium barometz (L).J.Sm)

Khoá luận tốt nghiệp đại học
Chuyên nghành: Hoá hữu cơ

Hà nội - 2009

Nguyễn Thị Xuân Mai

1

Lớp K31B - Khoa Hóa học


Trƣờng Đại Học Sƣ Phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp


Trƣờng đại học sƣ phạm hà nội 2

Khoa hoá học
...........&&&...........

Nguyễn thị xuân mai

Nghiên cứu thành phần hóa học của cây
cẩu tích
(Cibotium barometz (L).J.Sm)

Khoá luận tốt nghiệp đại học
Chuyên nghành: Hoá hữu cơ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. Nguyễn Văn Bằng

Hà nội - 2009

Nguyễn Thị Xuân Mai

2

Lớp K31B - Khoa Hóa học


Trƣờng Đại Học Sƣ Phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp


LỜI CẢM ƠN
Bản khoá luận tốt nghiệp với đề tài “ Nghiên cứu thành phần hoá học
của cây Cẩu tích” được thực hiện và hoàn thành tại trường ĐHSP Hà Nội 2,
Viện Hóa học các hợp chất thiên nhiên, Viện khoa học công nghệ Việt Nam.
Trước hết em xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc Thầy
giáo TS. Nguyễn Văn Bằng, Khoa Hoá học -Ttrường ĐHSP Hà Nội 2 người đã
hướng dẫn, và chỉ bảo tận tình cho em trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn
thành khóa luận tốt nghiệp, cũng như dạy dỗ em trong suốt quá trình học tập tại
trường. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ to lớn và quí báu đó
Em xin chân thành cảm ơn TS. Phan Văn Kiệm, Viện hóa học các hợp
chất thiên nhiên, Viện khoa học và công nghệ Việt Nam đã giúp đỡ em trong
quá trình thực nghiệm.
Em xin gửi lời cảm ơn tới ban lãnh đạo cùng cán bộ phòng Hóa công
nghệ, Viện hóa học các hợp chất thiên nhiên, Viện khoa học và công nghệ Việt
Nam đã luôn tạo điều kiện giúp đỡ em trong thời gian thực hiện khóa luận này .
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Khoa Hoá học-Trường
ĐHSP Hà Nội 2 đã tạo dựng cho em những kiến thức quý báu trong suốt quá
trình học tập tại trường.
Hà Nội, tháng 5 năm 2009
Sinh viên
Nguyễn Thị Xuân Mai

Nguyễn Thị Xuân Mai

3

Lớp K31B - Khoa Hóa học


Trƣờng Đại Học Sƣ Phạm Hà Nội 2


Khóa luận tốt nghiệp

LỜI CAM ĐOAN

Đề tài: “Nghiên cứu thành phần hoá học của cây Cẩu tích” là công trình
nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Văn Bằng
Các số liệu, kết quả nêu trong khoá luận là trung thực. Các kết quả không
trùng lặp với các kết quả đã được công bố.
Hà Nội, tháng 5 năm 2009
Sinh viên
Nguyễn Thị Xuân Mai

Nguyễn Thị Xuân Mai

4

Lớp K31B - Khoa Hóa học


Trƣờng Đại Học Sƣ Phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
Những chữ viết tắt

Danh mục các hình vẽ và bảng biểu
Mở đầu

1

CHƢƠNG 1. TổNG QUAN tài liệu

3

1.1. Tổng quan về cây Cẩu tích

3

1.1.1. Thực Vật học

3

1.1.2. Phân bố, sinh thái

4

1.1.3. Công dụng

5

1.1.4. Thành phần hoá học

7

1.1.5. Lược sử nghiên cứu cây Cẩu tích


7

1.2. Các phƣơng pháp chiết mẫu thực vật

9

1.2.1. Khái niệm phương pháp chiết

9

1.1.2. Cơ sở quá trình chiết

9

1.2.3. Quá trình chiết thực vật

9

1.3. Các phƣơng pháp sắc ký

13

1.3.1. Cơ sở của phương pháp sắc ký

13

1.3.2. Phân loại các phương pháp sắc ký

14


1.4. Các phƣơng pháp xác định cấu trúc của các hợp chất hữu cơ

16

1.4.1. Phổ hồng ngoại

16

1.4.2. Phổ khối lượng

17

1.4.3. Phổ cộng hưởng từ hạt nhân

18

Nguyễn Thị Xuân Mai

5

Lớp K31B - Khoa Hóa học


Trƣờng Đại Học Sƣ Phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Chƣơng 2: Đối tƣợng và phƣơng pháp nghiên cứu


22

2.1. Mẫu thực vật

22

2.2. phuơng pháp xử lý mẫu thực vật

22

2.3. Các phƣơng pháp sắc ký để phân lập các chất từ dịch chiết

22

2.4. Các phƣơng pháp hoá lý để xác định cấu trúc

22

2.5. Dụng cụ, thiết bị và hoá chất

23

2.6. Chiết tách và phân lập các hợp chất

24

2.7. Hằng số vật lý và dữ kiện phổ của các hợp chất

26


2.7.1. Hợp chất 1:1- O -  - D - glucopyranosyl - (2S,3R,4E,8Z)

26

– 2 -[(2R-hydroxy - hexadecanoyl)amido] - 4,8 - octadecadiene-1,3diol
2.7.2. Hợp chất 2: Corchoionoside C

26

Chƣơng 3: KếT QUả Và THảO LUậN

28

3.1. Thu hái và xác định tên khoa học cây Cibotium barometz

28

3.2.Điều chế các phần chiết và tinh chế các hợp chất

29

3.3. Xác định cấu trúc các chất
3.3.1. Xác định cấu trúc chất 1:1 – O -  - D – glucopyranosyl -

29

(2S,3R,4E,8Z) -2- [(2R - hydroxyhexadecanoyl)amido] - 4,8 –
octadecadiene - 1,3- diol
3.3.2. Xác định cấu trúc hợp chất 2: Corchoionoside C


36

3.4. Bảng tổng hợp các hợp chất đã phân lập đƣợc từ cây Cẩu tích

42

Kết luận

43

Tài liệu tham khảo

44

Nguyễn Thị Xuân Mai

6

Lớp K31B - Khoa Hóa học


Trƣờng Đại Học Sƣ Phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
  D
13

C-NMR


Độ quay cực (Specific Optical Botation)
Phổ cộng hưởng từ hạt nhân cacbon 13
Cacbon–13 Nuclear MagneticResonance Spectroscopy

1

H-NMR

Phổ cộng hưởng từ hạt nhân proton
Proton Magnetic Resonance Spectroscopy

1

H-1H COSY

2D-NMR

1

H-1H Chemical Shift Correlation Spectroscopy

Phổ cộng hưởng từ hạt nhân 2 chiều
Two – Pimensional NMR

CC

Sắc ký cột (Column Chromatography)

DEPT


Distortionless Enhancement By Polarisation Trasfer

ESI – MS

Phổ khối lượng phun mù điện tử
Electron Spray Ionization Mass Spectranetry

FAB – MS

Phổ khối lượng bắn phá nguyên tử nhanh
Fast Atom Bombardment Mass Spectrometry

HMBC

Heteronuclear Multiple Bond Connectivily

HMQC

Heteronuclear Multiple Quantum Coherence

HR – FAB – MS

Phổ khối lượng bắn phá nguyên tử nhanh phân giải cao
Hight Resolution Fast Atom Bombardment Mass
Spectrometry

IR

Phổ hồng ngoại (Infrared Spectroscopy)


Me

Nhóm Metyl

NOESY

Nucler Overhauser Effect Spectroscopy

TLC

Sắc ký lớp mỏng (Thin Layer Chromatography)

MS

Phổ khối lượng (Mass Spectrometry)

Nguyễn Thị Xuân Mai

7

Lớp K31B - Khoa Hóa học


Trƣờng Đại Học Sƣ Phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Danh mục các hình vẽ và bảng biểu
Trang

Hình 1.1. Cây Cẩu tích

3

Hình 1.2. Cấu trúc hóa học của một số hợp chất điển hình đã được

8

phân lập từ cây Cẩu tích.
Hình 3.1. Cây Cẩu tích

28

Hình 3.3.1.a. Phổ 1H-NMR của hợp chất 1

30

Hình 3.3.1.b. Cấu trúc hóa học của hợp chất 1

31

Hình 3.3.1.c. Phổ 1H-NMR dãn rộng của hợp chất 1

31

Hình 3.3.1.d. Phổ 13C-NMR của hợp chất 1

33

Hình 3.3.1.e. Các phổ 13C-NMR dãn rộng của hợp chất 1


34

Hình 3.3.1.f. Phổ khối lượng ESI-MS của hợp chất 1

35

Hình 3.3.2.a. Phổ 1H-NMR của hợp chất 2

36

Hình 3.3.2.b. Cấu trúc hóa học của hợp chất 2

36

Hình 3.3.2.c. Phổ 13C-NMR của hợp chất 2

37

Hình 3.3.2.d. Phổ 13C-NMR và các phổ DEPT của hợp chất 2

39

Hình 3.3.2.e. Phổ HSQC của hợp chất 2

39

Hình 3.3.2.f. Phổ HMBC của hợp chất 2

40


Hình 3.3.2.g. Các tương tác HMBC chính của hợp chất 2

40

Hình 3.3.2.h. Phổ khối lượng ESI-MS của hợp chất 2

40

Sơ đồ 2.6. Chiết phân đoạn và phân lập các hợp chất từ loài Cibotium
barometz

25

Bảng 3.2. Hàm lượng các cặn chiết từ lá cây Cẩu tích

29

Bảng 1. Số liệu phổ NMR của hợp chất 1

32

Bảng 2. Tổng hợp kết quả phổ NMR của hợp chất 2

38

Nguyễn Thị Xuân Mai

8


Lớp K31B - Khoa Hóa học


Trƣờng Đại Học Sƣ Phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Mở đầu
Từ xa xưa, cộng đồng các dân tộc Việt Nam, đặc biệt là cư dân sống ở
miền núi cao, ở vùng sâu, vùng xa đã biết sử dụng các sản phẩm thực vật có
trong tự nhiên để làm thuốc chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ cho mình như
dùng lá tía tô để giải cảm, nhân sâm để tăng cường sức đề kháng,… Các phương
thuốc y học cổ truyền đã thể hiện những mặt mạnh trong điều trị bệnh là ít độc
tính và tác dụng phụ. Do có nhiều ưu điểm như trên nên ngày nay con người
ngày càng quan tâm đến các hợp chất thiên nhiên có hoạt tính sinh học cao
trong thực vật.
Giá trị của các hợp chất này không chỉ ở công dụng trực tiếp làm thuốc
chữa bệnh, mà còn vì chúng có thể dùng làm các nguyên mẫu hoặc các cấu trúc
dẫn đường cho sự phát triển và phát hiện nhiều dược phẩm mới. Nghiên cứu
thành phần hóa học là con đường ngắn và hiệu quả nhất để tìm kiếm các hoạt
chất từ nguồn tài nguyên tái tạo này.[9]
Như chúng ta đã biết, Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, tới
3/4 diện tích của cả nước là núi rừng trùng điệp, cùng với điều kiện khí hậu rất
đa dạng với nhiều tiểu vùng khí hậu khá đặc trưng đã tạo cho nước ta có thảm
thực vật thiên nhiên vô cùng phong phú, đặc biệt là kho tàng các cây dược liệu.
Theo thống kê, hiện nay số loài thực vật bậc cao có mạch ở nước ta vào khoảng
12.000-13.000 loài, thì số loài được dùng làm thuốc chiếm tới 4.000 loài [14].
Điều này thực sự có ý nghĩa quan trọng cho sự phát triển của ngành y tế, ngành
hóa học và một số ngành khác. Hệ thực vật phong phú trên được coi là tiền đề
cho sự phát triển ngành hóa học các hợp chất thiên nhiên ở nước ta.

Cây Cẩu tích hay còn được gọi là Kim mao Cẩu tích, có tên khoa học là
Cibotium barometz, là một loài thực vật thuộc họ Lông cu ly (Dicksoniaceae).
Nó được biết đến là một loại cây có mặt trong nhiều bài thuốc để chữa bệnh. Ở

Nguyễn Thị Xuân Mai

9

Lớp K31B - Khoa Hóa học


Trƣờng Đại Học Sƣ Phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Việt Nam loài cây này được biết đến trong các bài thuốc dân gian chữa đau
lưng, gân mạch chân khớp khó cử động, can thận hư suy, bổ thận, phong thấp
đau nhức xương, tay chân yếu mỏi hoặc bại liệt co quắp ... Vì cây có hoạt tính
sinh học cao, chứa nhiều thành phần hoá học và có nhiều tác dụng dược lý.
Việc nghiên cứu,thành phần hóa học của cây Cẩu tích ở Việt Nam nhằm
đặt cơ sở khoa học cho việc sử dụng chúng một cách hợp lý, hiệu quả có ý nghĩa
thực tiễn rất quan trọng trong sự phát triển của nền y học Việt Nam hiện đại dựa
trên các bài thuốc cổ truyền. Ở nước ta các tài liệu nghiên cứu về loài thực vật
này còn hạn chế, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách thống về thành
phần hoá học của cây Cẩu tích. Xuất phát từ ý nghĩa thực tiễn trên, nên tôi lựa
chọn đề tài cho khóa luận tốt nghiệp là “Nghiên cứu thành phần hoá học của
cây Cẩu tích “
Mục tiêu của khoá luận văn:
1. Thu hái và xác định tên khoa học cây Cẩu tích.
2. Phân lập một số hợp chất từ cây Cẩu tích.

3. Xác định cấu trúc hóa học của các hợp chất phân lập được.

Nguyễn Thị Xuân Mai

10

Lớp K31B - Khoa Hóa học


Trƣờng Đại Học Sƣ Phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

CHƢƠNG 1. TổNG QUAN
1.1.Tổng quan về cây Cẩu tích
1.1.1. Thực vật học
Cây Cẩu tích có tên khoa học là Cibotium barometz (L).J.Sm. Thuộc họ
Lông cu ly (Dicksoniaceae).
Ngoài ra trong dân gian cây Cẩu tích còn có tên là Xương sống chó do
hình thù giống như xương sống con chó. Do có lớp lông vàng bọc ngoài nên nó
còn được gọi là Kim mao Cẩu tích, cây lông khỉ, cây lông cu ly.

Nguyễn Thị Xuân Mai

11

Lớp K31B - Khoa Hóa học


Trƣờng Đại Học Sƣ Phạm Hà Nội 2


Khóa luận tốt nghiệp

Hình 1.1. Cây Cẩu tích (Cibotium barometz (L).J.Sm)

Nguyễn Thị Xuân Mai

12

Lớp K31B - Khoa Hóa học


Trƣờng Đại Học Sƣ Phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Cây có thân thường yếu, nhưng cũng có thể cao 2,5-3m. Lá lớn có
cuống dài 1- 2m, màu nâu nâu, ở phía gốc có vẩy hình dải rất dài màu vàng và
bóng phủ dày đặc. Phiến dài tới 3m, rộng đến 60-80cm. Các lá lông chim ở phía
dưới hình trái xoan-ngọn giáo dài 30-60 cm. Lá lông chim bậc hai hình dải ngọn giáo, nhọn lại chia thành nhiều đoạn thuôn, hẹp; Mặt trên lá màu lục sẫm,
mặt dưới màu lục lơ; trục lá không lông; các gân của các lá chét bậc hai có lông
len. ở túi bào tử 1 hay 2, có khi 3 hay 4 ở về mỗi bên của gân giữa bậc 3; các túi
màu nâu nâu, có hai môi không đều nhau; cái ở ngoài hình cầu, cái ở trong hẹp
hơi thuôn.
1.1.2. Phân bố, sinh thái [15]
Chi Cibotium Kaulf. Có khoảng 10 loài, phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới
châu Mỹ và châu á. Trong đó Cẩu tích là loài có vùng phân bố tương đối rộng,
bao gồm Trung Quốc, Việt Nam, Campuchia, Lào, Malaysia, ấn Độ, Philippin
và Indonesessia.
ở Việt Nam, Cẩu tích phân bố tập trung ở các tỉnh miền núi phía bắc: Hà

Giang, Lai Châu, Yên Bái, Lào Cai, Sơn La, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn...ở
Miền Nam, cây chỉ thấy ở một số vùng núi cao, như Ngọc Linh (Kontum, Quảng
Nam), Lang Bian (Lâm Đồng), và Bi Đúp (ĐắcLắc)...
Cẩu tích là cây ưa ẩm và có thể chịu bóng. Cây thường mọc thành từng đám
hoặc thành những quần thể gần như thuần loại ở ven rừng hoặc dọc theo các bờ
khe suối. Độ cao thường thấy từ 600m (ở Miền Bắc) hoặc ở 800m (ở Miền
Nam) đến 1600m. Cẩu tích mọc nơi đất ẩm và nhiều mùn. Thân rễ mọc vùi sát
mặt đất hoặc nổi hẳn lên mặt đất. Những cây già, thân rễ lớn (1-3kg) thường có
hiện tượng hóa gỗ nhiều và mục rỗng ở giữa. Cây sinh trưởng mạnh trong mùa
mưa ẩm. Mỗi năm mọc lên từ 3-5 lá. Sinh sản bằng bào tử. Bình thường cây Cẩu

Nguyễn Thị Xuân Mai

13

Lớp K31B - Khoa Hóa học


Trƣờng Đại Học Sƣ Phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

tích không đẻ nhánh, nhưng nếu thân rễ bị chặt, phần còn lại có khả năng tiếp
tục tái sinh.
Trữ lượng Cẩu tích ở Việt Nam tương đối dồi dào. ở những điểm có cây mọc
tập trung, có thể khai thác từ 1-3 tấn thân rễ tươi trên một hecta. Nhu cầu trong
nước mỗi năm khoảng vài trăm tấn. Những năm gần đây (1992-1998) loại dược
liệu này bị khai thác ồ ạt (hàng ngàn tấn) để xuất khẩu qua biên giới. Hiện tượng
khai thác và phá rừng làm nương rẫy, đã làm cho các vùng phân bố của cây Cẩu
tích bị thu hẹp. Thêm vào đó là quá trình sinh sản bằng bào tử (đặc điểm chung

của quyết thực vật) rất phức tạp. Từ một cây Cẩu tích con đến khi khai thác
được, có thể là 10 năm.
1.1.3. Công dụng [15]
* Thu hái và chế biến
Thu hoạch thân rễ quanh năm, tốt nhất vào mùa thu - đông, cắt bỏ rễ con và
cuống lá, cạo hết lông vàng để riêng. Rễ củ đã cạo hết lông, rửa sạch, thái phiến
hay cắt từng đoạn dài 4-10mm, phơi hay sấy khô. Cần bảo quản nơi khô ráo. Khi
dùng tẩm dược liệu với rượu để một đêm rồi sao vàng.
* Bộ phận dùng
Thân rễ có màu nâu hay nâu hơi hồng, đường kính 2-5cm, dài 4-10cm,
mặt ngoài gồ ghề, chỗ lồi, chỗ lõm, xung quanh còn dính ít lông màu vàng nâu,
chất cứng khó cắt, khó bẻ gẫy khi khô, vị đắng ngọt. Cẩu tích dễ bị mốc, cần bảo
quản nơi khô ráo.
*Tính vị, công năng
Cẩu tích có vị đắng ngọt, tính ẩm, có tác dụng bổ can thận, mạnh gân
xương, trừ phong thấp.
*Tác dụng dược lý

Nguyễn Thị Xuân Mai

14

Lớp K31B - Khoa Hóa học


Trƣờng Đại Học Sƣ Phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Người ta đã nghiên cứu tác dụng chống viêm, ức chế chủ yếu giai đoạn viêm cấp

tính, cả tác dụng gây động dục kiểu Oestrogen. Lông cẩu tích có tác dụng cầm
máu có tính cơ học bằng cách hút huyết thanh của máu và giúp cho sự tạo máu
cục, làm cho máu chóng đông.
*Công dụng
Thân rễ Cẩu tích có tác dụng trị thấp khớp, tay chân nhức mỏi, đau lưng,
đau dây thần kinh, người già đi tiểu tiện nhiều lần, phụ nữ khí hư bạch đới.
Ngày dùng 10-20g dạng thuốc sắc. Người bị bệnh thận hư nhiệt, nước tiểu vàng
không nên dùng.
Ngoài ra, thân rễ Cẩu tích còn có tác dụng chữa đau dây thần kinh hông,
chứng đi đái dắt, đi đái suốt không cầm được, phụ nữ có thai đau khắp lưng
người.
Lông vàng phủ xung quanh thân rễ Cẩu tích dùng đắp các vết thương, vết
đứt tay chân để cầm máu. Các lông đó hút huyết thanh của máu và giúp cho sự
tạo máu cục, làm cho máu chóng đông.
Theo một số tài liệu nước ngoài, thân rễ Cẩu tích được dùng làm thuốc
bổ, thuốc giun và trị đau lưng. Những lông vàng hoặc có màu nâu nhạt phủ
quanh thân rễ có tác dụng cầm máu nhanh, khi áp dụng thích hợp gây cầm máu
mao mạch theo cơ chế cơ học.
*Một số phương thuốc từ cây Cẩu tích
1. Chữa phong thấp, chân tay tê bại liệt không muốn cử động:
Dùng Cẩu tích 20g, ngưu tất 8g, mộc qua 12g, tang chi 8g, tùng tiết 4g,
tục đoạn 8g, tần giao 12g, quế chi 4g, nước 600ml. Sắc thành 250ml, chia 2 lần
uống trong ngày.
2. Chữa thận hư, sống lưng mỏi, đái luôn, vãi đái, bạch đới, di tinh:

Nguyễn Thị Xuân Mai

15

Lớp K31B - Khoa Hóa học



Trƣờng Đại Học Sƣ Phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Dùng Cẩu tích 15g, thục địa 12g, đỗ trọng dây 10g, dây tơ hang ( sao) 8g,
kim anh 8g. Sắc uống hàng ngày.
3. Chữa phong thấp đau nhức xương, tay chân yếu mỏi hoặc bại liệt co
quắp:
Dùng Cẩu tích 15g, tục đoạn 12g, cốt toái bổ 12g, đương quy 10g, xuyên
khung 4g, bạch chỉ 4g. Sắc uống hàng ngày.
4. Bổ thận: Can thận bất túc, đau mỏi thắt lưng tiểu tiện luôn, phụ nữ đới
hạ :
Dùng Cẩu tích 16g, ngưu tất, thỏ ty tử, sơn thù du, lộc giao (chưng), đỗ
trọng mỗi thứ 12g, thục địa 16g. sắc uống hàng ngày.
5. Viêm cột sống tăng sinh có gai do can thận bất túc:
Dùng Cẩu tích, bạch thược, thục địa, nhục thung dung, ngưu tất, cốt toái
bổ mỗi thứ 15g; sơn thù du, câu kỷ tử, nữ trinh tử, đương quy mỗi thứ 10g; kê
huyết đằng 30g; mộc hương 6g. sắc uống ngày 1 thang.
6. Chữa đau lưng, mỏi gối do thận hư yếu:
Dùng Cẩu tích 20g, rễ gối hạc 12g, củ mài 20g, bổ cốt toái 16g, dây đau
xương 12g, tỳ giải 16g, đỗ trọng 16g. Thêm nước, sắc uống hàng ngày.
7. Chữa đau nhức ngang lưng:
Dùng Cẩu tích 15g, ngưu tất 10g, đỗ trọng 10g, mộc qua 6g, nước 600ml.
Sắc còn 200ml, chia làm 3 lần uống trong ngày. Có thể thêm 20ml rượu vào
nước sắc khi uống thuốc, nếu người bệnh uống được rượu.
1.1.4. Thành phần hóa học [15]
Thân rễ cẩu tích chứa 30% tinh bột. Lông cu ly chứa tatin và sắc tố.Yuan
Zhong va cs (1996) đã phân lập từ thân rễ Cẩu tích nhiều hợp chất và nhận dạng

là  - sitosterol,acid stearic, daucosterol, acid protocatechuic, acid cafeic ( CA
125.67940).

Nguyễn Thị Xuân Mai

16

Lớp K31B - Khoa Hóa học


Trƣờng Đại Học Sƣ Phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

1.1.5. Lược sử nghiên cứu cây Cẩu tích
Cẩu tích là một cây thuốc quý, tuy nhiên, trên thế giới hiện vẫn chưa có
nhiều công trình nghiên cứu về thành phần hóa học của loài cây này được công
bố. Năm 1980, nhóm nghiên cứu của tác giả Murakami T. [1] công bố sự phân
lập và xác định cấu trúc của onitin (1) và ba dẫn xuất của nó là onitin-2’-O--Dglucopyranoside (2), onitin-2’-O--D-allopyranoside (3) và pterosin R (4). Đến
năm 1982, nhóm nghiên cứu này tiếp tục công bố sự phân lập và xác định cấu
trúc của hợp chất 28,22-Hopanolide (5) [2]. Tiếp theo, các hợp chất -sitosterol,
stearic acid, daucosterol, protocatechuic acid, và axit caffeic tiếp tục được phân
lập từ loài cẩu tích vào năm 1996 [3]. Năm 2001, Zhang C và Wang Z công bố
thêm hợp chất 5-hydroxymethyl-2-furancarboxaldehyde (6) từ loài này [4]. Năm
2002, các nhà khoa học Hàn Quốc tìm ra hợp chất mới 2-O-(9Z,12Zoctadecadienoyl)-3-O-[-D-galactopyranosyl-(1''-6')-O--D-galactopyranosyl]
glycerol, và đặt tên là shinbarometin [5]. Gần đây nhất, nhóm nghiên cứu của tác
giả công bố thêm sự phân lập và xác định cấu trúc của các hợp chất alternariol
(7), 24-methylene cycloartanol (8), (24R)-stigmast-4-en-3-one (9), (3R)-des-OMe lasiodiplodin, protocatechuic aldehyde từ cây cẩu tích [6].
Dưới đây chúng tôi trình bày cấu trúc hóa học của một số hợp chất điển
hình đã được phân lập từ cây Cẩu tích :

OH

OC

O

R
O

3 R = O-allose
1 R = OH
2 R = O-glucose 4 R = Cl

Nguyễn Thị Xuân Mai

5

17

Lớp K31B - Khoa Hóa học


Trƣờng Đại Học Sƣ Phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp
OH
9

CH 3


HO
O

CHO

OH

HO

6

O

O

7

H

HO

O

9
8
Hình 1.2. Cấu trúc hóa học của một số hợp chất điển hình đã được phân lập
từ cây Cẩu tích.

Nguyễn Thị Xuân Mai


18

Lớp K31B - Khoa Hóa học


Trƣờng Đại Học Sƣ Phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

1.2. Các phương pháp chiết mẫu thực vật [10], [11]
1.2.1. Khái niệm phương pháp chiết
* Khái niệm: chiết là quá trình tách và phân ly
các chất dựa vào quá trình chuyển một chất hòa tan
trong một pha lỏng vào một pha lỏng khác không hòa
tan với nó.
* Mục đích của chiết:
+ Chuyển một lượng nhỏ chất nghiên cứu trong một
thể tích lớn dung môi này vào một thể tích nhỏ dung
môi khác nhằm nâng cao nồng độ của chất cần nghiên
cứu và được gọi là chiết làm giàu.
+ Ngoài ra còn dùng phương pháp chiết pha rắn để
tách hay phân ly các chất trong một hỗn hợp phức tạp
với điều kiện thích hợp. Thường dùng trong phân tách
các hợp chất tự nhiên.
1.2.2. Cơ sở của quá trình chiết
Dựa vào sự phân bố khác nhau của các chất
trong hai chất lỏng không hòa tan lẫn với nhau. Sự
phân bố khác nhau là do tính tan khác nhau của các
chất trong các pha lỏng.
Quá


trình

chiết

dựa

trên

định

luật

Nerst:

KA= CA/ CB
KA: hằng số phân bố; CA, CB: nồng độ các chất hòa
tan trong chất lỏng

A, B không hòa tan lẫn vào nhau.

1.2.3 Quá trình chiết thực vật
a. Chọn dung môi chiết

Nguyễn Thị Xuân Mai

19

Lớp K31B - Khoa Hóa học



Trƣờng Đại Học Sƣ Phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Thường thì các chất chuyển hoá thứ cấp trong cây có độ phân cực khác
nhau. Đôi khi để tạo ra độ phân cực của dung môi thích hợp, người ta không chỉ
dùng đơn thuần một loại dung môi mà phải phối hợp một tỷ lệ nhất định để tạo
ra một hệ thống dung môi mới. Tuy nhiên nhiều thành phần tan trong nước ít
được quan tâm. Dung môi dùng cho quá trình chiết cần phải được lựa chọn rất
cẩn thận. Nó cần hoà tan những chất chuyển hoá thứ cấp trong nghiên cứu, dễ
dàng được loại bỏ, có tính trơ (không phản ứng với chất nghiên cứu), không độc,
không dễ bốc cháy. Những dung môi này nên được chưng cất để thu được dạng
sạch trước khi sử dụng. Nếu chúng có lẫn các tạp chất khác có thể ảnh hưởng
đến hiệu quả và chất lượng của quá trình chiết. Thường có một số chất dẻo lẫn
trong

dung

môi

như

đianlkylphatalat,

tri-n-butyl-axetylhidrat



tributylphotphat. Những chất này có thể lẫn với dung môi trong quá trình sản

xuất dung môi hoặc trong khâu bảo quản như trong các thùng chứa bằng nhựa
hoặc các nút nhựa.
Methanol và chlorofooc thường chứa dioctylphatalat [đi-(2-etylhexyl)
phtalat hoặc bis-2-etylhexyl-phtalat]. Chất này có thể làm sai lệch kết quả phân
lập trong các quá trình nghiên cứu hoá thực vật. Chất này còn thể hiện hoạt tính
trong thử nghiệm sinh học và có thể làm bẩn dịch chiết của cây
Clorofooc, metylen, clorit, và methanol là những dung môi thường sử
dụng trong quá trình chiết sơ bộ một phần của cây (như: lá , thân ,rễ , củ , hoa).
Những tạp chất của Clorofooc như CH2Cl2 , CH2ClBr có thể phản ứng với
một vài hợp chất như các ancoloit tạo muối bậc 4 và những sản phẩm khác.
Tương tự như vậy sự có mặt của một lượng nhỏ axit HCl cũng có thể gây
ra sự phân huỷ, sự khử nước hay sự đồng phân hoá gây ra sự phân huỷ, sự khử
nước hay sự đồng phân hóa với các hợp chất khác. Bởi vì Clorofooc có thể gây
tổn thương cho gan và thận nên nó cần được thao tác khéo léo cẩn thẩn ở nơi

Nguyễn Thị Xuân Mai

20

Lớp K31B - Khoa Hóa học


Trƣờng Đại Học Sƣ Phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

thông thoáng và phải đeo mặt nạ phòng độc. Metylen Clorit ít độc hơn và dễ bay
hơi hơn Clorofooc.
Methanol và etanol 80% là những dung môi phân cực hơn các
hiđrocacbon thế clo.

Người ta cho rằng các dung môi thuộc nhóm rượu sẽ thấm tốt hơn lên
màng tế bào nên quá trình chiết với các dung môi này sẽ thu được lượng lớn các
thành phần trong tế bào.
Trái lại, Clorofooc khả năng phân cực thấp hơn, có thể rửa giải các chất
nằm ngoài tế bào. Các ancol hoà tan phần lớn các chất chuyển hoá phân cực
cùng với các hợp chất phân cực trung bình và thấp. Vì vậy khi chiết bằng ancol
thì các chất này cũng sẽ bị hoà tan đồng thời. Thông thường dung môi cồn trong
nước dường như có những đặc tính tốt nhất cho quá trình chiết sơ bộ.
Tuy nhiên cũng có một vài sản phẩm mới được tạo thành khi dùng
methanol trong suốt quá trình chiết.
b. Các phương pháp chiết
* Chiết lỏng - lỏng
Chiết lỏng-lỏng là một kĩ thuật tách đơn giản nhất và trung thực nhất. Nó
được sử dụng để làm sạch hoặc để tách một cấu tử riêng hoặc một loại các cấu
tử khỏi mẫu mẹ. Mẫu rắn hoặc lỏng được chiết bằng dung môi hữu cơ thích hợp.
Đối với các mẫu nước dung môi chiết phải không tan trong nước. Độ phân cực
của dung môi nằm trong một khoảng rộng từ các ankan như pentan, hexan, hoặc
xiclohexan đến nitrobenzene và n-butanol, cũng như các dung môi có Clo (đặc
biệt là diclometan, clorofooc) là một thuận lợi cho việc tách.
Có hai quá trình chiết lỏng - lỏng khác nhau: chiết không liên tục (chiết
đoạn) và chiết liên tục.
* Chiết lỏng- rắn

Nguyễn Thị Xuân Mai

21

Lớp K31B - Khoa Hóa học



Trƣờng Đại Học Sƣ Phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Chiết lỏng-rắn được áp dụng để tách các chất phân tích ra khỏi mẫu vật
rắn (thực vật, đất, các mẫu sinh học...) bằng dung môi thích hợp. Chất phân tích
trong mẫu vật rắn thường nằm ở thành nang nhỏ hoặc phân tán trong chất rắn, vì
vậy cần nghiền nhỏ để tăng bề mặt tiếp xúc giữa dung môi và chất phân tích.
Tùy thuộc vào tính phân cực của chất cần tách ta lựa chọn dung môi chiết, bắt
đầu từ những dung môi hidrocacbon nhẹ đối với những chất ít phân cực đến
những dung môi phân cực lớn như đietyl ete, axeton, etanol kể cả nước đối với
những chất phân cực. Qúa trình chiết lỏng - rắn có thể tiến hành theo phương
pháp chiết đoạn hay chiết liên tục.
* Chiết pha rắn
Chiết pha rắn là quá trình chiết bao gồm một pha rắn và một pha lỏng.
Các cấu tử cần quan tâm và các chất cản trở nằm trong pha lỏng. Khi cho chảy
qua cột nhồi chất hấp lưu, các cấu tử cần quan tâm được lưu giữ lại trên chất hấp
lưu, còn các chất cản trở không bị lưu giữ được thải loại ra khỏi cột theo dòng
chảy, sau đó chất cần quan tâm được rửa giải ra khỏi cột nhờ dung môi thích
hợp, hay ngược lại các chất cản trở được lưu giữ trên chất hấp lưu còn các cấu tử
cần quan tâm không bị lưu giữ chảy ra khỏi cột.
c. Quá trình chiết
Có thể thực hiện một trong hai phương pháp sau:
* Phương pháp 1: Quá trình chiết sử dụng một loại thiết bị là bình chiết
Soxhlet: đây là phương pháp chiết nóng bằng cách đun hồi lưu dung môi với
chất rắn một thời gian rồi rút ra. Dùng thiết bị này để chiết nhiều lần liên tục và
tiết kiệm dung môi.
* Phương pháp 2: Chiết ngâm

Nguyễn Thị Xuân Mai


22

Lớp K31B - Khoa Hóa học


Trƣờng Đại Học Sƣ Phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Ngâm chất rắn vào dung môi trong một thời gian rồi chiết dung môi ra
(chiết nguội). Đây là phương pháp được sử dụng rộng rãi nhất trong quá trình
chiết thực vật bởi nó không đòi hỏi nhiều công sức và thời gian.
Thông thường bình chiết ngâm không được sử dụng như phương pháp
chiết liên tục, bởi mẫu được ngâm với dung môi trong bình chiết khoảng 24 giờ,
sau lấy chất chiết ra. Cần lưu ý, sau khi chiết 3 lần dung môi, cặn thu được hầu
như không còn chứa những chất gì nữa. Việc kết thúc quá trình được xác định
bằng một số cách như:
- Với các ancaloit, có thể kiểm tra sự xuất hiện của các loại hợp chất này
bằng sự tạo kết tủa với những tác nhân đặc trưng như: Dragendorff, Mayer...
- Với các flavonoit thường là những chất màu, nên khi dịch chảy ra mà
không có màu thì cho biết đã rửa hết chất này trong quá trình chiết.
- Trong trường hợp các lacton của sequitecpen và các glicozit trợ tim,
phản ứng Kedde có thể sử dụng để biểu thị sự xuất hiện của chúng hoặc khi cho
phản ứng với aniline axetat, sẽ cho biết sự xuất hiện của các hydrat cacbon, và
từ đó có thể biết được khi nào quá trình chiết kết thúc.
Như vậy tuỳ thuộc mục đích cần thiết lấy chất gì để lựa chọn dung môi
cho thích hợp, và thực hiện quy trình chiết hợp lý để đạt hiệu quả cao.
1.3. Các phƣơng pháp sắc ký [12], [13]
Phương pháp tách chất bằng sắc ký được bắt đầu từ năm 1903. Năm 1903

nhà bác học người Nga Taxvet đã dùng cột nhôm oxít để tách các picmen của lá
cây thành các chất riêng biệt. Ông đã giải thích hiện tượng này bằng ái lực hấp
phụ khác của các sắc tố và đặt tên là phương pháp sắc ký (Chromatograply).
Năm 1931 Vinterstin và Lederer đã dùng phương pháp của Taxvet tách carotin
thô thành  ,  carotin và nhận thấy giá trị của phương pháp về phương pháp
điều chế, phương pháp này mới được nghiên cứu và phát triển nhanh chóng.

Nguyễn Thị Xuân Mai

23

Lớp K31B - Khoa Hóa học


Trƣờng Đại Học Sƣ Phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Phương pháp sắc ký là một phương pháp phổ biến và hữu hiệu nhất hiện
nay. Chúng được sử dụng để phân lập và xác định các hợp chất hữu cơ nói
chung và các hợp chất tồn tại trong thiên nhiên nói riêng.
Sắc ký bao gồm pha tĩnh và pha động. Trên thế giới hiện nay phổ biến là
sử dụng pha tĩnh là chất rắn (bao gồm các loại chất hấp phụ, như silica gel,
YMC, CDS , Al2O3 ...). Còn pha động được dùng trong sắc ký lỏng là các dung
môi hữu cơ , trên nguyên tắc là chất phân cực hơn sẽ tan tốt trong dung môi
phân cực lớn, và ngược lại chất ít bị phân cực sẽ tan tốt hơn trong dung môi kém
phân cực hơn. Có thể sắp xếp độ phân cực của dung môi theo dãy tăng dần độ
phân cực của dung môi như sau: Ete dầu hoả, xiclohexan, cacbontetraclorua,
xylen, toluene, benzen, clorofoc, metylen clorua, axeton, đioxan, etylaxetal,
piridin, propanol, methanol, axít axetic.

1.3.1. Cơ sở của phương pháp sắc kí
Phương pháp sắc kí dựa vào sự phân bố khác nhau của các chất giữa hai
pha động và pha tĩnh. ở điều kiện nhiệt độ không đổi, định luật mô tả sự phụ
thuộc của lượng chất bị hấp phụ lên pha tĩnh với nồng độ của dung dịch (hoặc
với chất khí là áp suất riêng phần) gọi là định luật hấp phụ đơn phân tử đẳng
nhiệt Langmuir:
n=n#bC/(1+bC)
n: lượng chất bị hấp phụ lên pha tĩnh lúc đạt cân bằng.
n#: lượng cực đại của chất có thể bị hấp phụ lên một chất hấp phụ nào đó.
b: hằng số; C: nồng độ.
1.3.2 Phân loại các phương pháp sắc kí
Trong phương pháp sắc kí pha động là các lưu thể (các chất ở trạng thái
khí hay lỏng), còn pha tĩnh có thể là các chất ở trạng thái lỏng hoặc rắn. Dựa vào
trạng thái tập hợp của pha động người ta chia sắc kí thành các nhóm lớn: sắc kí

Nguyễn Thị Xuân Mai

24

Lớp K31B - Khoa Hóa học


Trƣờng Đại Học Sƣ Phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

khí và sắc kí lỏng. Dựa vào cách tiến hành sắc kí người ta chia thành các phương
pháp sắc kí chủ yếu sau:
a. Sắc ký cột (CC)
Đây là phương pháp phổ biến nhất, chất hấp phụ là pha tĩnh bao gồm các

loại silica gel (độ hạt khác nhau). Pha thường cũng như pha đảo YMC, ODS,
Dianoin. Chất hấp phụ được nhồi vào cột. Độ mịn của chất hấp phụ hết sức quan
trọng nó phản ánh số đĩa lý thuyết càng lớn và do đó khả năng tách càng cao và
ngược lại.
Tuy nhiên nếu chất hấp phụ có độ hạt càng nhỏ thì tốc độ dòng chảy càng
giảm. Trong một số trường hợp khi lực trọng trường không đủ lớn thì gây nên
hiện tượng tắc cột. Khi đó người ta phải sử dụng áp suất với áp suất trung bình
(HPC), áp suất cao (HPLC) .
Trong sắc ký cột, tỷ lệ giữa chiều cao cột (L) so với đường kính cột cột
(D) rất quan trọng và thể hiện khả năng tách của cột tỷ lệ L/D phụ thuộc vào yêu
cầu tách, tức là phụ thuộc vào hỗn hợp chất cụ thể. Trong sắc ký, tỉ lệ giữa
quãng đường đi của chất cần tách so với quãng đường đi được của dung môi gọi
là Rf, với mỗi chất sẽ có một Rf khác nhau.
Chính nhờ vào sự khác nhau về Rf mà người ta tách được từng chất ra
khỏi hỗn hợp chất. Tỷ lệ chất so với tỷ lệ chất hấp phụ cũng rất quan trọng và
tuỳ thuộc vào yêu cầu tách. Nếu tách thô thì tỷ lệ này thấp (từ 1/5 đến 1/10) còn
nếu tách tinh thì yêu cầu tỷ lệ này cao hơn và tuỳ thuộc vào hệ số tách (tức là tùy
thuộc vào sự khác nhau về R f của các chất), hệ số này dao động trong khoảng
1/20 đến 1/30).
Trong sắc ký cột, việc đưa chất lên cột hết sức quan trọng. Tuỳ thuộc vào
hiện tượng và dạng chất mà người ta có thể đưa chất lên cột bằng các phương

Nguyễn Thị Xuân Mai

25

Lớp K31B - Khoa Hóa học



×